Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1 Giới thiệu khái quát về huyện Khoái Châu

Khoái Châu là vùng đất cổ, thuộc quốc gia Văn Lang, nhà nước sơ khai từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc. Cùng với diễn trình phát triển của lịch sử, Khoái Châu đã trải qua nhiều lần thay đổi về địa danh và địa giới hành chính. Huyện Khoái Châu chính thức được tái lập từ ngày 1/9/1999 với 25 đơn vị hành chính trực thuộc ( 24 xã, 1 thị trấn).

Khoái Châu ngày nay là một trong mười huyện thị của tỉnh Hưng Yên. Khoái Châu có truyền thống lịch sử – văn hoá lâu đời, được gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của Hưng Yên nói riêng, của đất nước nói chung. Xuất phát từ những yếu tố tự nhiên như: Vị trí địa lý, khí hậu, hoàn cảnh sống mà đã hình thành nên truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của người dân Khoái Châu.

Từ thời các vua Hùng dựng nước, phù sa sông Hồng đã bồi tụ nên vùng đất này. Và cư dân Việt cổ đã sớm đến cư trú, khai mở và sinh sống. Do sông Hồng bao bọc ở phía tây từ đó đã tạo nên văn hoá Khoái Châu ( sông nước và văn hoá lúa nước). Cũng từ đặc điểm này đã tạo ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của cư dân trong suốt diễn trình của lịch sử.

Với địa thế cạnh sông, người dân nơi đây đã biết tận dụng những điều kiện tự nhiên, sinh sống bằng nghề chài lưới, nghề trồng lúa nước cũng có tiềm năng do chất đất phù sa màu mỡ, nguồn nước dồi dào của sông Hồng. Đến nay, nghề trồng lúa nước và nuôi trồng thuỷ sản vẫn có vị trí quan trọng trong lĩnh vực kinh tế của huyện Khoái Châu.

Bên cạnh đó những điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán cũng đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống nhân dân. Nhưng dù hoàn cảnh nào, người dân Khoái Châu vẫn luôn phát huy được bản chất cần cù, sáng tạo, chung sức chung lòng chế ngự thiên nhiên, bám đất giữ làng, xây dựng quê hương. Và không ngừng sáng tạo, giữ gìn bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống quê hương. Đóng góp tích cực vào kho tàng Văn hoá truyền thống của Hưng Yên nói riêng và dân tộc nói chung.

Trên địa bàn của huyện Khoái Châu còn có sự hiện diện của rất nhiều di tích lịch sử – văn hoá và di vật quý mang dấu ấn của văn hoá tín ngưỡng bản địa. Toàn huyện có 139 di tích, trong đó có 74 di tích lịch sử – văn hoá, 33 di tích đã được xếp hạng. Với 92 lễ hội lớn nhỏ. Đặc biệt có lễ hội Chử Đồng Tử – Tiên Dung ở đền Đa Hoà xã Bình Minh, đền hoá Dạ Trạch. Đây là cụm di tích lịch sử văn hoá mang đậm tín ngưỡng dân gian, có sự gắn kết chặt chẽ giữa tín ngưỡng dân gian và văn hoá nông nghiệp, văn hoá lúa nước. Đền hoá Dạ Trạch còn là địa danh lịch sử được gắn với tên tuổi của Triệu Việt Vương ( Triệu Quang Phục) chống giặc Lương vào khoảng thế kỉ VI. Đền Đa Hoà xã Bình Minh còn được gắn với tên tuổi của tiến sĩ Chu Mạnh Trinh.

Khoái Châu còn là quê gốc của bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh ( nay là làng Vân Nội, xã Hồng Tiến).

Khoái Châu xưa cũng là đất học. Toàn huyện có 21 nhà khoa bảng. Ngày nay truyền thống hiếu học của cha ông xưa vẫn được lớp lớp con cháu hôm nay giữ gìn và phát huy. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể của huyện rất phong phú, đa dạng. Tại nhiều di tích, lễ hội truyền thống vẫn được tổ chức hàng năm, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của người dân địa phương. Nơi đây vẫn tồn tại một số làng nghề thủ công cổ truyền như nghề mây tre đan, đóng thuyền, đan giọ tôm, nghề mộc, nghề rèn, đúc đồng…Các nghề thủ công thể hiện sự tài khéo của người dân, đồng thời qua một số nghề tiêu biểu, chúng ta còn nhận thấy nét văn hoá sông nước đặc trưng của vùng.

Về văn hoá ẩm thực có thể kể đến bánh khúc, bánh tẻ, bánh trứng cốm, đậu phụ, kẹo rìu, chả gà tiểu quan…

Các phong tục, tập quán, nghệ thuật cổ truyền ( hát chèo, hát trống quân) được nhân dân giữ gìn, bảo lưu theo hướng có chọn lọc, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.

Ngày nay, Khoái Châu đang có bước tiến mới về kinh tế, văn hoá, xã hội. Toàn huyện đang ra sức thi đua xây dựng nếp sống văn minh, văn hoá nhằm phát huy hiệu quả nhân tố con người. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, huyện Khoái Châu còn tiến hành các hoạt động bảo vệ các di sản văn hoá của địa phương, phục dựng nguyên gốc các lễ hội dân gian truyền thống, gắn với việc phát triển du lịch trên địa bàn của huyện.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.2 Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên

2.2.1 Vị trí địa lý

Khoái Châu là vùng đất cổ, thuộc quốc gia Văn Lang, nhà nước sơ khai từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc. Cùng với diễn trình phát triển của lịch sử, Khoái Châu đã trải qua nhiều lần thay đổi về địa danh và địa giới hành chính. Khoái Châu ngày nay là một trong mười huyện thị của tỉnh Hưng Yên.

Khoái Châu là huyện đồng bằng bắc bộ, nằm trên bờ của tả ngạn sông Hồng. Khoái Châu nằm ở phía tây của tỉnh Hưng Yên, phía bắc giáp huyện Văn Giang và Yên Mỹ, phía đông giáp huyện Ân Thi, phía nam giáp huyện Kim Động, phía tây giáp các xã nằm trong các huyện của Hà Nội.

Trên địa bàn huyện còn có sông Bần chảy xuôi từ Bần Yên Nhân, qua Yên Mỹ, Khoái Châu, sang Kim Động. Đầm Dạ Trạch, nằm tại các xã Bình Minh, Dạ Trạch, Hàm Tử, Tứ Dân, Đông Kết, đây vốn là một khúc của sông Hồng trước kia, nay do đổi dòng sang hướng tây mà tạo thành.

2.2.2 Địa hình Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Là huyện có địa hình đặc trưng của khu vực đồng bằng, được bồi tích phù sa.

Khoái Châu có địa hình khá phức tạp, cao thấp xen kẽ nhau. Vùng ngoài bãi có địa hình bán lòng chảo dốc dần từ dải cao ven bồi xuống vùng trũng ven đê. Vùng nội đồng nhìn chung có hướng dốc từ bắc xuống nam và từ tây sang đông.

Nhìn chung địa hình của Khoái Châu đơn giản, thoáng đãng trong lành của cảnh quan đồng quê và cảnh quan tự nhiên, đặc biệt là cảnh quan bãi bồi sông Hồng mênh mông, phong cảnh độc đáo, trên đó có thể diễn ra các hoạt động du lịch. Địa hình bằng phẳng là điều kiện thuận lợi trong việc đi lại, thăm quan của du khách.

2.2.3 Khí Hậu

Khí hậu là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường du lịch, các điều kiện nhiệt độ, độ ẩm có ảnh hưởng đến sức khoẻ du khách, ảnh hưởng đến các hoạt động du lịch, tạo yếu tố mùa trong hoạt động du lịch .

Là vùng thuộc đồng bằng sông Hồng, Khoái Châu chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, đặc trưng là nóng ẩm mưa nhiều. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau thường lạnh, đầu mùa khí hậu tương đối khô, nửa cuối ẩm ướt và có mưa phùn, nhiệt độ trung bình năm của Khoái Châu khoảng 23 độ C, cao nhất 38 – 39 độ C, thấp nhất không dưới 5 độ C. Khoái Châu quanh năm có mặt trời, thời gian chiếu sáng dài, độ ẩm trung bình năm là 86%.

Khí hậu của Khoái Châu so với đặc điểm của nhiều vùng trong cả nước, khí hậu tương đối thuận lợi cho mọi hoạt động sản xuất cũng như hoạt động du lịch, tham quan nghỉ dưỡng.

2.2.4 Nguồn nước

Khoái Châu nằm trong hệ thống sông Hồng là hệ thống sông lớn nhất ở miền Bắc, do có nguồn nước phù sa bồi đắp đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế và dân sinh của huyện. Từ độ sâu 50 – 110m, huyện có nguồn nước ngầm khá tốt. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc đảm bảo nhu cầu phát triển các ngành nghề kinh tế của huyện.

2.2.5 Tài nguyên sinh vật Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Vốn là huyện đồng bằng không có núi, không có biển. Sự đa dạng sinh học của huyện Khoái Châu còn nghèo làn. Thực vật bắt đầu thống kê được 500 loài trong đó có 254 loài có giá trị kinh tế. Tuy đa dạng loài nghèo nhưng những loài có giá trị kinh tế cao lại được nuôi, trồng với số lượng lớn để đáp ứng nhu cầu trong tỉnh và các địa phương khác. Trong huyện đã trồng được nhiều loại cây có giá trị kinh tế cao như cây chuối Tiêu Hồng, các vùng còn trồng nhiều cây cảnh, cây làm thuốc…

Về động vật, huyện không có các động vật đa dạng như trong rừng. Tuy nhiên có nuôi được các loại thú như trâu, bò, dê. Các loài chim thường gặp chủ yếu là: chim sẻ, cò, chim sâu được con người nuôi cùng các loại gia cầm. Cá, những loại cá tự nhiên và cá được nuôi có giá trị kinh tế cao.

2.2.6 Tài nguyên khoáng sản

Khoáng sản chính của huyện Khoái Châu chỉ có nguồn cát ven sông Hồng và một số đất sét sản xuất gạch ngói có thể phát triển khai thác phục vụ nhu cầu xây dựng. Theo các tài liệu thăm dò địa chất, tại vùng đồng bằng sông Hồng trong đó có Khoái Châu tồn tại trong lòng đất một mỏ than nâu rất lớn nằm trong lớp trầm tích Nioxen với trữ lượng dự báo hàng trăm tỷ tấn, nhưng ở độ sâu 300 – 1.700. Hiện nay các nhà địa chất đã bắt tay vào khai thác.

