Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Khái quát về Hải Phòng
2.1.1. Vị trí địa lý và dân cư
Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm phía Đông miền Duyên hải Bắc Bộ. Hải Phòng cách thủ đô Hà Nội 102 km, có tổng diện tích tự nhiên là trên 152.300 ha, chiếm 0,45% diện tích tự nhiên cả nước (số liệu thống kê năm 2001). Về ranh giới hành chính: phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây giáp tỉnh Hải Dương; phía Nam giáp tỉnh Thái Bình; phía Đông giáp biển Đông. Hải Phòng nằm ở vị trí giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong nước và quốc tế thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và đường hàng không.
Hải Phòng ngày nay bao gồm 15 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 7 quận (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Kiến An, Hải An, Đồ Sơn, Dương Kinh), 8 huyện (An Dương, An Lão, Bạch Long Vĩ, Cát Hải, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng, Thuỷ Nguyên, Vĩnh Bảo). Dân số thành phố là trên 1.837.000 người, trong đó số dân thành thị là trên 847.000 người và số dân ở nông thôn là trên 990.000 người. (theo số liệu điều tra dân số năm 2009). Mật độ dân số 1.207 người/km2.
Có thể bạn quan tâm:
2.1.2. Kinh tế, xã hội
Nằm ở vị trí chiến lược của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trong tam giác tăng trưởng kinh tế: Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, Hải Phòng là đầu mối giao thông quan trọng, là cửa chính ra biển của các tỉnh thành phố phía Bắc Việt Nam. Từ hàng trăm năm nay, Hải Phòng luôn giữ vai trò là hải cảng quốc tế, là nơi tiếp nhận vận chuyển hàng hoá quốc nội và quốc tế lớn nhất Việt Nam, trong đó có thể kể tới cảng container Chùa Vẽ, cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng,…
Không chỉ phát triển về cảng biển, giao thông đường bộ, sân bay Cát Bi cũng là một cảng hàng không quan trọng của miền Bắc và là sân bay quốc tế dự phòng cho sân bay Nội Bài. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch vị trí cảng hàng không quốc tế Hải Phòng tại huyện Tiên Lãng. Do vậy, trong tương lai không xa, Hải Phòng sẽ trở thành đầu mối giao thông hàng không của miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Hải Phòng có hệ thống hạ tầng công nghiệp hiện đại với quy hoạch phát triển 47 khu cụm công nghiệp trong đó có hơn 30 khu cụm công nghiệp đang hoạt động hiệu quả như Khu công nghiệp Nomura, Khu công nghiệp Đình Vũ, Khu công nghiệp Đồ sơn… Hải Phòng chủ trương thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp then chốt với các sản phẩm mũi nhọn, có lợi thế cạnh tranh
Ngoài vị thế của thành phố Cảng, trung tâm kinh tế vào loại lớn nhất cả nước, Hải Phòng còn là một địa danh du lịch hấp dẫn. Đây là vùng đất có truyền thống, nơi lưu giữ nhiều giá trị lịch sử tự nhiên độc đáo. Các địa danh du lịch nổi tiếng của Hải Phòng như là Khu du lịch Đồ Sơn, Khu du lịch Cát Bà, suốt nước nóng Tiên Lãng, khu di tích Núi Voi,….
Với chiến lược phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, Hải Phòng luôn cần một lực lượng lao động trẻ, năng động. Chính vì thế, hệ thống giáo dục đào tạo của Hải Phòng luôn đứng trong top đầu của cả nước, với các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề có chất lượng cao. Bên cạnh đó, hệ thống y tế gồm các bệnh viện lớn như Viện Tiệp, Phụ Sản, Nhi đồng,… cũng là thế mạnh rất lớn của Hải Phòng với đội ngũ các bác sỹ, y tá có trình độ chuyên môn cao cũng như nhiệt huyết công việc.
Với những ưu thế trên, Hải Phòng hội tụ đầy đủ các yếu tố để sớm vươn mình trở thành thành phố năng động phát triển, là trung tâm kinh tế- xã hội của cả nước.
2.1.3. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Địa hình Hải Phòng thay đổi rất đa dạng phản ánh một quá trình lịch sử địa chất lâu dài và phức tạp. Phần bắc Hải Phòng có dáng dấp của một vùng trung du với những đồng bằng xen đồi trong khi phần phía nam thành phố lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng bằng thuần tuý nghiêng ra biển.
Hải Phòng có bờ biển dài trên 125 km, thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất này những bãi biển rộng và dài với bãi cát trắng mịn, nước biển trong xanh. Đó là khu du lịch Đồ Sơn với phong cảnh hữu tình, đó là vườn quốc gia Cát Bà với những loài động thực vật phong phú. Ngoài hai trung tâm du lịch hàng đầu của Hải Phòng còn có suối khoáng nóng của huyện Tiên Lãng cũng là điểm dừng chân của khá nhiều du khách.
