Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Một số đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ môi trường
Thứ nhất, Nghị quyết 41/NQ/TW của Bộ Chính Trị ngày 15/11/2004 về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Quyết định 1216/QĐ-TTg về phê duyệt chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã đưa ra những quan điểm, mục tiêu, định hướng các nội dung, biện pháp BVMT trong đó có đưa ra những nhóm nội dung, biện pháp cụ thể hướng tới mục tiêu giải quyết cơ bản các vấn đề môi trường tại các KCN, lưu vực sông, làng nghề và vệ sinh môi trường nông thôn. Dựa trên cơ sở đó, UBND thành phố Hà Nội đã thông qua Kế hoạch 221/KH-UBND về thực hiện chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cũng chỉ rõ các nội dung cần thực hiện để công tác BVMT đạt kết quả cao như phòng ngừa, kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường; xử lý chất thải, giảm thiểu chất thải phát sinh các nguồn gây ô nhiễm; cải thiện và phục hồi các khu vực bị ô nhiễm… Cụ thể đối với vấn đề BVMT ở KCN, Kế hoạch có quy định: “Tăng cường công tác điều tra, thống kê, kiểm kê các nguồn thải trên địa bàn thành phố; kiểm soát các hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, hoạt động vận chuyển chất thải; xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, quản lý xuất nhập khẩu và lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường trong kiểm tra, giám sát việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất.” 25 Cùng với những chiến lược, quyết định về BVMT của cơ quan quản lý nhà nước, thì các quy định pháp luật về BVMT là cần thiết để thực hiện tốt hơn nữa các nội dung trong chiến lược BVMT quốc gia.
Thứ hai, Pháp luật về BVMT đã có những quy định về quản lý chất thải, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường nhưng hiện nay các quy phạm pháp luật đó còn một số bất cập, thiếu sự thống nhất, tạo ra những lỗ hổng gây khó khăn trong công tác quản lý, áp dụng, đặc biệt là công tác BVMT trong các KCN. Hầu hết các quy phạm pháp luật mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung, có tính định khung, hơn nữa các quy định pháp luật về BVMT ở các khu công nghiệp còn hạn hẹp. Tình hình vi phạm pháp luật về môi trường ngày càng có những hành vi táo bạo hơn khiến môi trường ngày một xấu đi và việc gánh chịu những hậu quả vì ô nhiễm môi trường của người dân ngày càng nặng nề. Hơn nữa, Hiến pháp năm 2013 đã quy định quyền con người được sống trong môi trường trong lành, do vậy pháp luật về BVMT cần phải nội luật hóa để đảm bảo quyền này của người dân trên thực tiễn. Và hoàn thiện pháp luật môi trường là bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Điều này thôi thúc cần có một hệ thống pháp luật đủ chặt chẽ, phù hợp để đảm bảo người dân phải luôn sống theo pháp luật. Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
Thứ ba, môi trường hiện nay đang là chủ đề mà dư luận vô cùng quan tâm, hàng loạt các hiện tượng xảy ra, không chỉ ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên như rác thải ngập ngụa quanh các bãi biển, khu nghỉ mát sau dip nghỉ lễ 30/4 – 1/5 vừa qua, hay còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của sinh vật, đặc biệt là quyền con người được sống trong môi trường trong lành như hiện tượng cá chết ở sông, biển do nguồn nước bị ô nhiễm, rồi thực phẩm bẩn tràn lan tác động lớn đến sức khỏe của người dân…Trước thực trạng môi trường như vậy, rất cần đến sự điều chỉnh của pháp luật để phàn nào ngăn chặn các hiện tượng đó. Và để kịp thời ứng phó, pháp luật cần có những quy định phù hợp hơn, hoàn thiện hơn.
