Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực tiễn hoạt động của các Ủy ban giám sát công ước dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Hoạt động của các Ủy ban giám sát công ước và sự tương tác của các chủ thể.
2.1.1. Hoạt động xem xét báo cáo định kỳ của Ủy ban giám sát công ước.
Trước những sức ép quốc tế từ các diễn đàn song phương, đa phương, cũng như việc gia nhập vào các điều ước góp phần thể hiện sự hội nhập với thế giới, các quốc gia đang ngày càng tích cực hơn trong việc phê chuẩn, kí kết các công ước quốc tế về quyền con người. Khi tham gia vào các công ước này, mọi quốc gia phải đảm bảo thực hiện nghĩa vụ pháp lý, tuân thủ các quyền được ghi nhận trong chính công ước đó. Để có thể giám sát mức độ thực thi công ước, Liên Hợp Quốc quy định tất cả quốc gia phải báo định kỳ về việc thực hiện các quyền được ghi nhận trong công ước lên Ủy ban giám sát công ước tưng ứng.
Chu trình tiếp nhận, xem xét báo cáo định kỳ được diễn ra như sau:
- Các quốc gia chuẩn bị và nộp báo cáo;
- Các Ủy ban xem xét, gửi danh sách vấn đề/câu hỏi cần làm rõ (List of issues – LOIs);
- Các quốc gia trả lời danh sách vấn đề/câu hỏi cần làm rõ;
- Các quốc gia cử đại diện đến Geneva báo cáo;
- Các Ủy ban nghe báo cáo và ra khuyến nghị; – Thực hiện khuyến nghị.
Bảng thống kê chu kì nộp báo cáo việc thực hiện các công ước
Chu kỳ tiếp nhận, xem xét báo cáo của các Ủy ban có sự khác nhau và được quy định cụ thể trong từng công ước. Thông thường, các quốc gia thành viên phải đệ trình báo cáo toàn diện sau một hoặc hai năm kể từ khi công ước có hiệu lực với quốc gia đó. Sau đó, căn cứ vào quy định của từng công ước, tất cả quốc gia phải thực hiện báo cáo theo chu kỳ (thường là bốn đến năm năm). Báo cáo cần chỉ ra được những biện pháp pháp lý, hành chính và tư pháp đã được áp dụng để thực hiện các quyền được ghi nhận trong công ước. Bên cạnh đó, báo cáo còn đề cập đến những thuận lợi, khó khăn mà quốc gia gặp phải trong quá trình thực thi công ước. Các Ủy ban ban hành các hướng dẫn về hình thức và nội dung của báo cáo, nhằm đảm bảo các báo cáo chứa đựng những thông tin cần thiết và được thể hiện theo một hình thức nhất định.
Ngoài quốc gia thành viên, các chủ thể khác cũng tích cực tham gia vào hoạt động báo cáo lên các Ủy ban giám sát công ước. Tiêu biểu phải kể đến sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ (bắt đầu từ năm 1946, đến nay đã có hơn 3000 NGOs có văn phòng ở Geneva), các xã hội dân sự,… Các chủ thể này nộp báo cáo độc lập với các quốc gia, hay còn gọi là “báo cáo bóng”, đóng góp xây dựng danh sách vấn đề (LOIs) và trả lời LOIs. Không những thế, họ còn tham gia vào các cuộc gặp gỡ với Ủy ban nhằm cung cấp thêm thông tin; đóng góp vào bình luận chung/khuyến nghị chung; hỗ trợ các cá nhân khiếu nại và tham gia các cuộc vận động quốc tế. Chủ thể cũng có những đóng góp đáng kể nữa là các Cơ quan Nhân quyền Quốc gia (NHRI),thường tồn tại dưới các mô hình: (1) Ủy ban Nhân quyền Quốc gia, (2) Thanh tra Quốc hội (Ombudsman), (3) Cơ quan hỗn hợp, (4) Cơ quan tư vấn, (5) Viện/trung tâm nghiên cứu. Cơ quan Nhân quyền Quốc gia có thể tham vấn báo cáo quốc gia và gửi báo cáo, thông tin độc lập. Việc có sự tham gia đóng góp của các chủ thể khác giúp Ủy ban có được nhiều luồng thông tin, tiếp cận một cách khách quan hơn về tình hình nhân quyền ở mỗi nước thành viên. Đây cũng là một sức ép thúc đẩy các quốc gia thực hiện nghĩa vụ một cách đầy đủ hơn. Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Từ những thông tin thu được, các Ủy ban gửi một danh sách các vấn đề/câu hỏi cần làm rõ tới từng quốc gia, các thành viên có nhiệm vụ trả lời và giải trình trong phiên họp trình bày báo cáo tại Geneva. Tại các phiên họp, thời gian sẽ được chia đều cho các chủ thể tham gia báo cáo (các quốc gia và các chủ thể khác như tổ chức xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ,..); có nghĩa là, nếu có càng đông chủ thể tham gia phiên hợp thì thời gian trình bày của mỗi chủ thể lại càng ngắn, và ngược lại. Quy định này buộc các chủ thể phải trình bày một cách ngắn ngọn, xúc tích, đúng trọng tâm.
Cuối cùng, Ủy ban sẽ đưa ra kết luận quan sát nhằm đánh giá những điều đã đạt, chưa đạt của từng quốc gia và đưa ra khuyến nghị.
Tuy nhiên, trên thực tế, các Ủy ban luôn bị quá tải trong việc xem xét báo cáo. Mặc dù chu kỳ nộp báo cáo thường là bốn hoặc năm năm, nhưng số lượng thành viên của mỗi công ước rất lớn ( CRC 196 thành viên, CERD 179 thành viên, CRPD 177 thành viên,…) đồng nghĩa với việc có hàng trăm báo cáo từ các quốc gia, các tổ chức xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ… cần được xem xét. Bên cạnh đó, không chỉ các Ủy ban gặp phải quá tải mà các quốc gia cũng rơi vào tình trạng không thể đáp ứng được nghĩa vụ đệ trình báo cáo đúng thời hạn do tham gia vào nhiều công ước. Các quốc gia thành viên phải mất một khoảng thời gian triển khai, xem xét, đánh giá các biện pháp nhằm bảo đảm các quyền con người được ghi nhận trong công ước, để nhìn nhận mặt thuận lợi, hạn chế trong quá trình thực thi công ước cũng như tổng hợp báo cáo và chuẩn bị cho phiên họp định kì. Theo thống kê, số lượng quốc gia nộp báo cáo đúng hạn cho Ủy ban quyền con người(HRC) năm 2010 là 20%, năm 2011: 15%…; trung bình nộp đúng hạn cho các ủy ban năm 2010- 2011 là 16%.