2.1.4. Tài nguyên du lịch nhân văn Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Xưa kia Hải Phòng có tên là “Hải tần phòng thủ” vì Hải Phòng là vùng cửa tiền tiêu, là phên dậu của đất nước. Với vị trí địa lý giáp biển, một vị trí quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ tổ quốc. Nơi đây đã chứng kiến nhiều thăng trầm của lịch sử, văn hóa xã hội của dân tộc và đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng qua số lượng lớn các di tích lịch sử văn hóa, lễ hội độc đáo nay trở thành nguồn tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị lớn.
Những truyền thống lịch sử văn hóa với những sắc thái văn hóa đặc sắc mà người dân Hải Phòng xây dựng lên chính là tiềm năng phát triển nhiều loại hình du lịch văn hóa: du lịch tham quan, du lịch nghiên cứu, du lịch tâm linh. Nguồn tài nguyên du lịch nhân văn của Hải Phòng rất đa dạng và phong phú đó là các di tích lịch sử văn hóa: đền Nghè, Từ Lương Xâm; di tích khảo cổ: Cái Bèo và các lễ hội truyền thống: lễ hội Chọi Trâu; lễ hội đền Nghè. Nguồn tài nguyên nhân văn không chỉ đa dạng và phong phú mà mỗi một dạng tài nguyên đều chứa đựng trong đó những giá trị sâu sắc điển hình về lịch sử và văn hóa của từng vùng miền. Một trong những nguồn tài nguyên nhân văn đó là di tích lịch sử văn hóa Đền Nghè. Điểm đặc biệt làm nên sức hút đối với du khách là đền Nghè (đền thờ nữ tướng Lê Chân) gắn với truyền thuyết về một vị thần thiêng, lưu truyền huyền thoại thú vị, ý nghĩa với sự hình thành và phát triển của làng An Biên xưa, thành phố Hải Phòng ngày nay.
Một trong những điểm đến được đoàn công tác của Tổng cục Du lịch vừa tiến hành khảo sát để xây dựng hành trình “tua”, giới thiệu trong Năm du lịch quốc gia 2013 tại Hải Phòng, đó là đền Nghè. Một địa danh du lịch văn hóa tâm linh tiêu biểu của thành phố Hoa Phượng đỏ được đông đảo du khách ưa thích. Họ đến di tích lịch sử văn hóa thờ Nữ tướng Lê Chân này để tìm hiểu về vùng đất, con người Hải Phòng gắn với vị tướng giỏi của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thế kỷ thứ nhất (40 – 43). Người đã đến vùng đất ngã ba sông Tam Bạc-sông Cấm, lập ấp Vẻn, sau đổi là An Biên Trang, tiền thân của thành phố Hải Phòng sau này. Đền bề thế với quy mô vừa phải nhưng từ lâu trở thành một trong số những di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng của thành phố.
Cũng chính tại mảnh đất giàu tài nguyên này là không gian làm sống lại những giá trị lịch sử, là nơi để tưởng nhớ công lao của thế hệ trước, là địa điểm sinh hoạt văn hóa của người dân Hải Phòng. Lễ hội truyền thống Đền Nghè là nơi hội tụ những yếu tố trên. Đây cũng chính là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị và cần được bảo tồn và phát huy.
2.2. Các công trình tưởng niệm Nữ tướng Lê Chân tại Hải Phòng Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Trải qua gần 2000 năm, qua bao thăng trầm của lịch sử, các di tích thờ nữ tướng của thời đại Trưng Vương được nhân dân ta đời đời hương khói thờ phụng. Có thể nói Hải Phòng là vùng đất làm nên tên tuổi của nữ tướng Lê Chân. Chính tại nơi đây Bà đã có công trong cuộc khởi nghĩa, là người đã khai hoang lập ấp cho nhân dân. Cuộc đời của Bà phần lớn là ở vùng đất Hải Phòng và khi Bà mất đi cũng chính tại nơi đây đã xây dựng lên những công trình để thờ phụng Bà.
Đình An Biên – nơi thờ Thành hoàng Lê Thánh Công chúa
Từ khu vực trung tâm thành phố Hải Phòng đi theo đường Cầu Đất rồi rẽ vào phố Hai Bà Trưng ( Cát Dài ) khoảng 200m là tới di tích đình An Biên, nơi thờ nữ tướng Lê Chân. Đây là một ngôi đình có quy mô to lớn, tồn tại khá nguyên vẹn giữa lòng thành phố đông đúc. Nằm trong một ngõ nhỏ giữa một khu phố khá cổ và sầm uất của Hải Phòng người ta có thể dễ dàng nhận ra ngôi đình cổ nhờ những mái ngói rêu phong, đầu đao cong vút…Đình An Biên tọa lạc trên khuôn viên hình chữ nhật rộng chừng 3000m2. Mặt bằng kiến trúc bố cục theo lối chữ Công (I) gồm 5 gian đại đình, 3 gian ống muống và 3 gian hậu cung. Tòa đại đình 5 gian, cột đình là những thân gỗ lim đại thụ, đứng trên chân tảng là những phiến đá khối tạo dáng trên tròn giật cấp, giữa hình lục lăng còn đáy là khối vuông dày. Hệ thống mái đình được nâng đỡ bởi 6 bộ vì kèo, kiểu “chồng rường giá chiêng”.