2.3 Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn

2.3.1 Điều kiện kinh tế xã hội

2.3.1.1 Dân cư

Tính đến cuối năm 2009 dân số trung bình của Khoái Châu có 190.000 người, mật độ dân số 1468 người / km2. Trong đó dân số nông nghiệp là 160.580 chiếm 90,05%. Số người trong độ tuổi lao động của huyện có 92.520 người, chiếm 51,26% dân số toàn huyện. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 90.568 người, chiếm 96,85% lao động trong độ tuổi. Lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ chủ yếu ( trên 80%), tuy nhiên trong những năm gần đây tỷ lệ này đang có phần thuyên giảm, còn lại là lao động trong các ngành công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ.

2.3.1.2 Kinh tế và xã hội Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Trong những năm qua, kinh tế huyện Khoái Châu có mức tăng trưởng khá.

Giai đoạn 2001 -2005 tốc độ tăng trưởng trung bình của huyện từ 11.8 – 11,20% so với 11% của năm 2000 trở về trước. Tạo sự chuyển đổi rõ rệt về cơ cấu kinh tế theo hướng Nông nghiệp 41,00% – công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, xây dựng 21,60% – Thương mại dịch vụ 36,40% vào năm 2004.

Tỷ lệ phát triển dân số giữ ổn định 1%, đảm bảo việc làm ổn định cho 95% lao động, trong đó số lao động được đào tạo chiếm 30 – 35%. 100% số xã, thị trấn được phổ cập THCS, 90 % phòng học kiên cố cao tầng. Có trên 60 làng văn hoá, 85% số trạm y tế xã, thị trấn có bác sỹ đạt tiêu chuẩn và cấp nước sạch cho 100% dân cư trong toàn huyện. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó giảm tỷ trọng của các ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ

Cơ cấu kinh tế của huyện năm 2006 là:

  • Nông nghiệp là: 37,67%
  • Thương mại – dịch vụ là: 36,81%
  • Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng: 25,52% Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp và xây dựng

Phấn đấu phát triển vững chắc công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp làm động lực cho phát triển nông nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực khác, đồng thời thúc đẩy quá trình tăng trưởng nhanh và chuyển đổi cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và xây dựng năm 2005 đạt 218 tỷ đồng và năm 2010 đạt gần 700 tỷ đồng, nâng tỷ trọng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và xây dựng trong tổng GDP trên địa bàn lên 20,8% năm 2005 và 33,93% năm 2010.

  • Về nông nghiệp

Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp cả thời kỳ 2001 -2010 đạt bình quân khoảng 7%. Chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tạo bước chuyển biến căn bản nền nông nghiệp của huyện theo hướng hiện đại, đa dạng hoá sản phẩm và đa dạng hoá cơ cấu kinh tế nông thôn. Đến năm 2010, cơ cấu cây trồng được chuyển đổi tích cực, tỷ trọng các cây có giá trị ngày càng tăng. Thương mại và dịch vụ Phát triển kinh tế dịch vụ theo hướng mở rộng ngành nghề phục vụ sản xuất và đời sống, đồng thời giải quyết lao động tại chỗ. Tốc độ tăng trưởng dịch vụ bình quân cả kỳ 2001 -2010 đạt khoảng 30%. Nâng tỷ trọng của ngành lên đáng kể. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

2.3.2 Tài nguyên du lịch nhân văn

2.3.2.1 Các di tích lịch sử – văn hoá tiêu biểu

Khoái Châu là huyện có nhiều di tích lịch sử – văn hoá của tỉnh Hưng Yên. Toàn huyện có 33 di tích lịch sử được xếp hạng, trong đó có 24 di tích cấp quốc gia, 9 di tích cấp tỉnh.

  • Cụm di tích đền Đa Hoà và đền hoá Dạ Trạch

Đôi nét về truyền thuyết Chử Đồng Tử – Tiên Dung

Đền Chử Đồng Tử hay còn gọi là đền Đa Hoà nằm trên bờ sông Hồng, đối diện với bãi Tự Nhiên – nơi tác thành mối tình Chử Đồng Tử – Tiên Dung công chúa. Ngược dòng thời gian trở về thời vua Hùng Vương thứ 18. Tại làng Chử Xá, xã Văn Đức trước kia thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, có một gia đình ngư dân nghèo, vợ chồng thành gia thất từ lâu nhưng chưa có con, đó là gia đình ông Chử Vi Vân và bà Bùi Thị Gia.

Một đêm bà Bùi Thị Gia nằm mộng thấy tiên ông từ thiên đình giáng thế cho bà một tiên đồng, bà giơ tay đón nhận rồi giật mình tỉnh dậy. Từ đó bà thụ thai, đến ngày mãn nguyệt khai hoa, bà sinh hạ được người con trai diện mạo khôi ngô tuấn tú khác thường, ông bà đặt tên là Chử Đồng Tử.

Từ thủa hàn vi Chử Đồng Tử đã gặp nhiều nỗi gian truân. Năm Đồng Tử 13 tuổi thân mẫu lâm bệnh rồi qua đời, ít lâu sau nhà cửa bị hoả hoạn, gia đình khánh kiệt đến nỗi chỉ có một cái khố, hai bố con thay nhau mặc mỗi khi ra khỏi nhà. Được một thời gian phụ thân lại qua đời.Chàng thương cha, lại sẵn lòng hiếu thảo không lỡ chôn trần cho cha, chàng đã cởi khố mặc cho cha. Chôn bố xong Đồng Tử đi tha hương cầu thực, ngày ngâm nửa người dưới nước để kiếm cá và xin ăn các thuyền qua lại, dần dà xuống đến huyện Chu Diên ( tức Khoái Châu bây giờ).

Thời đó vua Duệ Vương – Hùng Vương thứ 18 không có con trai, chỉ có một nàng công chúa Tiên Dung xinh đẹp. Vào một buổi sáng mùa xuân những đoàn thuyền rộng lộng lẫy cùng cờ quạt đi du ngoạn trên sông Nhị Hà, trên thuyền rồng là nàng công chúa Tiên Dung. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Chử Đồng Tử sợ qúa, vội chạy lên bãi cát Tự Nhiên thuộc Màn Chầu ẩn mình nào ngờ nơi Chử Đồng Tử ẩn mình là nơi Tiên Dung chọn làm nơi tắm gội. Có ai ngờ đó là cuộc gặp gỡ định mệnh. Chử Đồng Tử định bỏ chạy nhưng Tiên Dung đã nắm lấy tay nói: “ Ta vốn không muốn lấy chồng, nay gặp chàng, thân thể đều không có gì che đậy, thực là duyên trời đã định như vậy, chàng hãy cùng ta tắm gội, ban cho quần áo rồi xuống thuyền mở tiệc, kết duyên vợ chồng. Vua cha nghe tin rất giận cho rằng, thiếu chi những người dòng dõi cao sang, hào hoa phong nhã mà lại lấy một kẻ ăn mày, bèn không cho công chúa về cung nữa. Đồng Tử và Tiên Dung cũng sợ không dám ở đất Đa Hoà nữa mà đi chu du khắp nơi. Chử Đồng Tử gặp được Tiên ông, Tiên ông đã dậy cho chàng rất nhiều phép thuật, sau một thời gian tu luyện Chử Đồng Tử đã trở thành tiên. Chử Đồng Tử lấy phép tiên truyền cho Tiên Dung. Hai người đi chu du giúp đỡ dân nghèo.

Một hôm đến địa đầu Ông Đình thuộc địa phận Đông An bỗng gặp một người con gái khoảng 18, 19 tuổi, có sắc đẹp tuyệt trần. Tiên Dung bảo Chử Đồng Từ: có phải người con gái đó chàng muốn lấy làm vợ bé chăng? Đồng Tử mỉm cười, Tiên Dung hiểu ý đến nói chuyện với người con gái đó chính là tiên nữ Tây Cung, thấy tâm đầu ý hợp đã kết duyên vợ chồng với Chử Đồng Tử. Ba người cùng đi chu du thiên hạ chữa bệnh, cứu khổ cho dân nghèo sau đó ba người cùng bay về trời.

Duệ Vương sau khi nghe thần dân tâu lại đã xuống chiếu cho lập đền thờ hai nơi là Đa Hoà và đền hoá Dạ Trạch.

Hàng năm cứ đến ngày mồng 10 tháng 2 âm lịch, nhân dân địa phương lại tổ chức lễ hội tưởng nhớ công lao của ba vị.

Năm 1962, Bộ văn hoá thể thao và du lịch ra quyết định xếp hạng khu di tích đền Đa Hoà và đền hoá Dạ Trạch là di tích lịch sử văn hoá quốc gia.

  • Di tích đền Đa Hoà

Đa Hoà là tên làng, xưa thuộc tổng Mễ, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Từ Hà Nội, có thể đi xuôi dòng sông Hồng chừng 20 km, tới bãi Tự Nhiên, bến Bình Minh hoặc có thể đi đường bộ, qua cầu Chương Dương rẽ phải, theo đường đê chừng 25km là tới nơi.

Đền Đa Hoà đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Đây không chỉ là một di tích lưu truyền và lan toả về một thiên tình sử hàng ngàn nay mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp, mà còn có giá trị đặc biệt về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Nguyễn. Đền do tiến sĩ Chu Mạnh Trinh ( tự là Cán Thần, hiệu là Trúc Vân, người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên) đứng ra vận động nhân tài vật lực của nhân dân 8 thôn tổng Mễ cùng thập phương công đức để xây dựng, tôn tạo năm 1890, trên nền một ngôi đền cổ. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Quang cảnh đền hiện nay là một kiến trúc quy mô lớn, mặt quay hướng chính Tây. Ngôi đền toạ lạc trên một mặt bằng có diện tích đất đai rộng 18.720m vuông, với tổng thể kiến trúc xây dựng thành ba khu vực chính nối liền một cách liên hoàn và khép kín. Đó là khu ngoài, khu giữa và khu trong Khu ngoài ( ngoại khu): có diện tích rộng 7200m vuông, xây tường bao quanh chắc chắn. Phía ngoài cùng, sát bờ kè đá với sông Hồng là nhà Bia. Đó là một ngôi nhà lầu tứ giác, có bốn cửa lớn thông ra bốn hướng, lầu cao hai tầng có 8 mái ( tương ứng với tám quẻ trong bát quái: Càn, khôn, ly, khảm, chấn, cấn, đoài, tốn…). Ở cửa phía tây có đề ba chữ đại tự là “ Trấn giang lâu” do chính tay tiến sĩ Chu Mạnh Trinh viết. Trong nhà lầu có đặt tấm bia đá lớn: “ Trùng tu Đa Hoà chính từ bi ký”, ghi lại tóm tắt sự tích về Chử Đồng Tử và Tiên Dung.