Thứ tư, đến nay Việt Nam cũng đã tham gia khá nhiều Công ước quốc tế về BVMT và cũng còn nhiều Điều ước quốc tế về lĩnh vực môi trường Việt Nam chưa tham gia cũng như do sự phát triển mạnh về kinh tế nên vấn đề BVMT đang trở nên vô cùng cấp bách, do đó các quốc gia luôn muốn cùng nhau thỏa thuận, cùng nhau kí kết những Điều ước quốc tế khác để đưa ra các biện pháp BVMT toàn cầu. Chính vậy, để phát triển hơn nữa trong hợp tác quốc tế về lĩnh vực này thì việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về BVMT nói chung và BVMT KCN nói riêng là điều cần thiết nhằm phù hợp hơn với pháp luật và thông lệ quốc tế trên cơ sở thỏa mãn với thực tiễn ở Việt Nam, với sự phát triển kinh tế-xã hội để hội nhập kinh tế quốc tế.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
3.2. Một số đề xuất hoàn thiện
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về bảo vệ môi trường
Mặc dù việc BVMT đã được thể hiện qua Hiến pháp, Luật BVMT, các Nghị quyết, Nghị định, Thông tư với các quy định cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường; BVMT đất, nước, không khí; ứng phó và phòng ngừa sự cố môi trường, biến đổi khí hậu; bảo về tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học… Tuy nhiên trong bối cảnh mở cửa hội nhập khu vực, quốc tế và sự biến đổi mạnh của môi trường cũng như vấn đề công nhận quyền môi trường thì đặt ra nhiều yêu cầu hoàn thiện pháp luật về BVMT.
Pháp luật về BVMT cần được hoàn thiện theo hướng phát triển bền vững. Trong thời buổi hiện nay, việc phát triển kinh tế cần phải đi đôi với bảo vệ môi trường và bảo đảm an sinh xã hội. Nó đảm bảo sự phát triển đồng bộ và bền vững ở mọi lĩnh vực. Không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai thì việc phát triển này là luôn cần thiết trên cơ sở kết hợp hài hòa, chặt chẽ những không thiếu tính thống nhất giữa các vấn đề của đất nước. Do vậy, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định về luật BVMT thì các ngành luật liên quan cũng cần được hoàn thiện như Luật đầu tư, luật khoáng sản, luật dầu khí… để đảm bảo bên cạnh việc chấp hành theo các quy định thì các chủ thể cần phải thực hiện BVMT trong khi thực hiện những hoạt động mà Luật cho phép. Ví dụ, về khai thác khoáng sản thì Khoản 1, Điều 12 Luật khoáng sản quy định việc lập quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản chung cả nước phải bảo đảm nguyên tắc “bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác.” Như vậy, Luật khoáng sản đã lồng ghép quyền khai thác khoáng sản của các chủ thể theo Luật với nghĩa vụ BVMT khi thực hiện hoạt động đó. Đây là một hướng quy định khá hiệu quả, bắt buộc mọi người trước khi hưởng quyền phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với cộng đồng. Để công tác BVMT đạt kết quả cao thì không chỉ Luật BVMT điều chỉnh mà cần hơn nữa các quy định pháp luật trong các lĩnh vực cùng điều chỉnh để phần nào tạo ra sự thống nhất trong các văn bản pháp luật và đặc biệt là thay đổi ý thức của các chủ thể trong vấn đề BVMT, cho mọi người thấy được tầm quan trọng của BVMT đối với đời sống, quyền con người. Cần lồng ghép cụ thể hơn quy định về BVMT vào quy phạm pháp luật ở các ngành, lĩnh vực khác trong hệ thống pháp luật việt Nam. Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
Nhưng để đảm bảo hơn việc BVMT thì trước tiên pháp luật về BVMT cần phải được chú ý hoàn thiện, tạo một cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất thì mới có sự kết hợp quy định trong các văn bản pháp luật của lĩnh vự khác. Qua hơn 20 năm thực hiện Luật BVMT từ khi Luật BVMT năm 1993 được ban hành, thì cũng có những kết quả nhất định trong việc điều chỉnh đến hoạt động môi trường, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều cá nhân, tổ chức không tuân thủ pháp luật gây ra ô nhiễm môi trường. Có thể do thiếu sự điều chỉnh kịp thời, phù hợp của pháp luật nên dẫn đến tình trạng trên. Do có sự hạn chế về kiến thức, tác giả cũng đưa ra một vài đề xuất, mong muốn góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện hơn quy định pháp luật về BVMT, đặc biệt là BVMT ở các khu công nghiệp. Cụ thể:
Quy định về đánh giá tác động môi trường.