Số lượng các báo cáo quá hạn của tất cả các quốc gia đến năm 2019
Việt Nam đã tham gia vào bảy trong tổng số chín công ước quốc tế về quyền con người,đồng nghĩa với việc phải hoàn thành bảy báo cáo trong cùng một khoảng thời gian.
Bảng thống kê việc thực hiện nghĩa vụ nộp báo cáo của Việt Nam
Theo số liệu từ bản thống kê trên, cũng như tình trạng chung của các nước khác, Việt Nam thường xuyên nộp báo cáo quá thời hạn quy định. Thậm chí, thời gian quá hạn kéo dài đến 10-12 năm. Liên Hợp Quốc yêu cầu các quốc gia tham gia công ước thực hiện nghĩa vụ nộp báo cáo định kì, tuy nhiên lại không đưa ra chế tài xử lý các trường hợp không tuân thủ thời hạn quy định, cũng không có bất kì biện pháp cưỡng chế nào. Việc đệ trình báo cáo phụ thuộc vào sự tự giác của các quốc gia.
Các số liệu trên cũng cho thấy rằng, sau khi các quốc gia đệ trình báo cáo đều phải chờ một thời gian dài sau đó mới được triệu tập trình bày. Trong khoảng thời gian đó, tình hình nhân quyền ở các nước thành viên sẽ có sự biến động, bởi vậy, trước phiên họp trình bày, quốc gia phải nộp thêm báo cáo bổ sung. Đây là một điểm hạn chế, gây thêm nhiều phức tạp cho nước thành viên và Ủy ban, mà nguyên nhân chính là do sự quá tải trong hoạt động của các Ủy ban giám sát công ước.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2.1.2. Hoạt động xem xét khiếu nại của cá nhân, khiếu nại giữa các quốc gia Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Hoạt động xem xét khiếu nại của cá nhân
Thẩm quyền thứ hai của các Ủy ban giám sát công ước là hoạt động xem xét khiếu nại cá nhân và xem xét khiếu nại giữa các quốc gia. Tuy nhiên, không giống như thẩm quyền xem xét báo cáo được trao rộng rãi cho tất cả các Ủy ban, thẩm quyền nhận và xem xét khiếu nại được quy định rất hạn chế, không phải tất cả các Ủy ban giám sát công ước đều có thẩm quyền xem xét khiếu nại. Hiện tại, có tám Ủy ban (HRC, CERD, CAT, CEDAW, CRPD, CED, CESCR và CRC) có thể nhận và xem xét các khiếu nại cá nhân (nếu đáp ứng đủ điều kiện):
- Ủy ban quyền con người (HRC) có thể xem xét các khiếu nại cá nhân chống lại các quốc gia đã tham gia Nghị định thư tùy chọn đầu tiên đối với Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị;
- Ủy ban về chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) có thể xem xét các khiếu nại cá nhân chống lại các quốc gia đã tham gia Nghị định thư không bắt buộc đối với Công ước về chống phân biệt đối xử với phụ nữ;
- Ủy ban về quyền trẻ em (CRC) có thể xem xét các khiếu nại cá nhân chống lại các quốc gia thành viên Nghị định thư không bắt buộc thứ ba về thủ tục khiếu nại (OPIC).
- Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR) có thể xem xét các khiếu nại cá nhân chống lại các quốc gia đã tham gia Nghị định thư tùy chọn Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
- Ủy ban về quyền của người khuyết tật (CRPD) có thể xem xét các khiếu nại cá nhân chống lại các quốc gia đã tham gia Nghị định thư Tùy chọn đối với Công ước;
- Ủy ban chống tra tấn (CAT) có thể xem xét các khiếu nại cá nhân chống lại các quốc gia đã đưa ra tuyên bố công nhận Điều 22 của công ước;
- Ủy ban chống phân biệt chủng tộc (CERD) có thể xem xét các khiếu nại cá nhân chống lại các quốc gia đã đưa ra tuyên bố công nhận Điều 14 của công ước;
- Ủy ban về các vụ mất tích bị cưỡng chế (CED) có thể xem xét khiếu nại cá nhân chống lại các quốc gia đã đưa ra tuyên bố công nhận Điều 31 của công ước.
Đối với Ủy ban bảo vệ quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ (CMW), cơ chế khiếu nại cá nhân chưa có hiệu lực:
- Điều 77 của công ước trao cho Ủy ban thẩm quyền tiếp nhận và xem xét khiếu nại cá nhân chống lại các quốc gia thành viên tuyên bố công nhận điều 77. Tuy nhiên, cơ chế này chỉ có hiệu lực khi có đủ 10 quốc gia thành viên tuyên bố công nhận Điều 77 trên. Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Để có thể thực hiện thẩm quyền này, phải có đầy đủ các điều kiện sau:
- Quốc gia bị khiếu nại phải là thành viên của công ước;
- Quốc gia đã công nhận thẩm quyền nhận và xem xét khiếu nại của Ủy ban thông qua hai cách: gia nhập Nghị định thư hoặc đưa ra tuyên bố công nhận thẩm quyền;
- Đã sử dụng hết các cơ chế trong nước khác.
Khiếu nại có thể được đưa ra bởi chính cá nhận bị xâm phạm quyền hoặc các bên thứ ba thay mặt cho cá nhân, với điều kiện họ đã nhận được sự đồng ý bằng văn bản. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, bên thứ ba có thể khiếu nại mà không có sự đồng ý như vậy, ví dụ, khi một người đang ở trong tù không được tiếp cận với thế giới bên ngoài, hoặc là nạn nhân của một vụ mất tích. Trong những trường hợp như vậy, bên đệ đơn khiếu nại cần nêu rõ lý do tại sao không được cung cấp sự đồng ý như quy định.
Thủ tục tiếp nhận và xem xét khiếu nại cá nhân, khiếu nại giữa các quốc gia được tiến hành theo trình tự:
- Xem xét điều kiện thụ lý;
- Trao đổi với các bên liên quan; – Ra kết luận về nội dụng.
Cần phải lưu ý rằng, kết quả cuối cùng của quá trình này là bản kết luận dưới dạng ý kiến (Opinion)/khuyến nghị về vụ việc chứ không phải là bản án hay quyết định giải quyết khiếu nại như thủ tục giải quyết khiếu nại của quốc gia. Bản kết luận này chỉ mang tính chất khuyến nghị, tham khảo và không có giá trị pháp lý, ràng buộc các đương sự phải tuân theo.
