Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng

Rate this post

Khi tham khảo bài Khóa luận đề tài Pháp luật về hàng hải và thực thi tại Cảng vụ Hải Phòng, sẽ giúp các bạn hiểu thêm về tầm quan trọng của cảng biển. Cảng góp phần vào việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc phòng. Mặt khác, do yêu cầu hình thành cảng biển phải hội tụ cả hai điều kiện quan trọng nhất là tự nhiên và xã hội đều được tác giả khắc họa rõ nét trong Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng nên cảng biển cũng được coi là khu vực đặc quyền, đặc lợi quốc gia, cần phải được Nhà nước chú trọng quản lý, khai thác nhằm đem lại hiệu quả và lợi ích nhất cho toàn xã hội.

PHẦN MỞ ĐẦU

Việt Nam là một quốc gia ven biển, việc phát triển ngành hàng hải là điều tất yếu để bảo đảm việc chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng lớn mạnh, phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế và công cuộc xây dựng Đất nước. Việt Nam nằm ở vị trí có nhiều tiềm năng phát triển về ngành hàng hải như là gần các tuyến đường hàng hải quốc tế, diện tích vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán chiếm diện tích khoảng trên 1 triệu km2. Ngoài ra, dọc theo bờ biển Việt Nam có nhiều địa điểm với vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc hình thành và phát triển cảng biển, đặc biệt nhất là cảng nước sâu và cảng trung chuyển quốc tế. Trong quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng Đông Nam Á, Việt Nam được coi là một trong những nước có cửa ngõ thông ra biển của hệ thống đường xuyên Á và hành lang Đông Tây nối giữa các nước khu vực lân cận.

Trong hàng hải, cảng biển có vai trò quan trọng và vị trí to lớn trong việc phát triển nền kinh tế của Đất nước. Cảng biển là nơi đưa đón những con tàu, giúp cho việc lưu chuyển hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu với khối lượng lớn, giá thành khá thấp so với các phương thức vận tải khác như đường hàng không, đường sắt. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã xây dựng được tổng số 55 cảng biển các loại, trong đó có 17 cảng biển loại I, 25 cảng biển loại II và 13 cảng biển loại III. Hệ thống cảng biển có 219 bến cảng với gần 50 km cầu cảng và hàng chục khu chuyển tải hàng hóa. Ngoài ra, các cụm cảng nước sâu tại ba miền Bắc, Trung, Nam đã được hình thành, phục vụ cho việc xuất nhập khẩu hàng hóa và phát triển nền kinh tế nước nhà việc lưu chuyển hàng hóa này góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế, xã hội trong khu vực, vùng miền và cả quốc gia.

Trong những năm vừa qua, để thực hiện nhiệm vụ được giao thì Bộ giao thông vận tải, Cục Hàng Hải Việt Nam cùng với các Cảng vụ Hàng hải trong đó có Cảng vụ Hàng hải Hải Phòng đã chủ trì xây dựng, trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành hay trực tiếp ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật và chiến lược, quy hoạch phát triển ngành hàng hải, trong đó có việc lập quy hoạch tổng thể về hệ thống cảng biển, đồng thời đầu tư, tổ chức xây dựng các kết cấu hạ tầng cảng biển và tổ chức quản lý khai thác hệ thống cảng biển, phục vụ cho công cuộc đổi mới, phát triển và nâng cao nền kinh tế của nước nhà. ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Pháp luật về hàng hải và công tác thực thi pháp luật về hàng hải luôn cần cập nhật, thay đổi để phù hợp với nền kinh tế thị trường, khoa học kỹ thuật. Chính vì vậy, em chọn đề tài “Pháp luật về hàng hải và thực thi tại Cảng vụ Hải Phòng” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.

Kết cấu của khóa luận bao gồm 3 phần chính:

  • Những vấn đề pháp lý cơ bản về hàng hải
  • Thực tiễn áp dụng luật Hàng hải trong hoạt động của cảng vụ Hải Phòng
  • Một số kiến nghị mang tính giải pháp về luật hàng hải và việc tổ chức thực hiện luật hàng hải

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ HÀNG HẢI

1.1 Hàng hải và pháp luật về hàng hải

  • Thuật ngữ hàng hải:

Từ Hàng hải là từ ghép bởi nghĩa Hán Việt, theo đó, muốn hiểu được nghĩa của cụm từ này thì chúng ta cần phải phân tích và hiểu từng ý nghĩa của các chữ trong cụm từ hàng hải. Theo đó, hàng có nghĩa là hàng hóa , bất cứ loại hàng hóa nào được quy định, hải chính là hải lý, là biển, tàu đi trên biển.

Từ đó , ta có thể hiểu hàng hải là kỹ thuật điều khiển tàu trên biển, hoặc có thể hiểu là vận tải hàng hóa trên biển. Hàng hải cũng là tên một ngành học nổi tiếng, ngành học này chuyên đào tạo nhân lực cung cấp cung cấp cho lĩnh vực vận tải biển và giao thương hàng hóa trên biển. Hàng hải chính là toàn bộ những hoạt động thuộc khu vực biển cả, những hoạt động trao đổi và mua bán hàng hóa, xuất hàng hóa, quản lý hàng hóa trên biển cũng thuộc ngành hàng hải.

1.1.2 Pháp luật về hàng hải ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

“Luật hàng hải” (maritime law) được sử dụng với nhiều thuật ngữ khác nhau. Trong nhiều sách báo pháp lý và nhiều văn bản luật của các nước chúng ta vẫn thường gặp các thuật ngữ như “luật hàng hải” (shipping law), “luật hàng hải” (maritime law), “tố tụng hàng hải” (admiralty law/maritime procedure law), “công pháp hàng hải quốc tế” (public international maritime law), “tư pháp hàng hải quốc tế” (private international maritime law), “luật biển” (law of the sea), “luật thương mại hàng hải” (maritime commercial law), “luật hàng hải thương mại” (merchant shipping law ) v.v… Chúng ta có thể thấy việc sử dụng đa dạng thuật ngữ này ở luật hàng hải một số nước như:

  • Bộ luật Hàng hải Việt Nam (Vietnamese Maritime Code)
  • Bộ luật hàng hải Trung quốc (Maritime Code of the Peoples’s Republic of China)
  • Luật tố tụng hàng hải Trung Quốc (Maritime Procedure law of Peoples’s Republic of China)
  • Bộ luật hàng hải Thụy Điển (The Swedish Maritime Code)
  • Bộ luật hàng hải và tố tụng hàng hải Hoa Kỳ (American Admiralty Act, Shipping Act, Merchant Marine Act)
  • Quy tắc Tố tụng hàng hải Úc (Admiralty Rules of Australia) Luật vận tải biển Nhật Bản (Marine Transportation law of Japan)
  • Luật hàng hải nằm trong Bộ luật Thương mại Nhật Bản (The Commercial Code of Japan)
  • Bộ luật biển Hàn Quốc (Marine Act)

Sở dĩ có sự đa dạng này vì có sự hiểu và giải thích khác nhau trong phạm vi của hệ thống luật Anh-Mỹ (common law) và hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (civil law), và sự khác nhau giữa hệ thống luật quốc gia.

