Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em ở Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
Các văn bản quy định về bảo vê nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần phải vừa đảm bảo các nguyên tắc bảo vệ nạn nhân của tội phạm theo các văn bản quốc tế mà trước hết là Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về những nguyên tắc cơ bản trong tư pháp đối với các nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng bạo lực. Tiếp theo là bảo đảm quyền lợi của trẻ em theo quy định tại Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (20-11-1989). Đó là những văn bản pháp lí quan trọng xác định những nguyên tắc cơ bản để các quốc gia cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật nước mình. Việt Nam đã có một số văn bản quy định về vấn đề liên quán đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em như:
- Bộ luật hình sự 2015
- Luật tố tụng hình sự 2015 Hành chính
- Hôn nhân gia đình 2014
- Luật nuôi con nuôi 2010
- Luật trẻ em 2016
- Bộ luật lao động 2012
- Nghị định 56/2017/NĐ-CP hướng dẫn Luật trẻ em
- Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi
- Luật hiến pháp 2013
- Nghị định 144/2013/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em
- Luật trợ giúp pháp lý 2006
- Luật chống bạo lực gia đình 2007
- …… Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Như chúng ta có thể thấy Việt Nam có rất nhiều văn bản quy định về quyền trẻ em và bảo vệ quyền của trẻ em, tuy nhiên các văn bản chỉ dừng lại ở một số quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhưng chưa đưa ra được cơ chế thực hiện hiệu quả việc bảo vệ đó.Để làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế hữu hiệu bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần phải có văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, cụ thể và toàn diện các vấn đề liên quan đến hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Việt Nam vẫn chưa có Luật bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tội phạm để làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế hữu hiệu để bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2.2. Nội dung bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong pháp luật Việt Nam
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, vào ngày 20/2/1990. Trong nhiều năm qua, Việt Nam không ngừng mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế với xu hướng hội nhập, đa dạng, đa phương, chia sẻ và phát triển.
Trẻ em là một công dân, và Điều 71 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm…Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.” Từ đó, có thể thấy, bất cứ hành vi đánh đập, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm tới tính mạng mang tính bạo lực gia đình của các thành viên gia đình nói chung và cha mẹ nói riêng đối với trẻ em đều là vi phạm pháp luật. Đây cũng là một nội dung được thể hiện rõ trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “…Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” (khoản 4, Điều 69).
Luật trẻ em 2016 quy định trẻ em có Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển: Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục; Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em; Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em; Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy; Trẻ em có quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật; không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác. Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ trách khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên hoặc đe dọa thực tế gây nên hậu quả đáng kể nhất định. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Trong cấu thành của tội phạm xâm hại tình dục thì khách thể bị xâm hại ở đây là con người , mà cụ thể là trẻ em. Đặc biệt, để thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe và trừng trị đối với những hành vi bạo lực gia đình có hậu quả nghiêm trọng, Bộ luật hình sự 2015 đã đưa ra rất nhiều các quy định cụ thể. Ví dụ, với Tội hành hạ người khác (Điều 140), nếu như hành vi đối xử tàn ác, hành hạ người khác lệ thuộc mình song lại là trẻ em thì đây là tình tiết tăng nặng và sẽ chuyển khung hình phạt từ 3 tháng tù giam đến 2 năm lên thành 1 năm đến 3 năm. hay như Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 141), nếu xét thấy có tính chất loạn luân hay làm cho nạn nhân có thai thì đây là tình tiết tăng nặng và chuyển khung hình phạt từ khung 1 lên khung 2 với thời gian là 12 năm đến 20 năm tù.
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi bị phạt tù từ 7 – 15 năm và khi xét thấy có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như hiếp dâm người dưới 10 tuổi, dây rồi loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 46% trở lên sẽ bị phạt tù từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình. ( điều 142)
Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi( điều 144), người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi có các tình tiết tăng nặng như Nhiều người cưỡng dâm một người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Đấy là một vài ví dụ điều luật quy định trong bộ luật Hình sự 2015 về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Ngoài ra trong bộ luật này cũng quy định thêm các tình tiết tăng nặng đối với của thể thực hiện hành vi phạm tội đối với trẻ em.
Theo quy định của pháp luật, trẻ em cũng là chủ thể được hưởng tài sản từ người thân thông qua thừa kế hoặc tặng cho. Tài sản và các lợi ích kinh tế của trẻ em là cơ sở, nền tảng để họ chống lại bạo lực gia đình. Khi không phụ thuộc vào kinh tế hay ít nhất có sự bảo đảo về kinh tế nhất định và không quá lệ thuộc thì trẻ em còn có thể đứng lên chống lại bạo lực gia đình. Quyền sở hữu tài sản được Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 ghi rõ: “Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật” (Điều 19). Cha mẹ, người giám hộ hay các cơ quan tổ chức hữu quan có trách nhiệm phải giữ gìn, quản lý tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em cũng như phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ em một cách tốt nhất, pháp luật nước ta còn đưa ra các văn bản quy định các biện pháp xử lý đối với những hành vi bạo lực gia đình nói chung ấy trên cở sở ban hành các văn bản như Luật Phòng chống bạo lực gia đình 207, Nghị định của Chính phủ số 110 NĐ – CP ngày 10/12/2009 về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình và một số các văn bản khác.