Khu giữa ( trung khu): có diện tích rộng 4.300m vuông, có cổng đền lớn. Từ nhà bia, giữa hai hàng cây gạo là con đường lát gạch rộng 6m dẫn tới cổng chính vào khuôn viên đền. Tại đây, có hai cây cột trụ vút cao trên đỉnh là hai con lân quay mặt vào lối đi. Trên cột trụ có hai câu đối:

Phượng giá hồng sơn kim đỉnh đan thành phong vũ dạ Hạc quy hoa liễu ngọc tuyết linh bí thuỷ vân gia

Con đường lát gạch rộng 8m, ở hai bên có cây đa cổ thụ và trồng nhiều nhãn xum xuê um tùm. Phía bên phải là lầu chuông, có treo qủa chuông đồng lớn cao 1,5m; còn ở phía bên trái là gác khánh có treo khánh đá cao 1,2m. Cả lầu chuông và gác khánh đều được tiến sĩ Chu Mạnh Trinh thiết kế xây dựng theo kiểu dáng nhà bia, cũng hình tứ giác, cao hai tầng tám mái và bốn cửa mở ra bốn phía.

Khu trong (nội khu): có nhà Ngọ môn cao to, rộng ba gian với ba cửa chính. Cửa chỉ mở trong những ngày lễ hội chính. Ở trên cao giữa cổng Ngọ môn treo bức đại tự sơn son thếp vàng “ Bồng lai cung khuyết”. Phía bên trong là cung điện thờ đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Toàn bộ cung điện gồm 18 nóc nhà liên hoàn tượng trưng cho 18 đời vua Hùng Vương.

Khoảng sân gạch giữa Ngọ môn và cung điện khá rộng rãi để chiếc vạc đồng cỡ lớn có chạm khắc rồng cuốn hai bên làm nơi hoá vàng mã. Nếu đi từ ngoài vào, sau khi qua ngọ môn đến nhà đại tế, sân chầu, toà thiêu hương, phía trong là cung đệ nhị và cung đệ tam. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Theo cấu trúc liên hoàn, nối liền các nóc đền là thảo bạt, thảo xá, nhà ngựa, nhà pháo…Cung điện thờ thánh tại đền Đa Hoà được thiết kế theo đúng kiểu cung đình nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX. Như vậy, theo kiểu cách xây dựng và cấu trúc bên ngoài và bên trong của các di tích ở đền Đa Hoà đã phản ánh khá rõ nét sự dung hoà, tương hợp giữa tín ngưỡng dân gian bản địa với các tôn giáo chính thống như Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Đó là sự kết hợp hài hoà khá nhuần nhuyễn giữa các yếu tố văn hoá nội sinh với ngoại sinh của nền văn hoá dân tộc độc đáo của người Việt.

Toà Thiêu Hương là một toà nhà lầu cao hai tầng với tám mái cong, có bốn cột trụ gỗ vuông đỡ bốn góc. Trên cao nơi chính điện của toà nhà có treo nức đại tự chữ hán sơn son thếp vàng “ Giao quang các” ( có nghĩa đay là nơi có ánh sáng giao thoa, hội tụ về). Phía dưới có treo đôi câu đối ghi lại sự tích Chử Đồng Tử – Tiên Dung.

Tại các cung Đệ Nhị và Đệ Tam có treo nhiều bức hoành phi câu đối ca ngợi đức thánh Chử Đồng Tử. Trong hậu cung có thờ thân phụ và thân mẫu của Thánh.

Trong đền chính Đa Hoà còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ quí hiếm như: hai chiếc lọ gốm thời Lý ( thế kỷ XI), vân hoa nổi có 100 chữ “ thọ”; hai câu đối của Trần Ngô Lương và Trần Dư sống ở thế kỷ XIII đời nhà Trần cung tiến. Ngoài ra các ngai đền thờ đều được chạm trổ điêu khắc rất công phu mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII – XVIII.

Trong đền còn có phối thờ, ngai vàng và ảnh của tiến sĩ Chu Mạnh Trinh, bên cạnh có cây đàn thập lục,biểu trưng về một con người hào hoa, tài tử, phong lưu, gồm cả cầm, kỳ, thi, họa.

Trong đền còn lưu giữ đôi lọ Bách thọ, không có chữ nào giống chữ nào, là một cổ vật vô giá về nghệ thuật gốm cổ của Việt Nam và còn có nhiều đồ thờ bằng đồng như: Một đôi chim hạc bằng đồng, đỉnh đồng, chiếc vạc đồng lớn trước toà Thiêu Hương để hoá vàng mã trong các dịp tế lễ. Lễ hội đền Đa Hoà diễn ra từ ngày 10- 12 tháng giêng âm lịch. Đây là một lễ hội lớn mang tính chất liên làng ở một vùng đất rộng lớn thuộc châu thổ sông Hồng. Là lễ hội dân gian truyền thống nổi tiếng được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến, với sự tham gia của tám làng thuộc tổng Mễ Sở xưa.

  • Di tích đền hoá Dạ Trạch

Nằm ven sông Hồng, cách Hà Nội 20km, thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu. Như truyền thuyết đã kể: Khi Chử Đồng Tử – Tiên Dung cùng lâu đài thành quách trong đêm giông tố bay về trời, để lại vùng đầm nước mênh mông, gọi là đầm Nhất Dạ hay đầm Dạ Trạch. Vua Hùng thương tiếc hai con, cho lập đền thờ. Sự linh thiêng của đức thánh đền hoá Dạ Trạch lan truyền khắp nơi từ đời này qua đời khác. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Tương truyền rằng: Tướng quân Triệu Quang Phục của Lý Nam Đế khi đánh giặc Lương xâm lược đã dựa vào thế hiểm yếu của đầm Dạ Trạch kháng cự với giặc. Khi bị vây hãm nguy cấp, tướng quân lập đàn làm lễ, đã được Đức Thánh Chử hiển linh, trao cho cái vuốt rồng, gài lên mũ. Nhờ vậy nghĩa quân của ông đánh đâu thắng đó khiến quân Lương khiếp sợ phải rút lui. Sau đó lên làm vua, xưng hiệu là Triệu Việt Vương. Thế kỷ 15, khi giặc Minh sang xâm lược nước ta chúng thực hiện chính sách đồng hoá vô cùng tàn bạo. Nguyễn Trãi cùng Trần Nguyên Hãn đã về đây cầu mộng ( hiện còn bài văn cầu mộng của Nguyễn Trãi), được Chử Đồng Tử cho biết minh chủ ở Lam Sơn. Vì vậy đền được ca ngợi là anh linh.

Đền hoá Dạ Trạch toạ lạc trên một dải đất cao, là một công trình có quy mô bề thế, uy nghi. Đền nhìn thẳng hướng chính đông, phía trước là cánh đồng rộng rãi. Từ ngoài xa nhìn vào, ta bắt gặp lầu chuông cao ngất, mới được tôn tạo. Trên lầu treo quả chuông lớn có đúc nổi bốn chữ Hán “ Dạ Trạch Từ Chung”. Qủa chuông được đúc vào năm Thành Thái thứ 14 (1902). Mỗi chiều xuống, chuông đền Dạ Trạch đóng lên ngân nga, vang động khắp cả một vùng. Ở đây còn có hai tấm bia làm bằng đá tảng lớn, có niên đại Gia Long thứ 17 ( 1879). Kế tiếp là hai dãy nhà quay mặt vào nhau, xưa kia đặt chín cỗ kiệu, và là nhà sắp lễ. Trước cửa đền có hồ bán nguyệt, bên trên là chiếc cầu cong cong mới dựng. Xưa kia mỗi năm đền mở hội, dân làng vẫn bắc cầu tre để rước kiệu qua.

Đền Dạ Trạch, gồm ba toà theo hình chữ công. Được dựng trên nền đất cao, trước kia vào đền phải bước lên 19 bậc. Đẹp nhất và tập trung nhất của ngôi đền là toà hậu cung. Trong cung kiến trúc theo mái vòm cuốn, gợi cho người ta cảm giác như đứng trong khoang thuyền lớn. Gian chính điện thờ ba pho tương đồng đen cỡ lớn, song đã bị mất. Nay trong khám thờ ba cỗ ngai lớn được khắc chạm tinh xảo. Phía bệ ngoài có ba pho tượng gỗ mới tạc. Như ở Đa Hoà, ở đây cũng thờ phối tự, nhưng có nét riêng rất tượng trưng và độc đáo. Bên phải gian chính điện thờ bài vị thân phụ và thân mẫu Chử Đồng Tử. Bên trái là ban thờ đặt cỗ ngai và bài vị Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục

Xưa kia các triều đại nước ta thường cử các quan đại thần đến đền Dạ Trạch làm lễ dâng hương vào mùa xuân. Như vậy đền Dạ Trạch được chọn để triều đình dâng lễ, gọi là tế quốc điển. Cuối thế kỷ XIX được tiến sĩ Chu Mạnh Trinh đứng lên hưng công để trùng tu.

Trong đền còn lưu giữ nhiều cổ vật quý như sắc phong, hoành phi câu đối, chiếc nón và cây gậy biến hoá của Chử Đồng Tử, tượng cá chép hoá rồng. Lễ hội chính của đền diễn ra cùng thời gian với lễ hội đền Đa Hoà, từ ngày 10 – 12 tháng giêng âm lịch.Cùng với lễ hội đền Đa Hoà đã trở thành lễ hội lớn nhất của tỉnh và thu hút khách thập phương tham gia.

  • Đền Hàm Tử Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Đền Hàm Tử nằm ở phía đông nam thôn Hàm Tử ( còn gọi là trang Hàm Tử) thuộc tổng Vĩnh Hưng huyện Đông An, phủ Khoái Châu, trấn sơn nam thượng xưa, nay thuộc xã Hàm Tử, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Đền Hàm Tử thờ ba anh em họ Trần là Trần Phúc, Trần Nghiêm và Trần Quang, có công giúp vua Lý Thái Tổ đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Căn cứ vào sử sách và truyền thuyết, sự tích được tóm tắt như sau: Dưới triều vua Lý Thái Tổ ( 1009 – 1027) ở trang Hàm Tử có một hào trưởng tên là Trần Thuân, vợ là Lê Trân sinh được ba người con trai là Trần Phúc, Trần Nghiêm và Trần Quang, gia đình sống hoà thuận, được dân trong làng, ngoài xã rất mực quý trọng. Cha mất sớm, ba anh em Phúc, Nghiêm, Quang được mẹ nuôi dậy ngày một khôn lớn. Thời gian này giặc chiêm thành thường xuyên quấy nhiễu các châu, quận phía nam nước ta. Triều đình nhà Lý lập đồn luỹ ở khắp các châu, huyện và Hàm Tử được coi là một trong những đồn luỹ quan trọng trong tuyến phòng ngự của quân ta. Tại đây, vua Lý đã ra yết chiêu mộ nhân tài và ba anh em họ Trần đã có mặt. Nhờ tài thao lược và dũng cảm ba anh em được vua giao làm tướng tiên phong chống kẻ thù, mở những cuộc thuỷ chiến trên sông Hồng làm cho giặc không kịp trở tay, hàng vạn tên bị tiêu diệt, những tên sống sót dẫm đạp lên nhau mà chạy. Tin thắng trận vang rộng khắp mọi nơi. Trong niềm vui chiến thắng, vua Lý đã triệu ba anh em họ Trần và quân lính về trang Hàm Tử mở tiệc ăn mừng. Yến tiệc xong, vua xuống thuyền trở về kinh thành Thăng Long. Thần tích viết: “ Khi đất nước trở lại thanh bình, ba anh em họ Trần ở lại trang Hàm Tử và qua đời tại đây”. Nhà vua biết tin vô cùng tiếc thương đã cấp cho vàng bạc để nhân dân Hàm Tử xây dựng đền và phong thần cho ba vị: Vị thứ nhất là Đông hải uy mãnh, vị thứ hai là Hoàng hổ báo uyên bác, vị thứ ba là Phúc thần đại vương.