Khái niệm về ngành hàng hải hay pháp luật hàng hải được hiểu theo nghĩa rất rộng đó là bao gồm tổ hợp các ngành công việc như: Bảo đảm hàng hải, đóng tàu, hoa tiêu, chủ tàu, thuyền viên các hoạt động phụ trợ như đại lý môi giới, các công việc ngành vận tải biển, khai thác cảng. Như vậy chúng ta có thể định nghĩa những khái niệm chung nhất về hàng hải là một lĩnh vực hoạt động với đa dạng các hình thức khác nhau, liên quan chủ yếu đến biển.

Bộ luật hàng hải (BLHH) là Bộ luật kinh tế chuyên ngành đầu tiên của Việt Nam, được ban hành lần đầu vào năm 1990, được sửa đổi bổ sung nhiều lần qua các năm và bộ luật Hàng hải đang được triển khai đi vào thực tiễn là bộ luật hàng hải năm 2015, Bộ luật có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành hàng hải và kinh tế xã hội của đất nước; đồng thời giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hàng hải ở nước ta. Tuy nhiên, sau thời gian triển khai thực hiện, cùng với sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, nhiều quy định mới được ban hành, các điều ước quốc tế được Việt Nam ký kết, gia nhập và thực tế hoạt động hàng hải có những thay đổi đòi hỏi BLHH Việt Nam phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định hiện hành cũng như thực tế hoạt động hàng hải, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế đất nước nói chung và ngành hàng hải nói riêng.

Để đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách này, được sự phân công của Quốc hội và Chính phủ, năm 2015, Bộ GTVT đã tổ chức nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung toàn diện BLHH Việt Nam.

Các quy định về chính sách phát triển hàng hải, tàu biển, thuyền viên, cảng biển, vận tải biển và dịch vụ thương mại, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và bảo vệ môi trường cũng như việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển và bảo hiểm hàng hải, cải cách thủ tục hành chính đã được đề cập trong 20 Chương và 341 Điều của Bộ luật, tăng 2 Chương và 80 Điều so với BLHH Việt Nam năm 2005, Bộ luật có vai trò quan trọng và tác động rất lớn tới sự phát triển, hội nhập của ngành hàng hải nói riêng và kinh tế xã hội Việt Nam nói chung. Bộ luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2017.

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

1.1.3 Chủ thể của pháp luật hàng hải Việt Nam ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Trước khi xác định chủ thể của pháp luật hàng hải, chúng ta cần nêu qua khái niệm chung về chủ thể pháp luật theo lý luận chung của pháp luật Việt Nam. Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội thì chủ thể pháp luật là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy định pháp luật. Như đã phân tích ở phần trên, các quan hệ pháp luật phát sinh từ hoạt động hàng hải được xếp thành những nhóm khác nhau, vì vậy sẽ dễ dàng hơn nếu xem xét và phân tích các chủ thể của pháp luật hàng hải theo các nhóm quan hệ pháp luật này. Do đó, có thể nói chủ thể của pháp luật hàng hải bao gồm những đối tượng chính như sau:

  • Cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hàng hải như: Bộ Giao thông vận tải, Cục Hàng hải Việt Nam, các Cảng vụ hàng hải, Kiểm dịch y tế, Kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật, biên phòng cửa khẩu, cảnh sát biển, hải quan cửa khẩu…
  • Nhóm chủ thể trực tiếp liên quan đến lĩnh vực hàng hải như: Bảo đảm an toàn hàng hải, hoa tiêu hàng hải, chủ tàu, thuyền viên, công ty vận tải tàu biển, tàu lai, doanh nghiệp cảng, đại lý cung ứng thuyền viên, đại lý hàng hải…
  • Nhóm chủ thể gián tiếp liên quan đến lĩnh vực hàng hải: Ngư dân (đánh bắt, nuôi trồng), công nhân, lái xe ra vào cảng…

1.2 Vài nét về sự hình thành và phát triển của pháp luật hàng hải trên thế giới và Việt Nam

Luật hàng hải hiện đại nói chung phát triển bắt nguồn từ khu vực biển Địa Trung Hải. Người Ai Cập và Minoan là người đầu tiên điều chỉnh hoạt động hàng hải khá cụ thể bằng pháp luật. Tiếp đó là sự ra đời của luật biển Rhodian và luật này đã tồn tại cho đến khi Đế quốc La mã sụp đổ. Từ đây bắt đầu xuất hiện một số nguyên tắc của luật hàng hải hiện đại.

Ban đầu, các toà án hàng hải chỉ có ở các cảng độc lập vì vậy không có sự thống nhất chung giữa các toà án trong xét xử các tranh chấp về hàng hải. Bộ luật Oleron đã được xây đựng tại một trong những cảng nằm ở Ile d’Oleron Tây Nam nước Pháp và được thừa nhận rộng rãi như là nền tảng cơ bản của Luật hàng hải Châu Âu. Tại nước Anh, toà án hàng hải riêng đã dần dần được hình thành ở từng cảng cho đến năm 1970 thì hệ thống luật của nước Anh được xây dựng và các toà án hàng hải được hợp nhất thành một bộ phận của toà Thượng Thẩm. ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Qua tham khảo luật hàng hải của nhiều nước và luật hàng hải Việt Nam mà cụ thể là Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 cho thấy luật hàng hải của các nước, trong đó có Việt Nam ảnh hưởng nhiều của luật hàng hải Anh.