Tòa ống muống là ngôi nhà nối giữa đại đình và hậu cung gồm 3 gian, hệ thống mái được nâng đỡ bởi 4 vì kèo gỗ lim. Các vì có kết cấu kiểu “chồng rường giá chiêng” và “ván mê”.
Tòa ống muống chia đôi mảnh sân hẹp trước hậu cung (đồng thời là phía sau đại đình) thành hai phần đều nhau. Phía ngoài 2 khoảng sân dựng nhà tả mạc và hữu mạc gọn gang tương tự nhau gồm 3 gian nho nhỏ.
Hậu cung là một ngôi nhà 3 gian song song với đại đình, mặt trước thông sang tòa ống muống bằng hệ thống cửa bức bàn, xung quanh xây tường gạch kín. Đặc biệt gian trung tâm đặt ban thờ Thành hoàng có kiến trúc kiểu lầu điện, cao 3 tầng, 4 mái giống gác chuông, gác trống.
Đình An biên là một trong những công trình kiến trúc cổ nổi tiếng ở nội thành Hải Phòng. Các thành phần kiến trúc trong đình từ câu đầu, xà nách, ván lá giong đến rường, bẩy… đều được trang trí, chạm khắc mà bố cục ở bất kì vị trí nào đều tuân thủ theo nguyên tắc đăng đối với kĩ thuật đạt trình độ điêu luyên, tinh xảo và phong cách nghệ thuật tiêu biểu của nghệ thuật đình làng thời Nguyễn thế kỷ XIX. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Đền An Biên
Đền nằm trong ngõ 2, đường Hồ Sen, một ngõ hẹp của phường Trại Cau, quận Lê Chân, nội thành Hải Phòng, nhân dân quanh khu vực còn gọi là đình Vẻn ngoài.
Theo một cụ cao niên cư trú lâu đời ở khu phố cho biết: làng Vẻn xưa (An Biên) rất rộng, sau tách thành 2 làng nhỏ. Dân làng mới tách (Vẻn ngoài), lập đền thờ nên cũng lấy tên là đền An Biên dể thờ Nữ tướng Lê Chân. Trong đền còn lưu giữ một số di vật, cổ vật có niên đại thời Nguyễn. Căn cứ tấm bia; “An Biên thần tích linh tự bi ký” (bia ghi chép về vị thần thờ đền An Biên), khắc năm Duy Tân cửu niên (năm 1915) thì ngôi đền thờ Lê Thánh công chúa có công giúp Bà Trưng đánh giặc (tức Nữ tướng Lê Chân) và có công âm phù vua Trần dẹp giặc Chiêm Thành.
Căn cứ vào dòng chữ Hán “Ất Mão trùng tu” khắc trên câu đầu gian tiền tế và một tấm bia hiện dựng tại gian trung cung “Trùng tu đình vũ hậu thần bi ký” (Bia ghi việc bầu hậu những người công đức trùng tu nhà đền) thì đền An Biên được trùng tu vào năm 1915.
Đền An Biên nhìn về hướng đông, có bố cục mặt bằng hình chữ Tam, gồm 5 gian tiền tế, 3 gian trung cung, 3 gian hậu cung. Năm gian tiền tế được nâng đỡ bởi 6 bộ vì kèo, gồm 24 cột gỗ lim, kết cấu vì nóc kiểu giá chiêng, chồng rường; tòa trung cung được nâng đỡ bởi 2 bộ vì, kết cấu vì nóc kiểu giá chiêng; tòa hậu cung gồm 4 bộ vì, 4 hàng chân cột, vì nóc kết cấu kiểu giá chiêng, chồng rường. Trong tòa hậu cung thâm nghiêm còn lưu giữ được một bức đại tự, một khám thờ và một đôi câu đối. Đại tự ghi: Đức đẳng càn khôn (đức lớn sánh cùng trời đất). Khám thờ trang trí hình ảnh chim phượng. Trong khám có ảnh khắc họa chân dung tượng Nữ tướng Lê Chân chụp lại theo thần tượng Bà vào đầu thế kỉ XX.
Hiện nay, đền An Biên nằm lọt giữa khu dân cư đông đúc, ít người biết đến. Tòa tiền tế nằm trong khuôn viên của bệnh viện Lê Chân, được sử dụng làm kho chứa thuốc, mái bị hư hỏn, lợp lại bằng ngói phibrôximăng. Tòa trung cung và hậu cung những năm qua đã được người dân tự phát tu sửa manh mún, chắp vá nên đang trong tình trạng hư hỏng, xuống cấp.
Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tại núi Voi
Đền được đặt tại núi Voi, huyện An Lão, Hải Phòng. Núi Voi từ thời xa xưa đã lưu giữ cả một kho tàng di sản văn hóa phong phú như đền Hang, đình chùa Chi Lai, chùa Long Hoa, chùa Bụt Mọc… để thờ Phật và các nhân thần nổi tiếng như : Cao Sơn Đại vương, Thục Phán An Dương Vương hay Lê Chân nữ tướng…
Trải qua thời gian khí hậu và những cuộc chiến thanh khốc liệt, nhiều di tích bị xuống cấp hoặc hư hỏng chỉ đến những năm đổi mới gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự đóng góp sức người, sức của nhân dân, nhiều công trình kiến trúc mới đươc phục dựng, tu bổ, tôn tạo phục vụ khách tham quan du lịch như Bảo tàng núi Voi, đình chùa Chi Lai, chùa Long Hoa… Đặc biệt mới đây khánh thành đền Nữ tướng Lê Chân- một công trình văn hóa tâm linh đồ sộ mà sự xuất hiên góp phần điểm tô cho quần thể di tích núi Voi thêm khang trang, ý nghĩa. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thán Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2.
Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm 5 gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra quốc lộ 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô. Mặt sau tựa váo vách núi tạ thế vững bền… Với kiến trúc chủ yếu bằng gỗ lim, bố cục hài hòa giữa chiều cao, mái ngói, đầu đao bên ngoài cùng với cách bài trí gọn gang của đồ thờ nghi trượng bên trong tạo cho du khách cảm giác thoáng đãng, thư thái mà ấm áp tôn nghiêm, lắng đọng cùng với sự trường tồn dài lâu của ngôi đền thờ vị anh hùng dân tộc, Nữ tướng Lê Chân, người có công lập nên thành phố Hải Phòng ngày nay.
Tương truyền, núi Voi là khu vực hiểm trở, thuận lợi cho việc dùng binh nên bà đã bí mật sử dụng nơi này chiêu mộ, tập hợp, huấn luyện binh sĩ chờ ngày xuất trận. Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Mê Linh, Lê Chân đã cùng nghĩa binh An Biên- núi Voi kịp thời hưởng ứng, lập nhiều chiến công vang dội, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Đông Hán đến thắng lợi.
Tượng đài Nữ tướng Lê Chân
Tượng đài Nữ tướng Lê Chân tọa lạc ở trung tâm dải vườn hoa thành phố Hải Phòng. Dải công viên trung tâm thành phố là địa điểm hấp dẫn. Từ nơi đay có thể chiêm ngưỡng nét cổ kính của nhà hát thành phố, sự thanh lịch, tươi trẻ của Quán Hoa, ngắm những đường vòng, uốn lượn của vòi phun nước nghệ thuật, thả bộ cùng sư tĩnh lặng của hồ Tam Bạc. Trong dải công viên cây xanh, tượng Nữ tướng Lê Chân có dáng đứng uy nghi, tay cầm đốc kiếm, áo choàng tung bay. Thần thái tượng thể hiện sự mạnh mẽ của một tướng lĩnh nhưng đầy nữ tính, biểu tượng cho vẻ đẹp và sự can trường của người phụ nữ Việt Nam. Nữ tướng có khuôn mặt đôn hậu, trẻ trung, đứng nhìn ra biển Đông như đang thị sát để chuẩn bị kế hoạch chống giặc, lập ấp.
Tượng Nữ tướng được đúc bằng đồng nguyên khối, chiều cao tổng thể 10,09m, nặng 19 tấn. Trong đó phần tượng Nữ tướng cao 7,49m, phần lông chim hạc trên đầu cao 0,7m. Các họa tiết hoa văn đều được khai thác từ hoa văn thời đại Hùng Vương với hình tượng sóng nước cuồn cuộn, lông chim hạc trên đỉnh đầu…
Tượng Nữ tương Lê Chân là mẫu dự thi của 2 họa sĩ Nguyễn Phúc Cường và Nguyễn Mạnh Cường, công ti đúc đồng Hải Phòng thi công. Hình tượng Nữ tướng Lê Chân cưỡi thuyền thị sát cũng được khắc trên trống đồng do Bảo tàng Hải Phòng và Hội Cổ vật đúc cung tiến vào đền Nghè nhân dịp kỉ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội ( năm 2010).
Tượng đài là công trình tưởng niệm ghi nhớ công lao của Nữ tướng Lê Chân đối với thành phố Hải Phòng. Tượng được nhân dân thành phố Hải Phòng khánh thành vào tháng 1 năm 2001.
2.3. Di tích lịch sử văn hóa Đền Nghè Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Trong rất nhiều di tích lịch sử văn hóa là những công trình tưởng niệm Nữ tướng Lê Chân, đền Nghè hiện hữu giữa lòng thành phố Hải Phòng với mái ngói rêu phong, cổ kính và linh thiêng, nơi ấp ủ truyền thống văn hiến ngàn năm và thắm đượm tinh thần dân tộc. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử tự nhiên cũng như xã hội, nhiều năm qua, chính quyền thành phố cùng các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân đã dành cho đền Nghè sự quan tâm đặc biệt để giữ gìn, bảo vệ ngôi đền, đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng cổ truyền dân tộc.
Một trong những điểm đến được đoàn công tác của Tổng cục Du lịch vừa tiến hành khảo sát để xây dựng hành trình “tua”, giới thiệu trong Năm du lịch quốc gia 2013 tại Hải Phòng, đó là đền Nghè. Một địa danh du lịch văn hóa tâm linh tiêu biểu của thành phố Hoa Phượng đỏ được đông đảo du khách ưa thích. Họ đến di tích lịch sử văn hóa thờ Nữ tướng Lê Chân này để tìm hiểu về vùng đất, con người Hải Phòng gắn với vị tướng giỏi của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thế kỷ thứ nhất (40 – 43). Người đã đến vùng đất ngã ba sông Tam Bạc-sông Cấm, lập ấp Vẻn, sau đổi là An Biên Trang, tiền thân của thành phố Hải Phòng sau này. Đền bề thế với quy mô vừa phải nhưng từ lâu trở thành một trong số những di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng của thành phố.
