Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GP-Bank Hải Phòng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Một vài nét khái quát về GP-Bank Hải Phòng.

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển chi nhánh.

Ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu, với tiền thân là NHTM nông thôn Ninh Bình được thành lập tháng 11/1993 với tổng tài sản là 300 tỷ đồng. Vào đúng ngày Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của đại gia đình WTO 7/11/2019, NHTM nông thôn Ninh Bình – một NHCP địa phương đã chính thức chuyển đổi thành một NH đô thị đa năng- NHTMCP Toàn Cầu (G.Bank) cùng với sự gia nhập của cổ đông chiến lược là Tổng công ty dầu khí Việt Nam (Petro VN) chiếm tới 20% cổ phần G.Bank đã nâng vốn điều lệ lên tới 500 tỷ đồng, tổng tài sản trên 1.600 tỷ đồng và mở thêm 4 phòng giao dịch tại Hà Nội.

Năm 2020, NHTMCP Toàn Cầu đổi tên thành NHTMCP Dầu Khí Toàn Cầu theo công văn số 372/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam. Viết tắt tên tiếng Việt là Ngân hàng Dầu Khí Toàn Cầu.Tên đầy đủ bằng tiếng Anh: Global Petro Commercial Joint Stock Bank với tên giao dịch tiếng Anh viết tắt là GP-Bank. Từ một tổ công tác chưa đầy 10 thành viên tháng 11/2019, đến nay toàn NH có khoảng hơn 1.400 cán bộ công nhân viên công tác tại hội sở chính, 1 phòng giao dịch trung tâm, 13 chi nhánh cùng với 63 phòng giao dịch trên toàn quốc và 1 công ty trực thuộc là công ty GP-Bank AMC.

Tháng 12/2021, GP-Bank đã nâng vốn điều lệ lên 1000 tỷ đồng bằng việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Đây là năm khởi đầu thắng lợi và khẳng định tiềm năng phát triển mạnh mẽ của GP-Bank với tất cả các mặt hoạt động đều đạt và vượt mức chi tiêu kế hoạch đề ra. Với số vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng, lợi nhuận thu về đạt được 101 tỷ đồng. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ của GP-Bank đạt 19.44%,GP-Bank cũng đã xây dựng được một đội ngũ 600 nhân viên trẻ trung chuyên nghiệp, làm việc trong hệ thống mạng lưới gồm 5 chi nhánh và 24 phòng giao dịch trên toàn quốc.

Cuối năm 2023, tổng tài sản của GP-Bank đạt gần 18.000 tỷ đồng, tổng vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư đạt trên 9.000 tỷ đồng, lợi nhuận sau trích dự phòng đạt 174 tỷ đồng. Được sự chấp thuận của NHNN Việt Nam, Uỷ ban Chứng Khoán, ngày 11/01/2024 GP-Bank đã chính thức thông báo hoàn thành việc nâng vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng. Đây là lần thứ 6 GP-Bank tăng vốn điều lệ. Tính đến hết ngày 31/12/2023, các chỉ tiêu của GP-Bank đều tăng xấp xỉ 200% so với thời điểm 31/12/2022. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Đến ngày 31/07/2024, tổng tài sản của GP-Bank đạt trên 19.000 tỷ đồng, tổng huy động vốn tăng 71% so với cuối năm 2023, lợi nhuận trước thuế và trích lập dự phòng rủi ro đạt gấp 8 lần so với cùng kì năm trước. Doanh số của các hoạt động dịch vụ đều tăng trưởng ở mức cao, đạt gấp 2 lần so với cùng kì năm trước.

GP-Bank đang nỗ lực phấn đấu để trở thành một trong những NHTM hàng đầu Việt Nam đúng như phương châm “không phải là đầu tiên nhưng phải là tốt nhất”. Và trong năm 2024, Ngân hàng đã thành lập công ty trực thuộc đầu tiên là công ty TNHH một thành viên quản lý nợ và khai thác tài sản NHTMCP Dầu Khí Toàn Cầu (GP-Bank AMC).

Ngày 25/05/2021, GP-Bank chính thức khai trương chi nhánh GP-Bank Hải Phòng; đóng vai trò tạo lập nguồn vốn, cung cấp các hình thức dịch vụ NH, đáp ứng nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn, góp phần thực hiện các mục tiêu, chương trình, giải pháp của Thống đốc NHNN đề ra, định hướng phát triển kinh doanh của NHTMCP GP-Bank và công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

2.1.2. Cơ cấu bộ máy quản lý của chi nhánh.

Ban giám đốc: Giám đốc chi nhánh là người thuộc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trực tiếp giao trách nhiệm tổ chức, quản lý và điều hành ổn định toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của chi nhánh nhằm thực hiện công tác kế hoạch kinh doanh định kì và chiến lược phát triển của GP-Bank.

Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp: Tham mưu cho giám đốc chi nhánh và tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh NH tại chi nhánh trong các lĩnh vực: khai thác nguồn vốn; cho vay ngắn, trung-dài hạn; khai thác các loại hình dịch vụ NH khác như thanh toán, bảo lãnh đối với các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Thẩm định hoặc tái thẩm định các khoản cấp tín dụng cho KHDN vượt thẩm quyền của các đơn vị trực thuộc.

Phòng dịch vụ khách hàng thể nhân: Tham mưu cho giám đốc chi nhánh và tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh NH tại chi nhánh trong các lĩnh vực: cho vay kinh doanh, tiêu dùng và cung cấp các dịch vụ NH bán lẻ đối với các hộ gia đình, cá nhân. Thẩm định hoặc tái thẩm định các khoản cấp tín dụng cho KH cá nhân, hộ gia đình vượt thẩm quyền của các đơn vị trực thuộc.

Phòng Kế toán và Dịch vụ khách hàng: Tham mưu cho giám đốc chi nhánh và tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh NH tại chi nhánh trong các lĩnh vực: hạch toán kế toán, thống kê, quản lý tài chính, quản lý tiền lương, huy động tiết kiệm, cân đối nguồn vốn, quản lý kho quỹ và cung cấp các dịch vụ tài khoản, thanh toán cho tất cả các đối tượng khách hàng.

Tổ kiểm soát nội bộ: Tổ kiểm tra Kiểm soát nội bộ là đơn vị thuộc chi nhánh có chức năng giúp giám đốc chi nhánh tổ chức thực hiện tại chi nhánh (kể cả các phòng giao dịch) các lĩnh vực: kiểm tra mọi nghiệp vụ kinh doanh và quản lý tài chính tại chi nhánh nhằm thực hiện đúng các quy định hiện hành của Pháp luật, các quy chế quản lý của ngành, các quy định, quy trình nghiệp vụ của GP-Bank.

Phòng Hỗ trợ và Tái thẩm định: Tổ chức thực hiện công việc tại chi nhánh trong các lĩnh vực: Tái thẩm định các khoản cấp tín dụng, thanh toán quốc tế hoàn thiện hồ sơ cấp tín dụng và xử lý, hạch toán các giao dịch trực tiếp với KH có quan hệ cấp tín dụng với NH từ khi cấp tín dụng tới khi tất toán khoản cấp tín dụng.

Phòng Hành chính-Tổng hợp: Tổ chức thực hiện các công việc hỗ trợ các phòng, ban chuyên môn nhằm đảm bảo điều kiện vật chất, kĩ thuật, quản lí tài sản, văn thư lưu trữ, đảm bảo an ninh nội quy lao động…nhằm phục vụ công tác quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, tổ chức tuyển dụng, đào tạo và quản lý nhân sự, quản lý tiền lương tại chi nhánh phù hợp với các quy định nội bộ của GP-Bank và pháp luật lao động.

2.2. Khái quát về hoạt động kinh doanh của GP-Bank Hải Phòng. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

2.2.1. Hoạt động huy động vốn.

Huy động vốn là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của NHTM, là cơ sở để NHTM tiến hành các hoạt động kinh doanh khác của mình. Có thể nói, từ khi thành lập đến nay, GP-Bank HP đã rất chú trọng đến công tác huy động vốn, thông qua việc phát triển mạng lưới, sử dụng rất nhiều hình thức và biện pháp tích cực chủ động nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và tranh thủ những nguồn vốn khác nên qua các năm NH luôn có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn tương đối cao và đều đặn. Trước hết, chúng ta hãy xem xét tình hình huy động vốn của GP-Bank HP qua các năm trong bảng dưới đây:

  • BẢNG 2.1: Vốn huy động theo loại tiền của GP-Bank Hải Phòng.

Năm 2022 cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ bùng nổ và lan rộng ra phạm toàn cầu khiến cho tình hình hoạt động của các NH tại Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Mặc dù còn nhiều khó khăn, tuy nhiên với đội ngũ cán bộ nhân viên phấn đấu nỗ lực, làm việc hiệu quả làm uy tín của chi nhánh tăng cao nên nguồn vốn huy động vẫn ở mức cao qua các năm. Cụ thể năm 2023 chi nhánh mới huy động được 700.996 triệu đồng nhưng đến năm 2024 đã huy động thêm được 178.380 triệu đồng (tương đương 25,45%) so với năm 2023; đến năm 2025 có giảm xuống 101 triệu đồng (tương đương giảm 0,01%) tuy nhiên lượng giảm này không đáng kể. Đây là một thành tích đáng tự hào của chi nhánh GP-Bank HP trong thời gian khó khăn vừa qua.

Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính ở Việt Nam trong những năm gần đây đã tạo NH nhiều cơ hội cũng như không ít thách thức. NH đã không ngừng cơ cấu nguồn huy động ở mức hợp lí và hiệu quả trong từng thời kì khác nhau. Nhìn chung, cơ cấu vốn huy động của GP-Bank HP khá đa dạng và an toàn, NH đã tận dụng được nhiều nguồn vốn huy động trong nước khác nhau nhằm đảm bảo sự chủ động về nguồn vốn.

Qua bảng phân tích trên ta thấy vốn huy động nội tệ chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn. Cụ thể năm 2023 vốn huy động nột tệ chiếm 83,86% (tương đương 587.851 triệu đồng); năm 2024 chiếm 85,22% (tương đương 749.428 triệu đồng); năm 2025 chiếm 85,72% (tương đương 753.756 triệu đồng). Nguyên nhân là do đối tượng khách hàng mà GP-Bank HP huy động chủ yếu là các thành phần kinh tế Việt Nam, hơn nữa lãi suất huy động nội tệ cao hơn rất nhiều so với lãi suất huy động ngoại tệ. Vốn huy động nội tệ năm 2024 của GP-Bank HP huy động được tăng lên 161.577 triệu đồng (tăng 27,49%) so với năm 2023, năm 2025 nguồn này tăng lên 4.328 triệu đồng (tăng 0,58%) so với năm 2024. Điều này cho thấy công tác huy động vốn nội tệ của NH ngày càng được chú trọng và nâng cao. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

  • BẢNG 2.2: Vốn huy động theo đối tượng sản phẩm của GP-Bank Hải Phòng.