Tại Việt Nam là một đất nước có bờ biển dài hơn 3.200 km, có nhiều vũng, vịnh và nằm trên đường hàng hải quốc tế vì vậy ngay từ thời xa xưa hoạt động thương thuyền và đóng tàu thuyền đã được phát triển. Hoạt động thương thuyền và phát triển cảng đã khuyến khích sự giao lưu thương mại với nước ngoài đồng thời góp phần trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Cùng với sự phát triển thương mại đường biển là sự phát triển của pháp luật hàng hải từ đơn giản đến hiện đại. Cũng do sự giao lưu quốc tế mà pháp luật hàng hải Việt Nam đã sớm ảnh hưởng bởi các phong tục, tập quán và luật hàng hải thế giới.

Bên cạnh đó, với sự thay đổi chính sách kinh tế mà hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật hàng hải nói riêng cũng thay đổi và phát triển từ các hình thức đơn giản như tập quán pháp, tiền lệ đến các hình thức có tính pháp lý như luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Có thể nói, pháp luật hàng hải trong thời kỳ sau đổi mới (từ sau năm 1986) đã phát triển nhanh với nguồn luật phong phú.

Pháp luật hàng hải Việt Nam được xem xét theo theo hai thời kỳ, đó là thời kỳ trước năm 1991 và sau năm 1991 “năm Bộ luật Hàng hải Việt Nam đầu tiên bắt đầu có hiệu lực”. Sở dĩ lấy mốc thời gian năm 1991 là năm Bộ luật Hàng hải có hiệu lực vì sự ra đời và có hiệu lực của Bộ luật đánh dấu một bước phát triển đặc biệt trong lịch sử phát triển của pháp luật hàng hải Việt Nam.

  • Thời kỳ từ năm 1991 trở về trước: Một trong những phát triển nổi bật của thời kỳ này là sự áp dụng luật hàng hải nước ngoài về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đối với đội tàu biển Việt Nam. Do chính sách cấm vận của Mỹ mà trong thời kỳ này các tàu biển Việt Nam chở hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong việc ra vào các biển nước ngoài. Để khắc phục khó khăn này, Chính phủ đã cho phép Tổng Công ty Thuê tàu và Môi giới hàng hải sử dụng hình thức “cờ thuận tiện”. Cụ thể là một số tàu của Vietfracht được đăng ký mang cờ nước ngoài như Panama, Anh, Liberia. Do mang cờ nước ngoài nên các quan hệ pháp luật phát sinh từ hoạt động vận chuyển hàng hoá của những tàu này, kể cả việc giải quyết tranh chấp hàng hải đã áp dụng theo luật của nước mà tàu mang cờ, trong đó chủ yếu là Luật vận chuyển hàng hoá bằng đường biển của Anh. Ngoài đội tàu của Vietfracht đăng ký mang cờ nước ngoài, một số tàu của Công ty Vận tải biển Việt Nam tham gia vận chuyển hàng hoá do Vietfracht môi giới cũng áp dụng luật nước ngoài về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển hoặc áp dụng luật vận chuyển hàng hoá bằng đường biển của Trung Quốc. Như vậy, ở thời kỳ này quy định vận chuyển hàng hoá bằng đường biển của pháp luật hàng hải có thể áp dụng theo luật quốc gia của Việt Nam, công ước và tập quán quốc tế, hoặc áp dụng luật của nước khác. Việc áp dụng các công ước quốc tế, tập quán quốc tế và luật nước ngoài điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của các tàu Việt Nam mang cờ nước ngoài ở thời kỳ này là cơ sở hình thành các quy phạm thuộc lĩnh vực tư pháp quốc tế của pháp luật hàng hải sau này.
  • Thời kỳ từ năm 1991 đến nay: Sự kiện quan trọng đối với pháp luật hàng hải Việt Nam từ sau năm 1991 về pháp luật hàng hải là Bộ luật Hàng hải đã có hiệu lực, một bộ luật bao gồm khung pháp luật về hàng hải tương đối đầy đủ, đáp ứng thực tế hoạt động hàng hải Việt Nam trong thời kỳ đầu đổi mới. Tuy nhiên, sự ra đời của Hiến pháp 1992 với những thay đổi cơ bản về chế độ kinh tế đã dẫn đến những thay đổi cơ bản trong hoạt động hàng hải. Với chế độ kinh tế từ quản lý tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, với chủ trương khuyến khích đầu tư nước ngoài, với sự ban hành của hàng loạt các luật khác và với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động hàng hải Việt Nam trong thời gian qua đã có tác động đến pháp luật hàng hải. ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Đến nay, với các quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam đã được sửa đổi bổ sung, hoàn thiện rất nhiều so với các bộ luật hàng hải trước đó. Minh chứng rõ ràng nhất cho việc nỗ lực hoàn thiện là bằng việc chúng ta đã và đang triển khai bộ luật hàng hải 2015 với rất nhiều đột phá. Pháp luật hàng hải Việt Nam đã phát triển với các chế định pháp luật riêng của mình như chế định về hợp đồng – mua bán (mua bán tàu), dịch vụ (dịch vụ lai dắt), cho thuê (thuê tàu), vận tải (vận chuyển hàng hoá và hành khách bằng đường biển), bảo hiểm (bảo hiểm hàng hải), đại 1ý (đại lý tàu biển), môi giới và cung ứng tàu biển, cầm cố, thế chấp, thuê thuyền viên, bồi thường tổn thất, thiệt hại, đóng góp tổn thất chung, tố tụng hàng hải (bắt giữ tàu).

Tóm lại, pháp luật hàng hải Việt Nam đã được hình thành và phát triển phù hợp với lịch sử đất nước qua từng thời kỳ. Được phát triển và hoà nhập quốc tế sớm nên có thể nói pháp luật hàng hải Việt Nam tiệm cận nhiều quy tắc, quy phạm của pháp luật quốc tế. Với sự biến động và phát triển không ngừng của nền kinh tế Việt Nam và thế giới, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật hàng hải Việt Nam phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước cũng như của công pháp hàng hải quốc tế và tư pháp hàng hải quốc tế là một việc luôn luôn được tiến hành.

1.3 Những nội dung cơ bản của pháp luật Hàng hải Việt Nam

  • Phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh

Theo lý luận chung về pháp luật thì “đối tượng điều chỉnh của pháp luật là những quan hệ xã hội mà pháp luật hướng tới, tác động tới”. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các quan hệ xã hội có đặc thù khác nhau thuộc đối tượng điều chỉnh của các luật khác nhau, ví dụ như quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính mang tính chất chấp hành, còn quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự lại mang tính bình đẳng, thoả thuận.