Luật tố tụng hình sự theo điều 1, 2 của Bộ luật tố tụng hình sự ( BLTTHS) 2015 định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. BLTTHS có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Ngoài tại điều 25 của bộ luật này quy định về việc xét xử kịp thời, công minh, công bằng. Trong điều luật này quy định “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai.” Đây là quy định thể hiện sự giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tránh tình trạng lạm quyền của cơ quan ( cá nhân) có thẩm quyền, ngoài ra có quy định các trường hợp được xét xử kín đối với người dưới 18 tuổi để giữ bí mật đời tư. Đây là một hình thức bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, nhất là các bé nữ bị xâm hại tình dục. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Các quy định này cũng đã góp phần vào việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em một cách hiệu quả . Đây là văn bản pháp lý thiệt thực nhất quy định về chủ thể thực hiện, nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể thực hiện các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm. Trong bộ luật này đã quy định các hoạt động phải làm sau khi nhận tin báo về tội phạm của chủ thể có nhiệm vụ được giao. Từ đó ngay sau khi nhận được tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước về hành vi phạm tội với trẻ em thì cơ quan tiếp nhận tin báo này căn cứ vào đó để khởi tố vụ án hình sự và trong bộ luật cũng quy định về trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đồng thời bộ luật này đã quy định thời hạn, thủ tục giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Theo điều 147 của bộ luật này thì “Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự; Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;”. Theo đó khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có các hoạt động xem xét hành vi vi phạm, mức độ đã đủ để cấu thành tội phạm hay chưa và trong vòng 20 ngày phải có ra quyết định Khởi tố vụ án hay không. Đây là một quy tắc để nhằm tăng cường, thúc đẩy sự tự giác của cơ quan có thẩm quyền, nếu không có quy định như vậy thì sau khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm họ sẽ không chủ động giải quyết vì để lâu cũng không sao và điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Để bảo đảm an toàn cho bị hại, BLTTHS 2015 quy định thêm quyền rất thiết thực cho bị hại là họ được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ và người thân của họ khi họ báo cáo về nguy cơ họ bị xâm hại hoặc có căn cứ cụ thể về những hành vi đe dọa họ nhằm gây sức ép hoặc cản trở quyền tố tụng của họ. Như vậy các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm thực hiện những biện pháp hợp lý để giải quyết những mối lo ngại về an ninh cho các bị hại, xác định tính chất và phạm vi của các biện pháp, đánh giá mức độ nguy hiểm và đưa ra những lựa chọn hợp lý để giải quyết các mối đe dọa với nguồn lực sẵn có để đáp ứng quyền được bảo vệ của bị hại. Liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, pháp luật đặt ra quy định với chủ thể bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong Luật công an nhân dân. Theo điều 15 của Luật công an nhân dân quy định nhiệm vụ của cơ quan công an là “Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, kinh tế, quốc phòng, đối ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” Cơ quan công an phải có nhiệm vụ chủ động bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân. Bảo vệ Tổ Quốc và nhân dân là nhiệm vụ quan trọng nhất của khối Công An nhân dân, khi một người dân bị xâm hại hoặc đe dọa bị xâm hại về quyền và lợi ích hợp pháp thì cơ quan này đại diện cho cơ quan nhà nước được phép thực hiện các biện pháp cưỡng chế tại chỗ nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi ích hợp pháp khác cho công dân. Như vậy khi trẻ em bị xâm hại bởi các hành vi vi phạm pháp luật cơ quan này phải có các hoạt động, phương án bảo vệ nạn nhân một cách kịp thời, nhanh chóng và sử dụng các biện pháp khẩn trương ngay tại chỗ để bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ một cách tốt nhất để tránh được những hậu quả xấu xảy ra. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Gia đình là nơi các em sinh sống, ở đó trẻ em có quyền được nuôi dưỡng, được yêu thương chăm sóc từ thành viên trong gia đình. Nhưng thực tế cho thấy rằng hiện nay tại Việt Nam tình trạng bạo lực trẻ em xảy ra rất nhiều. Bạo lực gia đình không những chỉ nhằm vào phụ nữ mà đối tượng của bạo lực gia đình còn có cả trẻ em “những chủ nhân tương lai của đất nước”. Trẻ em mà sống trong cảnh bạo lực gia đình và chịu ảnh hưởng của bạo lực gia đình sẽ không thể phát triển hài hoà về thể chất và nhân cách. Nhận thức được hậu quả đó, nhà nước đã ban hành Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 gồm các quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Tại chương 3 của luật này có quy định về việc bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình. Điều 19 quy định Các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ được áp dụng kịp thời để bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình, chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, giảm thiểu hậu quả do hành vi bạo lực gây ra, bao gồm:Buộc chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình; Cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình; Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình; Cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân (sau đây gọi là biện pháp cấm tiếp xúc). Người có mặt tại nơi xảy ra bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi bạo lực và khả năng của mình có trách nhiệm thực hiện các biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực và cấp cứu nạn nhân. Qua sự tổng hợp của Báo dân chí cho biết “ theo Báo cáo chuyên đề can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị bạo lực thông qua đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em 1800 1567 của Cục Trẻ em – Bộ LĐ-TB&XH, giai đoạn từ năm 2012 đến tháng 5/2017, trong tổng số 698 ca trẻ em bị bạo lực có tới 91,7% bị bạo lực thân thể; trẻ em từ 0-10 tuổi chịu bạo lực nhiều nhất (chiếm 56,9%); tỉ lệ trẻ em bị bạo lực trong gia đình là cao nhất (63,2%), sau đó đến trường học là 20,1%.” , như vậy chúng ta có thể thấy con số nạn nhân là trẻ em của hành vi bạo lực gia đình rất cao. Thông qua các quy định tại Luật phòng chống bạo lực gia đình mỗi người dân trong xã hội đề cao việc bảo vệ nạn nhân của bạo lực gia đình, là cơ sở pháp lý để người dân áp dụng các hoạt động bảo vệ trẻ em là nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình.
VD vụ án bé Nguyễn Thị Thúy 13 tuổi bị đối tượng Nguyễn Hữu Thuyên là bố đẻ hành hạ bằng các hành vi bẻ rang, cạo trọc đầu, xâu tai, đánh đập một cách tàn bạos. Bị người bố bất nhân hành hạ, năm 2004 sau lần đánh con gái bị chấn thương ở tay, Công an huyện đã lập hồ sơ cho Thuyên đi giáo dục tại cơ sở địa phương rồi cho về. Đến năm 2006, Nguyễn Hữu Thuyên không tiến bộ, vẫn tiếp tục tái diễn bạo hành với con. Công an huyện đã lập hồ sơ khởi tố bị can về tội ngược đãi con. Thuyên bị xử 12 tháng tù treo và 24 tháng thử thách.
Đây là một vụ bạo lực gia đình khiến dư luận xôn xao, sau khi vụ án được giải quyết bé Thúy đã được hỗ trợ điều trị về tâm lí và chi phí đi lại. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Vì xét xử là một hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em do vậy các quy định về thẩm quyền xét xử, trách nhiệm và quyền hạn của chủ thể thực hiện hoạt động xét xử cũng là những quy định pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trong Luật tổ chức tòa án năm 2014 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.” Theo đó Tòa án là nơi xét xử các vụ án phạm tội đối với trẻ em, thông qua hoạt động này bảo đảm quyền và lợi ích họp pháp cho trẻ em. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành đúng quy định của pháp luật, xử đúng người, đúng tội, tránh bỏ lọt tội phạm và phải đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em lên hàng đầu. Xử phạt xứng đáng, nghiêm minh và thẳng tay đối với những tội phạm xâm hại trẻ em từ đó bảo vệ nạn nhân, đồng thời răn đe, giáo dục người dân.