Qua bảng 2.2 ta có thể thấy cơ cấu tiền gửi huy động tại GP-Bank HP không được cân đối. Trong đó:

Tiền gửi thanh toán: chiếm tỷ trọng không cao trong tổng vốn huy động của NH. Cụ thể năm 2023 tiền gửi thanh toán chiếm 18,44% (tương đương 129.249 triệu đồng); năm 2024 chiếm 35,73% (tương đương 314.210 triệu đồng); năm 2025 chiếm 44,05% (tương đương 387.290 triệu đồng). Nguyên nhân là do đối tượng sử dụng tiền gửi thanh toán chủ yếu là các công ty, DN sản xuất kinh doanh; họ gửi tiền vào NH chủ yếu để phục vụ các hoạt động chi trả tiền hàng, tiền lương của cán bộ công nhân viên…, các DN luôn cần quay vòng vốn nên không để nhiều vốn trong NH. Mục đích sử dụng tiền gửi thanh toán của KH là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, chi trả lương cho nhân viên DN đồng thời hạn chế được chi phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Nắm rõ được những lợi ích đó mà lượng tiền gửi này đều có xu hướng tăng cụ thể năm 2024 nguồn này tăng lên 184.961 triệu đồng (tương đương tăng 143,1%) so với năm 2023 và đến năm 2025 tiếp tục tăng 73.080 triệu đồng (tương đương tăng 23,26%) so với năm 2024.

Trong đó, ta có thể dễ dàng nhận thấy tiền gửi không kì hạn chiếm tỷ trọng cao hơn và có xu hướng tăng lên qua các năm trong tổng vốn huy động tiền gửi thanh toán của NH. Năm 2023, loại tiền này NH huy động mới chỉ dừng ở mức 99.219 triệu đồng, năm 2024 lượng tiền này tăng lên 137.011 triệu đồng (tăng 138,09%) so với năm 2023 và đến năm 2025 lượng tiền tăng lên 59.284 triệu đồng (tăng 25,1%) so với năm 2024. Nguyên nhân là do năm 2020, nước ta chính thức gia nhập WTO đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế theo đó mà các DN mở rộng quy mô, trao đổi mua bán ngày càng nhiều, chính vì vậy mà việc gửi tiền vào NH nhằm mục đích thanh toán an toàn và hiệu quả tăng lên đáng kể. Mặt khác, do GP-Bank mở rộng mạng lưới thanh toán không dùng tiền mặt thông qua nhiều kênh phân phối như mạng ATM, phonebanking, mobibanking, internetbanking …phát huy được tính ưu việt cũng như tạo cho KH sự thoải mái nhanh chóng và chính xác khi giao dịch. Điều này cũng cho thấy khả năng huy động vốn từ các tổ chức kinh tế được tăng lên, tạo sự uy tín cho NH.

Riêng tiền gửi thanh toán có kì hạn mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhưng đều có xu hướng tăng qua các năm cũng góp phần tăng nguồn vốn huy động của NH. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Tiền gửi tiết kiệm: là lượng tiền nhàn rỗi của dân chúng,các đơn vị kinh tế gửi vào NH nhằm mục đích chính là hưởng phần lãi suất mà NH trả cho KH khi họ gửi tiền vào, vì lẽ đó mà tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng vốn huy động của NH. Tiền gửi tiết kiệm tại GP-Bank HP trong 3 năm vừa qua có những biến động sau:

Năm 2023 tiền gửi tiết kiệm đạt 527.321 triệu đồng,năm 2024 lượng tiền này giảm xuống còn 521.362 triệu đồng (giảm 5.959 triệu đồng tương đương 1,13%) so với năm 2023, năm 2025 tiếp tục giảm xuống còn 491.985 triệu đồng (giảm 29.377 triệu đồng tương đương 5,63%) so với năm 2024. Đó là do từ đầu năm 2024, tỷ lệ lạm phát tăng cao, lãi suất huy động không đủ bù đắp cho những thiệt hại của lạm phát nên gây dao động tâm lý đối với người gửi tiền làm ảnh hưởng đến công tác huy động vốn. Đồng thời thị trường vàng biến động mạnh, trong điều kiện chỉ số tăng giá tiêu dùng (CPI) ở mức cao nên một lượng đáng kể tiền của người dân được đầu tư vào vàng. Đặc biệt đến năm 2025 là năm khá khó khăn cho toàn bộ hệ thống NH khi NHNN ra quy định lãi suất trần không được vượt quá 14% đã tác động mạnh mẽ vào lượng vốn huy động này.

Trong đó, loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được xem là sản phẩm truyền thống của các NH, nó xác định thời gian hoàn trả cho KH nên tạo được nguồn vốn ổn định giúp NH có thể chủ động cho vay trung – dài hạn. Nhìn vào hình 3 ta có thể thấy loại tiền này chiếm tỷ trọng cao nhất, đó là do GP-Bank HP đã phát triển các chương trình khuyến mãi hoạt động tiết kiệm dự thưởng lớn và nhiều hình thức tiết kiệm hấp dẫn kết hợp chăm sóc KH VIP được triển khai. Mặc dù vậy, do ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế nên thu nhập của người dân giảm đáng kể khiến lượng tiền gửi này giảm xuống còn 521.322 triệu đồng vào năm 2024, tiếp tục giảm xuống còn 491.945 triệu đồng vào năm 2025.

Tóm lại: Để có được nguồn vốn ổn định và tăng trưởng, GP-Bank HP đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác huy động vốn bằng nhiều hình thức tiền gửi để KH lựa chọn. Bên cạnh đó, GP-Bank HP còn thực hiện tốt khâu giao dịch và tiếp thị đối với KH, đồng thời NH còn thường xuyên khảo sát lãi suất huy động vốn trên thị trường và các TCTD khác để đề xuất NH cấp trên điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với các NH khác trên địa bàn. Tuy là một chi nhánh NH mới thành lập nhưng công tác huy động vốn của GP-Bank HP đã đạt được những kết quả nhất định và là tiền đề cho việc mở rộng kinh doanh của NH trong thời gian tới.

2.2.2. Hoạt động sử dụng vốn. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Sau sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng tốc độ cao với sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của các DN trên tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Trong bối cảnh nhu cầu vốn đáp ứng cho tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm vừa qua, với vai trò là một trong những tổ chức cung ứng vốn cho nền kinh tế, GP-Bank HP đã cung ứng các sản phẩm tín dụng hấp dẫn, linh hoạt phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối tượng cụ thể, doanh số cho cho vay KH đã tăng mạnh qua các năm. Chúng ta hãy xem xét tình hình doanh số tín dụng của NH qua bảng sau:

  • BẢNG 2.3: Doanh số cho vay theo loại tiền của GP-Bank Hải Phòng.

Nhìn chung, tổng doanh số cho vay của GP-Bank HP tăng trưởng khá cao thể hiện quy mô hoạt động tín dụng của chi nhánh ngày càng được mở rộng mặc dù trong các năm trở lại đây nền kinh tế nước ta bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đặc biệt, chỉ sau 1 năm doanh số cho vay năm 2024 đã tăng lên 189.618 triệu đồng (tăng 25,62%) so với năm 2023. Sở dĩ như vậy là do Chính phủ đưa ra các gói kích cầu nhằm khuyến khích nền kinh tế; tận dụng được cơ hội đó, GP-Bank HP đã có những quyết định đúng đắn trong chiến lược kinh doanh của mình như giảm lãi suất cho vay,cung cấp các sản phẩm tín dụng đa dạng nhiều ưu đãi…để thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Mặc dù đến năm 2025, doanh số cho vay của NH có giảm xuống (giảm 122.618 triệu đồng,tương đương 13,19%) tuy nhiên lượng giảm này không đáng kể khi lạm phát tăng cao, diễn biến phức tạp về mặt bằng lãi suất cùng với sự tăng trưởng nóng của một số kênh đầu tư nhưng rủi ro cao như vàng, ngoại tệ, bất động sản…

Ta có thể thấy tỷ trọng doanh số cho vay nội tệ luôn cao nhất trong tổng doanh số cho vay. Năm 2023, doanh số cho vay nội tệ chiếm tới 88,67% (tương đương 656.389 triệu đồng) trong khi ngoại tệ chỉ chiếm 11,33% (tương đương 83.872 triệu đồng). Năm 2024, doanh số cho vay nội tệ chiếm tới 94.36% (tương đương 748.977 triệu đồng) trong khi ngoại tệ chỉ chiếm 5,64% (tương đương 52.473 triệu đồng). Năm 2025, doanh số cho vay nội tệ chiếm tới 92,78% (tương đương 748.977 triệu đồng) trong khi ngoại tệ chỉ chiếm 7,22% (tương đương 58.284 triệu đồng). Ta có thể thấy rõ hơn biến động của doanh số cho vay qua hình sau:

Nguyên nhân là khi cho vay ngoại tệ, NH không những phải đối phó với những rủi ro thông thường mà còn phải đối phó với rủi ro tỷ giá hối đoái; đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng tài chính việc đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ gây ra tâm lý e ngại đối với KH vay vốn bằng ngoại tệ. Điều này cũng cho ta thấy nhu cầu vay vốn của KH chủ yếu là bằng đồng nội tệ.

  • BẢNG 2.4: Doanh số cho vay theo kì hạn của GP-Bank Hải Phòng.

Qua bảng phân tích trên ta thấy cho vay ngắn hạn của NH chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 65%), trong khi đó tỷ trọng của cho vay trung – dài hạn chỉ chiếm tỷ trọng thấp (dưới 35%). Nguyên nhân là do cho vay ngắn hạn có thủ tục đơn giản, tính thanh khoản cao lại ít rủi ro hơn so với trung – dài hạn. Hơn nữa, vốn huy động của NH chủ yếu là vốn ngắn hạn nên đầu tư vốn tín dụng ngắn hạn nhiều thì vòng quay tín dụng sẽ nhanh hơn, khả năng xoay vòng vốn cao và rất an toàn cho hoạt động kinh doanh của NH. Bên cạnh đó, cho vay trung – dài hạn mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ hơn là do mới thành lập được một thời gian ngắn nên GP-Bank HP còn thiếu kinh nghiệm trong việc tìm kiếm KH, đặc biệt là việc kí kết các hợp đồng trung – dài hạn.