Căn cứ vào Điều 1 quy định về Phạm vi điều chỉnh tại Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015 có quy định rõ rằng :

“ Bộ luật này quy định về hoạt động hàng hải, bao gồm các quy định về tàu biển, thuyền viên, cảng biển, luồng hàng hải, cảng cạn, vận tải biển, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, bảo vệ môi trường, quản lý nhà nước về hàng hải và các hoạt động khác liên quan đến việc sử dụng tàu biển vào mục đích kinh tế, văn hóa, xã hội, thể thao, công vụ và nghiên cứu khoa học.

Đối với tàu quân sự, tàu công vụ, tàu cá, phương tiện thủy nội địa, tàu ngầm, tàu lặn, thủy phi cơ, kho chứa nổi, giàn di động, ụ nổi, cảng quân sự, cảng cá và cảng, bến thủy nội địa chỉ áp dụng trong trường hợp có quy định cụ thể của Bộ luật này.

Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam với quy định của luật khác về cùng một nội dung liên quan đến hoạt động hàng hải thì áp dụng quy định của Bộ luật này.”

Pháp luật hàng hải và tố tụng hàng hải điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động hàng hải và vận tải đường biển. Nói một cách khác, “pháp luật hàng hải điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến các đối tượng liên quan đến con tàu hoạt động trên biển và các sự kiện có liên quan biển”. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với lý luận pháp luật hàng hải Việt Nam và điều này được thể hiện rất rõ tại Bộ luật Hàng hải Việt Nam. Bộ luật Hàng hải Việt Nam điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động hàng hải, đó là các hoạt động liên quan đến việc sử dụng tàu biển vào các mục đích kinh tế, nghiên cứu khoa học – kỹ thuật, văn hoá, thể thao, xã hội và công vụ nhà nước. ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Một trong những đối tượng có liên quan đến biển là tàu biển – đối tượng của rất nhiều mối quan hệ pháp lý như quan hệ giữa chủ tàu, người thuê tàu, người khai thác tàu với chủ hàng, người gửi hàng, người nhận hàng; quan hệ của tàu với cảng, người cung cấp dịch vụ tại cảng, hoặc quan hệ giữa các đối tượng này với nhau và pháp luật hàng hải có nhiệm vụ giải quyết những tranh chấp nảy sinh từ các quan hệ này. Ngoài ra, tàu biển và những người điều hành con tàu còn chịu sự điều chỉnh của các quy định về quản lý hành chính thuộc các lĩnh vực khác có liên quan như an toàn, an ninh hàng hải, phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển…

Theo lý luận chung, phương pháp điều chỉnh của các ngành luật là những cách thức, biện pháp mà Nhà nước sử dụng để tác động vào quan hệ xã hội của ngành luật đó. Vì vậy, phương pháp điều chỉnh của pháp luật hàng hải là những cách thức, biện pháp mà pháp luật tác động vào quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hàng hải. Để thuận lợi trong phân tích phương pháp điều chỉnh của pháp 1uật hàng hải, trước hết cần nghiên cứu phương pháp điều chỉnh của pháp luật hàng hải ở các nhóm đối tượng, điều chỉnh của pháp luật hàng hải, đó là:

  • Phương pháp mệnh lệnh: Phương pháp này được áp dụng trong mối quan hệ quyền lực của Nhà nước, các cơ quan công quyền của Nhà nước với các cá nhân, pháp nhân và với các cơ quan công quyền khác của Nhà nước. Ví dụ: con tàu chỉ được ra, vào cảng khi những người có trách nhiệm như chủ tàu, chủ hàng, đại lý của chủ tàu hoặc thuyền trưởng đã hoàn thành các thủ tục theo quy định của pháp luật hoặc tàu phải sử dụng hoa tiêu bắt buộc hoặc chỉ được di chuyển trong vùng nước cảng biển khi được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
  • Phương pháp thoả thuận, bình đẳng: Phương pháp này được áp dụng trong mối quan hệ giữa các bên tham gia hợp đồng hàng hải như hợp đồng thuê tàu, hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, hợp đồng cho thuê thuyền viên, hợp đồng cung ứng dịch vụ hàng hải, hợp đồng lai dắt. Hỗ trợ tàu biển, hợp đồng đại lý và môi giới hàng hải, hợp đồng bốc xếp hàng hoá, giao nhận vận chuyển hàng hoá bằng đường biển v.v… Trong các hợp đồng hàng hải này, các bên tham gia hợp đồng có quyền thỏa thuận với nhau trong việc ký kết hợp đồng. Để đơn giản và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hàng hải, và bằng kinh nghiệm đúc kết lâu đời của ngành hàng hải, nhiều hợp đồng mẫu đã được chuẩn hoá với các điều kiện và trách nhiệm cũng như quyền miễn trách nhiệm cụ thể của các bên tham gia hợp đồng, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc thoả thuận và bình đẳng. Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 đã quy định rõ; “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá được ký kết theo các hình thức do các bên thoả thuận”, hoặc Điều 143 quy định: “Chủ tàu và người đại lý ký kết hợp đồng đại lý cho từng chuyến theo hình thức cụ thể, theo các hình thức do các bên thoả thuận”, hoặc khoản 1, Điều 200 quy định: “Hợp đồng bảo hiểm hàng hải là hợp đồng được ký kết giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm mà theo đó, người bảo hiểm thu phí bảo hiểm do người bảo hiểm trả và người được bảo hiểm được người bảo hiểm bồi thường tổn thất của đối tượng bảo hiểm do các bên bảo hiểm hàng hải gây ra theo mức độ và điều kiện đã thoả thuận với người bảo hiểm”.
  • Phương pháp tự định đoạt: Theo phương pháp này, các chủ thể có thể tự quyết định tham gia hoặc không tham gia vào quan hệ hàng hải. Cụ thể như, các bên tham gia hợp đồng hàng hải có quyền tự định đoạt có giao kết hợp đồng, hoặc có quyền quyết định các biện pháp bảo đảm như bắt giữ tàu hoặc cầm giữ hàng hải
  • Phương pháp tự chịu trách nhiệm: Theo phương pháp này, các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật phát sinh từ hoạt động hàng hải phải tự chịu trách nhiệm với nhau và phải bồi thường đối với những thiệt hại xảy ra theo hợp đồng đã thỏa thuận hoặc tự chịu trách nhiệm đối với chính tài sản của mình hoặc theo pháp luật quy định. Tất nhiên, để bảo vệ trách nhiệm của mình chủ tàu có thể mua bảo hiểm hàng hải đối với tài sản của mình (bảo hiểm thân và máy tàu H&M) hoặc bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu đối với người thứ ba trong các trường hợp chủ tàu phải chịu trách nhiệm (P&I). Ngoài ra, phương pháp tự chịu trách nhiệm còn thể hiện rất rõ trong các quan hệ hàng hải, ví dụ như người đề nghị tạm giữ, bắt giữ tàu phải chịu trách nhiệm đối với việc tạm giữ, bắt giữ này. Nguyên tắc này được xác định rõ tại Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015. Khoản 2, Điều 35 quy định: “Chủ nợ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về yêu cầu tạm giữ tàu”, hoặc khoản 2, Điều 37 quy định: “Tàu biển cũng có thể được giải phóng theo yêu cầu của chính những người đã yêu cầu tạm giữ, bắt giữ hàng hải tàu biển đó. Mọi phí tổn thất liên quan do người yêu cầu chịu trách nhiệm thanh toán”.
  • Phương pháp gián tiếp: Phương pháp này được áp dụng trong việc chọn luật hoặc xác định thẩm quyền xét xử khi có xung đột pháp luật. Như chúng ta đã biết, các chủ thể tham gia trong hoạt động hàng hải thường thuộc các quốc gia khác nhau với quy định pháp luật hàng hải khác nhau do đó thường dẫn đến các xung đột pháp luật. Trên thực tế, các vấn đề làm nảy sinh xung đột pháp luật trong luật hàng hải thường thể hiện ở việc chọn luật và xác định toà án.