Tiếp nối dòng sử vẻ vang của dân tộc, đến thế kỷ XIII, cũng tại bến Hàm Tử này. Quân dân Đại Việt dưới triều Trần đã đập tan ý đồ xâm lược của quân Nguyên – Mông lần thứ hai. Sau chiến thắng oanh liệt này, Thượng tướng Trần

Quang Khải đã làm thơ rằng:

  • “Đoạt sáo Chương Dương độ,
  • Cầm hồ Hàm Tử quan.
  • Thái Bình tu trí lực,
  • Vạn cổ thử giang san.”

Đền Hàm Tử xây dựng từ thời Lý ( thế kỷ XI), sơ khai chỉ là một ngôi miếu nhỏ. Trải qua các triều đại Trần, Lê, Nguyễn, đền được tu sửa và mở rộng thêm. Đến nay, di tích vẫn giữ được vẻ cổ kính với đầy đủ các hạng mục công trình như: Tiền đế, hậu cung và hai dãy tả hữu vu. Qua cổng tam quan là một khoảng sân rộng được những cây cổ thụ toả bóng mát quanh năm. Tiếp đến là khu đền chính xây dựng theo kiểu chữ Đinh. Toà tiền tế mái lợp ngói vẩy rồng, trên bờ nóc trang trí một đôi rồng lớn theo kiểu “ Lưỡng long chầu nguyệt”. Liên kết bộ vì toà tiền tế theo kiểu “ chồng giường đấu sen”. Các cấu kiện đều chạm khắc rất công phu theo những đề tài trong kiến trúc cổ truyền: Long quần tụ, tứ linh, tứ quý…

Tại gian trung tâm có treo bức đại tự “ Thánh cung vạn tuế”, phía dưới là một cửa võng lớn sơn son thếp vàng, hai bên treo đôi câu đối ca ngợi chiến công của quân dân ta dưới hai triều đại Lý, Trần:

“Đoạt sáo bình Chiêm tiền Lý, tặng phong thang mộc ấp An dân phục quốc hậu Trần, gia tứ hoả hương tân”.

Dịch là: Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

  • Cướp giáo bình Chiêm, Lý trước được phong thang mộc ấp, An dân giúp nước, Trần sau thêm tặng hoả hương tân.”
  • Và một đôi câu đối ca ngợi tài năng, đức độ, công lao to lớn của ba anh em họ Trần và sự linh thiêng cứu giúp dân lành của các Ngài:
  • Nhất mộng trước linh thanh rực Lý, phong công tồn cổ lục, Tam đồng lưu hiển tích phù Trần tuấn liệt trí kim tuyền”.

Dịch là:

Tiếng dậy một giấc mơ phù lý danh cao tràn sách cũ, Tích hiển ba ngài hoá giúp Trần công lớn dõi đời nay”.

Nối tiếp với ba gian trung tâm toà tiền tế là ba gian hậu cung. Gian trung tâm hậu cung đặt ban thờ ba anh em họ Trần. Tại đây đặt ba cỗ ngai vàng và bài vị sơn son thếp vàng, chạm khắc kênh bong hoa cỏ một cách mềm mại.

Ngoài giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật, đền Hàm Tử còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lịch sử và mỹ thuật như: Cuốn Thần Tích được biên soạn vào thời Lê, niên hiệu Vĩnh Hựu tam niên, ba cỗ ngai vàng và bài vị, một chuông đồng thời Nguyễn, một án thư và rất nhiều câu đối ca ngợi tài đức của ba anh em họ Trần.

Với ý nghĩa lịch sử – văn hoá và nghệ thuật trên, đền Hàm Tử được Bộ Văn hoá thông tin xếp hạng di tích quốc gia ngày 21/1/1992. Lễ hội Hàm Tử được tổ chức hàng năm do nhân dân địa phương và nhân dân quanh vùng tổ chức rất long trọng, nhằm tỏ lòng biết ơn cha ông đã có công giữ nước, đồng thời giáo dục cho thế hệ trẻ trách nhiệm gìn giữ, bảo vệ di sản văn hoá quý báu này cho đời sau.

  • Khu di tích đền Mạn Xuyên

Khu di tích đền Mạn Xuyên nơi thờ Chiêm Thành Cửa Ải Đại Vương Nguyễn Danh Minh vị thánh có công đánh giặc Chiêm Thành mở mang bờ cõi và bảo vệ đất nước.

Theo tiểu sử Ngài: Nguyễn Danh Minh quê ở huyện Lôi Dương tổng Đông Kết huyện Đông An mở trường dậy học. Bấy giờ Hùng Duệ Vương mở khoá thi, vào thi Đình nhà vua chấm ông đỗ đầu khoá, được vua gả công chúa Ngọc Nương – công chúa thứ ba, ông cùng với Tản Viên Sơn Thánh đánh giặc Chiêm Thành thắng lợi và được vua phong là Trấn Chiêm Thành Cửa Ải đại tướng quân. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Ngài sinh ra trong một gia đình nghèo, tính tình người hào hiệp, nhân từ được mọi người quý mến. Vốn là người thích đi du ngoạn ngài đã dời bỏ quê hương đi chu du khắp nơi đến xứ Mạn Nhuế thuộc làng Mạn Xuyên ông đã có công chữa bệnh và dậy dân làng Mạn Xuyên biết cày cấy làm ăn và lập nghiệp. Năm đó giặc Chiêm Thành quấy phá biên giới phía nam. Ngài được cử đi đánh giặc Chiêm Thành và được gả Ngọc Nương công chúa.

Nhân dân tỏ lòng biết ơn đã lập đền thờ ngài tại xứ Tam Quan dốc Mạn Xuyên.

Đền Mạn Xuyên vừa được trùng tu xây dựng năm 2007 theo lối kiến trúc cổ đồng bằng Châu thổ sông Hồng và của riêng Mạn Xuyên hướng về phía vực Mạn Xuyên. Kiến trúc ngôi đền gồm hậu cung dựa theo kiến trúc đình Mạn Xuyên, đệ nhị, đệ tam và phần nhà tám mái hai bên là nhà tiếp khách, đại bái là gian gian ngoài cùng. Hiện nay đại bái đang trong quá trình tu sửa. Đền Mạn Xuyên có phong thuỷ cực đẹp và lý tưởng nằm trên thế “ Tựa sơn đạp thuỷ” lưng đền dựa vào đê sông Hồng hướng về vực Mạn Xuyên, nơi có ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với mảnh đất Mạn Xuyên. Đền đã được Bộ văn hoá công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Cùng với Lễ hội diễn ra vào rằm tháng 2 Âm lịch hàng năm thu hút khách địa phương và những người con xa quê. Đây là lễ hội đặc biệt có một không hai ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.

  • Văn Chỉ Bình Dân

Văn chỉ Bình Dân được biết đến không chỉ là văn chỉ hàng huyện mà còn là đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Văn chỉ Bình Dân thuộc làng Mìn, xã Bình Dân, tổng Bình Dân, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu xưa, ngày nay thuộc thôn Bình Dân, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Văn chỉ Bình Dân thờ đức thánh Khổng Tử, nhà bác học lớn Chu Văn An và các bậc tiên hiền Nho học. Từ xưa, Bình Dân đã có truyền thống hiếu học, khoa bảng, vì thế văn chỉ cả huyện được vinh dự đặt tại địa phương. Hiện ở đây còn lưu giữ hai tấm bia lớn với tiêu đề: “Đông Yên huyện tiến sĩ bia ký”, ghi danh hơn ba mươi vị đỗ đại khoa của cả huyện Đông Yên. Trong đó, xã Bình Dân có chín vị.

Văn chỉ Bình Dân cho đến ngày nay không rõ được xây dựng khi nào, chỉ biết rằng khi thực dân pháp xâm chiếm và đô hộ Hưng Yên ( 1883) chúng đã đốt phá di tích này vì là nơi hội họp của nhân sĩ, trí thức và nhân dân huyện. Sau đó, ông Đổng Quế, người con của quê hương đã cùng nhân dân góp tiền của và công sức để tu sửa lại. Khi trở thành thủ lĩnh của phong trào Bãi Sậy, ông đã lấy Văn chỉ Bình Dân làm đại bản doanh. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Đổng Quế tức Đinh Gia Quế, sinh ngày 01/11/1825, là con cụ Đinh Quý Công với bà Nguyễn Thị Bách, quê xã Nghiêm Xá, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông ( Nay là Hà Nội). Ông học đến khoá sinh thì chuyển đến làng Thọ Bình, tổng Bình Dân để dạy học, sau làm Chánh tổng rồi thăng lên Chánh tuần huyện Đông Yên. Khi thực dân pháp xâm chiếm tỉnh thành Hưng Yên (28/3/1883), ông từ quan về quê, chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp. Để có danh nghĩa tập hợp lực lượng, ông tự xưng là Đổng Quân Vụ, giương cao ngọn cờ đỏ hình vuông có tám chữ: “ Nam đạo cần vương, Bình Tây phạt tội”. Đinh Gia Quế xây dựng ngay tại ấp Thọ Bình một cái thành bằng gạch, chu vi năm mẫu Bắc Bộ, có tường gạch vây quanh, có một số nhà kho, trường tập bắn, sân luyện tập võ nghệ, dưới có đường địa đạo, hầm ngầm bí mật xuyên toả mấy cây số đến các làng xung quanh như Yên Vĩnh, Bình Dân, Đức Nhuận, Dương Trạch…Ông lấy vùng Bãi Sậy làm căn cứ chính mà trung tâm là đầm Dạ Trạch.