Chính những quy định pháp luật trên đây đã trở thành cơ sở để nhà nước ta áp dụng vào thực tiễn nhằm giải quyết vấn đề bạo lực gia đình đối với trẻ em hiện nay.Ngoài ra nước ta có rất nhiều các quy định khác liên quan đến vấn đề bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật lao động 2012, Luật phòng chống mua, bán người năm 2011, Luật tố cáo 2018, Luật giáo dục 2015..vv
2.2.1. Các khía cạnh bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong các quy định pháp luật Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
2.2.1.1 Nguyên tắc
- Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích tối đa cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
Là những người bị hành vi của tội phạm xâm hại, hơn ai hết nạn nhân của tội phạm cần được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp về tính mạng, sức khỏe, tài sản của mình và của gia đình. Có nhiều người sau khi thực hiện hành vi phạm tội thường tìm cách đe dọa, khống chế nạn nhân nhằm che giấu hành vi phạm tội. Một số người phạm tội còn tìm cách giết nạn nhân để bịt đầu mối nhất là những nạn nhân đã biết rõ về nhân thân của người phạm tội và các nạn nhân này đang hợp tác với cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Đối mặt với những nguy cơ đó, việc bảo vệ nạn nhân và gia đình họ là việc hết sức cấp bách, đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn phải tích cự chủ động thực hiện. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em và gia đình họ trước hết đảm bảo cho họ nguy cơ tiếp tục trở thành nạn nhân của tội phạm. Mặt khác việc bảo vệ đó giúp họ yên tâm tích cực hợp tác với cơ quan bảo vệ pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tội phạm.
Bên cạnh việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm là trẻ em, đảm bảo quyền bồi thường thiệt hại cho nạn nhân cũng là nguyên tắc cơ bản.Thiệt hại mà tội phạm gây ra cho nạn nhân là trẻ em trong nhiều trường hợp là rất nghiêm trọng bao gồm các thiệt hại về thể chất và tinh thần.Những thiệt hại này cần phải bù đắp đảm bảo cho nạn nhân và gia đình của họ sớm trở lại cuộc sống bình thường. Mức thiệt hại phải được xác định trên cơ sở đảm bảo khắc phục được tương đối những thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra cho nạn nhân. Đối với thiệt hại về tinh thần, cần xác định tương đối cụ thể các mức độ bồi thường tương xứng với các thiệt hại mà hành vi phạm tội đã gây ra. Trên cơ sở đó các cơ quan áp dụng pháp luật mới có thể xác định được mức bồi thường thỏa đáng.
Quyền quan trọng của nạn nhân cần được đảm bảo là quyền bí mật cá nhân nhất là nạn nhân của tội phạm tình dục. Chỉ trên cơ sở đảm bảo tốt nhất những quyền và lợi ích hợp pháp cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em mới nhanh chóng giúp họ khắc phục thiệt hại, cũng như yên tâm cộng tác với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm.
Nguyên tắc đảm bảo sự tiếp cận nhanh chóng, thuận lợi của nạn nhân Ngay sau khi bị hành vi phạm tội xâm hại các nạn nhân của tội phạm là trẻ em đã có nhu cầu cần được bảo vệ và trợ giúp. Sự bảo vệ kịp thời sẽ giúp ngăn ngừa có hiệu quả những nguy hiểm tiếp theo đe dọa, xâm hại đến nạn nhân và gia đình của nạn nhân đồng thời giúp họ khắc phục được những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Một số trường hợp, do trình độ dân trí còn hạn chế nên các nạn nhân không nhận thức được đó là hành vi phạm tội hoặc khi bị hành vi phạm tội xâm hại họ không biết cách thức, địa chỉ cũng như nội dung được bảo vệ, trợ giúp. Vì vậy đảm bảo sự tiếp cận nhanh chóng, kịp thời của nạn nhân và nhân chứng với hệ thống bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em chính là đảm bảo sự tăng cường hiệu quả hoạt động bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm. Nguyên tắc này đòi hỏi hệ thống cơ quan, tổ chức thực hiện bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em phải được tổ chức rộng rãi trên toàn lãnh thổ của đất nước. Mặt khác cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để mọi cá nhân trong xã hội biết đầy đủ thông tin về hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em để họ có thể tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng với hệ thống bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
- Nguyên tắc huy động sức mạnh của mọi tầng lớp tham gia
Nạn nhân của tội phạm là trẻ em chiếm số lượng ko nhỏ và phân bố trên mọi miền của đất nước. Trong số đó, có nhiều người cần đến sự bảo vệ và trợ giúp, nhất là các nạn nhân đang tham gia vào quá trình tố tụng hình sự. Hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em đòi hỏi phải có kinh phí không nhỏ.Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em phải huy động động tối đa nguồn lực từ mọi tâng lớp nhân dân trong xã hội để hỗ trợ hoạt động này. Các cơ quan tư pháp hình sự là lực lượng nòng cốt nhưng chưa đủ cho hoạt động bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Bên cạnh các cơ quan tư pháp hình sự, cần có sự trợ giúp tham gia tích cự của các tổ chức và cá nhân trong xã hội vào hoạt động này.
- Đảm bảo tính pháp chế, pháp quyền, quyền con người trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
Đảm bảo tính pháp, pháp quyền chế là tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Khi các cơ quan nhà nước và người dân thực hiện hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em phải luôn luôn tuân thủ theo quy định của pháp luật, tôn trọng quyền con người.
Tôn trọng quyền con người ở cả 2 đối tượng, đối tượng phạm tội và trẻ em là nạn nhân của tội phạm. Đối với hoạt động cưỡng chế, ngăn chặn hành vi phạm tội cơ quan nhà nước và người dân cần đảm bảo quyền con người cho họ. VD như các hoạt động bắt, giam giữ mục đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo vệ các quyền của nạn nhân của tội phạm là trẻ em, khi áp dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp khác của người bị cưỡng chế. Vì một số hoạt động tố tụng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được thông tin… của người bị bắt. Nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ bảo đảm cho các cơ quan bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền công dân khi thực thi các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
2.2.1.2. Chủ thể
Pháp luật, chính sách tiếp tục được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong tình hình mới; đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu sống an toàn, phát triển hài hòa của trẻ em. Luật bảo vệ trẻ em 2016 quy định, hiện nay có 15 cơ quan tổ chức có tránh nhiệm bảo vệ trẻ em đó là:
Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân ; Bộ lao động thương binh & xã hội;
Bộ tư pháp; Bộ y tế; Bộ giáo dục và đào tạo; Bộ văn hóa, thể thao và du lịch; Bộ thông tin và truyền thông; Bộ công an; Ủy bạn nhân dân các cấp; Quỹ Bảo trợ trẻ em; Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam; Ủy ban văn hóa, giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội; Đoàn thanh niên Cộng sản HCM; Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Chăm sóc trẻ em được tiến hành trên cả 2 mặt: Vật chất và tinh thần. Gia đình với khả năng cao nhất của mình cung cấp cho trẻ em những điều kiện tốt nhất để phát triển cả về thể chất và tinh thần. Gia đình là trường học đầu tiên và suốt đời của mỗi con người. Bởi vậy gia đình có trách nhiệm thực hiện chức năng giáo dục thông qua 3 giai đoạn phát triển của trẻ em: từ 1-3 tuổi, từ 3-6 tuổi và từ 6-18 tuổi. Cả ba giai đoạn trên, trẻ em được giáo dục, dạy dỗ của gia đình lớn lên chịu ảnh hưởng các chuẩn mực trong gia đình và dần dần tiếp cận các chuẩn mực ngoài xã hội.