1.3.2 Các nội dung cơ bản của pháp luật hàng hải ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Chương I: Những quy định chung (12 điều)

Nội dung cơ bản của chương này quy định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật, đối tượng áp dụng luật là tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức cá nhân nước ngoài liên quan đến hoạt động hàng hải tại Việt Nam; nguyên tắc chọn Luật và áp dụng Luật nước ngoài, quyền thỏa thuận trong hợp đồng, quyền vận tải nội địa. Nguyên tắc hoạt động hàng hải và chính sách của nhà nước về phát triển hàng hải. Trách niệm quản lý nhà nước về hàng hải, các hành vi nghiêm cấm trong hoạt động hàng hải.

Chương II: Tàu biển (37 điều)

Nội dung chương này quy định tàu biển Việt Nam là tàu biển đã được đăng ký vào Sổ đăng ký tàu biển quốc gia Việt Nam hoặc đã được cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài cấp giấy phép tạm thời mang cờ quốc tịch Việt Nam. Nguyên tắc, điều kiện và thủ tục đăng ký tàu biển Việt Nam; nguyên tắc, trách nhiệm đăng kiểm tàu biển; các giấy tờ và tài liệu của tàu, việc kiểm tra dung tích tàu biển; quyền sở hữu tàu biển, thế chấp tàu biển; quyền cầm giữ hàng hải; đóng mới và sửa chữa tàu biển; nguyên tắc phá dỡ tàu biển.

Theo quy định của Điều 13: Tàu biển quy định trong Bộ luật này không bao gồm tàu quân sự.

Chương III: Thuyền bộ và thuyền viên (23 điều)

Quy định về thuyền viên Việt Nam; địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của thuyền trưởng; tiêu chuẩn, chế độ, nghĩa vụ và điều kiện của thuyền viên làm việc trên tàu biển Việt Nam; hợp đồng thuê thuyền viên, trách nhiệm của chủ tàu.

Chương IV: Cảng biển (32 điều)

Nội dung chương này quy định về cảng biển, chức năng của cảng biển, phân loại cảng biển, quy định về mở, đóng cảng biển; quy hoạch phát triển, đầu tư, xây dựng và khai thác cảng biển; quy định nhiệm vụ, quyền hạn của của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về hàng hải tại cảng biển; quy định về thủ tục tàu thuyền đến và rời cảng biển; quy hoạch phát triển, đầu tư xây dựng, đóng, mở cảng cạn.

Theo quy định của Điều 73: Cảng quân sự, cảng cá và cảng, bến thủy nội địa nằm trong vùng nước cảng biển chịu sự quản lý nhà nước về an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, phòng chống cháy, nổ và phòng ngừa ô nhiễm môi trường theo quy định của Bộ luật này.

Chương V: An toàn hàng hải, an ninh hàng hải, lao động hàng hải và bảo vệ môi trường (24 điều) ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Đây là một chương được bổ sung mới nội dung quy định về an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và bảo vệ môi trường với các quy định chi tiết về an toàn, an ninh hàng hải, tìm kiếm cứu nạn trên biển, quy định về bảo vệ công trình hàng hải và bảo vệ môi trường trong hoạt động hàng hải, phá dỡ tàu biển.

Chương VI: Bắt giữ tàu biển (16 điều)

Do tầm quan trọng của vấn đề này, Bộ luật đã bổ sung chương mới này, quy định về bắt giữ tàu biển với các quy định chi tiết về thẩm quyền, trách nhiệm, điều kiện, thời hạn, các biệp pháp bảo đảm tài chính, tài liệu liên quan trong việc bắt giữ tàu biển và thả tàu biển bị bắt giữ để bảo đảm giải quyết các khiếu nại hàng hải.

Chương VII: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển (55 điều)

Nội dung của chương quy định hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển và phân loại hợp đồng vận chuyển. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa theo chứng từ của người vận chuyển, hợp đồng thuê tàu chuyến, hợp đồng vận tải đa phương thức, xác định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của người vận chuyển; người vận chuyển thực tế, người thuê vận chuyển, người gửi hàng, người giao hàng; chứng từ vận chuyển, các quy định liên quan đến việc xử lý hàng hóa bị lưu giữ, thanh toán cước vận chuyển, lưu kho… giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển.

Chương VIII: Hợp đồng vận chuyển hành khách và hành lý bằng đường biển (15 điều)

Nội dung quy định về hợp đồng vận chuyển hành khách và hành lý, quyền và nghĩa vụ của người vận chuyển, quyền và nghĩa vụ của hành khách; xác định vé đi tàu và bằng chứng giao kết hợp đồng; trách nhiệm của người vận chuyển, người vận chuyển thực tế, giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển.