Cờ nghĩa phất lên, rất nhiều văn nhân, trí thức và nhân dân trong vùng hưởng ứng, cả người già, phụ nữ, trẻ em hay các tướng lĩnh của triều đình Tự Đức, chống lệnh bãi binh của triều đình, cùng đến Bãi Sậy tham gia cùng nghĩa quân. Lực lượng theo nghĩa quân Đổng Quế rất đông đảo. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 6 tháng 3 năm Quý Mùi, Đổng Quế tế cờ khởi nghĩa tại Văn chỉ Bình Dân. Ngay sau lễ tế cờ, nghĩa quân đã tiến đánh một số nơi và gây cho Pháp những thất bại đầu tiên tại căn cứ Bãi Sậy. Sự lớn mạnh và những thắng lợi giòn giã của nghĩa quân đã làm cho quân Pháp, quân triều đình khiếp sợ.

Từ cuối những năm 1883 đến năm 1884, trên toàn mặt trận, thế lực của Đổng Quế ngày càng lớn mạnh, địa bàn hoạt động rộng lớn và thu được nhiều thắng lợi. Nhưng do một sơ xuất không phòng bị cẩn thận, lại mải đuổi theo toán tàn quân của Hoàng Cao Khải, nghĩa quân của Đổng Quế bị thiệt hại nhiều tại bến đò Vạn Phúc (Hà Tây). Do tuổi cao sức yếu, ông đã giao binh quyền cho Chánh đề đốc Nguyễn Đình Tính làm tổng chỉ huy nghĩa quân Bãi Sậy. Ông mất ngày 21/11 năm ất Dậu tại Dương Trạch.

Giữa lúc khó khăn, Bắc kỳ hiệp thống Quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật ( quê thôn Xuân Dục, xã Xuân Dục, huỵên Mỹ Hào), đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, đưa cuộc khởi nghĩa lên một quy mô đỉnh cao. Tháng 9/1885, nghĩa quân cũng tổ chức lễ tế cờ khởi nghĩa và hội nghị tướng sỉ.

Văn chỉ Bình Dân. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của cụ Tán Thuật, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã gây cho Pháp những tổn thất nghiêm trọng, trở thành cuộc khởi nghĩa lớn cuối thế kỷ XIX kéo dài trong 10 năm (1883 – 1892)

Văn chỉ Bình Dân vẫn còn lưu giữ những lời nhận xét của ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện sử học Việt Nam: “…Vinh quang thay nhân dân Bãi Sậy đã đóng góp nhân tài, vật lực vào cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Trên trang sử kháng Pháp của nhân dân Việt Nam, hai chữ “ Bãi Sậy”…”. Nhân dân đã cung ngai, đúc tượng Nguyễn Thiện Thuật cùng thờ ở Văn chỉ.

Văn chỉ Bình Dân không chỉ là di tích lịch sử – văn hoá mà còn là một di tích đấu tranh cách mạng tiêu biểu của Hưng Yên. Do đó, năm 1962 Văn chỉ Bình Dân đã được Bộ Văn hoá thông tin xếp hạng di tích quốc gia vào diện sớm nhất.

  • Nhà thờ bà Hoàng Thị Loan Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Cách quốc lộ 39 khoảng 50m, nhà thờ bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu chủ tịch Hồ Chí Minh, được xây dựng khang trang theo lối kiến trúc cổ trên khu đất trong đình làng cũ thôn Vân Nội.

Nhà thờ bà Hoàng Thị Loan mới được hoàn thành cuối năm 2005, xây dựng trên diện tích 5000m2, kiến trúc gồm hai phần: Phần đất nổi xây dựng nhà thờ 5 gian theo lối truyền thống bằng gỗ lim, lợp ngói, bao quanh khu đất là diện tích ao hồ trồng sen, tăng thêm vẻ đẹp. Nơi đây không chỉ là nơi thờ tự mà còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật ghi nhận công lao to lớn của bà Hoàng Thị Loan cùng những ảnh hưởng của bà và dòng họ Hoàng tới sự nghiệp sau này của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại đây còn lưu giữ chiếc khung cửi của bà đã nuôi chồng, ông Nguyễn Sinh Sắc thi đậu cử nhân ở trường nghệ, sau đó ông vào Huế dự thi Hội. Cuối năm 1895, bà gửi người con gái Nguyễn Thị Thanh ở lại quê rồi cùng hai con Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung theo chồng vào Huế bà vẫn tiếp tục dệt vải để nuôi chồng, nuôi con ăn học.

Một phần nhà thờ được giành để trưng bày, giới thiệu những hình ảnh và hiện vật về Chủ tịch Hồ Chí Minh khi người về thăm Hưng Yên. Việc xây dựng nhà thờ có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Bên cạnh nhà thờ còn xây dựng các hạng mục khác như: Nhà đón khách, hệ thống sân vườn, cây cối, hồ sen hình bán nguyệt…

Tuy mới hoàn thành nhưng nhà thờ bà Hoàng Thị Loan đã đón được rất nhiều đoàn khách đến thăm quan, đặc biệt là thế hệ trẻ học sinh, sinh viên của các trường Đại học về thăm quan và học tập truyền thống.

Để có thể phát huy giá trị văn hoá, giáo dục và thăm quan du lịch của nhà thờ bà Hoàng Thị Loan còn có thể kết hợp với quần thể những công trình văn hoá lịch sử giá trị thuộc dòng họ Hoàng như: Sinh từ quận công Hoàng Nghĩa Phác, Giếng vàng, bia đá, voi đá…Không chỉ là những dấu tích của một dòng họ, mà còn mang những giá trị về văn hoá, lịch sử phục vụ việc nghiên cứu, học tập truyền thống. Cùng với hệ thống nhà tưởng niệm danh nhân trong tỉnh, nhà thờ bà Hoàng Thị Loan chính là một địa chỉ văn hoá mang ý nghĩa giáo dục truyền thống sâu sắc đối với thế hệ trẻ hôm nay. Để nhà thờ bà Hoàng Thị Loan phát huy tốt những hiệu quả về lịch sử, văn hoá, giáo dục thì cần được sự quan tâm hơn nữa của các cấp, các ngành nhất là chính quyền địa phương. Với ý nghĩa to lớn và những tiềm năng sẵn có nơi đây đã và đang trở thành điểm tham quan hấp dẫn của nhân dân Hưng Yên và du khách thập phương.

2.3.2.2 Lễ hội truyền thống Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Lễ hội là một loại tài nguyên nhân văn, có sức hấp dẫn và thu hút khách du lịch cao. Thông qua lễ hội, ở mức độ nào đó du khách có thể thấy được, hiểu được phong tục tập quán của địa phương. Bởi lẽ đó lễ hội là một hình thức sinh hoạt đặc sắc phản ánh một mặt đời sống của mỗi dân tộc. Lễ hội thường gắn liền với các di tích lịch sử thường là một phần trong các chương trình thu hút khách, quảng bá của khu du lịch.

Là một huyện thuộc vùng đồng bằng sông Hồng có nền văn minh lúa nước lâu đời, Khoái Châu có nhiều lễ hội truyền thống và phong tục của nền văn minh lúa nước.

Nét độc đáo của lễ hội ở Khoái Châu đó là lễ rước nước gắn liền với sông Hồng. Trong đám rước du khách thấy được rồng, rước cờ, trống đặc biệt là kiệu bay ở một số lễ hội tại các địa phương của huyện đây là một lễ hội có một không hai ở đồng bằng Bắc Bộ … Thông qua các lễ hội người dân như bày tỏ được lòng cảm ơn đất trời, thần nước, những người có công đức, tưởng nhớ tới các vị anh hùng và cầu mong cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

  • Lễ hội Chử Đồng Tử – Tiên Dung

Chử Đồng Tử, một trong bốn vị “ Tứ bất tử” của Việt Nam, vị thánh đặc trưng tiêu biểu cho quá trình khai phá đầm lầy lau sậy, vùng sông nước thành những làng mạc trù phú; người khai sinh và mở mang nghề buôn… Đặc biệt là lòng thuỷ chung son sắc với tình yêu đôi lứa, với gia đình và với cả xã hội. Từ thời Hùng Vương dựng nước, trải qua bao biến cố của lịch sử, truyền thuyết Chử Đồng Tử – Nhị vị phu nhân vẫn ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân Hưng Yên nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung.

Trong suốt quá trình cứu nhân độ thế, tam vị Đức Thánh tiên đã cứu cánh biết bao sinh linh thoát khỏi tử thần. Các đời vua đều có bao phong, sắc chỉ cho ba vị Đức thánh tiên làm “ Thượng đẳng thần tối linh Thành Hoàng”. Tất cả những nơi các Ngài kinh lý qua, nhân dân đều lập đền thờ, có tất cả bảy mươi hai làng lập đền thờ. Trong đó, Đa Hoà (Đền Chính), Dạ Trạch (Đền Hoá) và Đông Tảo ( quê hương của bà Tây Sa công chúa), là những di tích chính.

Trước đây, lễ hội Chử Đồng Tử – nhị vị phu nhân là một lễ hội lớn, là sự kết chạ và giao hiếu của đầm Dạ Trạch ( nơi thành quách bay về trời) với bãi Tự Nhiên thuộc xã Tự Nhiên – Thường Tín ( nơi Chử Đồng Tử vùi mình dưới bãi cát và gặp Tiên Dung khi nàng quây màn tắm) với đền Chính Đa Hoà ( nơi sinh cơ và lập nghiệp của các Ngài) và với xã Văn Đức – Gia Lâm ( quê hương phụ thân, phụ mẫu của Chử Đạo Tổ). Tuy nhiên ngày nay lễ hội đã giản tiện hơn chỉ có rước sách qua lại giữa đền Hoá Dạ Trạch, bãi Tự Nhiên và đền Chính Đa Hoà. Lễ hội nổi tiếng với nghi thức rước nước ở sông Hồng. Lễ rước lớn từ đền Dạ Trạch xuống thuyền, dẫn đầu là hai con rồng vàng lộng lẫy, uốn lượn theo nhịp trống phách. Hai hàng là các bà, các cô trong làng xiêm, áo đủ màu. Chiếc kiệu đầu tiên đặt chiếc gậy, úp nón lên tượng trưng cho sự hoá thành lâu đài. Tiếp theo là đội ngũ bát bửu, chấp kích, kiệu thánh cùng ba cặp “ con đĩ đánh bồng” và sau cùng là đông đảo nhân dân dự hội. Hàng chục chiếc thuyền được trang trí lộng lẫy ở bến sông chờ đám rước. Bên kia sông, con rồng đất bãi Tự Nhiên cũng đang ngóng sang, cờ xí rợp trời. Khi cả hai đoàn gặp nhau ở giữa sông, ta sẽ thấy một cụ già râu tóc bạc phơ múc từng gáo nước với dáng điệu kính cẩn rồi hai đoàn rước hoà nhau, trống phách lại tưng bừng lên rộn rã. Tất cả rước Thánh đi “ phát du” ( dạo chơi) trên sông, ngược về phía đền Chính Đa Hoà, đi đầu là thuyền hát quan họ, càng làm tăng thêm sắc màu dân gian của lễ hội. Trong những ngày lễ hội, tại Đa Hoà và Dạ Trạch diễn ra nhiều hoạt động sinh hoạt văn nghệ và trò chơi dân gian, nổi tiếng là múa rồng, múa lân, múa sênh tiền, múa “ con đĩ đánh bồng”, hát chèo, hát quan họ…Những sinh hoạt văn hoá này càng tăng thêm sức hút của lễ hội. Trong lễ hội có các trò chơi dân gian như đi cầu kiều, bịt mắt đập chum, chọi gà, chơi đu, đặc biệt là trò “ cờ người”. Cờ người ở đây có quy cách chơi rất chặt chẽ, tướng cờ phải là đàn bà từ 50 tuổi trở lên, chồng có danh vọng, con cái ngoan và thành đạt… Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Như vậy, có thể thấy lễ hội Chử Đồng Tử – Tiên Dung là một lễ hội đặc sắc của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, mà trọng hội vào ngày 12 đến 14 – Âm lịch. Thời đế quốc phong kiến, nhiều năm nhà vua, các công thần khanh tướng, thống sứ, toàn quyền Đông Dương… đều về tế lễ và dự hội.