Để báo cáo ĐTM đảm bảo chất lượng thì việc quy định các tiêu chí, cơ sở xác định chất lượng của một bản báo cáo là thực sự cần thiết. Hơn nữa, thúc đẩy hơn sự tham gia của cộng đồng vào báo cáo ĐTM. Cần phải xác định rõ nguyên tắc và cơ thế tham gia của cộng đồng và phải đảm bảo sự tham gia này trong cả ba giai đoạn lập, thẩm định và giám sát thực hiện báo cáo ĐTM. Xác định rõ thành phần đại diện cho cộng đồng dân cư là những ai, trình độ học vấn như thế nào, có đảm bảo được việc truyền tải những nguyện vọng của toàn bộ dân cư hay không. Trong hướng dẫn quy trình thực hiện ĐTM, cần quy định rõ về trách nhiệm và chế tài đối với chủ đầu tư, cơ quan thẩm quyền về tiếp nhận và phản hồi thông tin. Công khai địa chỉ liên lạc của cá nhân, cách thức liên lạc với tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm phản hồi thông tin và quy định thời hạn phản hồi. Xây dựng cơ chế giám sát cụ thể và những phát hiện trong quá trình giám sát phải được báo cáo cho cơ quan quản lý nhà nước để có biện pháp xử lý phù hợp, kịp thời.
Với người có chuyên môn và nghĩa vụ phải lập báo cáo ĐTM, pháp luật cần có quy định cụ thể đối với việc thi sát hạch, quản lý chứng chỉ đối với những người có chứng chỉ hành nghề lập báo cáo ĐTM. Cần quy định chặt chẽ về chủ thể lập báo cáo ĐTM, quy định mỗi báo cáo do một cá nhân có chứng chỉ hành nghề chịu trách nhiệm để nội dung báo cáo được thống nhất và hơn hết là việc chịu trách nhiệm về báo cáo đó, tránh tình trạng chịu trách nhiệm tập thể mà không có người phải chịu trách nhiệm chính. Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
Hội đồng thẩm định và phê duyệt cũng cần phải nghiêm ngặt hơn để đảm bảo những báo cáo ĐTM có chất lượng. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền cần kiên quyết không phê duyệt những báo cáo ĐTM không khả thi và dự án không được cấp giấy phép đầu tư, giấy phép đăng kí kinh doanh. Cần có sự độc lập, rõ ràng giữa hội đồng thẩm định và cơ quan phê duyệt. Như Pháp luật Trung Quốc quy định rất chặt chẽ về vấn đề này, cụ thể, đối với mỗi báo cáo ĐTM, hội đồng thẩm định sẽ được thành lập dựa trên lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách, nghiêm cấm mọi tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp giữa chủ dự án và thành viên hội đồng để tránh tình trạng tham nhũng xảy ra. Đây cũng là một trong những chính sách pháp luật khá hay mà Việt Nam nên phát triển. Không những vậy, pháp luật Trung Quốc còn quy định tách bạch giữa trách nhiệm của người lập báo cáo ĐTM, người thẩm định và người phê duyệt. Theo đó, người lập báo cáo ĐTM sẽ bị tước thẻ hành nghề nếu có sai sót trong quá trình lập. Thành viên hội đồng thẩm định cũng sẽ bị loại ra khỏi danh sách của Bộ BVMT nếu có sai sót trong quy trình hoặc nội dung báo cáo thẩm định hoặc báo cáo ĐTM…
Quy định về quản lý, xử lý chất thải, đặc biệt là chất thải công nghiệp.
Hiện nay, Nghị định 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu, Thông tư 36/2015/TT-BTNMT về quản lý chất thải nguy hại đã có những quy định chung về nguyên tắc, quá trình quản lý chất thải, nước thải và khí thải đặc biệt là chất thải nguy hại. Do vậy, cần ban hành những văn bản pháp luật chuyên biệt quy định về vấn đề quản lý và xử lý chất thải, nước thải và khí thải trong các KCN, khu kinh tế, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Việc quy định vậy sẽ giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng áp dụng và việc thực hiện pháp luật mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, các ban ngành nên đưa ra những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với điều kiện kinh tế và sự phát triển khoa học- kỹ thuật hiện nay để đảm bảo các quy chuẩn đấy thiết thực hơn, các doanh nghiệp có thể đáp ứng được.