“Trẻ em” là người dưới 16 tuổi. Trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt. Tất cả những người có tiếp xúc chuyên môn với trẻ (bao gồm giáo viên, nhân viên y tế, nhân viên xã hội, công an, cán bộ cộng đồng) đóng một vai trò quan trọng trong phòng ngừa, phát hiện và ứng phó với nguy cơ trẻ em bị xâm hại. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Bảo vệ trẻ em nói chung và trẻ em là nạn nhân của tội phạm là một việc không chỉ riêng ai, vấn đề này mang tính chất của toàn xã hội. Gia đình có trách nhiệm chăm lo, yêu thương dạy dỗ và bảo vệ con trẻ. Không ai bảo vệ các em tốt hơn là chính gia đình. Vì vậy, để các em có một cuộc sống an bình, trước hết các bậc phụ huynh phải là những người am hiểu pháp luật, đặc biệt là Luật trẻ em. Thứ hai, mỗi gia đình cần trang bị cho mình những kỹ năng về chăm sóc và bảo vệ con cái; mỗi ông bố, bà mẹ cần chủ động tiếp nhận kiến thức trên sách báo, các hoạt động truyền thông cộng đồng… về bảo vệ trẻ em. Bảo vệ trẻ em là trách nhiệm không của riêng ai, mỗi chúng ta cần chung tay để bảo đảm cho trẻ một môi trường sinh sống, học tập và vui chơi thực sự an toàn và lành mạnh.
Nhà nước có trách nhiệm ban hành hệ thống pháp luật cũng cần tăng cường tính răn đe, bởi một số đối tượng vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật và chừng nào những trường hợp này chưa bị tòa tuyên án, chưa bị khởi tố thì loại tội phạm này vẫn sẽ coi thường dư luận, coi thường pháp luật. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, một khi đã dính líu đến các vụ xâm hại trẻ em và đặc biệt là xâm hại tình dục thì những đối tượng này rất khó trở lại cuộc sống bình thường.Ngược lại ở Việt Nam, những nghi phạm này vẫn có một cuộc sống thoải mái, thậm chí người phải rời khỏi nơi sinh sống lại chính là gia đình và nạn nhân của các vụ xâm hại.Đây là điều không bình thường và buộc chúng ta phải có sự thay đổi.
Để làm tốt hơn công tác bảo vệ trẻ em thì từng cán bộ, công chức, viên chức, thành viên của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội dân sự thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đối với từng trường hợp trẻ em có nguy cơ hoặc đang bị tổn thương vì bạo lực, bị xâm hại.
- Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2008). Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án.
Các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm.Với chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải là trung tâm của hệ thống bảo vệ nạn nhân.
Trong hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thì cơ quan công an giữ vai trò là lực lượng nòng cốt trong hoạt động bảo vệ. Với đặc thù nghề nghiệp, Bộ công an là cơ quan có thể thành lập lực lượng đặc biệt thực hiện các hoạt động bảo vệ tuyệt đối an toàn tính mạng, tài sản của nạn nhân. Cơ quan công an cần phối hợp chặt chẽ với viện kiểm sát và tòa án trong việc xác định những trường hợp cần được được bảo vệ, biện pháp và các chương trình cần thiết áp dụng để bảo vệ một cách an toàn và hiệu quả nhất cho trẻ em là nạn nhân của tội phạm. Cơ quan công an cũng phải phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, với các cơ quan, tổ chức, đơn vị, và cá nhân trong xã hội để tận dụng sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo vệ an toàn nhất tính mạng, tài sản của nạn nhân và gia đình của họ. Theo quy định của Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Thông qua hoạt động xét xử của mình, toàn án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Như chúng ta đã biết, không ai được cho là có tội nếu không có bản án, quyết định của toàn án tuyên người đó có tội. Thông qua bản án, quyết định của toàn án mà tội phạm phải gánh chịu những hậu quả pháp lý mà pháp luật đã quy định, tòa án cần xét xử nghiêm minh, trừng trị thích đáng các trường hợp phạm tội với trẻ em đảm bảo cho việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm là trẻ em, phòng ngừa các hành vi tái trở thành nạn nhân của trẻ em và gián tiếp răn đe giáo dục công dân Việt Nam tuân thủ pháp luật. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Theo quy định tại điều 2 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;
Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định;
Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội;Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật;Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố;Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa; Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thông qua những quy định trên, ta thấy rõ ràng rằng Viện kiểm sát nhân dân là một trong những chủ thể quan trọng trong hoạt động hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em từ khi khởi tố vụ án cho đến khi thi hành án hình sự.