Hằng năm, có rất nhiều khiếu nại được gửi về các Ủy ban giám sát công ước. Do số lượng khiểu nại nhiều nhưng nhân lực của các Ủy ban mỏng, cũng như việc thụ lý, điều tra, xem xét các vụ việc có tính chất quốc tế cần rất nhiều thời gian, bởi vậy, không thể tránh khỏi sự quá tải trong việc xem xét khiếu nại cá nhân. Bảng sau đây tổng hợp số liệu về việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại cá nhân của Ủy ban quyền con người (HRC) từ năm 2010 đến 31/12/2016
Bảng số liệu về việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại cá nhân của HRC (2010-2016)
Có thể thấy rằng, số lượng khiếu nại được xem xét trong một năm là rất ít so với những khiếu nại chờ được giải quyết. Điều này dẫn đến việc phải mất một khoảng thời gian dài thì một khiếu nại cá nhân mới được giải quyết.
Do thời gian tiếp nhận, xem xét khiếu nại thường khéo dài khá lâu (trung bình từ 2-2,5 năm), và cũng không có biện pháp cưỡng chế bắt buộc các quốc gia phải thực hiện theo kết luận của Ủy ban, hoạt động này thường không mang lại lợi ích trực tiếp, ngay tức khắc cho đương sự mà chủ yếu đem lại giá trị vận động, góp phần cải thiện về mặt cấu trúc, thể chế. Mặc dù ở hoạt động này, công lý không được sử dụng một cách tốt nhất nhưng việc xem xét xem khiếu nại giúp cho công lý được sự dụng tối đa, được tiếp cận bằng mọi phương tiện. Ở một khía cạnh nào đó, nó mang lại hi vọng về việc công lý sẽ được thực hiện và như góp thêm tiếng nói xây dựng cộng đồng.
Hoạt động xem xét khiếu nại giữa các quốc gia Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Một số công ước quốc tế về quyền con người có các quy định cho phép quốc gia thành viên khiếu nại với Ủy ban giám sát công ước đó về các hành vi vi phạm công ước của quốc gia thành viên khác. Thực tế, có rất ít trường hợp như vậy xảy ra. Theo ghi nhận, lần đầu tiên trong lịch sử, năm 2018, có ba đơn khiếu nại quốc gia đã được đệ trình theo Điều 11 của Công ước quốc tế chống tất cả các hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc.
Cũng như việc xem xét khiếu nại cá nhân, các Ủy ban chỉ có thẩm quyền xem xét khiếu nại giữa các quốc gia khi đáp ứng được các điều kiện nhất định:
- Quốc gia khiếu nại và quốc gia bị khiếu nại phải là thành viên của công ước;
- Quốc gia đã công nhận thẩm quyền nhận và xem xét khiếu nại của Ủy ban thông qua hai cách: gia nhập Nghị định thư hoặc đưa ra tuyên bố công nhận thẩm quyền;
2.1.3. Hoạt động xây dựng bình luận chung/kiến nghị chung
Các Ủy ban giám sát công ước định kỳ đưa ra các tài liệu được gọi là bình luận chung hoặc khuyến nghị chung. Các tài liệu này cung cấp, hướng dẫn các quốc gia thành viên về việc giải thích các khía cạnh cụ thể được quy định trong mỗi công ước. Mặc dù các ủy ban có cách đặt tên tài liệu này khác nhau (Bình luận chung – General Comments hoặc Khuyến nghị chung – General Recommendations), nhưng mục đích của chúng thì giống nhau.
Các bình luận chung/kiến nghị chung này chủ yếu tập trung làm rõ nội dung của các quyền được quy định trong công ước, đưa ra đưa ra bình luận/khuyến nghị cho các quốc gia về cách tuân thủ tốt nhất các nghĩa vụ của họ như đã cam kết. Có thể nói rằng, những bình luận chung/kiến nghị chung này đóng vai trò vô cùng quan trọng, giúp các quyền được hiểu đúng nghĩa và qua đó đánh giá được mức độ thực hiện công ước của từng quốc gia.
Tính đến thời điểm hiện tại, số lượng bình luận chung/kiến nghị chung của mỗi Ủy ban là:
- Ủy ban chống phân biệt chủng tộc(CERD): 35;
- Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR): 24;
- Ủy ban quyền con người (HRC): 36;
- Ủy ban chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW): 26;
- Ủy banchống tra tấn (CAT): 4;
- Ủy ban về quyền trẻ em (CRC): 23;
- Ủy ban bảo vệ quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ(CMW): 4;
- Tiểu ban về chống tra tấn (SPT): 2;
- Ủy ban về quyền của người khuyết tật (CRPD): 7;
2.1.4. Một số hoạt động khác Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Hoạt động đến thăm quốc gia
Hoạt động này được Tiểu ban chống tra tấn (SPT) thực hiện, được quy định trong Nghị định thư không bắt buộc của Công ước chống tra tấn. Đến thời điểm hiện tại, Tiểu ban dã có 87 quốc gia thành viên, họp định kỳ 3 năm một lần.
Để thực hiện hoạt động này, Tiểu ban thành lập một chương trình đến thăm các nơi tước quyền tự do tại các quốc gia thành viên (nhà tù, trại giam,…), nhằm ngăn chặn sự tra tấn, các hình phạt, đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo, đồng thời tăng cường sự bảo vệ những người bị tước quyền tự do. Tiểu ban có thể thực hiện một chuyến thăm ngắn tiếp theo, nếu họ cho là phù hợp. Các chuyến thăm sẽ được tiến hành bởi ít nhất hai thành viên của Tiểu ban, với điều kiện các thành viên đó không mang quốc tịch,không được đề cử bởi quốc gia được thăm hay không được có bất kỳ mối liên hệ nào khác với quốc gia được đến thăm. Khi tiến hành chuyến thăm, các thành viên của phái đoàn phải hành động thay mặt Tiểu ban chứ không phải với tư cách cá nhân.
Tham gia vào Nghị định thư nêu trên đồng nghĩa với việc các quốc gia đồng ý thực hiện 02 cam kết: (1) Cam kết Tiểu ban có thẩm quyền đến thăm nơi tước quyền tự do (trại giam, nhà tù,..) của bất kì quốc gia nào; (2) Cam kết xây dựng cơ chế phòng chống tra tấn quốc gia. Nếu quốc gia nào từ chối việc đến thăm, từ chối hợp tác trong việc tìm cách giải quyết những khó khăn đang gặp phải, hoặc không đảm bảo rằng họ sẽ thực hiện đúng nhiệm vụ như đã cam kết, Tiểu ban có thể sử dụng tất cả các biện pháp thích hợp để giải quyết (Chấm dứt chuyến thăm, đưa ra tuyên bố công khai hay công bố kết quả sơ bộ về vấn đề này). Trước khi Tiểu ban thực hiện các biện pháp đó, quốc gia thành viên liên quan sẽ có cơ hội trình bày quan điểm về những hành vi của mình.