Các cơ quan có thẩm quyền cần phối hợp để ban hành một quy chế quản lý chất thải riêng. Đây sẽ là cơ sở để việc quản lý chất thải một cách thống nhất, hiệu quả và triệt để. Đồng thời khuyến khích, đầu tư áp dụng các công nghệ thân thiện với môi trường trong việc tái sử dụng chất thải để biến những thứ gây hại thành những thứ có ích cho mọi người, thân thiện với môi trường. Về vấn đề này, có thể thấy trên thế giới nhiều quốc gia đã sử dụng và xây dựng khá hiệu quả công nghệ tái sử dụng nước thải. Ví như ở Singapore, chính sự khan hiếm nước sạch đã khiến quốc đảo này phải phát triển công nghệ tái sử dụng nước thải và họ đã đạt được những bước tiến đáng kể. Để làm được điều này, việc tái chế nước thải phải trải qua các giai đoạn khác nhau gồm: xử lý ở các nhà máy khử muối, hệ thống hứng nước mưa tiêu chuẩn và sau đó là hệ thống “tái chế” nước thải. Từ một nguồn nước thải vô ích có khi còn gây hại cho môi trường giờ lại trở thành một một nguồn nước có ích, cung cấp nước sạch cho đất nước. Đây là mô hình khá mới mẻ trong việc bảo vệ môi trường ở Singapore và nó sẽ là một trong những chiến lược cải thiện môi trường và phát triển đất nước mà nhiều quốc gia hướng tới, trong đó có Việt Nam. Do vậy để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng sản phẩm tái chế, giảm sự lãng phí cho nền kinh tế thì ngoài việc đầu tư xây dựng hệ thống tái chế, các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này cũng cần được ban hành để thúc đẩy việc tái sử dụng chất thải ví dụ như tại Nhật Bản có Luật xúc tiến sử dụng tài nguyên tái chế (1992); Luật xúc tiến thu gom, phân loại, tái chế các loại bao bì (1997)… Ngoài việc xử lý chất thải bằng việc đốt hay tái chế thì ở Nhật Bản còn có một cách xử lý rất độc đáo, đó là công cuộc tạo thêm đất bằng rác thải thay vì phải tốn thêm đất để chôn rác. Đây cũng là một phương pháp hay mà Nhà nước nên hướng tới trong tương lai để giảm thiểu phần nào lượng rác thải ra môi trường. Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
Một trong những biện pháp nhằm hạn chế việc phát thải ra môi trường ở các doanh nghiệp được áp dụng tại nhiều quốc gia đó là nghĩa vụ nộp phí BVMT đối với nước thải, chất thải. Mặc dù mức phí đã được sửa đổi theo Nghị định 25/2013/ NĐ-CP quy định về phí BVMT đối với nước thải còn quy định về mức phí đối với chất thải rắn vẫn áp dụng theo Nghị định 174/2007/NĐ-CP. Để tránh tình trạng thu mức phí ngang nhau giữa các doanh nghiệp có hệ thống xử lý và không có hệ thống xử lý nước thải, chất thải theo quy định thì các nhà làm luật nên xem xét việc thu mức phí, cần có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp để đảm bảo sự công bằng. Pháp luật cần bổ sung, sửa đổi mức thu phí BVMT để đảm bảo mục đích của việc sử dụng công cụ kinh tế này. Đánh vào túi tiền của người gây ô nhiễm để làm thay đổi hành vi của họ theo hướng có lợi cho môi trường sống của con người.
Quy định về xử lý vi phạm pháp luật về BVMT.
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi nhất mà chủ thể phải gánh chịu khi có những hành vi vi phạm pháp luật. Và trách nhiệm pháp lý đặt ra khi chủ thể có hành vi vi phạm các quy định pháp luật về BVMT. Về vấn đề này, Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường và Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; đến nay, Quốc Hội đã thông qua bộ luật hình sự 2015, sẽ có hiệu lực vào ngày 1/7/2016 đã đưa những hình thức xử phạt hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật môi trường.