- Các cơ quan tổ chức khác và cá nhân trong xã hội Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Bên cạnh các cơ quan tư pháp hình sự, thì các cơ quan, tổ chức khác cũng như các doanh nghiệp và mọi cá nhân trong xã hội có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Các cơ quan tổ chức và trường học là các đơn vị trước hết có thể đảm bảo nơi học tập cho các nạn nhân trong các trường hợp họ cần thay đổi nơi học tập để đảm bảo bí mật cá nhân và gia đình họ. Các tổ chức, doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đóng góp nguồn tài chính hỗ trợ cho hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trong khi nguồn tài chính của ngân sách nhà nước còn hạn chế thì những nguồn hỗ trợ từ xã hội cho hoạt động bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân của tội phạm là rất quan trọng nhằm tạo thêm những nguồn tài chính phục vụ có hiệu quả cho hoạt động bảo vệ nạn nhân và gia đình của họ. Cá nhân trong xã hội cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm.Cá nhân trong xã hội không chỉ tham gia trực tiếp vào hoạt động bảo vệ mà còn đóng góp nguồn tài chính hỗ trợ cho hỏa động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
Đoàn thanh niên Việt Nam Ðiều 77, Chương V của Luật Trẻ em năm 2016 chỉ rõ: T.Ư Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em, với nhiệm vụ thường xuyên lắng nghe, tiếp nhận và tổng hợp ý kiến, kiến nghị của trẻ em, chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết. Chính vì vậy, T.Ư Ðoàn luôn phải quan tâm, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm đương trách nhiệm này. Và khi phát hiện ra các hành vi xâm hại trẻ em phải ngay lập tức có biện pháp ngăn chặn, bảo vệ kịp thời và báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hiệp hội phụ nữ việt ban cũng là một tổ chức có trách nhiệm bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Theo Luật Phòng, chống bạo lực trong gia đình quy định về vấn đề bảo vệ nạn nhân của bạo lực gia đình “ Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình được thực hiện thông qua các biện pháp bảo vệ, ngăn chặn như phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình, thực hiện cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình và các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình, cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình (cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân, sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân)” . Trong nhiều trường hợp bạo lực gia đình cần sử dụng biện pháp cấm tiếp xúc nạn nhân bạo lực gia đình đây không phải là biện pháp xử lý vi phạm hành chính và chỉ được áp dụng trong trường hợp gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng của nạn nhân nhằm bảo vệ nạn nhân, phòng ngừa hậu quả nghiêm trọng hơn nữa có thể xảy ra và trong trường hợp này cần có đơn yêu cầu của nạn nhân, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình. Như vậy Hội phụ nữ là một tổ chức có trách nhiệm can thiệp bảo vệ, thông báo với cơ quan có thẩm quyền những trường hợp bạo lực gia đình để nạn nhân của tội phạm là trẻ em được bảo vệ kịp thời và toàn diện.
Tổ chức Công đoàn: Bộ luật lao động 2012 quy định Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi làm các công việc nhẹ theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định. Nhưng thực tế trong nhiều doanh nghiệp vẫn có trường hợp sử dụng lao động dưới 13 tuổi và có những hành vi bóc lột sức lao động. Tổ chức công đoàn có nghĩa vụ đại diện cho tập thể người lao động khởi kiện tại Toà án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động bị xâm phạm; đại diện cho người lao động khởi kiện tại Toà án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động uỷ quyền. Đại diện cho tập thể người lao động tham gia tố tụng trong vụ án lao động, hành chính, phá sản doanh nghiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động và người lao động. Trong trường hợp trẻ em bị bạo hành tại nơi làm việc, tổ chức công đoàn tại nơi đó là tổ chức gần gũi nhất với nạn nhân của tội phạm là trẻ em, tổ chức này sẽ đại diện cho nạn nhân trong quá trình tố tụng, ngoài ra khi phát hiện ra các hành vi bạo hành thì tổ chức này có quyền can thiệp để ngăn chặn hành vi bạo hành và báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ngoài các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội thì mọi gia đình, mỗi cá nhân đều có trách nhiệm bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Để tránh tình trạng vô cảm trong xã hội, nhà làm luật đã quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 những trường hợp cá nhân phạm tội nếu không bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Tại điều 102 của Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội không cứu giúp người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, điều 329 của Bộ luật này quy định về tội không tố giác tội phạm, đây là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm đối với cá nhân thờ ơ với xã hội, trong trường hợp cá nhân chứng kiến trẻ em bị bạo hành đến sắp tử vong, trong hoàn cảnh mà người đó có thể cứu giúp nhưng đã không cứu giúp thì người đó sẽ bị truy cứu về tội tại điều 102 của bộ luật hình sự 2015. Ngoài ra việc quy định những điều luật đó vào Bộ luật hình sự là nhằm nâng cao tính chủ động của cá nhân trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm, nâng cao nhận thức về bảo vệ pháp luật.
- Các trung tâm trợ giúp pháp lý, trợ giúp tài chính và trợ giúp y tế
Bên cạnh các hoạt động bảo vệ tính mạng, tài sản của trẻ em là nạn nhân của tội phạm và gia đình của họ thì các hoạt động trợ giúp nạn nhân cũng vô cùng quan trọng Để đảm bảo hợt động trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em có hiệu quả, cần phải có các cơ quan đúng ra tổ chức và phụ trách hoạt động này.Các trung tâm này có thể thuộc bộ tư pháp, Bọ tài chính, Bộ y tế.Các trung tâm có nhiệm vụ phối hợp các hoạt động trọ giúp nạn nhân và gia đình của họ.
Về trung tâm trợ giúp pháp lí thì đây là trung tâm chuyên thực hiện trợ giúp tất cả những vấn đề liên quan đến thủ tục pháp luật như trình tự, thủ tuc để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thủ tục khai báo, thủ tục tìm luật sư bảo vệ quyền lợi, thủ tục đòi bồi thường thiệt hại. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Trung tâm trợ giúp tài chính chuyên thực hiện trợ giúp nạn nhân của tội phạm những khoản tài chính để bù đắp cho những thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra cho nạn nhân, nhất là trong những trường hợp người phạm tội không có khả năng về tài chính để bồi thường. Nguồn tài chính để hỗ trợ một phần được lấy từ ngân sách nhà nước và một phần được huy động trong xã hội sự ủng hộ của cá nhân, tổ chức.
Trung tâm trợ giúp y tế là trung tâm giúp các vấn đề thuốc men và điều trị cho nạn nhân và cả những người thân của nạn nhân. Các khoản điều trị phục hồi chức năng cho các nạn nhân bị tổn thương nghiêm trọng làm mất hoặc hạn chế chức năng của bộ phận trên cơ thể.Trợ giúp y tế cũng bao gồm các khoản trị liệu về tâm lí để nạn nhân và người thân cảu họ có thể nhanh chóng khôi phục sức khỏe, sớm trở lại tình trạng ban đầu.
Mô hình các trung tâm trợ giúp trẻ em là nạn nhân của tội phạm cần được tổ chức từ trung ương đến địa phương theo các cấp chính quyền và cần phải huy động được những lực lượng tình nguyện tích cực và có kĩ năng tham gia vào các hoạt động hỗ trợ.
2.2.2.2. Quy trình
Quy trình bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý gồm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn khởi tố
Khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi phạm tội với trẻ em là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi phạm tội đối với trẻ em đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó. Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật chất) và về pháp luật về hình thức (tố tụng) của việc điều tra vụ án hình sự; thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội đối với trẻ em và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan đến hành vi đó.