Lễ hội Chử Đồng Tử – Tiên Dung diễn ra trong bầu không khí vừa linh thiêng cao đạo, lại vừa sôi nổi vui vẻ và đầm ấm, chan hoà tình người, đậm đà tính nhân văn. Nhắc lại sự tích về cuộc hạnh ngộ diệu kỳ thuở xa xưa với bao kỉ niệm đẹp đẽ, trữ tình nên thơ của Chử Đồng Tử và Tiên Dung, và thiên tình sử của họ mãi mãi sống trong tâm thức dân gian và tâm linh dân tộc.

  • Lễ hội Đình Quan Xuyên

Làng Quan Xuyên nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh, cách thành phố Hưng Yên hơn 20km, thuộc tổng Đại Quan, huyện Đông An, phủ Khoái Châu ( Ngày nay thuộc xã Thành Công, huyện Khoái Châu).

Quan Xuyên nằm bên bờ sông Hồng, mang những nét đặc trưng của một làng truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ với “ cây đa, giếng nước, sân đình”. Nơi đây, còn lưu giữ được một quần thể di tích lịch sử – văn hoá phong phú, gồm có Đình Quan Xuyên ( thờ Ngũ vị đẳng thần); Miếu Thượng ( thờ Tam vị thượng đẳng thần Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân); Miếu Trung ( thờ linh ứng đại vương Phạm Công Nghi); Miếu Hạ ( thờ thành hoàng làng đại vương Vũ Quang Chiếu); chùa Quan Xuyên; nhà sắc hay nhà Hội đồng; Văn chỉ Quan Xuyên và lăng mộ Vũ Quang Chiếu. Tất cả những di tích trên đều có quan hệ mật thiết tới lễ hội làng Quan Xuyên, tạo thành một lễ hội hoàn chỉnh.

Theo thần tích, thần sắc tại đình Quan Xuyên thì cả “ Ngũ vị đẳng thần” đều có công lao rất lớn đối với dân, với nước. Tam vị đức thánh tiên đại diện cho quá trình khai phá vùng đất hoang vu thành những làng mạc trù phú, có công cứu nhân độ thế, mở mang nghề buôn… Và đặc biệt là lòng thuỷ chung son sắt trong gia đình, xã hội. Do có công lao to lớn, đời vua Lê Trang Tông (1533 – 1548, niên hiệu Nguyên Hoà ) đã sắc phong cho Đức Thánh Ông làm.

Chử công Đồng Tử thượng đẳng đại vương chi thánh tôn thần”, cho Tiên Dung công chúa là “ Tiên Dung công chúa thượng đẳng phù tiên tôn thần” và cho Tây Sa công chúa làm “ Nội giáp Tây cung công chúa huyền diệc tôn thần”.

Các đời vua về sau đều ban phong cho ba vị làm “ Thượng đẳng thần”. Do vậy, Quan Xuyên là một trong 72 làng ven sông Hồng thờ Chử Đồng Tử – Nhị vị phu nhân làm Đức Thành Hoàng. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Còn về Vũ Công chiếu và Phạm Quang Nghi là bạn quan đồng liêu. Tuy quê quán khác nhau nhưng cả hai đều là những công hầu khanh tướng, phụ giúp nhà Lê. Hai ông kết nghĩa làm anh em. Sau đó nhà Mạc chiếm ngôi, hai ông hiệp lực “phù Lê diệt Mạc” có nhiều công lao. Khi mất, Phạm Công Nghi được truy phong làm Thái Bảo Nghi Công, Linh ứng đại vương, còn Vũ Quang Chiếu làm thái phó, Quang Chiếu đại vương. Cả hai về sau được phong làm “ Trung đẳng thần”.

Trước đây, lễ hội truyền thống đình Quan Xuyên được tổ chức từ ngày mồng 9 đến ngày 16 tháng 2 Âm lịch, nhưng sau này vào năm 1938 cụ Cao Văn Linh ( làm thông phán ở Hưng Yên) đã quy định lịch tổ chức lễ hội vào các năm “ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi”.

Lễ hội đình Quan Xuyên cũng mang đặc trưng chung của lễ hội vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lễ hội cũng gồm có hai phần quan trọng là Lễ và Hội. Phần Lễ có nhiều lễ khác nhau như lễ “ Khai quang tẩy uế”, lễ “ yết cáo”, “ dâng vàng hương”, lễ chay, lễ mặn…Phần hội trở lên vui nhộn hơn, sôi động hơn bởi những đám rước như đám rước nước ở sông Hồng. Đặc biệt, Lễ hội còn diễn lại hai trò chơi tục “ Hèm” ( diễn lại sự tích liên quan đến vị thần thánh được thờ) của vị Thành hoàng làng là Vật lầu và tục rước quân đèn. Những cảnh giành giật, giằng co quyết liệt trên một sân rộng 75 vật thủ tham gia, ta sẽ hình dung ra cảnh lênh đênh sông nước của hai người bạn tâm giao đã từng trải qua… đám rước vừa uy nghi, vừa trang nghiêm vừa vui tươi, lành mạnh của 51 quân đèn từ nhà sắc ra đình, cũng tái hiện cảnh đang đêm dân làng Quan Xuyên ra sông vớt ngai và tàn của Phạm Công Nghi về thờ tại miếu Trung. Trò chơi này đã thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân các xã trong huyện, các huyện trong tỉnh và các tỉnh lân cận như Hà Tây, Thái Bình, Hà Nam đến dự, đưa lễ hội đình Quan Xuyên vượt khỏi làng khỏi xã, huyện trở thành một lễ hội đặc thù của Hưng Yên nói riêng và của cả vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nói chung.

  • Các lễ hội ở xã Tứ Dân huyện Khoái Châu

Xã Tứ Dân có nhiều khu di tích và lễ hội truyền thống như: lễ hội đền Mạn Xuyên ( từ ngày 12 đến 16 tháng 2 Âm lịch), lễ hội đền Ngự Dội ( từ ngày đến 10 tháng 2 Âm lịch), lễ hội đình làng Phương Trù ( mồng 8 đến 10 tháng 2 Âm lịch).

Lễ hội Mạn Xuyên thu hút rất nhiều du khách thập phương và những người con xa quê về dự lễ hội. Một lễ hội có một không hai ở miền Bắc Việt Nam với kiệu bay, lội nước thể hiện sự oai phong của vị tướng đánh giặc bảo vệ và mở mang bờ cõi “ kiệu bay quay đâu phải tay nghề. Ra oai thể hiện lời thề tướng quân” và sự nô nức, náo nhiệt của lễ hội Mạn Xuyên. Lễ hội gồm hai phần:

Phần Lễ: Ngày 8 tháng 2 mở cửa đền, của chùa, cửa đình treo cờ nổi trống. 14h ngày 14 tháng 2 khai mạc tổ chức rước lấy bát hương ở đền trong. Ngày 15 tháng 2 rước du trên toàn bộ đê Mạn Xuyên. Ngày 16 tháng 2 tổ chức rước trả bát hương và tế an vị bế mạc lễ.

Phần hội có nhiều trò chơi dân gian: đập niêu, đi cầu kiều, bịt mắt bắt dê… Buổi tối ngày 14, 15 tháng hai giao lưu văn nghệ, diễn xiếc… Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Lễ hội đền Ngự Dội làng Màn Trầu diễn ra từ ngày mồng 6 đến mồng 10 tháng 2 Âm lịch, đây cũng là một trong những lễ hội độc đáo mang bản sắc của Tứ Dân với nét văn hoá linh thiêng với kiệu bay và lội nước. Tương truyền đền Ngự Dội làng Màn Trầu là nơi Chử Đồng Tử gặp Tiên Dung. Đền nằm ở giữa bãi Mạn Trò châu cách sông Hồng 550m và cách km96 đê sông Hồng 195 là 550m.

Tứ Dân là vùng đất duy nhất ở đồng bằng châu thổ sông Hồng có các nét văn hoá kiệu bay và lội nước thể hiện nét văn hoá đặc thù và linh thiêng của vùng đất lịch sử chưa được biết đến trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

2.3.2.3 Nét đẹp sinh hoạt

a) Làng nghề thủ công

  • Miến Dong Tứ Dân

Xã Tứ Dân có nghề làm miến dong khá nổi tiếng. Từ những củ rong riềng được trồng trên chính mảnh đất quê hương. Người dân xã Tứ Dân đã biết chế biến thành miến. Nghề làm miến truyền thống đã tồn tại và phát triển gần nửa thế kỷ nay tại xã Tứ Dân.

Theo những người lớn tuổi trong xã kể lại thì nghề làm tinh bột và miến dong đã có mặt ở Tứ Dân khoảng 30 – 40 năm nay. Cùng với cách làm tinh bột từ củ dong riềng, người dân còn mạnh dạn lấy tinh bột hấp nóng để thành sợi miến, cũng từ đó nghề làm miến dong được hình thành và phát triển cho đến ngày nay. Miến Tứ Dân thường được chia thành hai loại đó là miến trắng và miến tráng mộc. Miến tráng mộc làm khó hơn, đòi hỏi kỹ thuật cao hơn, chính vì thế mà giá thành của loại này cũng cao hơn so với miến trắng, còn miến trắng chủ yếu là hàng được mọi người đặt đem đi biếu, làm quà vì loại miến này có hình thức đẹp hơn.

Để có một mẻ miến đẹp thì phải trải qua rất nhiều công đoạn phức tạp. Việc đầu tiên là phải chọn bột, phải lọc bột từ 2 đến 3 lần rồi sau đó đánh và hàm bột thành hồ, sau công đoạn này sẽ đưa vào máy cán ra bánh, bánh lại tiếp tục được cắt thành sợi nhỏ và cuối cùng là phơi nắng. Trong đó công đoạn chọn bột và pha chế được coi là khâu quyết định và quan trọng nhất.