Tuy nhiên những hình thức xử lý khi tổ chức, doanh nghiệp vi phạm còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe và hơn hết truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra với chủ thể là cá nhân. Vậy việc vi phạm của các tổ chức, doanh nghiệp trong KCN liệu có cá nhân nào chịu trách nhiệm chính hay không, hay chỉ xử lý hành gây hại cho môi trường đối với tập thể doanh nghiệp. Quy định pháp luật mới chỉ dừng lại ở xử phạt hành chính đối với tổ chức, doanh nghiệp vi phạm. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, doanh nghiệp gây ô nhiễm như có thể đình chỉ hoặc chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp cố tình gây ô nhiễm, suy thoái môi trường…là cần thiết để hoàn thiện pháp luật. Như chúng ta thấy, ở một số nước trên thế giới đã áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân như Sigapore, Nhật Bản, Hàn Quốc… Có thể như vậy mới đủ sức để răn đe, ngăn chặn các hành vi gây ô nhiễm môi trường ở các doanh nghiệp, bởi trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất. Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
Việc các chủ thể vi phạm không đơn thuần chỉ là những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường mà sâu xa đó là hậu quả, thiệt hại do chính hành vi đó gây ra.Theo quy định, chủ thể gây ra hậu quả phải chấp hành những mức hình phạt tùy thuộc vào loại hành vi vi phạm của mình. Bồi thường thiệt hại là hình phạt khá phổ biến khi có hành vi gây thiệt hại. Nhưng trên thực tế việc xác định mức thiệt hại là rất khó, do vậy, việc bồi thường chỉ mang tính chất tương đối. Chưa có một cơ chế hay một tiêu chuẩn nào làm thước đó cho việc xác định những thiệt hại đối với những thiệt hại về sứa khỏe, đến kế sinh nhai của người dân. Luật quy định thiếu cụ thể về vấn đề này, khó áp dụng trên thực tiễn, nên sẽ ảnh hưởng đến việc bồi thường thiệt hại.Vì thế, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về cách thức, tiêu chuẩn xác định mức thiệt hại trong trường hợp vi phạm gây hậu quả là rất quan trọng để đưa ra mức bồi thường phù hợp đối với hành vi vi phạm.
3.2.2. Phát triển nguồn nhân lực trong công tác bảo vệ môi trường
Để công tác BVMT đạt hiệu quả cao thì bên cạnh các quy định pháp luật về BVMT thì cần phải có một nguồn nhân lực đủ mạnh vừa để giải thích, áp dụng pháp luật cũng như để quản lý môi trường. Đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực môi trường cũng đã có nhiều thành tích đáng kể góp phần BVMT nhưng hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn tồn tại một số yếu kém trong khâu quản lý, ứng phó các thiệt hại môi trường. Và sự việc cá chết hàng loạt ở các vùng biển miền Trung là một ví dụ điển hình về quản lý nhà nước trong lĩnh vực môi trường. Theo như thông tin được cập nhật, sự việc được người dân phát hiện thì phải mất một thời gian sau khi thiệt hại nghiêm trọng, gây tổn thất đến kế sinh nhai của người dân vùng biển thì cơ quan chức năng mới đưa ra những phương hướng tạm thời để phần nào khắc phục hậu quả. Điều đó cho thấy thiếu đi sự ứng phó khẩn cấp, kịp thời, các cơ quan chức năng chậm chạp trong việc xử lý và đặc biệt chưa có cơ quan đặc trách nào đứng ra xử lý, nhận trách nhiệm chính trong việc khắc phục hậu quả. Do vậy, nhà nước nên quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển đội ngũ cán bộ để đảm bảo hiệu quả trong công tác BVMT, tránh tình trạng trên có thể xảy ra đối với những trường hợp khác.
Vấn đề này cũng được chỉ đạo trong quyết định số 2476/QĐ-BTNMT về phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực ngành tài nguyên và môi trường giai đoạn 2012-2020 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thấy được tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong lĩnh vực môi trường. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến việc đưa chính sách pháp luật vào đời sống. Cũng theo tinh thần của quyết định này, thì phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực môi trường phải đáp ứng đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, cơ cấu ngành nghề hợp lý; có phẩm chất, năng lực phục vụ sự nghiệp phát triển ngành, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế và bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Hiện nay, trình độ nhân lực trong lĩnh vực môi trường chưa được đồng đều, thiếu kinh nghiệm dẫn đến việc thanh tra, kiểm tra, quản lý, xử phạt hành vi phạm pháp luật chưa đạt kết quả cao; nhiều cơ quan quản lý nhà nước còn tỏ ra lúng túng khi sự việc xảy ra, chưa tìm ra được hướng giải quyết ngay nên rất nhiều trường hợp gây hậu quả, tổn thất lớn cho người dân cũng như ảnh hưởng lớn đến môi trường … Do vậy để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như bồi dưỡng đạo đức cho đội ngũ cán bộ, nhà nước cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, phát triển các cơ sở đào tạo lĩnh vực môi trường, đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng viên tự bổ sung, bồi dưỡng kiến thức, đồng thời cũng nên mở các lớp tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn theo kỳ để đội ngũ cán bộ luôn cập nhật được những kiến thức mới và phù hợp hơn.