Khởi tố vụ án hình sự là sự phản ứng nhanh chóng từ phía Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội đối với trẻ em nhằm góp phần phát hiện, điều tra và xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội đối với trẻ em và người phạm tội, đồng thời không chỉ là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự mà còn là phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm; Khởi tố vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố vụ án hình sự một cách thiếu cân nhắc kỹ, vội vàng và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo trong việc truy cứu tố tụng hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo sau (như: Điều tra không có căn cứ đối với những hành vi không chứa đựng dấu hiệu của tội phạm hoặc nói chung những là không diễn ra trong thực tế khách quan, khám xét, bắt, giam giữ, buộc tội, xét xử một cách vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội); [4 ]
Và cuối cùng, khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trước khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.
- Giai đoạn điều tra: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự để bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em thứ hai mà trong đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội đối với trẻ em để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là; Chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can. Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.
Điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội với trẻ em nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm; Điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự như: Truy tố của Viện kiểm sát hoặc xét xử của Tòa án không khách quan, vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội); Tiếp thoe, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.[ 10]
- Giai đoạn tuy tố: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Quyết định việc truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự để bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, mà trong đó Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Truy tố là chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng; để loại trừ những hậu quả tiêu cực của các sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong hai giai đoạn tố tụng hình sự trước đó; Quyết định truy tố của Viện kiểm sát thông qua bản cáo trạng thể hiện hoạt động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là kết luận điều tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của Tòa án, loại trừ những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do việc xét xử thiếu công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan những người vô tội. [ 4]
- Giai đoạn xét xử:
Xét xử là giai đoạn cuối cùng, trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử, Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm – nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm – nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
Xét xử là chức năng quan trọng nhất trong quy trình bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tòa án, nhằm loại trừ các những hậu quả tiêu cực của các sơ xuất, sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong ba giai đoạn tố tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án. Trong các giai đoạn xét xử của Tòa án nói riêng và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.[4] Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
2.2.2.2. Các biện pháp bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em
Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng tính mạng, sức khỏe của con người vì vậy mọi nạn nhân của tội phạm là trẻ em đều cần được bảo vệ.Tuy nhiên không phải tất cả trẻ em bị xâm phạm sức khỏe, tính mạng, tinh thần đều được hưởng sự bảo vệ mà chỉ những trường hợp xét thấy tính mạng và sức khỏe của nạn nhân này có nguy cơ bị đe dọa, gây thiệt hại thì họ mới thật sự cần sự tham gia của các chương trình bảo vệ nạn nhân. Phạm vi cụ thể những nạn nhân của tội phạm là trẻ em có thể được hưởng chương trình bảo vệ phải được quy định trong các văn bản luật để làm cơ sở xác định. Chỉ trên cơ sở đó, mới có thể bảo vệ được tốt nhất tính mạng, sức khỏe, tài sản của nạn nhân.
Tại Việt Nam hiện nay có các biện pháp bảo vệ nạn nhân của tội phạm như:
Hoạt động xét xử : Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lí của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, …)
Dựa vào các quy định tại Bộ luật hình sự làm căn cứ pháp lý để xác định các trường hợp phạm tội đối với trẻ em, qua đó cơ quan nhà nước có thẩm xử lý vi phạm đối với hành vi phạm tội. Thông qua hoạt động xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Kết quả của việc xét xử của toàn án là cơ sở để tội phạm thực hiện hìn phạt, do vậy trong quá trình xét xử cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật.
Nhắc lại vụ án của em Nguyễn Hoàng Anh chuyện em Nguyễn Hoàng Anh bị vợ chồng Huỳnh Thanh Giang và Mã Ngọc Thơm (xã Ngọc Chánh, huyện Đầm Dơi, Cà Mau) hành hạ gây thương tích nghiêm trọng đến 66,83% khiến dư luận xôn xao phẫn nộ. Họ đã thực hiện những hành vi sau đây với em Hào Anh: bắt uống nước tiểu; bẻ năm cái răng; dùng kềm kẹp sứt một mẩu thịt ở môi; dùng đũa sắt nung đỏ tra vào bẹn; dùng bàn ủi đang nóng ủi lên đùi, lên lưng; trói tay treo lên trần nhà, xối nước sôi; trấn nước; phơi nắng và tạt nước hóa chất tẩy lên người;đánh đập bằng nhiều hình thức khác từ một đến nhiều lần trong ngày và trong nhiều tháng liền. Thông qua hoạt động xét xử tòa đã tuyên y án sơ thẩm đối với hai bị cáo Giang, Thơm mỗi người 23 năm tù giam cho 2 tội cố ý gây thương tích và hành hạ người khác. Bị cáo Quỳnh, tòa cũng tuyên y án sơ thẩm vì không có tình tiết giảm nhẹ nào khác (1 năm 6 tháng tù giam). Về phần dân sự hai bị cáo Giang và Thơm còn bồi thường thiệt hại vật chất, tổn thất tinh thần đối với bị hại Nguyễn Hoàng Anh hơn 50 triệu đồng như phiên sơ thẩm đã tuyên Qua ví dụ của một vụ án hành hạ trẻ em và cố ý gây thương tích trên đã cho chúng ta thấy rõ được khía cạnh bảo vệ quyền của nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong hoạt động xét xử. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Hoạt động ngăn chặn hành vi phạm tội: Ngăn chặn hành vi phạm tội được hiểu là biện pháp bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em tại chỗ bằng việc yêu cầu hoặc cưỡng chế người phạm tội làm hay không làm những hành vi gây hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Khi nhìn thấy trẻ em đang bị xâm hại bởi hành vi phạm tội, ngay lập tức những hoạt động ngăn chặn tại chỗ sẽ giúp trẻ tránh được những hậu quả xấu sau này. Những hành vi ngăn chặn như tách không cho người thực hiện hành vi phạm tội đến gần trẻ em là nạn nhân, buộc người thực hiện hành vi phạm tội dừng hành vi của mình và sau đó báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, họ thay mặt nhà nước bảo vệ pháp luận do vậy chủ thể này có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế như nhốt vào nơi nào đó để cách li với nạn nhân, trói chân tay người phạm tội… Để nâng cao ý thức của người dân trong việc ngăn chặn hành vi phạm tội để bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em bộ luật hình sự 2015 có quy định về tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Thông báo khẩn cấp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngay sau khi phát hiện hành vi phạm tội với trẻ em để tránh nhũng hành vi đó tiếp tục sảy ra thì ngăn chặn là hoạt động thiết thực nhất để bảo vệ nạn nhân của tội phạm tại chỗ, đồng thời người dân nên báo tin cho cơ quan nhà nước hay cá nhân tổ chức có thẩm quyền để họ nhanh chóng có biện pháp bảo vệ nạn nhân của tôi phạm một cách toàn diện trách tình trạng tái trở thành nạn nhân của tội phạm.