Trình tự, thủ tục của các chuyến đến thăm quốc gia được tiến hành như sau:
- Trước chuyến thăm:
SPT gửi thông báo bằng văn bản cho quốc gia liên quan về việc đến thăm, tên các thành viên phái đoàn, tên các chuyên gia bên ngoài hỗ trợ phái đoàn, tên các thành viên Ban thư ký SPT.
SPT cũng yêu cầu quốc gia liên quan cung cấp một số thông tin cần thiết trước chuyến thăm.
- Trong chuyến thăm:
Các chuyến thăm được thực hiện theo nguyên tắc hợp tác và duy trì bảo mật chặt chẽ liên quan đến công việc và những phát hiện của họ. Trong chuyến thăm, phái đoàn SPT gặp gỡ các quan chức cấp cao của Bộ chịu trách nhiệm thực thi pháp luật (cảnh sát) và với các quan chức cấp cao của Bộ chịu trách nhiệm giam giữ những người bị giam giữ trước phiên tòa, nhà tù, giam giữ quân đội, giam giữ người di trú, tâm thần hoặc các tổ chức chăm sóc xã hội, hay bất kỳ nơi nào tước quyền tự do của con người. SPT cũng gặp gỡ các cơ quan nhân quyền quốc gia (NHRIs) và các tổ chức phi chính phủ (NGOs), các tổ chức khác có thông tin liên quan đến nhiệm vụ của Tiểu ban. Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Kết thúc chuyến thăm, phái đoàn có cuộc đối thoại với các quan chức cấp cao của các bộ và cơ quan liên quan, nhằm trình bày những quan sát sơ bộ và thảo luận bí mật về chuyến thăm, bao gồm các vấn đề liên quan đến cơ chế phòng ngừa quốc gia và đối xử với những người bị tước quyền tự do ở những nơi được viếng thăm. Cuộc họp cũng là cơ hội để xác định các vấn đề và tình huống cần hành động ngay lập tức, cũng như các yếu tố pháp luật và thực tiễn cần cải thiện để củng cố các biện pháp bảo vệ cho những người bị tước quyền tự do chống lại sự đối xử tàn nhẫn. Tiểu ban sẽ đưa ra một thông cáo báo chí bằng văn bản ngắn gọn thông báo về chuyến thăm vừa diễn ra.
- Sau chuyến thăm:
Tiểu ban sẽ gửi một báo cáo bí mật tới quốc gia liên quan và yêu cầu quốc gia đó trả lời các khuyến nghị được đưa ra trong báo cáo cũng như thực hiện các yêu cầu cần thiết. Báo cáo đó sẽ được giữ bí mật cho đến khi có yêu cầu công bố từ quốc gia được đến thăm.
Cho đến nay, SPT đã thực hiện tổng cổng 71 chuyến thăm các quốc gia thành viên, trong đó có những quốc gia được đến thăm nhiều lần, tiêu biểu như: Azerbaijan, Benin, Bolivia, Brazil, Cambodia, Honduras, Kyrgyzstan, Liberia, Maldives, Mexico, Paraguay,…
Hoạt động điều tra
Ngoài những thẩm quyền kể trên, một số Ủy ban còn có thẩm quyền điều tra khi có những vụ việc vi phạm các quy định trong công ước liên quan (Ủy ban chống tra tấn- Điều 20, CAT; Ủy ban chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ – Điều 8, Nghị định thư không bắt buộc đối với CEDAW; Ủy ban về quyền của người khuyết tật – Điều 6 Nghị định thư không bắt buộc đối với CRPD; Ủy ban về các vụ mất tích bị cưỡng chế- Điều 33, CED; Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa – Điều 11, Nghị định thư không bắt buộc đối với ICESCR và Ủy ban về quyền trẻ em – Điều 13, Nghị định thư không bắt buộc đối với CRC). Tuy nhiên, để tiến hành hoạt động này, Ủy ban phải có được sự đồng ý từ phía quốc gia bị điều tra. ác quốc gia thành viên có thể từ chối quy trình điều tra, tại thời điểm ký hoặc phê chuẩn hoặc gia nhập
Khi nhận được thông tin đáng tin cậy về các vi phạm nghiêm trọng, hoặc vi phạm có hệ thống của một quốc gia về các quyền được nêu trong công ước mà Ủy ban giám sát, các Ủy ban có thể tiến hành các cuộc điều tra bí mật.
2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động của các Ủy ban giám sát công ước Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
2.2.1. Ưu điểm
Các Ủy ban giám sát công ước được thành lập, đem lại nhiều kết quả tích cực trong việc bảo vệ quyền con người. Nhờ có cơ quan này giám sát, việc thực hiện công ước của các quốc gia được diễn ra nghiêm chỉnh, đạt kết quả cao hơn. Có thể chỉ ra một số ưu điểm sau đây:
- Tính chuyên môn, chuyên sâu, tính kỹ thuật cao:
Thành viên của các Ủy ban giám sát công ước đều là những chuyên gia hàng đầu, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quyền con người, chính bởi vậy, mọi công việc đều được thực hiện một cách chuyên môn hóa và được nghiên cứu chuyên sâu. Các chuyên gia hoạt động độc lập, tức là tất cả chỉ vì một mục tiêu chung là xây dựng cơ chế bảo vệ quyền con người hiệu quả, chặt chẽ, mang tính thực tế chứ không vì mục đích chính trị hay vì quyền lợi của một quốc gia cá biệt.
- Cơ hội tham gia cho nhiều chủ thể (xã hội dân sự, cơ quan nhân quyền quốc gia, tổ chức phi chính phủ, học giả…)
Cơ chế này đồng ý sự tham gia của các chủ thể khác như các xã hội dân sự, cơ quan nhân quyền quốc gia, tổ chức phi chính phủ, các học giả nghiên cứu quyền con người,… bên cạnh chủ thể chính là các quốc gia. Việc có sự tham gia của nhiều chủ thể đã giúp Ủy ban được tiếp cận nguồn thông tin đa chiều, có cái nhìn tổng quan hơn về các vấn đề. Ngoài ra, nó còn giúp Ủy ban huy động được tối đa nguồn lực để xây dựng, phát triển công cuộc bảo vệ nhân quyền. Các chủ thể khác được ghi nhận, được tham gia, có tiếng nói hơn trên trường quốc tế là động lực cổ vũ họ ngày một phát triển và góp phần tạo ra một môi trường cởi mở, đa đang dạng ý kiến. Mặt khác, điều này đã thúc đẩy nhà nước phải chú trọng, tích cực hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với Ủy ban và đảm bảo quyền con người tại quốc gia mình.