Sản xuất miến dong ở Tứ Dân thường được thương lái đem đi bán ở các tỉnh lân cận như: Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Ninh và nhiều tỉnh miền trung như Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá. Cũng nhờ vào nghề làm tinh bột và miến dong được duy trì và phát triển, trong những năm gần đây đời sống nhân dân trong xã đang càng càng được cải thiện và thay đổi từng ngày.

  • Làng nghề đan bèo tây Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Đây là một nghề cũng mới xuất hiện tại xã Minh Châu huyện Khoái Châu. Trước kia ta thường thấy cây bèo tây chỉ là một loài cây mọc rất nhiều ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, gây phiền toái không ít cho các tỉnh này. Cây bèo tây mọc rất nhiều ở các sông nhỏ, mương, hồ, ao…Thân lá dài từ 30 -50cm, rễ bèo vừa dài vừa mọc chùm và đặc biệt chúng sinh sản rất nhanh, gây ách tắc dòng chảy và đặc biệt là chúng còn “ ăn hết màu”.

Từ những năm trước, con người phải rất khổ công vớt lên và gom lại để hủy. Nhưng mấy năm gần đây ở huyện Khoái Châu, bèo tây đã thực sự lên ngôi, rất có giá. Người có công khởi sự kết quả này là bà Chu Thị Nguyệt, giám đốc công ty Ánh Hồng, công ty trước đây chỉ sản xuất mặt hàng mây tre đan.

Bà Nguyệt đã vào thăm vùng Nam Bộ, thấy bèo tây là nguyên liệu sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, bà đã gia công học được cách chế biến và gia công hàng mỹ nghệ từ bào tây. Về quê, bà nhanh chóng tổ chức thu gom và chế biến sản xuất bèo tây thành các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Năm 2000, lô hàng đầu tiên đã được xuất khẩu sang Đức. Thắng lợi ban đầu là một động lực lớn, khuyến lệ công ty của bà và bà con nông dân trong vùng.

Bèo tây sau khi được người nông dân vớt lên mang về, trải qua các công đoạn hấp nhuộm thân bèo tây, phơi bèo tây sau khi đã hấp nhuộm, tiếp đến đó là công đoạn đòi hỏi sự khéo léo và óc thẩm mỹ của con người đã trở thành những chậu hoa, chậu cây, giá đĩa treo tường, túi sách, làn đi chợ…

Hiện nay, mỗi tháng mặt hàng bèo tây, công ty Ánh Hồng đã tiêu thụ 200 tấn bèo khô, xuất khẩu với số lượng lớn trị giá từ 200 đến 300 triệu đồng. Mặt hàng bèo tây đã được xuất khẩu sang các nước Châu Âu như: Đức, Séc, Ba Lan…sang các nước Châu Á như: Hàn Quốc,     Nhật Bản… Hàng thủ công mỹ nghệ từ bèo tây rất được ưa chuộng vì sự nhẹ nhàng, duyên dáng và độc đáo…

Hiện nay huyện Khoái Châu đã có trên 400 hộ dân tham gia vào việc thu gom bèo tây, phơi khô về chế biến, gia công một cách hối hả và tấp nập. Doanh thu từ công việc này đã thực sự giúp cải thiện đời sống của người nông dân. Hiện nay người lao động có mức lương thấp nhất cũng 800 ngàn đồng / tháng, người có kỹ thuật cao thu nhập từ 2 đến 3 triệu đồng / tháng. Ở những làng xung quanh thị trấn Khoái Châu đúng là người người làm bèo, nhà nhà làm bèo. Cũng từ khi có công việc làm bèo, đã không còn cảnh đàn ông nhậu nhẹt, cờ bạc, cả trẻ em cũng không chơi bời, lêu lổng như trước nữa.

Hiện tại, cùng với sự giúp đỡ của ủy ban nhân dân xã và huyện đã xây dựng được các nhà kho, bãi tập kết hàng, xây nhà sấy bèo, áp dụng các kỹ thuật sấy bèo bằng diêm sinh, dùng chất bảo quản bèo không bị ẩm mốc, ngăn chặn tối đa chất độc hại thải ra môi trường. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Bèo tây giờ đây đã thực sự trở thành loài cây hữu ích rất nhiều cho người nông dân huyện Khoái Châu, nó đã mang lại công ăn việc làm cho người nông dân, giúp cải thiện đời sống hàng ngày, nhiều gia đình ngày càng trở lên khấm khá nhờ cây bèo tây.

b) Đặc sản và văn hoá ẩm thực

  • Đặc sản chuối Tiêu Hồng

Hưng Yên không chỉ nổi tiếng với nhãn lồng, mà mỗi vùng mỗi địa phương trong tỉnh đều có những loại cây trái đặc trưng riêng.

Trong những năm qua xã Tứ Dân huyện Khoái Châu đã thâm canh được một loại cây đó là chuối tiêu hồng lớn nhất của huyện. Sau những cánh đồng chuối tiêu xanh tốt là những ngôi nhà mái bằng, nhà cao tầng và con đường làng sạch đẹp.

Diện tích chuối của Tứ Dân chiếm gần 1/3 diện tích chuối toàn huyện, trong đó chuối tiêu hồng chiếm 90%. Thấy được kết qủa thu được đáng bất ngờ, nhân dân toàn Tứ Dân đang dần chuyển dịch đất của một số loại cây trồng khác sang trồng chuối tiêu hồng. Nhân dân xã Tứ Dân đang phấn đấu đưa cây chuối tiêu hồng sớm có thương hiệu như một số loại cây trồng khác của tỉnh.

Chuối Tứ Dân là loại chuối có hình thức đẹp, ăn lại rất ngọt và thơm. Loại chuối này có thể được dùng trong những ngày lễ tết đặt lên bàn thờ tổ tiên hoặc có thể mua biếu làm đặc sản mỗi khi du khách đến nơi đây.

  • Văn hoá ẩm thực
  • Chả gà Tiểu Quan

Làng Tiểu Quan thuộc xã Phùng Hưng, huyện Khoái Châu từ lâu đã lưu truyền một món ăn lạ, độc đáo, hấp dẫn: Món chả gà

Cách làm chả gà rất công phu, lấy thịt nạc, bỏ hết gân, xương rồi chặt nhỏ cho vào cối giã, khi gần được trộn với lòng đỏ trứng gà, nước mắm ngon, hạt tiêu, gừng, mỡ lợn thái hạt lựu rồi giã tiếp, giã xong lấy mo cau xúc và phết thịt lên phên tre để nướng, việc phết thịt cũng không phải dễ dàng, nếu mỏng quá thịt cháy và chảy sệ xuống lò, nếu dày quá thịt không chín đều, nướng chả phải bằng than hoa, nếu là than nhãn thì càng tốt, đặc biệt nếu có quả thông khô cho vào thì càng đượm, càng thơm. Ăn chả gà đúng hơn là thưởng thức một món ăn độc đáo, không ăn bỗ bã như những thứ khác. Vào dịp Tết trời se lạnh bạn hữu quây quần nâng chén rượu Trương Xá với chả gà, chiều xuân vào tối lúc nào không hay.

  • Bánh lá Tứ Dân Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Bánh lá còn gọi là bánh răng bừa hay bánh tẻ, trong những ngày Tết nguyên đán, Tết Đoan ngọ, rằm tháng Bảy, các lễ tục, ngày giỗ … trong dịp lễ hội làng rằm tháng 2 âm lịch, liên hoan… trong nhà mỗi gia đình ở làng Mạn Xuyên không thể thiếu bánh lá. Bên mâm cỗ đầy nhiều thức ăn ngon, có thêm đĩa bánh lá chưa bóc lá, bốc khói nóng sốt, dậy mùi thơm của hành mỡ. Và sau khi cúng xong, hạ cỗ xuống ăn, vừa ăn vừa bóc lá, thật không gì thú vị hơn.Bánh lá được người dân ở làng Mạn Xuyên, xã Tứ Dân thường gọi bởi bánh gói bằng lá dong. Bánh này còn gọi là bánh tẻ vì được làm từ gạo tẻ, Gạo ngâm mục rồi xay. Nhân bánh gồm thịt, hành khô, mộc nhĩ. Bánh được gói trong lá dong rồi hấp hoặc luộc. Để làm bánh lá Mạn Xuyên, bột cho vào nồi quấy chín 50% rồi lại cho vào máy đánh nhuyễn thêm cho mẻ bột vừa sánh, vừa dẻo lại dai tấm bánh. Khâu làm bột này quyết định chất lượng bánh có ngon hay không. Người ta bảo rằng cách pha chế và đánh bột được coi là bí quyết riêng của từng gia đình trong làng. Nhân bánh từ hành khô phi thơm lừng, thả thịt ba chỉ băm nhỏ rồi nước mắm ngon, hạt tiêu, mộc nhĩ thái mịn đảo đều tay, khi thịt hơi săn, tỏa mùi thơm là được. Gói bánh hay còn gọi là lấy bột cũng là khâu quan trọng, đòi hỏi phải khéo tay, bột phết đều, gọn trong lòng lá, nhân đặt chính giữa. Bánh Lá gói bằng lá dong trồng ở vườn , mềm, dai và có mầu xanh rất riêng. Bánh gói xong rồi là bánh sống, muốn ăn phải nấu chín bằng cách đồ giống như đồ xôi hoặc luộc chín.

c) Nghệ thuật dân gian truyền thống

  • Hát trống quân

Hát trống quân là một lối hát giao duyên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thường được tổ chức vào ban đêm, dưới trăng mùa thu, trong lúc có hội hè hoặc khi dân làng rảnh rỗi để phô diễn tài nghệ đối đáp và trao đổi tâm tình trai gái. Gọi là hát trống quân vì lối hát này phải cần đến một nhạc cụ gồm có một cái thùng trống và một sợi dây căng ngang lên trên để khi dứt câu hát có tiếng trống đệm vào “ Thình, thùng thình”.

Nghệ thuật hát trống quân là một phương thức giao duyên của trai gái thôn quê đồng bằng Bắc Bộ, có ở rất nhiều vùng, từ Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên … cho đến Thanh Hoá, tuy nhiên mỗi vùng lại co mỗi khác biệt chút ít. Riêng trống quân Dạ Trạch, sự ra đời của nó lại được gắn chặt với huyền tích về thiên tình sử trên bãi Tự Nhiên. Nơi Tiên Dung gặp Chử Đồng Tử. Chuyện kể rằng sau cái duyên kỳ ngộ trên bãi sông, thì cặp vợ chồng Tiên Dung Chử Đồng Tử cắm đất lập làng, khẩn hoang chiêu mộ dân chúng. Họ dậy dân cấy lúa, nuôi tằm, dùng phép tiên chữa bệnh cho nhân dân. Lúc rảnh rỗi, nàng công chúa Tiên Dung lại dậy trai gái hát đối. Chính từ điệu hát này mà đức thánh Chử Đồng Tử lại cưới thêm một bà vợ nữa, tên là Tây Sa công chúa. Điệu hát ấy được coi chính là điệu hát trống quân Dạ Trạch còn lưu truyền đến ngày nay, mà người ta vẫn thường hát trước cửa ngôi Đình Hoá – xã Dạ Trạch. Nơi thờ Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân.