Chương IX: Hợp đồng thuê tàu (20 điều)

Quy định về hình thức, nguyên tắc của hai loại hợp đồng thuê tàu là thuê tàu định hạn và hợp đồng thuê tàu trần, các nội dung chính của hợp đồng thuê tàu; quyền nghĩa vụ của người thuê tàu và của chủ tàu trong thuê tàu định hạn, thuê tàu trần, trả tàu và thuê mua tàu trong thuê tàu trần.

Chương X: Đại lý tàu biển và môi giới hàng hải (12 điều)

Nội dung chính của chương này quy định về khái niệm người đại lý tàu biển, người môi giới hàng hải, hợp đồng đại lý tàu biển, trách nhiệm của người đại lý tàu biển, của người ủy thác, giá dịch vụ đại lý tàu biển, tiền hoa hồng trong môi giới hàng hải, quyền và nghĩa vụ của người môi giới hàng hải.

Chương XI: Hoa tiêu hàng hải (9 điều)

Quy định về vị trí pháp lý, điều kiện hành nghề, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của hoa tiêu hàng hải; chế độ hoa tiêu, tổ chức hoa tiêu; nghĩa vụ của thuyền trưởng và chủ tàu khi sử dụng hoa tiêu.

Chương XII: Lai dắt tàu biển (8 điều)

Quy định về khái niệm lai dắt tàu biển, hợp đồng lai dắt tàu biển, quyền chỉ huy tàu lai dắt, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng lai dắt tàu biển, trách nhiệm bồi thường tổn thất trong lai dắt tàu biển.

Chương XIII: Cứu hộ hàng hải (12 điều)

Quy định về khái niệm cứu hộ hàng hải, hợp đồng cứu hộ hàng hải, nghĩa vụ và quyền hưởng tiền công của người cứu hộ, nguyên tắc xác định tiền công cứu hộ và phân chia tiền công cứu hộ hàng hải.

Chương XIV: Trục vớt tài sản chìm đắm (9 điều) ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Quy định khái niệm tài sản chìm đắm, xác định nghĩa vụ trục vớt của chủ sở hữu tài sản chìm đắm. Quy định thời hạn thông báo và trục vớt tài sản chìm đắm, phân loại xử lý tài sản chìm đắm và thẩm quyền xử lý tài sản chìm đắm.

Chương XV: Tai nạn đâm va (7 điều)

Quy định khái niệm đâm va, nghĩa vụ của thuyền trưởng khi xảy ra đâm va, nguyên tắc xác định lỗi và bồi thường tổn thất trong tai nạn đâm va.

Chương XVI: Tổn thất chung (6 điều)

Nội dung quy định về tổn thất chung, tổn thất riêng, phân bổ tổn thất chung, tuyên bố tổn thất chung và chỉ định người phân bổ tổn thất chung.

Chương XVII: Giới hạn trách nhiệm dân sự đối với các khiếu nại hàng hải (5 điều)

Nội dung quy định về người được giới hạn trách nhiệm dân sự, các khiếu nại hàng hải áp dụng giới hạn trách nhiệm dân sự, các khiếu nại hàng hải không áp dụng giới hạn trách nhiệm dân sự, mức giới hạn trách nhiệm dân sự và lập quỹ bảo hiểm bồi thường.

Chương XVIII: Hợp đồng bảo hiểm hàng hải (34 điều)

Quy định về hợp đồng bảo hiểm hàng hải, đối tượng bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm hàng hải, các quyền lợi được bảo hiểm, nghĩa vụ của người được bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, chuyển nhượng quyền theo hợp đồng bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm bao, thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hải, chuyển quyền đòi bồi thường, từ bỏ đối tượng bảo hiểm và giải quyết bồi thường.

Chương XIX: Giải quyết tranh chấp hàng hải (3 điều)

Quy định về tranh chấp hàng hải, nguyên tắc giải quyết tranh chấp hàng hải. Chương XX: Điều khoản thi hành (2 điều)

Quy định về hiệu lực áp dụng Bộ luật, bãi bỏ BLHH năm 2005.

1.3.3 Những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động hàng hải ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Theo được quy định tại Điều 12 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015 thì 14 hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động hàng hải, bao gồm:

  1. Gây phương hại hoặc đe dọa gây phương hại đến chủ quyền và an ninh quốc
  2. Vận chuyển người, hàng hóa, hành lý, vũ khí, chất phóng xạ, chất phế thải độc hại, chất ma túy trái với quy định của pháp luật.
  3. Cố ý tạo chướng ngại vật gây nguy hiểm hoặc làm cản trở giao thông hàng hải.
  4. Sử dụng, khai thác tàu biển không đăng ký, đăng kiểm hoặc quá hạn đăng ký, đăng kiểm; giả mạo đăng ký, đăng kiểm.
  5. Từ chối tham gia tìm kiếm, cứu nạn trên biển trong trường hợp điều kiện thực tế cho phép.
  6. Gây ô nhiễm môi trường.
  7. Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người trên tàu biển; chiếm đoạt, cố ý làm hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản trên tàu biển; bỏ trốn sau khi gây tai nạn.
  8. Gây mất trật tự công cộng, cản trở hoặc chống lại việc thực hiện nhiệm vụ của người thi hành công vụ trên tàu biển và tại cảng biển.
  9. Phá hủy, làm hư hỏng, tháo gỡ, trộm cắp cấu kiện, phụ kiện, vật tư, vật liệu xây dựng và các thiết bị của công trình hàng hải.
  10. Làm hư hỏng, phá hủy, tự ý di chuyển hoặc làm giảm hiệu lực của báo hiệu hàng hải.
  11. Nổ mìn hoặc các vật liệu nổ khác trong phạm vi cảng biển, vùng nước cảng biển, luồng hàng hải khi chưa được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
  12. Xây dựng và khai thác trái phép các công trình cảng biển, công trình khác trong phạm vi quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển, quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước, quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển, quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn và các quy hoạch khác có liên quan theo quy định của pháp luật về quy hoạch, trong luồng hàng hải và phạm vi bảo vệ công trình hàng hải. (Khoản này được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch 2018)
  13. Xây dựng công trình làm giảm hoặc mất tác dụng của công trình hàng hải.
  14. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định về quản lý hàng hải; dung túng, bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật về hàng hải.