Tín dụng ngắn hạn năm 2023 đạt 482.206 triệu đồng, đến năm 2024 tăng lên 676.673 triệu đồng và đến năm 2025 khoản mục này giảm xuống còn 568.150 triệu đồng tuy nhiên lượng giảm này không đáng kể. Đó là do điều kiện kinh tế của địa bàn thành phố Hải Phòng và KH mục tiêu của GP-Bank HP là các DN vừa và nhỏ, cần vốn để sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, luân chuyển hàng hóa thích hợp đối với tín dụng ngắn hạn. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Để hạn chế lạm phát và tăng giá, NHNN Việt Nam đã nâng mức dự trữ bắt buộc và thắt chặt vay chứng khoán và bất động sản nên tốc độ tăng trưởng của vốn trung-dài hạn giảm xuống. Năm 2023, doanh số cho vay trung-dài hạn đạt 258.055 triệu đồng, đến năm 2024 khoản mục này giảm xuống còn 253.206 triệu đồng và đến năm 2025 khoản mục này tiếp tục giảm xuống còn 239.111 triệu đồng. Thêm vào đó trên địa bàn thành phố Hải Phòng xuất hiện ngày càng nhiều các TCTD khác nên thị phần địa bàn cũng như KH vay vốn cũng sẽ bị chia nhỏ ra.

Chính vì vậy ngay từ bây giờ NH cần tìm kiếm KH doanh nghiệp, các công ty lớn uy tín và hoạt động kinh doanh tốt có nhu cầu cho vay vốn trung – dài hạn để gia tăng tỷ trọng cho vay trung-dài hạn của NH. Đồng thời, NH cũng tiếp tục cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho người dân, mang lại lợi nhuận cho NH dựa trên cơ sở giảm dần tỷ trọng tín dụng ngắn hạn trong hoạt động kinh doanh của mình.

  • BẢNG 2.5: Doanh số cho vay theo đối tượng khách hàng của GP-Bank HP.

Nhìn vào bảng phân tích trên ta thấy, doanh số cho vay của GP-Bank HP tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau đó đến các doanh nghiệp quốc doanh và sau cùng đến là các đối tượng khác. Ta có thể thấy diễn biến tình hình cho vay các đối tượng kinh tế của GP-Bank một cách cụ thể qua hình sau:

Nhìn vào hình 6 ta thấy, doanh số cho vay của GP-Bank HP tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Năm 2023 khoản mục này chiếm 85% (tương đương 629.222 triệu đồng) trong tổng doanh số cho vay, năm 2024 chiếm 88,24% (tương đương 820.525 triệu đồng) và đến năm 2025 chiếm 87,64% (tương đương 707.484 triệu đồng). Điều này cho thấy KH chủ lực của GP-Bank HP là các công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn. Đây là hướng đi đúng đắn vì các DN này thuộc thành phần kinh tế trẻ, năng động, nhạy cảm với những biến động của thị trường…phù hợp với xu thế phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Hơn nữa, GP-Bank HP nằm trong khu vực đông dân cư – nơi tập trung các DN sản xuất, thương mại đặc biệt là các DN có quy mô nhỏ, sản xuất mang tính thời vụ.

Cạnh tranh giữa các TCTD trên địa bàn khá gay gắt, chi nhánh không thể đứng vững và phát triển được nếu chỉ dựa vào các KH ngoài quốc doanh mà còn phải chú ý đến các doanh nghiệp Nhà Nước nữa. Lý do doanh số cho vay của DN quốc doanh thấp hơn DN ngoài quốc doanh là một mặt, Nhà Nước ngày càng quốc hữu hóa các DNNN thành các DN cổ phần, trách nhiệm hữu hạn chỉ giữ lại một số các DNNN chủ lực; mặt khác khi cho vay vốn, DNNN thường dựa vào uy tín của Nhà Nước không có tài sản đảm bảo gây khó khăn cho công tác thu nợ của NH.

Trong một số năm gần đây, doanh số cho vay đối với cá nhân, hộ gia đình tăng lên đáng kể là do NH có chủ trương chính sách cho vay mở rộng, đặc biệt là cho vay tín chấp cán bộ công nhân viên và hộ nghèo.

Tóm lại: Công tác tín dụng của GP-Bank HP trong 3 năm vừa qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, thu hút được nhiều tổng công ty, doanh nghiệp lớn sản xuất kinh doanh ổn định, hiệu quả đến với ngân hàng. Đó là kết quả của chính sách tín dụng hiệu quả kết hợp với chính sách nguồn vốn đa năng.

2.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá chất lượng kinh doanh của NHTM. Hơn thế nữa, NH lại là lĩnh vực rất nhạy cảm với thị trường nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, mục tiêu làm thế nào để đạt lợi nhuận cao nhất nhưng mức độ rủi ro thấp nhất mà vẫn đảm bảo chấp hành đúng các quy định của NHNN luôn là vấn đề quan tâm của các NH nói chung và GP-Bank HP nói riêng. Để thấy rõ hơn kết quả hoạt động kinh doanh của GP-Bank HP trong thời gian qua, ta xem xét bảng số liệu sau đây:

  • BẢNG 2.6: Kết quả hoạt động kinh doanh của GP-Bank Hải Phòng.

Về thu nhập: Nguồn thu nhập của GP-Bank gồm các nguồn thu từ hoạt động tín dụng, hoạt động dịch vụ và các hoạt động khác trong đó thu nhập từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Năm 2023, thu nhập của NH là 63.662 triệu đồng trong đó 91,09% là thu nhập tín dụng (tương đương 57.990 triệu đồng); đến năm 2024 thu nhập của NH là 92.352 triệu đồng trong đó 93,14% là thu nhập tín dụng (tương đương 86.016 triệu đồng) và đến năm 2025 thu nhập của NH là 133.946 triệu đồng trong đó 93,14% là thu nhập tín dụng (tương đương 121.620 triệu đồng). Tổng thu nhập của NH tăng liên tục qua các năm thể hiện sự phát triển của NH trong việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, nâng cao hoạt động tín dụng của NH. Bên cạnh đó cũng phải kể đến sự nỗ lực nhiệt tình của cán bộ công nhân viên của toàn bộ chi nhánh GP-Bank HP.

Về chi phi: Đi đôi với thu nhập tăng thì chi phí của NH cũng tăng lên trong đó chi phí cho hoạt động tín dụng là cao nhất. Năm 2023, chi phí của NH là 56.205 triệu đồng trong đó 73,9% là chi phí tín dụng (tương đương 41.538 triệu đồng); đến năm 2024 chi phí của NH là 82.690 triệu đồng trong đó 75,99% là chi phí tín dụng (tương đương 62.836 triệu đồng) và đến năm 2025 thu nhập của NH là 116.356 triệu đồng trong đó 75,13% là chi phí tín dụng (tương đương 87.426 triệu đồng).

Nguyên nhân chi phí của NH tăng lên mà chủ yếu là chi phí tín dụng tăng mạnh là do chi phí huy động vốn tăng do tăng lãi suất cạnh tranh với các NH khác trên địa bàn. Hơn nữa, trong thời gian qua GP-Bank HP đã tổ chức nhiều chương trình khuyến mãi như tặng nón bảo hiểm, rút thăm trúng thưởng…

Về lợi nhuận: Qua bảng số liệu trên ta thấy NH kinh doanh có hiệu quả, lợi nhuận của NH biến động qua các năm đều tăng cao hơn so với năm trước. Lợi nhuận của GP-Bank HP năm 2023 đạt 7.457 triệu đồng,năm 2024 khoản mục này tăng đến 9.662 triệu đồng và đến năm 2025 khoản mục này tăng lên đến 17.587 triệu đồng.

Tóm lại: Hoạt động kinh doanh của NH luôn có lãi trong thời gian qua do tốc độ tăng của thu nhập luôn cao hơn tốc độ tăng của chi phí. Có thể nói, lợi nhuận là yếu tố quan trọng đảm bảo duy trì ổn định hoạt động kinh doanh của NH và là nguồn lực quan trọng để phát triển NH về mọi mặt. Trong 3 năm vừa qua, Hải Phòng đã xuất hiện ngày càng nhiều những NH cạnh tranh, giá cả thị trường biến động mạnh mẽ…đã khiến cho môi trường cạnh tranh của GP-Bank HP trở nên khắc nghiệt hơn. Đây là một bất lợi mà đối với bất kỳ NH nào cũng phải chấp nhận đòi hởi NH phải có chính sách huy động hiệu quả, đủ sức cạnh tranh với các NH khác.

2.3. Thực trạng chất lượng tín dụng tại GP-Bank Hải Phòng. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

2.3.1. Đánh giá chất lượng tín dụng của GP-Bank Hải Phòng theo các chỉ tiêu định tính.

2.3.1.1. Thủ tục cho vay đơn giản phù hợp với quy chế cho vay.

Chi nhánh vẫn từng bước giảm bớt mọi thủ tục đối với các nghiệp vụ nhưng vẫn đảm bảo độ an toàn tối đa.

Sự ra đời của Quy chế cho vay 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 và quyết định số 829/2020/QĐ-HĐQT ngày 05/10/2020 đã tạo cho chi nhánh có được những kết quả mong đợi: KH được hướng dẫn làm thủ tục rất chu đáo, tận tình; ngoài ra còn được cán bộ tín dụng tư vấn cho hoạt động kinh doanh của KH. Qúa trình thẩm định một món vay diễn ra khá chặt chẽ: mỗi món vay đều có từ 02 cán bộ tín dụng trở lên thẩm định; với những khoản vay lớn có tài sản thế chấp thì có cả lãnh đạo (giám đốc, phó giám đốc) cùng tham gia thẩm định do đó công tác thẩm định mang tính khách quan hơn.

Việc thẩm định món vay dựa vào rất nhiều chỉ tiêu: tính khả thi của dự án, tính chất pháp lý và năng lực pháp lý của KH, tình hình thị trường…Mọi món vay dù lớn hay nhỏ, ngắn hạn hay dài hạn đều có hợp đồng tín dụng kí kết theo sự thỏa thuận của NH với KH. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng rất có trách nhiệm trong công tác sử dụng vốn vay đúng mục đích và thường xuyên đôn đốc thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ. Kết quả đó đã chứng minh tính thiết thực và hiệu quả trong công tác thực hiện quy chế cho vay của đội ngũ cán bộ tín dụng GP-Bank Hải Phòng.