2.2.2. Hạn chế
Cơ chế dựa trên điều ước quốc tế đem lại nhiều hiệu quả trong việc bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của các Ủy ban. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, nó vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, như:
- Thiếu chế tài, các biện pháp cưỡng chế Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Một trong những vấn đề gây ra nhiều thách thức cho hệ thống Ủy ban xuất phát từ việc không có những biện pháp cưỡng chế, buộc các quốc gia phải tôn trọng thực hiện những quyết định/khuyến nghị và tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ như đã cam kết. Không có chế tài cùng các biện pháp cưỡng chế, đồng nghĩa với việc thực hiện nghĩa vụ phụ thuộc và sự tự giác của các thành viên. Hầu hết các quốc gia thành viên của chín công ước đều không tuân thủ nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp báo cáo đúng hạn. Mặc dù có cả nguyên nhân khách quan (các quốc gia cũng gặp quá tải trong việc lập báo cáo do tham gia vào nhiều công ước), cả nguyên nhân chủ quan (từ ý thức của mỗi quốc gia), nhưng điều này đã gây ra tình trạng ứ đọng công việc, làm giảm đi hiệu quả trong hoạt động giám sát, cũng như ảnh hưởng đến sự uy nghiêm của các Ủy ban.
- Phạm vi hẹp, chỉ gói gọn trong những vấn đề liên quan đến Công ước
Các Ủy ban giám sát Công ước chỉ có thẩm quyền đối với những vấn đề được quy định, đề cập trong các công ước quốc tế về quyền con người, ví dụ như: chỉ có có thể xem xét báo cáo về việc tuân thủ các quy định về quyền con người trong các công ước, chỉ có thể đưa ra bình luận chung/khuyến nghị chung để giải thích, làm rõ các quyền được ghi nhận trong công ước, chỉ có thể xem xét các khiếu nại cá nhân/quốc gia liên quan đến việc vi phạm công ước,… Ngoài ra, Ủy ban cũng chỉ được thực hiện thẩm quyền của mình khi và chỉ khi các quốc gia liên quan tuyên bố công nhận thẩm quyền của cơ quan này. Chính bởi thế, sẽ có những vụ việc nằm ngoài khả năng giám sát, giải quyết của các Ủy ban.
- Phân rẽ, thiếu tính thống nhất giữa các Ủy ban
Thực tế hiện nay, các Ủy ban giám sát công ước làm việc khá độc lập với nhau, ít có sự đồng nhất, liên kết trong cơ cấu tổ chức và hoạt động. Điều này được thể hiện qua tên gọi, các văn bản được ban hành, số lượng thành viên, việc tổ chức các phiên họp định kỳ,… và hầu như chưa có sự tương tác qua lại nào giữa các Ủy ban, mỗi Ủy ban chỉ tập trung vào nhiệm vụ của mình. Sự khác biệt nêu trên có thể xuất phát từ đặc điểm, điều kiện, nhu cầu riêng của từng công ước. Ngoài ra, do trước đó, Liên Hợp Quốc chưa có ý định cũng như chưa nhận thức được sự cần thiết của các cơ quan này nên thời gian thành lập của các Ủy ban cũng khác nhau.Các Ủy ban nằm trong cùng một hệ thống chung nhưng mối liên kết lỏng lẻo, phân rẽ, và có sự khác biệt về kinh nghiệm hoạt động khiến cho hệ thống thiếu đi tính thống nhất
- Quá tải công việc (nhận báo cáo định kỳ, khiếu nại cá nhân, công tác tư liệu, dịch thuật…)
Như đã trình bày ở các phần trên, tất cả Ủy ban giám sát công ước đều đang phải đối mặt với sự quá tải công việc, gây ra sự trì trệ trong hoạt động. Báo cáo quốc gia của một giai đoạn mãi mới được xem xét, tình hình nhân quyền ở các quốc gia đã có nhiều biến động, thay đổi gây ra nhiều phức tạp, tốn kém (nộp báo cáo bổ sung) hay những khuyến nghị được đưa ra không còn sát với thực tế, không đem lại hiệu quả. Khiếu nại cá nhân/quốc gia được xem xét sau một khoảng thời gian khá dài (trung bình từ 2-3 năm) đã khiến công lý đến chậm và quyền lợi của cá nhân không được bảo vệ tối đa, trực tiếp.
- Tốn kém chi phí và thiếu hụt ngân sách. Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Theo thống kê, ngân sách để duy trì hoạt động của hệ thống các Ủy ban đang bị thiếu hụt so với sự phát triển và sự gia tăng khối lượng công việc của họ. Ủy ban tổ chức các cuộc họp định kỳ tại Geneva cũng như yêu cầu các quốc gia thành viên tham gia báo cáo định kỳ đã gây sự tốn kém cho phí cho việc di chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác. Ngân sách hỗ trợ của Văn phòng Cao ủy cho các Ủy ban được lấy từ hai nguồn: từ ngân sách thường xuyên của Liên Hợp Quốc (2010-2011: 29,7 triệu đô, tương ứng với 76%) và từ vốn đóng góp tự nguyện (2010-2011: 9,6 triệu đô, tương ứng với 24%). Trong đó, 12,1 triệu đô (trên tổng số 39,3 triệu đô, chiếm khoảng 31%) được sử dụng cho việc đi lại của các thành viên tham gia các phiên họp; và 17,6 triệu đô (ứng với khoảng 45%) được dành cho nhân viên hỗ trợ các công việc của Ủy ban. Ngân sách dành cho việc đi lại để tham gia các phiên họp của các thành viên công ước tăng từ 4.3 triệu đô (giai đoạn 20002001) lên 12,1 triệu đô (giai đoạn 2010-2011), do sự gia tăng từ 74 chuyên gia (năm 2000) lên 172 chuyên gia (năm 2010), và số lượng các chuyên gia đã tăng thêm ở các năm sau đó.
2.2.3. Đánh giá chung
Các Ủy ban giám sát công ước là hệ thống cơ quan có chuyên môn cao, chuyên nghiệp, không bị ảnh hưởng bới chính trị, đã phát huy được vai trò của mình, góp phần thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng quyền con người.
Hơn nữa, đây còn là những cơ quan tiến bộ trong việc tiếp nhận nguồn thông tin đa chiều, không chỉ từ nước thành viên mà còn từ các chủ thể khác (xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ, cơ quan nhân quyền quốc gia,…). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống vẫn còn tồn tại một số hạn chế như bị quá tải trong hoạt động, tốn kém ngân sách, thiếu tính liên kết… Trước tình hình này, nhiều chuyên gia trên thế giới đã đưa ra ý kiến, quan điểm về việc cải cách bộ máy các Ủy ban. Với nỗ lực của các chuyên gia và sự quan tâm từ cộng đồng như hiện này, trong tương lai không xa, hệ thống này sẽ ngày càng hoàn thiện, phát triển và hoạt động hiệu quả.