Cũng chính tại mảnh đất giàu tài nguyên này là không gian làm sống lại những giá trị lịch sử, là nơi để tưởng nhớ công lao của thế hệ trước, là địa điểm sinh hoạt văn hóa của người dân Hải Phòng. Lễ hội truyền thống Đền Nghè là nơi hội tụ những yếu tố trên. Đây cũng chính là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị và cần được bảo tồn và phát huy.
Nói đến đền Nghè, người Hải Phòng ai cũng biết đó là một ngôi đền có từ lâu đời ở quận Lê Chân, nhưng Hải Phòng vẫn còn một ngôi đền Nghè khác ở vùng đất Đồ Sơn. Đây chỉ là sự trùng tên, còn hai ngôi đền này có đối tượng tôn thờ hoàn toàn khác biệt. Ngôi đền mang ý nghĩa lịch sử và tâm linh của người dân Đồ Sơn.Từ ngã ba đường Lý Thánh Tông theo đường Suối Rồng vòng về phía Vạn Hương, ngay cạnh UBND phường, mọi người có thể dễ dàng nhận ra đền Nghè. Đền Nghè – Đồ Sơn được xây dựng ở lưng chừng núi, nơi đất – biển – trời giao hoà. Đền Nghè là nơi được người dân Đồ Sơn coi trọng vì nơi đây thờ “lục vị tiên công” – 6 dòng họ đầu tiên đã đến đây lập nên đất Đồ Sơn. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Đền Nghè nằm tại Phường Vạn Hương, Thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng cách Hà Nội khoảng 120 km về phía đông là nơi thờ Điểm Tước Thần Vương, một vị thần theo tưởng tượng của dân gian liên quan đến tục chọi trâu ở Đồ Sơn.
Đây cũng là nơi thờ cúng các vị thần hoàng của Đồ Sơn, trước và sau lễ hội chọi trâu, đền là nơi nhân dân và các giáp, các phường tập trung về để tế lễ. Ngược theo dòng lịch sử mới thấy được hết sự độc đáo và tâm linh của ngôi đền này, trước năm 1945 tổng Đồ Sơn có 2 xã, 5 làng; làng nào cũng có đình, đền riêng song hầu như tất cả chỉ có duy nhất một vị thành hoàng. Vị thành hoàng chung của người dân Đồ Sơn xưa được cả làng, xã xây dựng lên để thờ là thần Điểm Tước. Nguồn gốc của vị thần này bắt nguồn từ một truyền thuyết xa xưa, kể rằng vùng đất Đồ Sơn đang yên vui bỗng có một con thuỷ quái đến phá hoại các xóm vạn chài, bắt dân cư mỗi năm phải cũng cho nó một ” thiện nam ” tại vụng Mát. Trước sức mạnh và sự tàn ác của thuỷ quái, nỗi đau mất mát ngày càng đè nặng lên đời sống của các ngư dân vạn chài, từ đó họ luôn cầu thần khấn phật ra tay cứu giúp. Thế rồi vào một đêm hè, giông bão nổi lên, thuỷ quái bị giết, xác dạt vào bãi biển nơi mỏm Nghè, chân núi Ngọc. Được sự giúp đỡ của thần linh, xóm vạn chài trở lên yên vui, cư dân Đồ Sơn đã tiến hành lễ cầu duệ hiệu( tên gọi của thần ). Sau 7 ngày, 5 đêm thì thấy hiện lên nốt chân chim trên mâm bột, từ đó Điểm Tước trở thành tên gọi của thành hoàng tổng Đồ Sơn ( Điểm Tước có nghĩa là vết chân chim ). Từ nguồn gốc của vị thành hoàng làng này, tục chọi trâu đã được hình thành ở Đồ Sơn và là tập tục rất lâu đời của người Việt cổ được lưu giữ cho đến ngày nay. Với những nghi thức độc đáo mang màu sắc của văn hoá vùng ven biển, tục chọi trâu Đồ Sơn đã trở thành một lễ hội đặc biệt mang tầm vóc quốc gia.
Di tích đền Nghè – Đồ Sơn hội tụ đủ cả hai yếu tố vật thể và phi vật thể để trở thành một di sản văn hoá rất có giá trị, được xây dựng và tồn tại trong một không gian văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc.