1.3.4 Quản lý nhà nước về hàng hải ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Ở trung ương, các cơ quan công quyền nhà nước liên quan đến hoạt động hàng hải có thể kể đến cao nhất là Quốc hội. Quốc hội là cơ quan có quyền ban hành và sửa đổi Bộ luật Hàng hải Việt Nam, một bộ luật có hiệu lực cao nhất của pháp luật hàng hải Việt Nam. Tiếp đến là Chính phủ, là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất. Sau đó là, Bộ Giao thông vận tải rồi Cục Hàng hải Việt Nam, Cục Đăng kiểm Việt Nam, hệ thống các cảng vụ hàng hải ở các tỉnh ven biển, các Chính quyền địa phương, các Bộ ngành khác có liên quan như Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, Hải quan…là các cơ quan có nhiệm vụ liên quan đến quản lý nhà nước về hàng hải. Các cơ quan công quyền này, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của mình theo luật định, thực hiện quyền lập pháp và hành pháp trong lĩnh vực hàng hải.

Bên cạnh những cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về pháp luật hàng hải như đã nêu ở trên, chúng ta có các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cơ sở hạ tầng, giao thông, kỹ thuật và một số lĩnh vực khác về Hàng hải như: Chi Cục Hàng hải, Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn, Trung tâm an ninh Hàng hải, Bảo đảm an toàn hàng hải, Thông tin điện tử Hàng hải…

Hoạt động quản lý nhà nước về hàng hải được quy định tại Điều 9 BLHH 2015 như sau:

  1. Xây dựng, phê duyệt, ban hành và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chiến lược, chính sách phát triển ngành hàng hải theo quy định của pháp luật.
  2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và định mức kinh tế – kỹ thuật chuyên ngành hàng hải.
  3. Quản lý việc đầu tư xây dựng, tổ chức khai thác cảng biển và luồng, tuyến hàng hải theo quy định của pháp luật. Công bố mở, đóng cảng biển, vùng nước cảng biển và khu vực quản lý của Cảng vụ hàng hải; công bố đưa bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước và các công trình hàng hải khác vào sử dụng.
  4. Quản lý hoạt động vận tải biển; kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp vận tải biển, cảng biển và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải.
  5. Tổ chức đăng ký, đăng kiểm tàu biển và đăng ký các quyền đối với tàu biển. Quản lý việc thiết kế, đóng mới, sửa chữa, phá dỡ, khai thác, xuất khẩu, nhập khẩu tàu biển và các trang thiết bị, vật tư phục vụ hoạt động hàng hải.
  6. Cấp, công nhận, thu hồi chứng chỉ chuyên môn của thuyền viên, giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật, an ninh hàng hải, lao động hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường của tàu biển, cảng biển và các giấy tờ, tài liệu khác liên quan đến hoạt động hàng hải.
  7. Quản lý công tác đào tạo, huấn luyện phát triển nguồn nhân lực hàng hải.
  8. Quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực hàng hải; bảo vệ môi trường, phòng, tránh thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu trong hoạt động hàng hải.
  9. Quản lý giá, phí và lệ phí trong lĩnh vực hàng hải.
  10. Tổ chức cứu hộ hàng hải, cứu nạn trên biển; trục vớt tài sản chìm đắm; điều tra, xử lý tai nạn, sự cố hàng hải, công tác bảo đảm an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển.
  11. Hợp tác quốc tế về hàng hải.
  12. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong hoạt động hàng hải theo quy định của pháp luật.

1.4 Mối quan hệ giữa luật hàng hải với các ngành luật khác ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

  • Pháp luật hàng hải và luật dân sự kinh tế: Pháp luật hàng hải và pháp luật dân sự, kinh tế tuy thuộc các lĩnh vực khác nhau vừa có tính đặc thù riêng, vừa có mối liên hệ biện chứng. Các quan hệ pháp luật về hợp đồng hàng hải như: hợp đồng vận chuyển hàng hoá, hành khách; hợp đồng bảo hiểm hàng hải, lai dắt, cứu hộ, các dịch vụ hàng hải khác… và các quan hệ ngoài hợp đồng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại đâm va, tổn thất chung… được điều chỉnh bởi các quy phạm của pháp luật hàng hải (các Chương V, VI, VII, XIII, Bộ luật HHVN năm 2015). Ngoài ra đối với những quy định có tính nguyên tắc chung đối với các loại hợp đồng thì sẽ được điều chỉnh bởi các quy phạm của luật dân sự và kinh tế (Bộ luật Dân sự và Pháp lệnh ký kết hợp đồng kinh tế). Hoặc những quan hệ phát sinh trong việc sử dụng con tàu, cảng biển và các tài sản khác có tính đặc thù thì sẽ được điều chỉnh bởi luật hàng hải còn những quan hệ phát sinh trong sử dụng những tài sản này mà có tính chất chung như các loại tài sản khác thì sẽ được điều chỉnh bởi các quy phạm của luật dân sự/kinh tế, hoặc theo tố tụng dân sự/tố tụng kinh tế. Với các phân tích về mối quan hệ giữa pháp luật hàng hải và luật dân sự/kinh tế, là cơ sở để có thể đưa ra các đề xuất và phương hướng hoàn thiện pháp luật hàng hải ở Việt Nam trong thời gian tới.
  • Pháp luật hàng hải và luật thương mại: Có thể nói sự phát triển của hoạt động hàng hải có mối quan hệ mật thiết với hoạt động thương mại. Sự phát triển của thương mại đồng nghĩa với sự tăng lên của hàng hoá thương mại, nhất là hàng hoá xuất nhập khẩu. Như đã đề cập ở phần trên, hầu hết hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển và khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu chính là yếu tố sống còn cho sự phát triển của vận tải biển. Quan hệ mua bán hàng hoá giữa người mua và người bán thường ở các nước khác nhau, cách xa hàng ngàn dặm và phải thực hiện qua nhiều khâu như mua, bán, vận chuyển, giao, nhận hàng hóa mà những quan hệ này được điều chỉnh bằng những luật khác nhau như quan hệ hợp đồng thương mại (mua bán hàng hoá) được điều chỉnh bằng luật thương mại, hợp đồng vận chuyển hàng hoá, hợp đồng bảo hiểm hàng hải được điều chỉnh bằng luật hàng hải…Ngoài ra, các ngân hàng của bên mua và bên bán lại phải dựa trên cơ sở pháp lý của Bộ chứng từ vận chuyển (Bill of Loading B/L). Trong luật hàng hải, hợp đồng vận chuyển hàng hoá là cơ sở để xác định quan hệ pháp luật giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển (khoản 1, Điều 61, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015), còn B/L xác định quan hệ pháp luật giữa người vận chuyển và người nhận hàng (khoản 3, Điều 61, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015). Và người nhận hàng chỉ thanh toán cho người vận chuyển các chi phí ghi trong B/L. Trên thực tế, người gửi hàng thường là người bán hàng hoặc đại diện cho người bán hàng và người nhận hàng thường là người mua hàng hoặc đại diện cho người mua hàng. Do đó, các điều khoản trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá hoặc trong B/L thường thể hiện các thoả thuận giữa người mua và người bán hàng. Nhằm đơn giản hoá các quan hệ phức hợp này và nhằm đưa ra các ngôn ngữ chung trong giao dịch hàng hải thương mại, các tổ chức và Hiệp hội hàng hải thương mại thế giới đã xây dựng nhiều quy tắc thống nhất (B/L) điều chỉnh mối quan hệ giữa người vận chuyển và người nhận hàng, hợp đồng mẫu Gencon, time-charter… điều chỉnh mối quan hệ giữa người thuê vận chuyển và người vận chuyển, quy tắc giải thích các điều kiện thương mại (Incorterm) quy định về các phương thức vận chuyển và giao nhận hàng hoá.