Đặt trong sự so sánh, có thể nói, cơ chế quốc tế và cơ chế quốc gia, cơ chế khu vực luôn có mối quan hệ tương trợ, bổ sung lẫn nhau. Các cơ chế này cùng nhau tạo ra những khuôn khổ pháp lý, chuẩn mực để hoàn thiện các quy định về việc đảm bảo nhân quyền. Tại những khu vực/quốc gia mà cơ chế nhân quyền khu vực/quốc gia còn yếu hay những nước chưa có cơ quan nhân quyền quốc gia riêng, việc phát huy vai trò của các cơ chế quốc tế là rất cần thiết. Cơ chế quốc tế có thể phát triển được là nhà cơ chế quốc gia, thông qua sự đóng góp của các cơ quan nhân quyền quốc gia và các xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ,… tại quốc gia đó.
2.3. Tiến trình cải cách các Ủy ban giám sát công ước Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Trước tình trạng nộp báo cáo quá hạn, tình trạng quá tải trong xem xét báo cáo, có một số giải pháp được các chuyên gia đưa ra như sau:
- Ủy ban đánh giá việc thực hiện công ước của các quốc gia mà không cần quốc gia phải nộp báo cáo.
Ý kiến này đưa ra nhằm giảm bớt các thủ tục cho cả Ủy ban lẫn thành viên của họ. Tuy nhiên, nó tạo ra sức ép đối với quốc gia và không thể cung cấp cho Ủy ban cái nhìn toàn diện, đa chiều về các vấn đề: Nếu các quốc gia không nộp báo cáo thì Ủy ban chỉ xem xét, tiếp cận được những thông tin thu được từ các chủ thể khác như xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ,…
- Rút gọn thủ tục: Quốc gia chỉ trả lời danh sách các câu hỏi mà Ủy ban gửi đến (LOIs) chứ không cần trình bày những vấn đề khác.
Việc rút gọn thủ tục giúp tiết kiệm thời gian và nhân lực cho các quốc gia tham gia báo cáo, các quốc gia sẽ xác định được trọng tâm cần trình bày và chuẩn bị trong phạm vi đó. Thế nhưng, giải pháp này cũng không thực sự tối ưu, bởi nó chỉ xoay quanh, chú trọng vào những điểm yếu mà không quan tâm đến những điểm mạnh, những thành công đã đạt được của các quốc gia trong việc thực hiện công ước.
Với mục đích giúp các Ủy ban ngày cành hoàn thiện, hoạt động hiệu quả hơn, rất nhiều chuyên gia đã có nhiều báo cáo, đóng góp vào tiến trình cải cách hệ thống cơ quan này, tiêu biểu có:
- 1997: Báo cáo của Chuyên gia độc lập Philip Alston về việc củng cố hiệu quả của hệ thồng Ủy ban;
- 2002: Báo cáo của Tổng thư ký;
- 2005: Kế hoạch hành động của Cao ủy Nhân quyền Louis Arbour sẽ đề xuất điều chỉnh; đề xuất 1 hệ thống ủy ban thường trực thống nhất (unified);
- 2009-2012: Cao ủy Nhân Quyền Navanethem Pillay tổ chức tham vấn rộng rãi; báo cáo “Củng cố hệ thống cơ quan quyền con người dựa trên công ước” (Strengthening the United Nations human rights treaty body system), 2012.
Ở công trình nghiên cứu này, người viết chỉ đi sâu vào những đề nghị cải cách của Navenethem Pillay, bởi bản báo cáo của bà là bản báo cáo sát với tình hình hoạt động của hệ thống Ủy ban hiện nay nhất. Những kiến nghị của các chuyên gia trước đó một số đã được thực hiện, hoặc một số không còn phù hợp vào thời điểm hiện tại.
Theo bản báo cáo của chuyên gia Navenethem Pillay, Cao ủy Nhân quyền có những đề nghị/kiến nghị như sau:
Thứ nhất, thực hiện “Lịch báo cáo toàn diện”.Để đảm bảo hiệu quả và tiết kiệm chi phí, chuyên gia có đề xuất:
- Báo cáo toàn diện sẽ được thực hiện theo chu kỳ 5 năm, mỗi năm không quá 2 báo cáo.
- Mỗi năm, Ủy ban của mỗi công ước sẽ xem xét 20% số lượng báo cáo. Do đó, trong năm năm, Ủy ban sẽ xem xét được hết tất cả báo cáo quốc gia. Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
- Mỗi báo cáo sẽ được xem xét trong thời hạn 1 năm kể từ khi nộp. Trong sáu tháng đầu, những chủ thể khác có thể đóng góp thông tin bổ sung và sáu tháng sau đó là thời gian để Ủy ban và ban thư ký của cơ quan này chuẩn bị cho cuộc đối thoại trực tiếp trình bày báo cáo.
Lợi ích của việc thực hiện lịch báo cáo toàn diện nêu trên là trong một năm, quốc gia thành viên không phải nộp quá hai báo cáo và không tham gia quá hai cuộc đối thoại trình bày báo cáo. Điều đó sẽ tạo ra sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp báo cáo của các thành viên. Tính thường xuyên và có hệ thống của lịch trình này cũng tạo điều kiện cho các quốc gia phân bố nguồn lực trong việc thực hiện báo cáo hiệu quả hơn, các Ủy ban cũng tránh được tình trạng bị tồn đọng báo báo. Ngoài ra, lịch trình còn giúp giảm sự lãng phí bằng cách đảm bảo rằng mọi báo cáo gửi cho các Ủy ban đều được xem xét nhanh chóng, tất cả các tài liệu dịch được sử dụng đúng mục đích, hạn chế việc phải cập nhật thông tin do báo cáo bị ngâm quá lâu.