Các hoạt động trợ giúp y tế, trợ giúp pháp lí, trợ giúp tài chính: Trợ giúp pháp lí hỗ trợ cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em và gia đình của nạn giải quyết các vấn đề về trình tự, thủ tục tố tụng, thủ tục mời luật sư bào chữa, thủ tục khai báo, thủ tục đòi bồi thường thiệt hại để bảo cho quyền, lợi ích hợp pháp của nạn nhân.
Đa số nạn nhân của tội phạm là trẻ em bị bào hành đều cần đến sự trợ giúp của các cơ sở y tế, có thể là chữa trị vết thương về thể chất và cũng có thể hỗ trợ chữa trị về tâm lí cho nạn nhân. Hoạt động này giúp nạn nhân cảu tội phạm là trẻ em khắc phục vết thương và sớm trở lại cuộc sống bình thường.
Việc trợ giúp về tài chính và y tế cũng cần phải được xác định và quy định một cách cụ thể.Chỉ trên cơ sở xác định nhu cầu cần trợ giúp là thiết yếu nhằm giúp nạn nhân vượt qua những thời điểm khó khăn nhanh chóng trở lại cuộc sống bình thường thì mới cung cấp sự trợ giúp này.
2.2.2.3 Xử lý vi phạm trong quá trình bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
Trong quá trình bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, nếu có sự vi phạm của các chủ thể thực hiện nhiệm vụ được giao thì sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật. Xử lý vi phạm hành chính đối với cán bộ vi phạm trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm áp dụng quy định tại Nghị định số 34/2011/NĐ – CP của Chính phủ ngày 17/03/2005 Về việc xử lí kỷ luật cán bộ, công chức thì cán bộ vi phạm các quy định của pháp luật thì phải chịu một trong các hình thức kỷ luật mà pháp luật quy định.
Đối với quá trình xét xử, thẩm phán vi phạm trong hoạt động xét xử nếu cơ quan này vi phạm trong việc ra bản án, quyết định sai dẫn đến tình trạng oan sai tại hoặc gây thiệt hại cho người bị hại thì theo quy định trong Luật tổ chức tòa án 2014 quy định Thẩm phán Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của luật như cách chức thẩm phán, miễn nhiệm thẩm phán.
Đối với cá nhân trong Bộ công an vi phạm trong quá trình bảo vệ nạn nhân xử lí theo quy định tại điều 42 của Luật công an nhân dân 2014: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm, các lỗi mà cơ quan công an hay mắc phải là không hành động hoặc hành động những hành vi theo pháp luật quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm.
Không hành động nhiệm trong quá trình bảo vệ nạn nhân của tội phạm là việc chiến sĩ công an không thực hiện theo nhiệm vụ được giao các hoạt động như ngăn ngừa tội phạm với trẻ em hay nhiệm vụ khác liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân, công nhân công an vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại cho sức khoẻ, tính mạng của người khác, tài sản hoặc lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2.3. Đánh giá
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng, kiện toàn hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.Một số văn bản chính sách quan trọng đã được ban hành như Hiến pháp năm 2013 (Khoản 1 Điều 37 quy định “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”); Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 05-11-2012, của Bộ Chính trị về Tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”; các chương trình, chính sách đã được Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt như Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 – 2020.Việc xây dựng các đạo luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dựa theo nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Đồng thời, các đạo luật được ban hành đã cố gắng đến mức tối đa nội luật hóa các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
Những năm qua, công tác bảo vệ trẻ em đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả quan trọng. Hệ thống pháp luật về công tác bảo vệ trẻ em đã từng bước được hoàn thiện, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em được tăng cường.Việc thực hiện các quy định pháp luật về huy động và sử dụng nguồn lực để thực hiện các mục tiêu vì trẻ em ngày càng có hiệu quả. Hệ thống thể chế, pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm được quy định tại rất nhiều các văn bản quy phạm khác nhau, Luật trẻ em đã được Quốc hội thông qua năm 2016, sửa đổi và bổ sung một số điều trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, gồm 7 chương, 106 điều, đã quy định tương đối đầy đủ các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em, trách nhiệm của gia đình, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân trong việc đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em. Luật khẳng định lại những quyền cơ bản của trẻ em đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em, đồng thời dành nhiều nội dung về trách nhiệm của xã hội đối với trẻ em.
Ngoài ra còn có các văn bản dưới luật Quyết định số 267/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015 (gọi tắt là Chương trình 267) với mục tiêu: “Tạo dựng được môi trường sống mà ở đó tất cả trẻ em đều được bảo vệ, trong đó ưu tiên nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhóm trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Chủ động phòng ngừa, giảm thiểu, loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em, giảm thiểu tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em bị xâm hại, bạo lực, buôn bán và sao nhãng. Trợ giúp, phục hồi kịp thời cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em bị tổn hại, tạo cơ hội để các em tái hòa nhập cộng đồng và bình đẳng về cơ hội phát triển, thông qua phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em đồng bộ và hoạt động có hiệu quả”. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Có sự thay đổi rõ rệt trong tổ chức mạng lưới liên ngành trong hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Ban Điều hành bảo vệ trẻ em được thành lập ở 43/63 tỉnh, thành phố; 447 quận, huyện và 5.510 xã, phường.
Các hoạt động truyền thông, giáo dục và vận động xã hội về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, tạo sự chuyển biến tích cực về cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, đồng thời mở rộng, nâng cao chất lượng dịch vụ và phúc lợi xã hội dành cho trẻ em. Hằng năm, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức triển khai các chiến dịch truyền thông, phát động phong trào để thúc đẩy xã hội thực hiện bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Bộ máy các cơ quan nhà nước có liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm cũng có rất nhiều, có mặt ở các nơi trên quốc gia. Các cơ, tổ chức chịu trách nhiệm liên quan trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm rất gần với nạn nhân và có khả năng phản ứng nhanh với các biện pháp bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em ngay tại chỗ. Nhưng thật sự chưa có một cơ quan nhà nước chuyên trách nào chịu trách nhiệm về vấn đề bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dẫn đến tình trạng để tội phạm kéo dài nhưng không cơ quan nào chịu đứng ra giả quyết và bảo vệ nạn nhân.