Đối với đội ngũ thanh tra, kiểm tra, giám sát môi trường, ngoài việc nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm thì cần phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện hiện đại cho thanh tra môi trường để có thể phát hiện ra những vi phạm pháp luật, đặc biệt là vi phạm của doanh nghiệp trong lĩnh vực môi trường. Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, để trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong lĩnh vực môi trường được đảm bảo và có tính chuyên sâu hơn thì có thể đưa việc này vào đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp. Ví dụ có thể xây dựng thành một ngành, một khoa trong các trường đại học, cao đẳng cả nước. Việc này sẽ đảm bảo đào tạo được những chuyên gia, cán bộ có trình độ công nghệ cao, giúp cho việc quản lý và bảo vệ môi trường tốt hơn. Hay có thể lồng ghép vào thành những môn học bắt buộc đối với những trường đại học đào tạo về lĩnh vực pháp luật, công an,…để trang bị thêm những kiến thức, kinh nghiệm trong việc kiểm tra, giám sát môi trường cũng như nhận biết được các hành vi vi phạm về pháp luật môi trường.
Việc tham gia các Điều ước quốc tế giúp cho Việt Nam có cái nhìn rộng hơn và dễ hòa nhập hơn với thế giới. Đồng thời cũng học hỏi kinh nghiệm của một số quốc gia phát triển trong việc BVMT. Về vấn đề này, nhằm phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực môi trường, Nhà nước có thể mở các lớp đào tạo trong nước có sự hướng dẫn của các chuyên gia nước ngoài giảng dạy. Ví dụ, truyền dạy những kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường; nghiên cứu các án lệ, bản án điển hình đã xét xử và có hiệu lực của toà án các nước có kinh nghiệm xử lý khi có ô nhiễm môi trường như Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ 28. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực môi trường sẽ giúp ích cho việc thực thi và áp dụng pháp luật vào đời sống dễ dàng và hiệu quả hơn.
3.3. Nâng cao hoạt động bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi pháp luật về BVMT ở các KCN. Sớm phát hiện ra các sai phạm và ngăn chặn hậu quả xảy ra. Hoạt động thanh tra ngày càng thường xuyên sẽ làm phát triển hơn ý thức BVMT ở các doanh nghiệp, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường.
Phát huy vai trò của Ban quản lý KCN trong việc giám sát việc thực hiện nghĩa vụ BVMT ở các KCN. Cần có sự phân cấp rõ ràng, cụ thể việc tự chịu trách nhiệm đối với từng chủ thể quản lý. Phát hiện sai phạm và phối hợp cùng cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thanh tra, kiểm tra, xử phạt doanh nghiệp vi phạm.
Các doanh nghiệp nên in trên bao bì sản phẩm cách thức xử lý bao bì sau khi sử dụng xong sản phẩm. Ví dụ: như nước uống đóng chai C2 sản phẩm của công ty TNHH URC Hà Nội (thuộc KCN Thạch Thất- Quốc Oai) có in hình thùng rác và dòng chữ “bóp chai sau khi sử dụng”. Ở Mỹ, hầu như trên các bao bì sản phẩm đều có dòng chữ: “Please recycle” hay như túi đựng hàng của siêu thị Target có in 10 cách để tái sử dụng túi, cụ thể: dùng để lót thùng rác, mang theo để đựng rác khi đi tàu xe, đựng đồ dùng như bình nước… Việc quy định như vậy vừa nhằm nhắc nhở trách nhiệm vệ môi trường ở KCN, vừa giáo dục ý thức người sử dụng trong việc bảo vệ môi trường.