Thứ hai, thay đổi thủ tục báo cáo đơn giản và thống nhất hơn. Theo truyền thống, thủ thục nộp và xem xét báo cáo quốc gia gồm bốn bước: (1)
Quốc gia thành viên nộp báo cáo; (2) Ủy ban lập “Danh sách vấn đề” (LOIs) tương ứng và gửi lại các quốc gia; (3) Quốc gia thành viên trả lời các vấn đề được hỏi trong LOIs; (4) Tham gia đối thoại trình bày báo cáo và trả lời LOIs. Nhận thấy quy trình truyền thống gây ra nhiều hạn chế về mặt thủ tục, thời gian và chi phí, trong bản báo cáo của mình, Navenathem Pillay đề xuất thực hiện theo thủ tục ngắn gọn hơn, chỉ với ba bước: (1) Ủy ban gửi bảng câu hỏi SRP (Simplified Reporting Procedure), thường được dựa trên bản khuyến nghị trước đó tới quốc gia thành viên; (2) Quốc gia thành viên nộp báo cáo định kỳ dựa trên bảng câu hỏi SRP; (3) Đối thoại báo cáo của các quốc gia trả lời các câu hỏi trong bảng SRP. Bên cạnh đó, bà còn đề xuất nên tăng cường và sử dụng hiệu quả “Tài liệu cốt lõi chung” (CCD) và hướng dẫn báo cáo cụ thể; thực hiện nghiêm chỉnh quy định về giới hạn độ dài báo cáo; Sắp xếp các cuộc đối thoại mang tính xây dựng cho các Ủy ban và quốc gia thành viên của họ; Giảm bớt hoạt động dịch hồ sơ tóm tắt; Tập trung vào kết luận quan sát; Tăng cường sự tham gia của các chủ thể khác với Liên Hợp Quốc;….
Những đề xuất này giúp tiết kiệm ngân sách, thời gian và nhân lực cho cả Ủy ban và quốc gia thành viên. Bảng câu hỏi SRP đưa ra định hướng cho các quốc gia báo cáo đúng trọng tâm, trả lời thẳng vào những vấn đề được yêu cầu báo cáo. Nó còn cung cấp cho các chủ thể một bức tranh toàn cảnh về việc thực hiện công ước và tạo ra một khung hoạt động thống nhất, tăng thêm sự liên kết giữa các cơ quan.
Thứ ba, tăng cường hoạt động xem xét khiếu nại cá nhân, hoạt động điều tra và các cuộc đến thăm quốc gia. Bà Navenethem Pillay ủng hộ đề xuất của CEDAW về việc thành lập một nhóm làm việc chung (Working Group on Communications) nhằm xem xét khiếu nại cá nhân, bao gồm các chuyên gia của các Ủy ban giám sát công ước. Theo bà, thành lập nhóm làm việc chung xem xét khiếu nại cá nhân mang lại những lợi ích sau: Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
- Phát triển các tiêu chuẩn bảo vệ thống nhất; đảm bảo tính nhất quán về mặt khoa học/luật học giữa các Ủy ban;
- Củng cố tính hợp lý và phụ thuộc lẫn nhau của các quyền con người;
- Đưa ra kết quả rõ ràng hơn nhờ sự chuyên môn hóa, tạo điều kiện để quốc gia thành viên tuấn thủ các quyết định của Ủy ban;
- Tăng cường sự thống nhất về phương pháp làm việc giữa các Ủy ban.
Ngoài ra, còn một số kiến nghị khác như: Thiết lập cơ sở dữ liệu pháp lý về các trường hợp cụ thể; Đánh giá các trường hợp tuân thủ tốt các quy tắc về thủ tục, phương pháp làm việc theo hướng dẫn chung; Thực hiện tốt việc hòa giải; Nâng cao hoạt động của tiểu ban phòng chống tra tấn.
Thứ tư, củng cố sự độc lập và chuyên môn của các chuyên gia là thành viên các Ủy ban. Để thực hiện được mục tiêu nay, bà đưa ra hoạt động cụ thể: Hướng dẫn các thành viên của Ủy ban thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập, khách quan, vô tư; Quy định về chính sách và quy trình quốc gia liên quan đến việc đề cử, bầu các chuyên gia cho Ủy ban; Xây dựng cẩm nang về những điều cần biết cho các chuyên gia là thành viên công ước và thiết kế trang web về bầu cử; Tạo ra không gian mở cho tất cả các quốc gia đề cử ứng cử viên tiềm năng cho Ủy ban. Các chuyên gia thành viên Công ước là những người trực tiếp điều hành hoạt động của Ủy ban. Các Ủy ban có thực hiện tốt nhiệm vụ của mình hay không là phụ thuộc vào các chuyên gia đó. Bởi vậy, muốn
Ủy ban hoạt động tốt trước hết phải đảm bảo được đội ngũ chuyên gia tận tâm, có năng lực, có tầm nhìn và chuyên môn cao.
Đề xuất của Navanethem Pillay đã đánh vào những hạn chế còn tồn tại trong cơ cấu, hoạt động của hệ thống Ủy ban. Tuy nhiên, những đề xuất đó cần một khoảng thời gian để thực hiện và phải nhờ đến sự hợp tác của nhiều cơ quan, chủ thể. Nếu áp dụng thành công, nó sẽ mở ra một sự thay đổi, phát triển đáng kể đối với hệ thống này.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Cũng giống như cơ chế dựa trên Hiến chương, cơ chế dựa trên công ước được đánh giá là một cơ chế “mở”, linh hoạt. Tính “mở” được ghi nhận qua hai biểu hiện chính: (1) tạo cơ hội tham gia cho các chủ thể khác (xã hội dân sự, tổ chức phi chính phú, cơ quan nhân quyền quốc gia, học giả nghiên cứu nhân quyền,…) bên cạnh sự tham gia của các quốc gia và cơ quan nhân quyền Liên Hợp Quốc; (2) Ghi nhận các văn kiện nhân quyền của các tổ chức bên ngoài như những văn kiện do chính Liên Hợp Quốc ban hành. Nếu phân chia các chủ thể tham gia vào cơ chế này dựa trên cơ sở hình thành, ta có thể chia làm hai nhóm, một là các cơ quan được thành lập bởi Liên Hợp Quốc, hai là nhóm các chủ thể không được thành lập dựa trên các Nghị quyết của Liên Hợp Quốc mà tham gia hoạt động dựa trên các quy định về cơ chế phối hợp và tư vấn. Cơ hội tham gia báo cáo, đóng góp ý kiến và xây dựng bình luận/khuyến nghị được mở rộng. Bên cạnh đó, cơ chế này được thực hiện với tính kỹ thuật cao, dựa trên chuyên môn sâu rộng với các hoạt động thực chất, có tác động trực tiếp vào công cuộc đảm bảo nhân quyền tại các quốc gia. Tuy nhiên, tồn tại lớn nhất mà hệ thống cơ quan dựa trên công ước gặp phải là tình trạng bị quá tải trong công việc, chưa giải quyết được vấn đề nộp và xem xét báo cáo muộn, tốn kém ngân sách,…
Dù còn nhiều điểm hạn chế như đã phân tích nhưng cơ chế này vẫn phát huy được ưu điểm của nó, cùng phối hợp với cơ chế dựa trên Hiến chương thực hiện mục tiêu thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng quyền con người. Việc cần làm hiện nay là phải phát huy những điểm tích cực, đồng thời tìm và thực hiện những phương hướng cải cách phù hợp, khắc phục hạn chế trong hoạt động của hệ thống các Ủy ban giám sát công ước này.