2.3.1.2. Thời gian xét duyệt một cách nhanh chóng.

Quyết định 829/2020/QĐ-HĐQT quy định thời hạn xét duyệt tối đa là 30 ngày kể từ sau khi nhận hồ sơ xin vay vốn. Riêng chi nhánh, đa số món vay được xét duyệt cho vay chỉ trong vòng 4 đến 5 ngày. Còn các món vay như vay tiêu dùng của cán bộ công nhân viên bằng tín chấp thì chỉ diễn ra trong vòng từ 1 đến 2 ngày do đó rất được KH ủng hộ và hưởng ứng.

Định giá tài sản thế chấp theo giá thị trường cũng tạo được cho KH tiếp cận được vốn NH theo đúng quy định cho vay.

2.3.1.3. Cơ sở vật chất, khoa học công nghệ NH luôn được nâng cấp và đổi mới.

Trên địa bàn thành phố Hải Phòng,GP-Bank được đánh giá là NH có cơ sở vật chất và ứng dụng mạng lưới tin học tốt nhất trong số các TCTD hoạt động tại đây. Tham gia hệ thống thanh toán điện tử, chi nhánh được trang bị và nâng cấp một loạt máy tính mới ở tất cả các phòng. Nhờ có hệ thống này mà những công việc giấy tờ và quản lý trở nên gọn nhẹ, tạo cho cán bộ tín dụng có nhiều thời gian tiếp cận với KH. Các thủ tục làm việc với KH trở nên nhanh chóng hơn tạo tâm lý thoải mái và tin tưởng ở KH.

GP-Bank HP là một trong hai NH đầu tiên đã triển khai thành công phần mềm hệ thống NH lõi T24 (Core Banking) của hãng Temenos (Thụy Sỹ) nhằm cải tiến các dịch vụ trực tuyến, phản hồi nhanh các yêu cầu của KH cũng như cải thiện chất lượng dịch vụ. Hiện nay, GP-Bank HP đang triển khai phần mềm NH lõi (Core Banking) T24 lên phiên bản R9-phiên bản mới nhất tới toàn bộ các cán bộ nhân viên của NH. Đặc điểm nổi bật của T24-R9 là giúp cho NH tối ưu hóa được các quy trình hoạt động trong khi vẫn duy trì được sự linh hoạt trước các thay đổi trong kinh doanh.

2.3.1.4. Đội ngũ cán bộ tín dụng càng được củng cố và nâng cao về trình độ, đạo đức nghiệp vụ tín dụng.

Với phương châm đầu tư để đổi mới toàn bộ đội ngũ cán bộ tín dụng, chi nhánh đã tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng đi học thêm, khuyến khích học nâng cao, thường xuyên cho đi học tiếp thu về nghiệp vụ và những thay đổi mới trong hoạt động tín dụng. Đồng thời tuyển mới những cán bộ tín dụng trẻ có trình độ, có lòng nhiệt tình, hăng say công việc. Điều đó đã tạo thêm luồng sinh khí mới cho toàn bộ chi nhánh ngân hàng GP-Bank Hải Phòng.

Đặc biệt, công tác maketing NH cũng được thực hiện một cách rõ nét hơn. Tinh thần phục vụ thái độ của KH được quán triệt ở từng cán bộ tín dụng: phục vụ chu đáo, hướng dẫn tận tình với phong cách trang nhã, lịch sự đã tạo cho KH tâm lý thoải mái và thu hút được nhiều KH đến giao dịch với chi nhánh hơn.

2.3.2. Đánh giá chất lượng tín dụng của GP-Bank Hải Phòng theo các chỉ tiêu định lượng. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

2.3.2.1. Doanh số thu nợ.

Doanh số cho vay chỉ phản ánh số lượng và quy mô tín dụng của NH chứ chưa phản ánh được chất lượng tín dụng của NH cũng như đơn vị vay vốn. Bởi vì chất lượng tín dụng được thể hiện ở việc trả nợ vay của KH. Nếu KH luôn trả nợ đúng hạn cho NH thì chứng tỏ NH đã sử dụng vốn vay của mình một cách có hiệu quả, có thể luân chuyển được nguồn vốn một cách dễ dàng. Một trong những nguyên tắc trong hoạt động tín dụng là vốn vay được thu hồi cả vốn gốc và lãi theo đúng hạn định đã thỏa thuận. Như vậy, doanh số thu nợ cũng là một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trong từng thời kì.

Doanh số thu nợ là tổng số tiền mà NH đã thu hồi từ các khoản đã giải ngân trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, việc thu nợ được xem là công tác quan trọng trong hoạt động tín dụng góp phần tái đầu tư tín dụng và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển trong lưu thông. Ta xem xét bảng số liệu sau:

  • BẢNG 2.7: Doanh số thu nợ theo kì hạn của GP-Bank Hải Phòng.

Mặc dù nền kinh tế đang trong giai đoạn khủng hoảng nhưng doanh số thu nợ của GP-Bank HP vẫn tương đối ổn định qua các năm trên. Có thể thấy đây là sự thành công lớn trong công tác tín dụng nhờ sự phấn đấu nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên toàn chi nhánh. Doanh số thu nợ năm 2024 đạt 789.299 triệu đồng (tăng lên 227.159 triệu đồng,tương đương 40,41% so với năm 2023); năm 2025 khoản mục này giảm xuống còn 680.721 triệu đồng (giảm 108.578 triệu đồng,tương đương giảm 13,76% so với năm 2024). Tuy nhiên, khi thu hồi vốn càng nhiều sẽ càng tăng chi phí, làm giảm lợi nhuận.

Thực tế cho thấy doanh số thu nợ phù hợp với doanh số cho vay tại GP-Bank HP. Trong doanh số cho vay thì do doanh số cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất nên doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm phần lớn trong tổng thu nợ; và ngược lại; do doanh số cho vay dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nên doanh số thu nợ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong tổng thu nợ.

Điều này đã thể hiện hiệu quả kinh tế từ đồng vốn vay của khách hàng, đầu tư sinh lời đáp ứng được việc hoàn trả nợ vay cho NH. Bên cạnh đó, công tác tín dụng của NH được nâng cao, đặc biệt là công tác thu nợ.

  • BẢNG 2.8: Doanh số thu nợ theo đối tượng khách hàng của GP-Bank HP.

Qua bảng phân tích trên ta thấy doanh số thu nợ chủ yếu tập trung ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh sau đó đến doanh nghiệp quốc doanh và cuối cùng là đến cá nhân, hộ gia đình. Các khoản mục này đều tăng lên đáng kể vào năm 2024 và giảm xuống nhưng không đáng kể vào năm 2025. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Trong bối cảnh khó khăn chung của toàn bộ nền kinh tế; có được kết quả như trên chính là nhờ vào sự nỗ lực hết mình của đội ngũ cán bộ trong thời gian qua trong việc chú ý kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của KH, thường xuyên đôn đốc KH trả nợ khi đến hạn. Bên cạnh đó, các đơn vị làm ăn hiệu quả hơn đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần gia tăng khả năng trả nợ của đơn vị.

2.3.2.2. Vòng quay vốn tín dụng.

  • BẢNG 2.9: Vòng quay vốn tín dụng của GP-Bank Hải Phòng.

Qua bảng số liệu trên ta thấy vòng quay vốn tín dụng của GP-Bank HP diễn ra khá tốt.Cụ thể năm 2023 đạt 1,36 vòng, sang năm 2024 đồng vốn của NH quay vòng nhanh hơn so với năm 2023 đạt 1,42 vòng. Nguyên nhân là do tốc độ tăng của Doanh số thu nợ nhanh hơn so với tốc độ tăng của Dư nợ bình quân. Sang năm 2025, trong khi Doanh số thu nợ giảm mà Dư nợ bình quân tăng khiến cho vòng quay vốn tín dụng lại giảm xuống còn 1,10 vòng. Điều này bắt nguồn từ tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số cho vay và cả doanh số thu nợ. Trong định hướng sắp tới, NH cần phải quan tâm thu hồi những món nợ đã đến hạn, cần có những giải pháp hữu hiệu để đôn đốc KH trả nợ đúng hạn, giúp gia tăng doanh số thu nợ, đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả huy động và chất lượng nghiệp vụ tín dụng của NH.

2.3.2.3. Hệ số thu nợ.

Hệ số thu nợ biểu hiện khả năng thu hồi nợ của NH hay là khả năng trả nợ của KH, công tác thu hồi nợ càng hiệu quả thì chỉ tiêu này càng cao.

  • BẢNG 2.10: Hệ số thu nợ của GP-Bank Hải Phòng.

Qua bảng 2.10 ta thấy, hiệu quả đầu tư tín dụng của NH là khá tốt và chỉ số luôn gần bằng 1.Cụ thể năm 2023 hệ số thu nợ đạt 75,94% (cho biết trong 100 đồng vốn cho vay thì NH thu nợ được 75,94 đồng); sang năm 2024 hệ số này đạt 84,88% (cho biết trong 100 đồng vốn cho vay thì NH thu nợ được 84,88 đồng). Nguyên nhân là do tốc độ tăng của Doanh số thu nợ nhanh hơn tốc độ tăng của Doanh số cho vay. Đến năm 2025, do tốc độ giảm của Doanh số thu nợ chậm hơn tốc độ giảm của Doanh số cho vay làm cho hệ số thu nợ của NH giảm xuống còn 84,32% (cho biết trong 100 đồng vốn cho vay thì NH thu nợ được 84,32 đồng). Điều này cho ta thấy bên cạnh việc NH chú trọng tăng trưởng tín dụng thì NH còn quan tâm đến chất lượng tín dụng, những khoản cho vay gần như đều được thu hồi trong năm. Có được kết quả này là do một mặt các cán bộ tín dụng nỗi lực trong việc vận động, đôn đốc thu hồi nợ mặt khác thiện chí trả nợ của KH ngày càng cao hơn. GP-Bank HP cần cố gắng giữ vững và phát huy tỷ lệ này càng lớn càng tốt. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

2.3.2.4. Dư nợ tín dụng.

Dư nợ cho vay có thể được hiểu là hiệu số giữa doanh số cho vay và doanh số thu nợ. Như vậy, chỉ tiêu dư nợ cho vay là khoản tiền đã giải ngân mà NH chưa thu hồi về. Dư nợ cho vay là chỉ tiêu xác thực để đánh giá về quy mô hoạt động tín dụng trong từng thời kỳ. Đây là chỉ tiêu không thể thiếu khi nói đến hoạt động tín dụng của một NH. Tuy nhiên, việc phân tích dư nợ kết hợp với nợ quá hạn sẽ cho phép ta phản ánh chính xác hơn về chất lượng tín dụng của NH. Nhìn chung, các NHTM có mức dư nợ cao thường là các NH có quy mô hoạt động tín dụng rộng, nguồn vốn mạnh và đa dạng. Để tìm hiểu rõ hơn về tình hình dư nợ của NH diễn biến như thế nào trong ba năm qua, ta xem xét bảng số liệu sau:

  • BẢNG 2.11: Dư nợ tín dụng theo kì hạn của GP-Bank Hải Phòng.