2.3.1. Vị trí địa lý, lịch sử hình thành và phát triển Đền Nghè
- Vị trí địa lý
Di tích lịch sử văn hóa Đền Nghè hiện nay tọa lạc ở trung tâm thành phố Hải Phòng. Vị trí ngôi đền nằm giáp hai mặt phố Mê Linh và phố Lê Chân, thuộc phường An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
Đền Nghè xa xưa thuộc địa phận xã An Biên ( tên nôm là làng Vẻn), huyện An Dương, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
- Lịch sử hình thành và phát triển Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Đền Nghè ban đầu là một miếu nhỏ nằm trên bãi soi, nơi ngã ba sông Tam Bạc gặp sông Cấm, cũng là nơi đầu tiên khi Lê Thánh Công chúa từ làng quê của mình đặt chân đến vùng đất ven biển. Khi thực dân Pháp xâm lược,theo hòa ước Giáp Tuất ( tháng 4 năm 1874), đây là cuộc kháng chiến chống Pháp ở Bắc Kỳ lần thứ nhất. Tại thành Hà Nội, 100 binh lính đã chiến đấu và anh dũng hi sinh tại ô Quan Chưởng. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương (73 tuổi )chỉ huy quân sĩ chiến đấu dũng cảm. Nguyễn Tri Phương hi sinh, thành Hà Nội thất thủ, quân triều đình nhanh chóng tan rã. Con trai ông Nguyễn Lâm cũng hi sinh. Nhân dân tiếp tục chiến đấu quyết liệt, buộc Pháp phải rút về các tỉnh lị cố thủ. Trận đánh gây tiếng vang lớn là trận Cầu Giấy (21/12/1873). Gác-ni-ê tử trận. Pháp hoảng hốt, tìm cách thương lượng với triều Huế kí Hòa ước 1874. Theo đó, triều Huế nhượng hẳn 6 tỉnh Nam Kì cho Pháp, Việt Nam “chiểu” theo đường lối ngoại giao của Pháp, Pháp được tự do buôn bán và được đóng quân tại những vị trí then chốt ở Bắc Kì. Hiệp ước gây nên làn sóng bất bình trong nhân dân. Cuộc kháng chiến của nhân dân chuyển sang giai đoạn mới: vừa chống Pháp vừa chống triều đình phong kiến đầu hàng.
Nhân dân đã nổi dậy kháng chiến và phối hợp với quân cờ đen giết được Gác-ni-ê ở trận Cầu Giấy ngày 16-12-1874 Quân Pháp rút khỏi thành Hà Nội. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ thì vùng đất An Biên xưa thuộc đất nhượng địa của thực dân Pháp,nhân dân làng An Biên khi đó đã di chuyển đến Đền Nghè về phía Nam. Đến vùng đất hiện nay thì dây khiêng “ thạch quang” bị đứt ( theo truyền thuyết, “ thạch quang” là vật thiêng do Nữ tướng sau khi mất báo mộng về), khiêng đi không được nên nhân dân đã dựng đền tại đây để thờ phụng.
Đền Nghè bản nguyên có thể đã được nhân dân dựng từ rất xa xưa. Trong An Biên thần tích bi ký ghi: Khi nữ tướng Lê Chân mất, bà đã báo mộng cho nhân dân làng An Biên ra bờ sông rước vật thiêng về lập miếu thờ, mọi việc cầu đảo hết thảy đều ứng nghiệm. Ban đầu, đền có thể là chỉ là một ngôi miếu thờ nhân thần là nữ nhân vật lịch sử triều Trưng có công đánh giặc Hán đô hộ bvowis tên gọi An Biên cổ miếu( miếu cổ làng An Biên)
Đến thời Trần ( thế kỷ XII-XIII) Thánh Chân Công chúa báo mộng âm phù giúp vua Trần Nhân Tông đánh thắng giặc Chiêm thành nên được phong mỹ tự là Nam Hải uy linh và miếu An Biên được cấp tiền tu sửa ( Văn bia ghi là 100 quan)
Công trình kiến trúc Đền Nghè hiện nay được nhân dân trùng tu quy mô lớn trong thời gian từ năm 1924- 1927 triều vua Khải Định thời Nguyễn. trong văn bia tại nhà giải vũ Đền Nghè ghi rõ vào mùa xuân năm Giáp Tý, niên hiệu vua Khải Định năm thứ 9 ( 1924), dân làng An Biên hội họp để khởi công trùng tu, tôn tạo di tích miếu An Biên. Sáu 3, 4 năm mới hoàn thành. Đến tháng 7 năm 1927, dân làng An Biên lập bia đá ghi danh những người công đức xây dựng miếu An Biên trong đợt trùng tu, tôn tạo trên. Trên bia ghi 243 người và tập thể công đức. Trong số những người công đức có người Pháp lấy vợ người Việt, những chủ hiệu, những thương nhân người Hoa… người công đức cao nhất là bà Trịnh Thị Mão ( vợ của 1 vị xã trưởng), số tiền công đức là 400 nguyên. Người công đức ít là 3 nguyên. Tổng số tiền công đức trùng tu miếu là 3 959 nguyên. Ngoài số tiền công đức trên, còn có nhiều người công đức trung tu miếu bằng vật liệu như câu đối, bàn thờ, bát hương, cát, gạch, gỗ, đá…
Trải qua thời gian, chiến tranh, di tích bị xuống cấp nghiêm trọng. đến năm 2007-2009, Đền Nghè đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đầu tư cấp kinh phí tu bổ, tôn tạo như hiện nay.