Thời xưa, khi nông nhàn hay kỳ trăng sáng, trai gái ở thôn Yên Vĩnh ( xã Dạ Trạch ngày nay), thường tìm bãi đất trống trong làng, đào đất làm trống quân, chải chiếu ngồi hát. Việc hát trống quân không cầu kỳ tinh tế như quan họ, mà lại nôm na ngẫu hứng ứng tác, cứ thơ lục bát là hát được, lời hát có lúc chân tình giản dị, nhưng cũng có lời “bốc lên đến giời”. Dưới đây là đoạn hát đối đáp của hội trống quân: Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Bên nam hát rằng:

  • “Đồn em hay kể chuyện kiều
  • Nhân đây anh hỏi mấy điều xem sao?
  • Kiều – Vân em chị thế nào
  • Ai hơn ai kém má đào xuân xanh”.
  • Bên nữ mới đáp:
  • Hỏi sao ngoắt ngoéo thế anh. Thuý Kiều là chị rõ rành hẳn hoi
  • Hai làng cùng đẻ sinh đôi
  • Anh nhắc câu chuyện em thời tỏ ra
  • Đầu lòng hai ả Tố Nga…

Đáp đi đáp lại cứ thế, có đôi trai tài gái sắc hát mấy đêm liền mới chịu nhau, rồi lên duyên… Trống quân có nhiều lối hát: hát chào; hát hoạ (đối); hát đố ( hoa quả, sông núi, đố lấy kiều); hát thách, hát ước hẹn, hát thề nguyện… Một canh hát trống quân ngày trước, giống như quan họ, không có thời hạn nhất định, đám hát có khi thâu đêm, nối từ hôm này sang hôm khác. Những bài hát cổ khôi phục lại, có bài dài tới 15 – 20 phút. Trống quân cổ ở Dạ Trạch ngay lần đầu tiên đem đi trình làng đã đoạt huy chương vàng Liên hoan văn nghệ dân gian toàn quốc.

So với những làn điệu dân ca giao duyên khác như hát đúm, hát ghẹo, hát xoan, hát ví, thì trống quân là một thể hát có thể nói là đơn giản nhất cả về âm nhạc lẫn cách diễn xướng. Nhạc cụ gõ duy nhất là chiếc trống quân giữ nhịp, tạo tiết tấu. Nhưng đúng theo thể cách của những đám hát trống quân xưa ở Dạ Trạch thì thường dùng cái thùng gỗ đựng nước mắm của những thuyền buôn mắm ngày xưa, cho tiếng rất vang và ấm.

Loại thùng này bằng bằng gỗ ghép đai mây phết sơn ta, cao khoảng 40cm, đường kính đáy 30cm, đựng được 20 lít nước mắm. Người ta đào một hố đất, kê mấy thanh tre ngang rồi úp ngược cái thùng gỗ xuống. Sau đó đóng cọc căng dây mây, sợi dây dài 5m vắt qua một cái chạc chữ V trên mặt đáy thùng gỗ. Khi hát, người ta cầm dùi gỗ, gõ vào cái dây mây căng thẳng.

Người hát trải chiếu, nam một bên, nữ một bên. Từng đôi một vào hát thì ngồi trên hai chiếc ghế gần thùng trống, cách nhau sợi dây trống. Cứ nam hát xong thì người nữ hát đáp, hoặc ngược lại, không hát song ca. Vì là hát đối đáp, nên người hát buộc phải hát rõ lời, không có nhấn nhá luyến láy gì nhiều. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Trống quân Dạ Trạch bị đứt đoạn năm 1945 do biến động lịch sử. Năm 1992, một nhóm người yêu thích văn nghệ dân gian trong đó có bác Nguyễn Duy Phí, Lê Hồng Điệp đã đi sưu tập lời hát cổ, khôi phục thành các bài hát đối. Họ lập ra đội trống quân Dạ Trạch, vận động các thành viên tuổi trung niên ở xã tham gia, mời những nghệ nhân từng tham gia hát trống quân và chính họ đã góp phần tái tạo gìn giữ làn điệu dân ca trống quân đồng bằng Bắc Bộ.

Với người dân Dạ Trạch, một làn điệu dân ca cổ còn lưu truyền và phát triển làm đẹp thêm truyền thống văn hoá làng quê mới là điều đáng quý. Tâm niệm đó không chỉ của các bậc nghệ nhân già mà của cả lớp diễn viên trẻ của dân làng bên bờ đầm Dạ Trạch có câu truyện huyền thoại Chử Đồng Tử và Tiên Dung.

2.4 Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật

  • Hệ thống giao thông: Khoái Châu có 964,5 km đường bộ, trong đó 53,3km đường tỉnh và quốc lộ; 19,3km đường tỉnh uỷ khác cho huyện quản lý 34,9km đường huyện; 857km đường do xã, thôn quản lý.
  • Phương tiện vận chuyển: Toàn huyện có 5 chiếc xe chuyên chở khách du lịch thuộc các khu công nghiệp lớn. Khách ở đây chủ yếu là công nhân, cán bộ, nhân dân các tỉnh lân cận, thường đi dải dác vào các ngày lễ cuối tuần…
  • Hệ thống điện lực: Toàn huyện có 87 biến áp với dung lượng 21.830 KVA, trong đó có 32 máy với dung lượng 8.530 KVA cung cấp cho các trạm bơm, còn có 55 máy với tổng dung lượng 13.300 KVA cung cấp điện cho các hoạt động dân sinh kinh tế khác.
  • Nước sinh hoạt: Thị trấn Khoái Châu và thị tứ Bô Thời được đầu tư 2 công trình nước sạch đã được đưa vào hoạt động phục vụ 10.000 dân. Trên 90% dân số trong huyện dùng nước sạch.
  • Thông tin liên lạc: Khoái Châu có 1 bưu điện tổng và 25 bưu điện văn hoá xã được trang bị máy móc thiết bị tiên tiến và phủ sóng toàn huyện . Hiện nay 100% số xã trong huyện đã có điện thoại, bình quân 17 máy/ 100 dân.
  • Về giáo dục đào tạo: Hệ thống giáo dục của huyện gồm có 1 trường đại học (đại học sư phạm kỹ thuật Hưng Yên tại xã Dân Tiến), 1 trường cao đẳng ( trường cao đẳng Cơ Điện và Thuỷ Lợi xã Dân Tiến), 1 trường Trung Học Kinh tế Kỹ Thuật Tô Hiệu, 6 trường THPT vàTương đương: Khoái Châu ( thị trấn Khoái Châu), Nguyễn Siêu ( xã Đông Kết), Trần Quang Khải ( xã Dạ Trạch), Nam Khoái Châu ( xã Đại Hưng), Dân lập Khoái Châu ( xã Phùng Hưng, Bổ túc văn hoá ( thị trấn Khoái Châu và xã An Vĩ). Trên 27 Trường tiểu học và trung học cơ sở.
  • Cơ sở y tế: Về cơ sở y tế toàn huyện có 1 bệnh viện huyện, 3 phòng khám đa khoa khu vực, 24 trạm y tế xã, thị trấn chưa kể mạng lưới y tế trong khu vực kinh tế công nghiệp, 85% trạm y tế xã, thị trấn có bác sỹ đạt tiêu chuẩn. Ngành y tế huyện đã thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng đảm bảo chức năng là ngành chăm sóc sức khoẻ cho toàn dân. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Cơ sở lưu trú: Hiện nay huyện đang từng bước đầu tư tuy nhiên vẫn chưa thật sự chú trọng. Theo thống kê sơ bộ của UBND huyện thì cơ sở lưu trú của huyện bao gồm 2 khách sạn, 20 nhà nghỉ với 308 phòng, nhà khách nhìn chung các phòng nghỉ đều có quy mô vừa và nhỏ, nằm rải rác trong toàn huyện và tập trung nhiều nhất ở thị trấn, hoặc gần các khu công nghiệp.

Do có quy mô nhỏ nên cơ sở lưu trú chủ yếu phục vụ khách qua đường, khách là cán bộ, công nhân của các khu công nghiệp, khách vãng lai, thời gian lưu trú không nhiều.

Thực trạng khai thác của các cơ sở lưu trú vẫn còn nhiều hạn chế, hầu hết các nhà nghỉ, nhà khách chỉ làm nhiệm vụ kinh doanh chỗ ăn nghỉ cho khách còn các dịch vụ khác đều không có.

Nhà hàng phục vụ ăn uống: Số lượng các nhà hàng phục vụ ăn uống thường gắn liền với các nhà nghỉ, nhà khách. Ngoài ra còn có các khu dân cư tập trung, thị trấn, các điểm du lịch và dọc đường quốc lộ.

Cũng giống như các nhà nghỉ, quy mô của các cơ sở phục vụ ăn uống phần lớn trung bình và nhỏ, thường phục vụ khách ăn bình dân.

Theo nguồn của phòng văn hoá thông tin huyện, hàng năm số cơ sở phục vụ cho nhu cầu ăn uống là vào khoảng 156 cơ sở. Tập trung chủ yếu ở thị trấn Khoái Châu.

Tiểu kết chương 2

Chương 2 của khoá luận đi sâu vào việc nghiên cứu các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu. Qua việc nghiên cứu tiềm năng, có thể đánh giá sơ bộ về tiềm năng cũng như khả năng phát triển du lịch của huyện. Từ đó có cách nhìn khái quát hơn về ngành du lịch của huyện những mặt mạnh và hạn chế cần khắc phục, từ đó có những giải pháp tốt nhất nhằm khai thác tốt nguồn tài nguyên vốn có của huyện. Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu.

Khoái Châu có rất nhiều di tích lịch sử văn hoá, đặc biệt là có nhiều di tích được xếp hạng quốc gia, hơn thế nữa Khoái Châu còn là trọng điểm, có sông Hồng chảy qua, đây là một con sông lớn nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, với cảnh quan sinh thái hấp dẫn của vùng ven đê, không khí trong lành và còn có những làng vườn, trang trại rộng lớn…Vì vậy kết hợp giữa du lịch văn hoá và du lịch sinh thái sẽ tạo thành một tổng thể tương đối vững chắc cho phát triển du lịch.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Hiện trạng hoạt động du lịch của huyện Khoái Châu

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Các điều kiện cung ứng du lịch của huyện Khoái Châu […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993