Có thể nói, năm 2024 là năm thắng lợi của GP-Bank HP trong việc mở rộng quy mô tín dụng tăng lên 264.301 triệu đồng (tăng 62,17%) so với năm 2023 do các DN tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh để phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế; cùng với sự thay đổi cơ chế thị trường NH đổi mới cơ chế tín dụng, cơ chế lãi suất thỏa thuận…Tuy nhiên, đến năm 2025 dư nợ đã giảm xuống 136.436 triệu đồng (giảm 19,79%) so với năm 2024 là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái toàn cầu,cơ chế chính sách tuy có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên địa bàn…

Theo số liệu trên ta thấy loại hình cho vay chủ yếu của GP-Bank HP là cho vay ngắn hạn. Cụ thể năm 2023 dư nợ ngắn hạn chiếm 66,15% (tương đương 281.206 triêu đồng); năm 2024 chiếm 74,33% (tương đương 512.422 triệu đồng); năm 2025 chiếm 71,87% (tương đương 397.443 triệu đồng).

Đây cũng là định hướng chính sách tín dụng trong hoạt động kinh doanh của GP-Bank HP.Nguyên nhân là do trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nguồn vốn lưu động của các thành phần kinh tế thường xuyên bị thiếu hụt; đặc biệt là trong giai đoạn 2023-2025, những năm mà cơn bão tài chính đang hoành hành thì việc thiếu hụt vốn lưu động là điều tất yếu. Trong khi đó, nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu này cho DN chính là nguồn tín dụng ngắn hạn của NH. Hiện nay, nước ta đã và đang trong quá trình công nghiệp hóa, tốc độ phát triển kinh tế ở mức độ cao thì vốn lưu động lại cần thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, dư nợ cho vay ngắn hạn ở mức tương đối cao là điều tất nhiên. Hơn nữa khi so sánh với nguồn huy động ngắn hạn ta thấy dư nợ ngắn hạn ở GP-Bank là phù hợp bởi nguồn ngắn hạn được sử dụng chủ yếu để cho vay ngắn hạn.

Trong khi đó, tỷ lệ cho vay trung-dài hạn tương đối thấp; năm 2023 chiếm 33,85% (tương đương 143.900 triệu đồng) tổng dư nợ, năm 2024 chiếm 25,67% (tương đương 176.985 triệu đồng), năm 2025 chiếm 28,13% (tương đương 155.528 triệu đồng). Đặc trưng của những khoản tín dụng trung-dài hạn là nhằm mục đích đầu tư tài sản cố định và thực hiện các dự án đầu tư. Vì lẽ đó mà thời gian thu hồi vốn sẽ dài, vòng quay vốn chậm. Điều này lại không phù hợp với điều kiện kinh tế đang bị suy thoái, lạm phát làm cho các DN kinh doanh, đầu tư rất khó khăn. Vì vậy mà tỷ lệ vay vốn trung-dài hạn của các DN trong thời kỳ này là rất thấp. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

  • BẢNG 2.12: Dư nợ tín dụng theo đối tượng khách hàng của GP-Bank HP.

Thực hiện chính sách đa năng trong tổng hợp kinh doanh, chi nhánh đã không ngừng mở rộng hoạt động cho vay, mở rộng đối tượng phục vụ của mình gồm các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các đối tượng khác.

Năm 2024 thông qua việc áp dụng các hình thức tín dụng đa dạng, phong phú cùng với chính sách lãi suất tín dụng linh hoạt NH đã thu hút một lượng lớn các công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn đến vay vốn góp phần đẩy khoản mục này từ 355.391 triệu đồng (chiếm 83,60% tổng dư nợ) lên đến 621.638 triệu đồng (chiếm 91,73% tổng dư nợ). Nhưng đến năm 2025, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính dẫn đến việc NH thắt chặt tín dụng làm khoản này giảm đi còn 499.051 triệu đồng (chiếm 90,25% tổng dư nợ).

Bên cạnh đó, dư nợ đối với các DN quốc doanh tuy chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhưng đều là các DN làm ăn tốt, có hiệu quả thực sự vì đến khi vay vốn, NH cũng kiểm duyệt rất kỹ càng hồ sơ vay vốn cũng như khả năng trả nợ của họ.

  • BẢNG 2.13: Dư nợ theo chất lượng tín dụng của GP-Bank Hải Phòng.

Qua bảng trên ta có thể thấy Nợ đủ tiêu chuẩn (nợ nhóm 1) luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 97%) trong tổng dư nợ. Cụ thể Nợ đủ tiêu chuẩn năm 2023 chiếm 97,73% (tương đương 416.036 triệu đồng), năm 2024 chiếm 97,59% (tương đương 672.818 triệu đồng), năm 2025 chiếm 97,16% (tương đương 537.253 triệu đồng). Mặc dù chiếm tỷ trọng cao nhất nhưng đây vẫn là con số hơi thấp, nó chứng tỏ các món vay có tiềm ẩn rủi ro cao hơn.

Trong nhóm nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5) ta có thể thấy nợ nhóm 3 và nhóm 4 có tỷ trọng cao nhất là vào năm 2025. Cụ thể nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) chiếm 0,75% tổng dư nợ (tương đương 5.117 triệu đồng) tăng 1001,49% so với năm 2023 và 565,53% so với năm 2025. Còn nợ nhóm 4 ( Nợ nghi ngờ) chiếm 0,94% (tương đương 6.508 triệu đồng) tăng 86% so với năm 2023 và 138,75% so với năm 2025. Điều đó là do lãi suất cho vay cao, nguồn vốn bị siết nên các DN cố tình chây ì không trả nợ khi đáo hạn hợp đồng vì họ thà chịu phạt lãi suất quá hạn để giữ lại vốn kinh doanh còn hơn là thanh lý hợp đồng mà không được vay lại. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Ngoài ra, nhóm nợ này tăng cao khiến cho NH phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro nhiều hơn làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của NH.

Còn nợ nhóm 5(Nợ có khả năng mất vốn) có xu hướng tăng theo các năm. Năm 2024 nợ nhóm 5 chiếm 0,45% (tương đương 3.106 triệu đồng) tăng lên 147,69% so với năm 2023, năm 2025 chiếm 0,67% (tương đương 3.701 triệu đồng) tăng lên 47,45% so với năm 2024. Điều đó đồng nghĩa GP-Bank HP có nguy cơ mất vốn trắng, dấu hiệu rủi ro tín dụng của NH đang có chiều hướng tăng.

  • Hình 2.12:Dư nợ theo chất lượng tín dụng của GP-Bank HP.

2.3.2.5. Hiệu suất sử dụng vốn H1.

  • BẢNG 2.14: Hiệu suất sử dụng vốn H1 của GP-Bank Hải Phòng.

Nhìn chung, trong thời gian qua GP-Bank HP đã khai thác triệt để nguồn vốn huy động của mình. Năm 2023, chỉ tiêu này là 60,64% (cho biết trong 100 đồng vốn huy động được có 60,64 đồng để cho vay), đến năm 2024 thì chỉ tiêu này tăng lên đến 78,40% (cho biết trong 100 đồng vốn huy động được có 78,40 đồng để cho vay). Nguyên nhân là do tốc độ tăng của Tổng dư nợ nhanh hơn tốc độ tăng của Tổng vốn huy động. Sang đến năm 2025, do tốc độ giảm của Tổng vốn huy động chậm hơn tốc độ giảm của Tổng dư nợ làm chỉ tiêu này giảm xuống còn 62,89% (cho biết trong 100 đồng vốn huy động được có 62,89 đồng để cho vay). Điều này cho thấy nhu cầu vốn vay của KH là khá lớn trong khi nguồn vốn huy động của NH tăng không kịp. Nếu chỉ số này duy trì như hiện nay, NH có thể gặp tình trạng thiếu vốn cho vay. Do đó, NH cần mở rộng nhiều hình thức huy động vốn mới để thu hút mạnh hơn nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, góp phần chống lạm phát thông qua việc giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông, đầu tư tín dụng đáp ứng nhu cầu vay vốn của KH cũng như mạng lại lợi nhuận và gia tăng tính tự chủ của NH trong hoạt động kinh doanh. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

2.3.2.6. Hiệu suất sử dụng vốn H2.

  • BẢNG 2.15: Hiệu suất sử dụng vốn H2 của GP-Bank Hải Phòng.

Tỷ lệ Tổng dư nợ/ Tổng tài sản Có của GP-Bank có xu hướng tăng cao trong các năm vừa qua. Năm 2023, chỉ tiêu này là 59,26% (cho biết trong 100 đồng tài sản Có thì có 59,26 đồng để cho vay), đến năm 2024 thì chỉ tiêu này tăng lên đến 78,34% (cho biết trong 100 đồng tài sản Có thì có 78,34 đồng để cho vay). Nguyên nhân là do tốc độ tăng của Tổng dư nợ nhanh hơn tốc độ tăng của Tổng tài sản có. Sang đến năm 2025, trong khi tài sản Có tăng trong khi Tổng dư nợ lại giảm làm cho chỉ tiêu này giảm xuống còn 61,01% (cho biết trong 100 đồng tài sản Có thì có 61,01 đồng để cho vay). Quả thật, NH không đạt hiệu quả cao trong việc sử dụng tài sản của mình. Vì vậy, NH cần nỗ lực hơn nữa trong thời gian tới trong quá trình cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn để có thể nâng cao kết quả này.

2.3.2.7. Nợ quá hạn.

Nợ quá hạn phát sinh khi khoản vay đến hạn mà KH không hoàn trả được toàn bộ gốc hay một phần tiền tiền gốc hoặc lãi vay. Nợ quá hạn thường là biểu hiện của yếu kém về tài chính của KH và là dấu hiệu rủi ro tín dụng cho NH.