2.3.2. Các công trình kiến trúc tại Đền Nghè Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
- Nghi môn
Nghi môn Đền Nghè có kiểu cửa phương thành, đây là kiến trúc phổ biến thế kỷ XIX, một sự kết hợp giữa kiến trúc cổng làng truyền thống người Việt và phong cách kiến trúc phương Tây ( vô- băng) . Nghi môn Đền Nghè gồm 3 cửa vào: Cửa chính giữa ( trung quan) là cửa lớn nhất. Đây là cửa thường chỉ mở vào những dịp chính lễ của Đền. Khi rước kiệu thì đội cờ, lọng, đội tế đi cửa này. Cửa bên trái ( hữu quan), và cửa bên phải ( tả quan) thấp hơn cửa chính giữa. Hai cửa này mở vào những ngày thường nhân dân vào chiêm bái.
Nghi môn được xây dựng vào đầu thế kỷ XX và được tu sửa lại vào năm 2007. Trên Nghi môn trang trí nhiều linh vật trong thế giới tâm linh của người Việt như: Chim phượng, Lân, Rồng…tất cả được chạm khắc trên đá tinh xảo.Trên trụ phía ngoài cổng có khắc đôi câu đối đề cao công đức của vị thần thờ trong Đền.
Đức đại yên dân thiên cổ thịnh
Công cao hộ quốc vạn niên trường
Dịch nghĩa:
Đức lớn làm yên lòng dân, ( đức này) từ xa xưa ngày càng giàu có Công dày giúp đất nước,( công đó) mãi mãi còn ghi.
- Tiền tế
Qua Nghi môn vào khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng là bước vào không gian của Đèn Nghè, phía trước là gian Tiền tế. Tiền tế có kiểu tường hồi bít đốc. trang trí trên bờ nóc là hình tượng các linh vật trong thế giới tâm linh của người Việt. Hai bên bờ nóc là hai đầu rồng ngậm bờ nóc chầu về trung tâm, tiếp theo là hai quy tàng chở Hà đồ ( bức đồ trên sông Hoàng Hà), tiếp theo là hai chim phượng sải cánh trong thế tung bay. Tất cả các linh vật đều hướng về trung tâm trong tư thế chuyển động. Ở trung tâm bờ nóc là một bức cuốn thư lớn đề 4 chữ Hán “ An Biên cổ miếu” ( miếu cổ làng An Biên), các chữ được giát những mảnh sứ màu lam long lanh. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Tiền tế có kiểu nóc chồng rường con thuận. Trung tâm của gian tiền tế là bàn thờ Công đồng các quan – những người đã phò tá và chinh chiến cùng Nữ tướng Lê Chân. Ban thờ có một nhang án lớn trên đặt long ngai thờ bài vị công đồng, hai bên là hai lọng che, phía trước nhang án là một lư hương lớn đặt chính giữa và hai hạc chầu hướng vào. Hai bên nhang án là hệ thống bát biểu.
Tòa Tiền tế được dựng năm Khải Định cửu niên ( năm 1924) dưới thời Nguyễn, đến năm 2007 được trùng tu tôn tạo lại.
Hai gian bên cạnh tòa tiền tế là nơi đặt Long kiệu và Phượng kiệu tượng trưng cho âm dương đối đãi. Kiệu phục vụ trong những ngày chính lễ chính của đền. Ngoài ra tiền tế còn đặt chuông và một khánh đá.
- Thiêu hương
Qua nhà Tiền bái một khoảng bước chân, nằm chính diện cân đối trên đường thần đạo về phía trong là tòa thiêu hương. Tòa thiêu hương cấu trúc theo kiểu phương đình ( nhà vuông).
Tòa Thiêu hương gồm bốn cột gỗ lớn đỡ các xà liên kết ngang ( giữa các cột) và kẻ góc thu về nóc tạo thành hai tầng mái có kiểu chồng diềm. Phần góc đao trang trí đề tài long phụng hồi chầu. Phần chồng diềm ( giữa hai mái) ghép các bức tranh theo đề tài Đạo giáo: Ngọc hoàng thượng đế, Tam thanh. Các bức tranh này xoay quanh nguồn gốc và xuất xứ ly kỳ của Mẫu Lê Chân có ảnh hưởng của Đạo giáo.
Thiêu hương đặt một sập đá lớn, trên sập đá đặt đồ tế khí. Các đồ tế khí đặt theo nguyên tắc đăng đối qua trục thần đạo. phần trên là một bức đại tự lớn: Thượng đẳng tôn thần, dẫn theo bản sắc phong của vua Khải Định phong năm 1924.