Kết hợp nhận thức về bảo vệ môi trường trong quá trình thiết kế sản phẩm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể sử dụng hay các vật liệu tái chế hoặc những nguồn năng lượng có khả năng tái sinh để có thể tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm thiểu tối đa rác thải sản xuất cũng như các chất độc hại cho môi trường. Đây là biện pháp mà Mỹ đã sử dụng rất nhiều vào ngành công nghiệp để BVMT. Điển hình là hãng sản xuất giày thể thao lớn nhất của Mỹ và của thế giới – Nike, luôn đi đầu trong việc tạo ra những sản phẩm thân thiện với môi trường như Nike Flyknit Racer; Nike Green Speed…
Phát triển hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục về BVMT trong các KCN. Đối tượng hướng tới trước hết là các doanh nghiệp. Để các doanh nghiệp thấy được bảo vệ môi trường là trách nhiệm, nghĩa vụ hàng đầu thì việc tuyên truyền càng phải được đề cao hơn. Có thể tuyên truyền, giáo dục BVMT thông qua các buổi tọa đàm; hội thảo; các phương tiện đại chúng hoặc ngày càng tổ chức nhiều các chương trình về BVMTvà bắt buộc sự tham gia của các doanh nghiệp để thấy được tầm quan trọng của việc BVMT. Hoặc đẩy mạnh thi đua, khen thưởng trong công tác bảo vệ môi trường KCN cũng như phê bình các doanh nghiệp chưa ưu tiên đến vấn đề BVMT. Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
Nhà nước nên đầu tư và thu hút đầu tư để xây dựng các KCN theo mô hình KCN sinh thái vì một nền công nghiệp xanh. Việc xây dựng KCN sinh thái sẽ gắn chặt giữa lợi ích kinh tế và BVMT. Việc áp dụng KCN sinh thái có thể cải thiện hoạt động kinh tế đồng thời giảm thiểu các tác động tới môi trường bởi nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên và giảm các chất thải, thích hợp cho phát triển công nghiệp. Hay như KCN VSIP thành lập năm 1996 với quy mô 500 ha, là KCN có sự hợp tác giữa Việt Nam và Singapore. Đây là KCN được xây dựng với mô hình kiểu mẫu KCN xanh, VSIP đặt ra nhiều tiêu chuẩn cho doanh nghiệp muốn đầu tư vào KCN này nhằm giữ cho KCN luôn xanh, sạch, đẹp như tiêu chi đặt ra ban đầu của 2 quốc gia. Đồng thời cũng từ chối các dự án gây ô nhiễm môi trường mà khi đi vào hoạt động sẽ thải ra chất thải rắn hoặc chất khó xử lý. Bên cạnh đó, khi xây dựng nhà máy tại đây, KCN này bắt buộc các công ty phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định về BVMT. Đây cũng có thể coi là một mô hình KCN mà Việt Nam hiện nay nên xây dựng để BVMT nói chung và BVMT KCN nói riêng.
Có thể coi đó là một số giải pháp sẽ thúc đẩy công tác BVMT ở KCN. Ngoài việc tuân thủ đúng theo quy định pháp luật thì bên cạnh đó, các doanh nghiệp nên đưa ra những phương hướng, chính sách vừa để hoạt động kinh doanh có lợi nhuận vừa phải đảm bảo giữ gìn BVMT một cách tốt nhất, không ảnh hưởng đến quyền con người được sống trong môi trường trong lành.
KẾT LUẬN Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
Môi trường ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia. Bởi nó là nhân tố tác động đến sức khỏe, chất lượng sống hay rộng ra là quyền con người. Trong Nghị quyết 41- NQ/TW của Bộ Chính Trị đã nêu rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước: “Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.” Trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đi đôi với phát triển kinh tế phải có sự kết hợp hài hòa với công tác BVMT. Đặc biệt là BVMT ở các KCN. Vì thế, cần chú trọng trong việc xây dựng, ban hành pháp luật bởi nó là cơ sở pháp lý, là công cụ BVMT quan trọng, hữu hiệu nhất. Trên cơ sở đó, bài khóa luận đã có cái nhìn tổng quát các quy định pháp luật Việt Nam về BVMT, bên cạnh đó cũng phân tích một số quy định của pháp luật về BVMT ở các KCN, thấy được tình trạng ô nhiễm môi trường, thực tiễn thực thi quy định pháp luật hiện hành, đồng thời chỉ ra được một số bất cập và đưa ra một vài giải pháp có thể góp phần nào vào công tác hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới. Hơn nữa, cũng nhấn mạnh việc BVMT không phải là trách nhiệm của 1 cá nhân, 1 quốc gia mà đó là trách nhiệm của tất cả mọi người, của toàn thế giới.
Do vậy, phải có sự chung tay góp sức của tất cả chủ thể cùng nhau giữ gìn, BVMT xanh- sạch- đẹp, góp phần bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Cộng đồng thế giới đã thừa nhận môi trường chính là vấn đề của quyền con người, cho nên, bảo vệ môi trường chính là bảo đảm thực hiện quyền con người được sống trong môi trường trong lành. Khóa luận: Hoàn thiện quy định pháp luật bảo vệ môi trường.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com