  • BẢNG 2.16: Nợ quá hạn theo kì hạn của GP-Bank Hải Phòng.

Qua bảng trên ta thấy, tổng nợ quá hạn đều có xu hướng tăng khá cao. Cụ thể năm 2024 nợ quá hạn đã tăng từ 8.800 triệu đồng lên tới 16.589 triệu đồng (tăng 7.789 triệu đồng tương ứng 88,51%) so với năm 2023; năm 2025 nợ quá hạn đã giảm xuống còn 13.718 triệu đồng (giảm 2.781 triệu đồng tương ứng 17,31%) so với năm 2024. Nợ quá hạn tăng khá cao cũng là điều dễ hiểu bởi vì trong giai đoạn 2024-2025, cuộc khủng hoảng suy thoái toàn cầu đã làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế khiến họ không thể trả nợ đúng kế hoạch cho NH, ảnh hưởng phần nào đến chất lượng tín dụng của NH.

Cơ cấu nợ quá hạn của GP-Bank HP phần lớn rơi vào ngắn hạn. Cụ thể năm 2023, nợ quá hạn ngắn hạn chiếm 88,64% (tương đương 7.800 triệu đồng) trong khi đó nợ quá hạn trung-dài hạn chỉ chiếm có 11,36% (tương đương 1.000 triệu đồng); năm 2024 nợ quá hạn ngắn hạn chiếm 91,63% (tương đương 15.200 triệu đồng) trong khi đó nợ quá hạn trung-dài hạn chỉ chiếm có 8,37% (tương đương 1.389 triệu đồng); năm 2025 nợ quá hạn ngắn hạn chiếm 91,04% (tương đương 12.489 triệu đồng) trong khi đó nợ quá hạn trung-dài hạn chỉ chiếm có 8,96% (tương đương 1.229 triệu đồng).

Sở dĩ như vậy là do dư nợ chủ yếu tập trung ở ngắn hạn nên nợ quá hạn ngắn hạn là chủ yếu, dư nợ trung-dài hạn ít hơn nên nợ quá hạn trung-dài hạn cũng ít hơn. Mặt khác, khi GP-Bank HP áp dụng quyết định 1627 thì gốc quá hạn sẽ kéo theo lãi cũng là quá hạn làm cho nợ quá hạn nhiều lên. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

  • BẢNG 2.17: Nợ quá hạn theo đối tượng của GP-Bank Hải Phòng.

Nhìn chung, nợ quá hạn đối với các thành phần kinh tế là không giống nhau:

Thành phần kinh tế quốc doanh bao gồm các doanh nghiệp nhà nước tuy nợ quá hạn có tỷ trọng không cao nhưng có xu hướng tăng qua các năm. Cụ thể, năm 2023 nợ quá hạn chỉ đồng chiếm 4,55% (tương đương 400 triệu đồng); đến năm 2024 nợ quá hạn tăng lên chiếm 5,43% (tương đương 900 triệu đồng) tăng lên triệu đồng (tăng 125%) so với năm 2023; sang năm 2025 nợ quá hạn tiếp tục tăng lên chiếm 7,29% (tương đương 1.000 triệu đồng) ) tăng lên 100 triệu đồng (tăng 11,11%) so với năm 2023. Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp nhà nước thường là khách hàng truyền thống, đã có mối quan hệ đối với NH nên trong hoạt động tín dụng được NH áp dụng các chính sách ưu đãi với các KH này. Do vậy đôi khi dẫn tới tình trạng NH quá tin tưởng vào các DNNN, chưa quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của các DN này, chưa kiểm duyệt chặt chẽ phương án kinh doanh khi cho vay. Vì vậy, có một số doanh nghiệp nhà nước đã không thực hiện được các phương án kinh doanh một cách khả thi dẫn đến thua lỗ, mất khả năng trả nợ cho NH.

Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có nợ quá hạn chiếm tỷ trọng cao nhất. Cụ thể, năm 2023 nợ quá hạn chiếm 90,91% (tương đương 8.000 triệu đồng); năm 2024 nợ quá hạn tăng lên chiếm 92,05% (tương đương 15.271 triệu đồng) tăng lên 7.271 triệu đồng (tăng 90,89%); sang đến năm 2025 khoản mục này giảm xuống chiếm 88,42% (tương đương 12.129 triệu đồng) giảm 3.142 triệu đồng (giảm 20,57%). Điều này cho ta thấy phần lớn KH của GP-Bank là thành phần ngoài quốc doanh. Do năm 2024-2025 các DN này chịu ảnh hưởng rất lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế làm những quan hệ làm ăn, hợp đồng kinh tế bị thay đổi hoặc hủy bỏ hàng loạt. Chính nguyên nhân này dẫn đến tình trạng các khoản vay của họ không trả đúng thời hạn dẫn đến nợ quá hạn ngày một tăng, làm chất lượng tín dụng của NH suy giảm.

Các đối tượng còn lại bao gồm doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, hộ gia đình…tuy tỷ trọng nhỏ nhất nhưng nợ có hạn cũng có xu hướng tăng qua các năm. Nguyên nhân chính là trong giai đoạn 2024-2025 nền kinh tế có nhiều biến động nên việc chèo chống qua những biến động đó khó khăn hơn rất nhiều so với các DN lớn khác, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của GP-Bank HP.

2.3.2.8. Tỷ lệ nợ quá hạn.

  • BẢNG 2.18: Tỷ lệ nợ quá hạn GP-Bank Hải Phòng. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Nhìn chung, tỷ lệ nợ quá hạn của GP-Bank có xu hướng tăng dần qua các năm nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn (<3%). Cụ thể tỷ lệ này năm 2023 là 2,07% (cho biết trong 100 đồng dư nợ hiện hành thì có 2,07 đồng đã quá hạn), năm 2024 tỷ lệ này tăng lên đến 2,41% (cho biết trong 100 đồng dư nợ hiện hành thì có 2,41 đồng đã quá hạn). Nguyên nhân là do tốc độ tăng của Nợ quá hạn nhanh hơn tốc độ tăng của Tổng dư nợ. Sang đến năm 2025 do tốc độ giảm của Tổng dư nợ nhanh hơn tốc độ giảm của Tổng nợ quá hạn khiến cho tỷ lệ này tiếp tục tăng lên đến 2,48% (cho biết trong 100 đồng dư nợ hiện hành thì có 2,48 đồng đã quá hạn). Có được điều này là trong những năm vừa qua GP-Bank HP đã tích cực giám sát các khoản vay và thu nợ đầy đủ, đúng tiến độ, sát sao giải quyết trong công tác thu hồi nợ quá hạn khó đòi còn tồn đọng, trình cấp trên xét duyệt, xử lý. Đặc biệt, thực hiện đề án tái cơ cấu lại GP-Bank, nợ quá hạn đã được bù đắp bằng dự phòng rủi ro, dư nợ quá hạn theo dõi ngoại bảng để làm sách bảng cân đối kế toán, tất nhiên đó không phải là xóa nợ cho KH mà đó vẫn là các khoản phải thu.

2.3.2.9. Nợ xấu.

Nợ xấu là những khoản nợ KH vay NH, do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan nào đó mà đến hạn không trả được nợ, chịu lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Các khoản nợ xấu của NH càng lớn thì chất lượng tín dụng càng kém, hiệu quả tín dụng không cao, chứa đựng nhiều rủi ro. Tình hình nợ xấu của GP-Bank HP được thể hiện qua bảng sau:

  • BẢNG 2.19: Nợ xấu theo kì hạn của GP-Bank Hải Phòng.

Do các yếu tố khách quan như sự biến động của tình hình kinh tế giai đoạn 2023-2025, tốc độ tăng trưởng cao, lạm phát tăng cao làm cho chi phí tăng đáng kể vì vậy một số đối tượng KH hoạt động kém hiệu quả khiến cho Nợ xấu của GP-Bank HP năm 2024 tăng lên 9.568 triệu đồng (tăng 183,19%) so với năm 2023. Sang năm 2025 do NH đã nâng cao công tác thẩm định đúng và đầy đủ các thủ tục trước khi cấp tín dụng, kiểm soát chặt chẽ hơn nữa KH trong quá trình sử dụng vốn vay, quản lý tốt công tác thu nợ trong suốt thời gian vay vốn của KH nên Nợ xấu đã giảm xuống 6.918 triệu đồng (giảm 46,77%) so với năm 2024.

Năm 2023, nợ xấu ngắn hạn chiếm 62,8% (tương đương 3.280 triệu đồng) trong khi nợ xấu trung-dài hạn chỉ chiếm có 37,2% (tương đương 1.943 triệu đồng); năm 2024 nợ xấu ngắn hạn chiếm 75,99% (tương đương 11.239 triệu đồng) trong khi nợ xấu trung-dài hạn chỉ chiếm có 24,01% (tương đương 3.552 triệu đồng) và sang đến năm 2025 nợ xấu ngắn hạn chiếm 62,96% (tương đương 4.957 triệu đồng) trong khi nợ xấu trung-dài hạn chiếm 37,04% (tương đương 2.916 triệu đồng).

Nguyên nhân nợ xấu ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nợ xấu là do dư nợ của NH tập trung chủ yếu ở kì hạn ngắn hạn. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

  • BẢNG 2.20:Nợ xấu theo đối tượng khách hàng của GP-Bank Hải Phòng.

Nhìn vào bảng 2.21, ta có thể thấy Nợ xấu tập trung chủ yếu vào các DN ngoài quốc doanh. Năm 2023, Nợ xấu của các DN này chiếm 85,24% (tương đương 4.452 triệu đồng). Năm 2024 khoản mục này chiếm 92,05% (tương đương 13.615 triệu đồng) tăng lên 9.163 triệu đồng (tăng 205,82%) so với năm 2023. Sang năm 2025 khoản mục này chiếm 88,42% (tương đương 6.961 triệu đồng) giảm 6.654 triệu đồng (giảm 48,86%) so với năm 2024. Điều này cho thấy kết quả hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng của NH. GP-Bank HP cần xem xét, thẩm tra chặt chẽ hơn nữa trong quá trình cho vay đồng thời tư vấn cho KH để có những quyết định sáng suốt trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay để tránh gây ra những tổn thất khôn lường cho NH.