KẾT LUẬN Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
Hiện nay, vấn đề nhân quyền là vấn đề được các quốc gia trên thế giới chú trọng, với mong muốn bảo vệ và ngày càng thúc đẩy quyền con người. Trong xu thế chung, các quốc gia đang tiến tới hội nhập, hợp tác, phát triển quốc tế. Chính vì thế, việc nghiên cứu, tìm hiểu về các cơ chế bảo vệ quyền con người nói chung, cơ chế bảo vệ quyền con người dựa trên các công ước quốc tế cốt lõi nói riêng là một việc vô cùng quan trọng và cần thiết.
Đa phần các quốc gia đều có xu hướng tham gia tích cực vào các công ước quốc tế về quyền con người, bởi việc này không chỉ giúp các quốc gia có được những đánh giá tích cực, chứng minh năng lực, giá trị của mình mà họ còn nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ quốc tế, cũng như duy trì được nền hòa bình, ổn định. Tham gia và các công ước quốc tế đồng nghĩa với việc các quốc gia thành viên phải chịu sự giám sát của các Ủy ban giám sát công ước tương ứng. Sự giám sát được thực hiện thông qua việc xem xét báo cáo mà các quốc gia đệ trình định kỳ, qua hoạt động xem xét khiếu nại cá nhân và các chuyến đến thăm quốc gia. Ngoài ra, để đảm bảo các quốc gia thực hiện đúng tinh thần của công ước, mỗi Ủy ban tương ứng còn có thẩm quyền ban hành bình luận chung/khuyến nghị chung để giải thích những quy định trong công ước đó.Chính những Ủy ban giám công ước đã có nhiều đóng góp lớn trong việc thúc đẩy phong trào nhân quyền trên thế giới. Việc xây dựng một môi trường “mở” đã tạo điều kiện cho các chủ thể khác như xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ, cơ quan nhân quyền quốc gia, các học giả… có cơ hội tham gia đóng góp ý kiến. Đây chính là hành động thiết thực để cổ vũ các chủ thể đó hoạt động tích cực hơn, sôi nổi hơn. Cũng vì cơ chế “mở” như vậy đã tạo hiệu ứng kép, khiến các quốc gia phải nghiêm túc hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, bởi nếu không, những nỗ lực của họ không được đánh giá đúng và các Ủy ban chỉ dựa trên thông tin có được từ các các chủ thể khác. Ủy ban còn tạo cơ hội để công dân các nước tham gia vào việc giám sát Nhà nước, lên tiếng vì quyền lợi của mình qua hoạt động tiếp nhận và xem xét báo cáo. Mặc dù không có những chế tài, biện pháp cưỡng chế thi hành cụ thể nhưng hệ thống các cơ quan đã tạo ra sức ép khiến các quốc gia phải tuân thủ nghiêm túc, đầy đủ việc bảo vệ quyền con người như đã cam kết.
Nhìn chung, các cơ chế bảo vệ quyền con người của Liên Hợp Quốc đã và đang vận dụng được ưu thế của mình, mang lại hiệu quả tích cực trong việc đảm bảo nhân quyền trên thế giới. Các cơ quan nhân quyền của Liên Hợp Quốc góp phần hoàn thiện chuẩn mực, khuôn khổ pháp luật và đóng góp đáng kể trong việc phổ biến quy phạm nhân quyền quốc tế. Không những thế, Liên Hợp Quốc còn tạo ra các diễn đàn đối thoại trực tiếp để trao đổi, đánh giá tình hình nhân quyền của các quốc gia, từ đó mà năng lực của các nhà nước cũng được tăng cường. Tuy nhiên, so với cơ chế nhân quyền khu vực hay cơ chế quốc gia, các cơ chế của Liên Hợp Quốc vẫn có một số mặt hạn chế. Ví dụ như khó được đồng thuận hơn khi thiết lập, sửa đổi, bổ sung và thực hiện quyết định, bởi mỗi quốc gia lại có những đặc điểm riêng về kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử. Ngoài ra, các cơ chế khu vực, do phạm vi hẹp hơn về địa lý, thường dễ tiếp cận hơn với công chúng so với cơ chế toàn cầu của Liên hợp quốc.
Đối với Việt Nam, chúng ta luôn đề cao việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Thực tiễn cho thấy nước ta đã có những chính sách giúp nâng cao hiệu quả, cũng như đã tạo ra rất nhiều thành tựu trong lĩnh vực này cả trong nước lẫn trên trường quốc tế. Nước ta tham gia bảy trên tổng số chín công ước quốc tế cốt lõi về nhân quyền của Liên Hợp Quốc, đã phần nào thể hiện mong muốn hội nhập, phát triển cũng như sự quan tâm đến quyền con người. Tuy nhiên, do nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, Việt Nam vẫn chưa thực sự thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, biểu hiện là số lượng lớn báo cáo quá hạn trong thời gian dài. Ngoài ra, việc xem xét nên hay không nên chấp nhận thẩm quyền xem xét khiếu nại của các Ủy ban cũng là một vấn đề chúng ta cần quan tâm. Việc chấp nhận thẩm quyền này có thể gây ra bất lợi cho Nhà nước. Nếu chấp nhận, Nhà nước phải cẩn thận hơn trong các quyết định liên quan đến nhân quyền của mình và nếu có khiếu nại, sẽ gây ra những ảnh hưởng không tốt, nhất là trong giai đoạn nhạy cảm như hiện nay. Nhưng xét về một khía cạnh khác, chúng ta chỉ phát triển được khi biết chấp nhận và đối đầu với thách thức. Hoạt động nhân quyền không chỉ được thực hiện bởi Nhà nước, pháp luật mà còn phải có sự tham gia, giám sát của người dân.
Người dân là đối tượng trực tiếp của quyền con người, họ cần được lên tiếng, được bảo vệ nếu quyền lợi của họ bị xâm phạm. Dám nhìn nhận và khắc phục những điểm chưa tốt thì mới tiến bộ và tôn trọng quyền con người một cách thực sự, toàn diện. Để làm được như thế, chúng ta cần thay đổi quan điểm về vấn đề quyền con người, không nên xem nó là vấn đề nhạy cảm, mà hãy nhìn nó với tư cách bình đẳng với các vấn đề xã hội khác. Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Cơ chế tổ chức về quyền con người của liên hợp quốc

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>> Khóa luận: Thực tiễn về quyền con người của liên hợp quốc […]