Mối quan hệ giữa pháp luật hàng hải và luật thương mại được thể hiện rất rõ trong Luật Thương mại và các đạo luật khác như Pháp lệnh Trọng tài thương mại ngày 25/2/2003. Luật Thương mại đã liệt kê các loại hành vi thương mại, trong đó có thương mại dịch vụ giao nhận hàng hoá (bao gồm dịch vụ vận tải biển và các loại hình dịch vụ hàng hải khác). Hơn nữa, một trong các tiêu chí của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà Việt Nam đang nghiên cứu tham gia, cũng như Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ mà Việt Nam đã ký kết, là tiêu chí về thương mại dịch vụ vận tải biển. ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Việc đánh giá đúng mối quan hệ giữa pháp luật hàng hải và thương mại là rất cần thiết trong việc xác định trách nhiệm của các bên trong thương mại hàng hải. Có thể nói, đến nay chúng ta (chủ yếu là các cơ quan xét xử) mới tạm đưa ra một số tiêu chí phân biệt về hợp đồng hàng hải nào thuộc phạm vi điều chỉnh của luật dân sự, hợp đồng nào thuộc sự điều chỉnh của luật kinh tế, để phục vụ cho công tác xét xử, chứ chưa có sự phân biệt hợp đồng hàng hải nào được điều chỉnh theo luật thương mại. Điều này càng được khẳng định rõ hơn ở nhiều công trình nghiên cứu. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua đã xảy ra các vụ tranh chấp liên quan đến tổn thất hàng hoá mà khi xác định trách nhiệm của các bên cần phải xem xét đồng thời các hợp đồng hàng hải và hợp đồng thương mại và cũng do sự hiểu không đúng về mối quan hệ này mà dẫn đến các quan điểm khác nhau trong quá trình xét xử.

Pháp luật hàng hải và các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam: Bên cạnh mối quan hệ của pháp luật hàng hải với một số luật như đã phân tích ở trên, pháp luật hàng hải còn có mối quan hệ với các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam như luật hình sự, luật lao động, luật ngân hàng… Sau đây là một số dẫn chiếu cụ thể về mối quan hệ này:

  • Mối quan hệ với pháp luật hình sự: Pháp luật hàng hải quy định về trách nhiệm của thuyền trưởng trong trường hợp có hành vi phạm tội trên tàu, nhưng thế nào là hành vi phạm tội cũng như những hành vi nào là hành vi phạm tội thì phải theo quy định của luật hình sự, cụ thể là Bộ luật Hình sự. Hoặc như quy định của pháp luật về về xử phạt hành chính trong lĩnh vực hàng hải nêu rõ chỉ xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự còn những hành vi phạm tội hình sự trong lĩnh vực hàng hải như: cướp biển, vận chuyển người bất hợp pháp, vận chuyển chất ma tuý trên tàu… sẽ bị điều chỉnh theo pháp luật hình sự (luật hình sự và tố tụng hình sự). Điều cần lưu ý ở đây là theo luật hình sự thì thẩm quyền trong việc xử lý đối với các hành vi phạm tội được trao cho công an.., nhưng theo pháp luật hàng hải thì quyền này được trao cho thuyền trưởng vì thuyền trưởng là người chỉ huy cao nhất trên tàu khi con tàu đang hoạt động trên biển. Khi xảy ra hành vi phạm tội trên tàu, thuyền trưởng không chỉ có trách nhiệm ngăn chặn, lập hồ sơ, bảo vệ chứng cứ… mà còn có quyền giữ bất kỳ người nào có liên quan đang ở trên tàu (Bộ luật Hàng hải Việt Nam). Quy định về hành vi phạm tội hình sự trong pháp luật hàng hải đã được đề cập ở một số điều ước quốc tế, ví dụ như Công ước quốc tế về ngăn chặn các hành vi trái pháp luật chống lại an toàn hàng hải đối với các giàn khoan cố định ở thềm lục địa năm 1988 (SUA), có hiệu lực từ 1/3/1992. Việt Nam đã gia nhập Công ước này.

Có thể nói rằng pháp luật hình sự áp dụng chung đối với các hành vi phạm tội ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội, trong đó có hàng hải. Và pháp luật hàng hải lại có những quy phạm đặc thù điều chỉnh những hành vi phạm tội hình sự trong hoạt động hàng hải. ( Khóa luận pháp luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng )

Với tất cả các phân tích trên cho thấy rằng, pháp luật hàng hải có đối tượng điều chỉnh, chủ thể, phương pháp điều chỉnh và nguồn luật riêng của mình. Bên cạnh những đặc thù và những quy phạm riêng của mình, pháp luật hàng hải có còn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại tương hỗ và cùng với các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam tạo thành hệ thống pháp luật về kinh tế – thương mại chuyên ngành. Vì vậy, có thể nói rằng pháp luật hàng hải có một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam và là cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý các hoạt động về hàng hải; giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn hàng hải. Các cơ quan quản lý Nhà nước về hàng hải, trong đó có Cảng vụ Hải Phòng luôn phải đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật về hàng hải, thực hiện quản lý nhà nước về hàng hải một cách chính xác, triệt để.

Mời bạn tham khảo thêm:

 Khóa luận thực trạng luật hàng hải và thực thi tại cảng vụ Hải Phòng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993