Bên cạnh đó,do dư nợ đối với thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng ít hơn nên nợ xấu của các DN này cũng chiếm tỷ trọng không cao trong tổng nợ xấu. Năm 2023, Nợ xấu của các DN này chiếm 10,20% (tương đương 533 triệu đồng). Năm 2024 khoản mục này chiếm 5,43% (tương đương 803 triệu đồng) tăng lên triệu đồng (tăng 50,66%) so với năm 2023. Sang năm 2025 khoản mục này chiếm 7,29% (tương đương 574 triệu đồng) giảm 299 triệu đồng (giảm 28,52%) so với năm 2024. Do được Chính Phủ bảo trợ mà một số các DN quốc doanh làm ăn thua lỗ được NH cho vay để tránh làm tăng mức thất nghiệp khiến cho nợ xấu đối với các DN này có xu hướng gia tăng.

2.3.2.10. Tỷ lệ nợ xấu.

Tỷ lệ nợ xấu là một trong những chỉ tiêu phản ánh chính xác nhất chất lượng tín dụng của NH. Chúng ta hãy xem xét chất lượng tín dụng của GP-Bank HP qua bảng số liệu sau đây:

  • BẢNG 2.21:Tỷ lệ nợ xấu của GP-Bank Hải Phòng.

Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu của NH là khá cao. Cụ thể tỷ lệ nợ xấu của GP-Bank HP năm 2023 là 1,23% (cho biết trong 100 đồng dư nợ hiện hành thì có 1,23 đồng nợ xấu), đến năm 2024 tăng lên 2,15% (cho biết trong 100 đồng dư nợ hiện hành thì có 2,15 đồng nợ xấu). Nguyên nhân là do tốc độ tăng của Nợ xấu nhanh hơn tốc độ tăng của Dư nợ. Sang đến năm 2025, do tốc độ giảm của Nợ xấu chậm hơn tốc độ giảm của Dư nợ nên tỷ lệ này giảm xuống còn 1,42% (cho biết trong đồng dư nợ hiện hành thì có 1,42 đồng nợ xấu). Đây là chỉ số cần có sự quan tâm đúng mức vì nếu không kiểm soát được tỷ lệ này thì hậu quả NH phải gánh chịu là không hề nhỏ. Chính vì vậy để hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn nữa thì NH phải đề cao quyết tâm khắc phục nợ quá hạn trong đó NH phải thực hiện tốt công tác thẩm định đối với KH vay vốn là điều kiện trước tiên.

2.3.2.11. Tỷ lệ lợi nhuận từ tín dụng. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Ngoài các chỉ tiêu trên thì chất lượng tín dụng còn được phản ánh bởi tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng. Ta hãy quan sát bảng sau:

  • BẢNG 2.22: Tỷ lệ lợi nhuận từ tín dụng GP-Bank Hải Phòng.

Tỷ lệ lợi nhuận từ tín dụng năm 2023 đạt 32,64% (trong 100 đồng lợi nhuận thì thu được 32,64 đồng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng) đã tăng mạnh lên 57,37% (trong đồng lợi nhuận thì thu được 57,37 đồng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng). Nguyên nhân là do tốc độ tăng của Lãi từ tín dụng nhanh hơn tốc độ tăng của Tổng lợi nhuận. Sang năm 2025, do Lãi từ tín dụng giảm xuống trong khi Tổng lợi nhuận tăng lên đã khiến cho tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 19,21% (trong 100 đồng lợi nhuận thì thu được 19,21 đồng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng). Trong bối cảnh nền kinh tế đầy biến động và là một trong những NH chịu ảnh hưởng nặng nề nhất nhưng chi nhánh vẫn đạt được những kết quả đáng tự hào trên. Đó chính là nhờ vào sự nỗ lực của toàn bộ nhân viên NH trong hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động tín dụng.

Tóm lại: Mặc dù đang trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế xã hội và thị trường tài chính tiền tệ có những biến động phức tạp và khó lường nhưng cùng với sự nỗ lực của toàn thể nhân viên và Ban lãnh đạo, GP-Bank HP vẫn từng bước mở rộng hoạt động tín dụng đặc biệt nâng cao chất lượng tín dụng, ngày một khẳng định vị thế của mình trên thị trường.

2.4. Đánh giá thực trạng và nguyên nhân.

2.4.1. Những kết quả đạt được.

Mặc dù môi trường hoạt động kinh doanh của các NHTM còn gặp rất nhiều khó khăn lại đang trong giai đoạn suy thoái nền kinh tế; song được sự chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương cùng với sự nỗ lực của toàn bộ nhân viên trong NH, GP-Bank HP trong những năm qua đã đạt được những kết quả sau trong hoạt động kinh doanh tín dụng:

  • BẢNG 2.23:Một số chỉ tiêu chất lượng tín dụng GP-Bank Hải Phòng.

Một là: Công tác huy động vốn của GP-Bank HP ngày càng được ổn định và tăng trưởng. Năm 2024 nguồn vốn huy động tăng lên 178.380 triệu đồng (tăng 25,45%) so với năm 2023, năm 2025 khoản mục này giảm xuống 101 triệu đồng (giảm 0,01%) tuy nhiên lượng giảm này không đáng kể. Đặc biệt vốn huy động chiếm tỷ trọng khá cao là tiền gửi thanh toán không kì hạn (chiếm trên 75%) trong tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm có kì hạn (chiếm 99,99%) trong tiền gửi tiết kiệm. Điều này góp phần cho việc mở rộng hoạt động tín dụng,góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.

Hai là: Doanh số cho vay và quy mô dư nợ năm 2024 tăng trưởng khá mạnh so với năm 2023. Doanh số cho vay năm 2024 tăng 189.618 triệu đồng (tăng 25,62%), còn dư nợ tín dụng tăng 264.301 triệu đồng (tăng 25,62%) so với năm 2023. Trong đó NH có thế mạnh về cho vay ngắn hạn (dư nợ chiếm trên 66%) và chủ yếu là cho vay với đối tượng kinh tế ngoài quốc doanh (dư nợ chiếm trên 83%) tổng dư nợ cho vay. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Ba là: Công tác thu nợ được NH thực hiện khá tốt. Hệ số thu nợ (Doanh số thu nợ/Doanh số cho vay) của NH trong 3 năm qua luôn đạt trên 75% (năm 2023 đạt 75,94%; năm 2024 đạt 84,88%; năm 2025 đạt 84,32%). Tỷ lệ Nợ quá hạn luôn thấp hơn 3% (năm 2023 là 2,07%; năm 2024 là 2,41%; năm 2025 đạt 2,48%). Đây là một thành công lớn của GP-Bank HP trong những năm qua.

Bốn là: Hoạt động sử dụng vốn của GP-Bank tương đối hiệu quả. Trong 3 năm qua, Hiệu suất sử dụng vốn H1 luôn đạt trên 60% (năm 2023 đạt 60,64%; năm 2024 đạt 78,40%; năm 2026 đạt 62,89%) còn Hiệu suất sử dụng vốn H2 luôn đạt trên 50% (năm 2023 đạt 59,26%; năm 2024 đạt 78,34%; năm 2025 đạt 61,01%). Điều đó chứng tỏ NH đã cân đối khá tốt được nguồn vốn để cho vay, không sử dụng vốn quá mức để tránh rủi ro thanh khoản nhưng cũng không lãng phí nguồn vốn.

Năm là: GP-Bank HP luôn làm ăn có lãi và lợi nhuận của năm tới luôn cao hơn so với năm trước. Lợi nhuận của NH năm 2024 tăng 2.205 triệu đồng (tăng 29,57%) so với năm 2023, năm 2024 tăng 7.925 triệu đồng (tăng 82,02%) so với năm 2024.

Sáu là: NH đã linh hoạt hơn trong quá trình áp dụng cơ chế cho vay đối với KH, hướng dẫn họ lập hồ sơ vay vốn hợp lý, đúng quy định nhằm tạo điều kiện cho họ hoàn thành các thủ tục xin vay, nhanh chóng và thuận lợi. NH từng bước gắn bó mình với DN qua vai trò tư vấn.

Bảy là: NH đã lựa chọn những cán bộ, có đủ tài năng, có trách nhiệm và nhiệt tình công tác tín dụng, tạo điều kiện giúp đỡ các DN làm ăn có hiệu quả.

2.4.2. Những vấn đề tồn tại.

Như đã nói ở trên, GP-Bank HP là một NH có chất lượng tín dụng khá tốt. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng của NH còn một số hạn chế. Vì vậy, NH cần có các biện pháp nhằm duy trì các chỉ tiêu đồng thời xử lý những chỉ tiêu hạn chế để nâng cao hơn nữa chất lượng của mình trong giai đoạn tới.Những hạn chế đó là:

Một là: Với đối tượng cho vay, NH chỉ mới chú trọng đến KH ngoài quốc doanh và một số KH truyền thống mà bỏ qua một số KH làm ăn có hiệu quả. Dư nợ đối với DN ngoài quốc doanh luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trên 83% (năm 2023 chiếm 83,60%; năm 2024 chiếm 90,17%; năm 2025 chiếm 90,25%) tổng dư nợ trong khi đối với DN quốc doanh chỉ chiếm dưới 16% (năm 2023 chiếm 16,07%; năm 2024 chiếm 9,63%; năm 2025 chiếm 9,54%) và đối với các đối tượng khác chiếm dưới 1% trong tổng dư nợ của GP-Bank HP. Đây là một điều đáng tiếc vì khu vực quốc doanh cũng có tiềm lực và nhu cầu về vốn rất lớn. Hơn nữa, NN rất khuyến khích cho vay công bằng đối với các thành phần kinh tế nhằm tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển. Vì vậy, nếu NH mở rộng cho vay các DN quốc doanh sẽ vừa có tín dụng tốt với nền kinh tế vừa giúp NH tăng thêm thị phần, tăng thêm thu nhập cũng như thực hiện chủ trương mà NH đề ra. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Hai là: Trong cơ cấu cho vay của GP-Bank HP chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Trong 3 năm qua, Dư nợ ngắn hạn chiếm trên 65% (năm 2023 chiếm 66,15%; năm 2024 chiếm 74,33%; năm 2025 chiếm 71,87%) trong khi Dư nợ trung-dài hạn chiếm dưới 33% (năm 2023 chiếm 33,85%; năm 2024 chiếm 25,67%; năm 2025 chiếm 28,13%) . Đây là điều mà GP-Bank HP cần lưu ý bởi khi tín dụng được mở rộng sẽ kéo theo hàng loạt các hoạt động khác như thanh toán, nghiệp vụ kế toán phát triển theo. GP-Bank HP vẫn còn quá thận trọng trong cho vay, chưa đáp ứng được nhu cầu của các DN và Chính phủ.