Đối với các chủ thể thực hiện các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em bao gồm rất nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Vì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho toàn xã hội nên bảo vệ nạn nhân của tội phạm là nghĩa vụ của mọi các nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Nhưng thực tế cho thấy rằng các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm tại cơ sở còn rất yếu, các nhân chưa đề cao vai trò của mình trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Đối với ủy ban nhân dân các cấp còn có sự buông lỏng. Chính quyền địa phương nơi xảy ra tình trạng bạo hành trẻ em, không thể nói chính quyền địa phương không có trách nhiệm gì khi bạo hành trẻ diễn ra trong cơ sở trông giữ trẻ đóng trên địa bàn. Công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng trong công tác bảo vệ trẻ em chưa thường xuyên nên không phát hiện ra vi phạm để kịp thời chấn chỉnh, chỉ khi nhân dân tố giác, báo chí lên tiếng thì các cơ quan chức năng mới vào cuộc.
Một minh chứng rõ ràng cho việc đó là thông qua vụ án của em Nguyễn Hoàng Anh, Hoàng Anh đã phải chịu sự hành hạ của gia đình Giang- Thơm rất lâu dẫn đến mức độ thương tật lên đến hơn 60%, những lần hành hạ Hoàng Anh đều xảy ra tại gia đình chị Giang và một số nơi khác xung quanh đó. Chắc chắn trong nhiều lần hành hạ này cá nhân những người hàng xóm của gia đình chị Giang và anh Thơm có biết đến vụ việc nhưng họ ko tố cáo để dẫn đến tình trạng mức độ thương tật trên cơ thể Hoàng Anh nặng như vậy.
Tiếp đến đối với các biện pháp bảo vệ nạn nhân của tội là tội phạm việc các chủ thể còn phản ứng chậm đối với các hành vi phạm tội đối với trẻ em nên các biện pháp bảo vệ nạn nhân của tội phạm chưa thực sự có hiệu quả. Vẫn nhiều trường hợp các em bị tử vong do các hanh vi phạm tội. Xét xử là biện pháp trung tâm và chủ yếu trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, nhưng thực tế thì các hình phạt đối với một số trường hợp phạm tội với trẻ em còn quá nhẹ dẫn đến tình trạng tái trở thành nạn nhân của tội phạm và thiếu sự răn đe giáo dục. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
VD vụ việc gần đây nhất của ông Nguyễn Hữu Linh nguyên phó viện trưởng viện kiểm sát Đà Nẵng có hành vi vi phạm pháp luật với một bé gái trong thang máy. Vào ngày 02/ 04/ 2019, một đoạn clip dài gần 1 phút đăng tải cảnh một bé gái khoảng 7 tuổi bị một người đàn ông đi cùng thang máy có hành vi sàm sỡ, ôm hôn.
Ngày 5/4, Hội Bảo vệ Quyền trẻ TP.HCM đã có văn bản chính thức gửi các cơ quan ban ngành, đoàn thể yêu cầu cần phải sớm khởi tố vụ án “Dâm ô với người dưới 16 tuổi” để tiếp tục điều tra, làm rõ về hành vi của ông Nguyễn Hữu Linh. Sau khi tiếp nhận thông tin về hành vi này cho đến ngày 19/04/2019 vừa qua phiên họp của Ủy ban Tư pháp, Thứ trưởng Công an Lê Quý Vương đã giải trình quá trình điều tra, xử lý vụ ông Nguyễn Hữu Linh ôm hôn, sàm sỡ bé gái trong thang máy của chung cư tại quận 4, TP.HCM. Ông cho biết Công an đã làm việc với cháu bé và mẹ cháu ( là người giám hộ.)
Còn tồn tại nhiều bất cập trong công tác phối hợp, vận dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý những hành vi phạm tội đối với trẻ em.
Chưa giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, chưa có các cơ chế giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em tại địa phương.
Nhận thức về bảo vệ trẻ em còn hạn chế thể hiện ở khía cạnh thiếu hiểu biết về luật pháp, về các hành vi vi phạm quyền trẻ em, dẫn đến tình trạng người thân trong gia đình xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em và các thành viên khác trong xã hội phạm tội nghiêm trọng đối với trẻ em đến mức phải xử lý hình sự.
Chưa quy định rõ ràng mức độ gây thiệt hại đến tinh thần của trẻ em, với mức độ thiệt hại tinh thần như thế nào và cách xác định thiệt hại đó ra sao để làm cơ sở pháp lí cho việc tố tụng hình sự.
Chưa có một cơ chế bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em một cách thích đáng, với bộ máy tổ chức cồng kềnh nhiều khi đây lại là một hạn chế vì các cơ quan, tổ chức sẽ ỷ lại, không phản ứng ngay để thực hiện hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.
Các quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em còn mang tính chất chung chung, chưa thực sự rõ ràng cụ thể, chưa phân chia phối hợp hợp lí giữa các cơ quan tổ chức. Có quy đinh về sự phối hợp giữa các cơ quan nhưng chưa chỉ ra cách phối hợp như thế nào, dựa trên nguyên tắc nào.
Cần làm rõ hơn về các hành vi phạm tội đối với trẻ em như hành vi dâm ô trẻ em, theo Bộ luật hình sự quy định hành vi dâm ô với trẻ em đây là hành vi kích thích tình dục nhưng không có mục đích giao cấu với trẻ em. Vậy những hành vi nào là hành vi kích thích tình dục và những hành vi đó được thực hiện ra sao?
Ví dụ: Những hành vi do ông Nguyễn Hữu Linh trong vụ việc “ ôm, hôn” bé gái trong thang máy có phải hành vi dâm ô với trẻ em hay không. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Bên cạnh đó, tình trạng trẻ em bị xâm hại bởi hành vi phạm tội vẫn tiếp tục xảy ra đang là nỗi bức xúc của xã hội. Hiện tượng như xâm hại tình dục, hành hạ, buôn bán trẻ em đã bộc lộ những tính chất nguy hiểm và nghiêm trọng như: chính giáo viên của các em xâm hại tình dục các em nhiều lần, kẻ bắt cóc lao thẳng vào nhà bắt trẻ em và chạy thoát hay lợi dụng việc nhận nuôi con nuôi để hành hạ, bức tử đứa trẻ. Để xảy ra những vụ việc như vậy có lẽ một phần là do pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm còn có lỗ hổng, chưa đủ tính răn đe và sự lỏng lẻo trong công tác kiểm tra giám sát việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em.
Sự chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia đình, cộng đồng chưa được thực sự coi trọng, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ và của trẻ em chưa đầy đủ dẫn đến việc bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế, trẻ em dễ trở thành nạn nhân của các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục và dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội. Tình trạng nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân; cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội cũng là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em bỏ học, lang thang kiếm sống và trở thành nạn nhân của tội phạm.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật về bảo vệ nạn nhân là trẻ em

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com