Ba là: Nguồn thông tin mà NH cần để đánh giá, phân tích còn thiếu, không kịp thời và chất lượng không cao. Vì vậy, cán bộ tín dụng thường phải mất rất nhiều thời gian và công sức để tự đi điều tra trong khi chi phí cho hoạt động này lại rất ít hoặc không có.

Năm là: Trình độ của cán bộ chuyên môn còn có nhiều bất cập: đội ngũ cán bộ có trình độ, nhanh nhẹn, nhiệt tình, hăng hái học hỏi nhưng còn thiếu kinh nghiệm, không lường hết được rủi ro trong hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. GP-Bank HP còn thiếu cán bộ được đào tạo theo chuyên ngành, chuyên môn kỹ thuật để thẩm định tính khả thi của dự án. Khâu kiểm tra, kiểm soát nội bộ của NH vẫn chưa được thực hiện đúng mức, cán bộ làm công tác thanh tra còn thiếu về số lượng, kinh nghiệm thực tế và trình độ chuyên môn.

Sáu là: GP-Bank HP vẫn chưa có một cơ chế động viên khuyến khích cán bộ tín dụng, chưa có một cơ chế trách nhiệm rõ ràng. Định mức giao cho một cán bộ tín dụng ví dụ như 10 tỷ nếu cho vay được đến 20 tỷ cũng không được khen thưởng gì, nhưng nếu có phát sinh nợ quá hạn lại bị chỉ trích, phê bình. Trong khi rõ ràng, khả năng phát sinh nợ quá hạn của một khoản vay 20 tỷ sẽ lớn hơn rất nhiều so với món vay 10 tỷ. Cơ chế thưởng phạt chưa rõ ràng đã làm giảm động lực làm việc cho cán bộ tín dụng.

2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại.

2.4.3.1. Nguyên nhân từ phía ngân hàng.

  • Về cơ cấu đầu tư của ngân hàng.

Tỷ trọng cho vay trung-dài hạn của GP-Bank HP còn chiếm tỷ lệ nhỏ dưới 34% (năm 2023 chiếm 33,85%; năm 2024 chiếm 25,67%; năm 2025 chiếm 28,13%) trong khi cho vay ngắn hạn trên 66% (năm 2023 chiếm 66,15%; năm 2024 chiếm 74,33%; năm 2025 chiếm 71,87%) trong tổng dư nợ. Chi nhánh cần tích cực nâng cao dư nợ cho vay trung-dài hạn không những giúp DN đổi mới thiết bị, công nghệ phục vụ cho sản xuất mà còn giúp NH hạn chế rủi ro trong quá trình cho vay.

  • Về trình độ cán bộ tín dụng. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Mặc dù chi nhánh luôn quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng, ngay trong việc tuyển lựa cán bộ tín dụng cũng đặt ra yêu cầu trình độ đại học, đã qua công tác tín dụng ở NH khác, hiểu biết về các ngành kinh tế khác. Song điều bất cập xảy ra là trình độ bằng cấp thì nhiều mà việc áp dụng vào thực tế công việc lại đòi hỏi phải năng động, nhanh nhạy, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực quản lý, trình độ, kiến thức khoa học và thực tiễn cuộc sống để quyết định một món vay cho phù hợp, đúng cơ chế, tính toán được hiệu quả cho cả NH và KH và còn có thể lường trước được những bất trắc có thể xảy ra. Thực tế tại GP-Bank HP điều này còn đang tồn tại vì là một NH còn rất trẻ nên cán bộ tín dụng còn chưa có bề dày kinh nghiệm trong vấn đề kiểm tra, theo dõi chặt chẽ món vay dẫn đến đơn vị sử dụng vốn sai mục đích do vậy khi đến hạn không trả được nợ phải chuyển qua nợ quá hạn.

  • Về thông tin tín dụng.

Công tác thu thập thông tin thường dựa vào số liệu do KH cung cấp (Báo cáo tài chính,Báo cáo kết quả kinh doanh…)và cũng có tham khảo thêm một số thông tin thu thập ở bên ngoài (trên báo chí,trên mạng Internet…). Nhưng nhiều khi công tác này chưa thực sự tốt, dẫn đến việc đánh giá không đúng hiệu quả của dự án cũng như khả năng thực tế của KH. Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro của chi nhánh chưa đáp ứng được yêu cầu, sự phối hợp trao đổi thông tin giữa các NH trong việc xét duyệt cho vay và quản lý vốn vay đối với KH vay vốn chưa tốt, thiếu các thông trung thực cần thiết về tình trạng nợ nần, hiệu quả kinh doanh của NH nên không tránh được rủi ro.

  • d.Về công tác đánh giá tài sản thế chấp.

Việc đánh giá tài sản thế chấp cả về giá trị và tính pháp lý đôi khi chưa được chính xác dẫn đến việc làm giảm chất lượng tín dụng. GP-Bank HP định giá tài sản thế chấp theo quy định chung, có tham khảo thêm giá các tài sản đó trên thị trường tại thời điểm định giá. Các tài sản thế chấp mà DN sử dụng để đảm bảo tiền vay của GP-Bank HP chủ yếu là đất đai, nhà cửa, máy móc thiết bị thì theo quy định, NH yêu cầu không phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Nhưng trên thực tế,các loại máy móc này thường được mua đi bán lại nhiều lần nên các DN thường không có giấy tờ sở hữu các tài sản đó. Điều này làm ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng của NH.

2.4.3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng.

  • Về vốn. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Vốn tự có của các DN đặc biệt là các DN ngoài quốc doanh còn thấp trong khi tín dụng trung-dài hạn thì NH yêu cầu tỷ lệ vốn tự có của DN tham gia đầu tư phải đảm bảo từ 30% đến 50% tổng vốn đầu tư của dự án, NH chỉ cho vay vốn còn thiếu. Do không đáp ứng được về vốn tự có, về tài sản thế chấp, về tính khả thi của dự án nên không đủ điều kiện để NH cho DN vay vốn.

  • Về khả năng cung cấp thông tin.

Khách hàng cung cấp thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, về tài chính không đầy đủ, nếu có thì không kịp thời và sai lệch so với thực tế. Điều này gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát của NH.

  • Về hoạt động sản xuất kinh doanh.

Các DN sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, khả năng tự vay vốn bị hạn chế dẫn đến vốn để đầu tư chiều sâu, mở rộng bị thu hẹp, thiếu thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh gay gắt khiến cho tình hình sản xuất kinh doanh của DN gặp khó khăn trong cả khâu sản xuất lẫn tiêu thụ hàng hóa, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của DN và khả năng trả nợ vốn vay của NH. Bên cạnh đó, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng lậu, hàng nhập ngoại, các DN chậm thích nghi với cơ chế thị trường, việc chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô. Vì vậy, một số DN và ngành sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, hàng hóa, vật tư bị tồn kho, thua lỗ, mất khả năng thanh toán làm phát sinh nợ khó đòi.

2.4.3.3. Nguyên nhân khác.

  • Môi trường kinh tế.

Nền kinh tế của nước ta hiện nay đang chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái toàn cầu tác động rất nhiều đến các chính sách của NN, có tác động rất lớn đến hoạt động của NH đặc biệt là hoạt động tín dụng.

  • b.Môi trường pháp lý.
  • Về cơ sở pháp lý của tài sản thế chấp.

Theo quy định của luật pháp thì cơ sở đảm bảo cho việc thế chấp tài sản là bản hợp đồng được kí kết giữa hai bên là bên thế chấp và nhận thế chấp ,cùng bản gốc giấy tờ chứng minh sở hữu tài sản do bên thế chấp giao cho bên nhận thế chấp. Trên thực tế, các cơ quan quản lý Nhà Nước chịu trách nhiệm cấp chứng thư nhận quyền sở hữu tài sản cho các chủ sở hữu chưa được rộng khắp. Do đó thế chấp và xử lý tài sản thế chấp vay vốn NH còn nhiều khó khăn, phức tạp do thiếu cơ sở pháp lý và quyền sở hữu tài sản. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

Đối với DNNN hầu hết không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hay quyền sở hữu tài sản khi giao vốn mà chỉ có bản xác nhận tổng số vốn giao của cơ quan thẩm quyền. Trên thực tế nhiều DNNN vay vốn chưa thực hiện thế chấp tài sản,một phần vì chưa làm được giấy tờ chứng nhận sở hữu.

  • Về vấn đề phát mại tài sản thế chấp.

Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các DN thực hiện chế độ hạch toán thống kê chính xác kịp thời. Các DN ngoài quốc doanh chưa hạch toán kế toán theo quy định, chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính của DN nên số liệu không phản ánh chính xác tình hình sản xuất, kinh doanh tài chính của KH làm cho việc xử lý, phân tích thông tin và ra quyết định của NH cũng thiếu chính xác.

  • Một số vấn đề khác.

Hiệu lực của cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, tố tụng và hợp đồng kinh tế.

Các hình thức kinh doanh tiền tệ trái phép đang phát triển nhanh chóng và hoạt động tự do như các tổ chức cho vay nặng lãi, cho vay nóng…không có cơ quan nào quản lý, kiểm tra, kiểm soát, thủ đoạn của chúng là móc nối với KH để lừa đảo NH cho vay tiền, cho vay nóng lại giúp KH đảo nợ ở các TCTD gây khó khăn cho hoạt động tín dụng của NH.

Theo cơ chế hiện hành, “ Quỹ dự phòng đặc biệt ” thực chất là quỹ dự phòng chung cho các loại rủi ro được tính bằng 10% số lợi nhuận sau thuế là chưa phù hợp với nguyên tắc hoạch toán kinh doanh và không bình đẳng với các DN sản xuất kinh doanh khác. Khi có rủi ro xảy ra quỹ này không đủ để bù đắp gây ra những tổn thất cho NH.

Tóm lại: Qua đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của chi nhánh GP-Bank HP trong những năm qua đã khẳng định vai trò tín dụng NH góp phần vào sự phát triển xây dựng kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ. Tuy vậy, GP-Bank HP vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải xem xét một cách nghiêm túc để có giải pháp khắc phục nhằm không ngừng củng cố chất lượng tín dụng, đóng góp tốt hơn nữa cho quá trình xây dựng kinh tế và phát triển xã hôi đất nước. Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Giải pháp chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Thực trạng chất lượng tín dụng tại GPBank Hải Phòng […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993