Trung tâm của Thiêu hương đặt sập thờ. Đây là sập thờ khổ lớn bằng đá, kiểu chân quỳ dạ cá. Mặt sập phẳng, mở ra 4 góc, dưới mặt sập là các đường chỉ trang trí cánh sen, hoa cúc dây nổi. thân sập ( dạ cá) trang trí ở bốn mặt: mặt chính diện là “ hổ phù hàm thọ” ( hổ phù ngậm chữ thọ, biểu trưng cho sự trường tồn), mặt sau là “ quy tàng”, hai bên trang trí “ phượng thư bút” ( chỉ đến những nữ giới cao quý có được sự tinh thông thao lược văn võ). Bốn góc sập là bốn mặt hổ phù trang trí bao trùm lên chân sập. phần chân sập đỡ trên 4 con lân đá trong tư thế thủ phục, mắt mở tròn cảnh giác… các linh vật và các đường nét hoa văn trang trí trên sập đều được khắc nổi lấy vân may và hoa cúc dây làm nền trang trí, tạo cho sập đá có dáng vẻ mềm mại, các linh vật có hồn, sống động. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Sập đá do bà Nguyễn Thị Năm, hiệu là Kỳ Nam cúng tạo vào năm Mậu Dần, niên hiệu Bảo Đại thứ 10 (năm 1938). Sập đá ghi nhớ sự tích Thánh mẫu Lê Chân khi hóa làm Thành hoàng làng An Biên đã hiển linh bàn đá trôi ngược trên dòng sông Cấm. Thánh mẫu Lê Chân đã báo mộng cho dân làng An Biên ra bến sông để rước về dựng đền thờ Bà.
- Hậu cung
Là không gian linh thiêng nhất của di tích. Hậu cung là một tòa nhà ba gian kiểu tường hồi bít đốc. Phía ngoài, trên nóc hậu cung trang trí đề tài rồng chầu mặt nhật. Tường hồi hậu cung được cách điệu hình cánh cung mở góc tạo bờ hồi nóc có dáng mềm mại. Nhìn từ phía hồi chính giữa nóc hậu cung là một mặt hổ phù lớn đắp nổi ngậm chữ “ thọ”, hai bên là hai đầu rồng chầu vào, phía trên là hình một chim phượng lớn nổi khối sải cánh bay…
Phía mái trước hậu cung có kiểu mái chồng diêm, trên đắp các bức phù điêu. Mỗi một mảng phù điêu gắn với xuất thân, công trạng và hiển linh của Nữ tướng: Mảng phù điêu chính giữa miêu tả cảnh sắc núi rừng Yên Tử hung vĩ. Bức phù điêu viết ba chữ Hán “ An Tử sơn”, mảng phù điêu nhắc lại truyền thuyết trong thần tích: Thân phụ, thân mẫu của đức thánh Lê Chân sau khi lên An Tử cầu tự sinh ra Bà.
Mảng phù điêu bên phải miêu tả cảnh đoàn quân khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và Nữ tướng Lê Chân đánh giặc Đông Hán, với khí thế hùng dũng, voi, ngựa, cờ xí, giáo mác rợp trời. Mảng phù điêu bên trái là hình ảnh vua Trần Anh Tông thế kỷ XIV cùng đoàn quân hùng hậu, xe ngựa, thuyền rồng đi chinh phạt quân Chiêm Thành, khi đi qua vùng đất An Biên được đức thánh Lê Chân báo mộng âm phù.
Trên hiên hậu cung ( ngọc lộ) có một bàn đá trên thờ miếu đá. Truyền thuyết kể rằng, khi Bà mất đã hóa thành miếu đá trôi trên sông về vùng đất An Biên và báo mộng cho dân làng rước về thờ. Miếu đá là khối đá vuông, được tạo tác công phu. Trung tâm mặt trước miếu khắc chìm dòng chữ:
“Đương cảnh Thành hoàng Nam Hải uy linh Thượng đẳng tôn tôn thần”.
Hai bên thân miếu là đôi câu đối:
Ngọc miếu tăng sung, Biên quận nhân tư đức báo
Thạch tọa lưu nghịch, Cấm giang nhật hiển linh thanh.
( dịch nghĩa: Ngọc miếu càng được tôn kính, dân An Biên luôn nhớ báo ơn người – Bàn đá mãi còn, khắc ngày hiển linh của Thánh trên sông Cấm) Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Mặt bên của thân miếu chạm nổi hình cửa võng,bên ngoài rìa thân miếu khắc chìm câu đối chữ Hán, mặt tả ghi:
Ngự Hán uy phong đào diệc nộ.
Phù Trưng tâm sự thạch do linh.
( chống Hán phẫn nộ, nổi dâng như gió to, sóng lớn. Giúp triều Trưng, tinh thần để lại bàn đá linh thiêng). Mặt hữu khắc:
Hiển tích đức niên, giang hữu thạch.
Dương hung trấn cổ, hải vô ba.
(Đức để lại có linh tích, trên sông bàn đá nổi
Sự nghiệp anh hùng, tựa như làm yên sóng biển).
Miếu đá đặt trên một bàn thờ đá. Bàn thờ đá cũng được tạo tác từ đá nguyên khối có dáng chân quỳ dạ cá.
Mặt khối bàn thờ hình chữ nhật đỡ miếu, thân thu gọn vào lòng, dạ cá mở ra để đỡ toàn thân miếu, phía trước mặt bàn thờ đá trang trí hổ phù ngậm chữ Thọ…
Bên trong tòa hậu cung, bộ vì nóc có kiểu chồng rường trụ trốn đá chiêng. Trên thượng lương của tòa hậu cung ghi dòng chữ Hán “ Hoàng triều Khải Định cửa niên tuế thứ Giáp Tý, Thập nhị nguyệt, sơ lục nhật trùng tu cổ miếu, thụ trụ thượng lương, đại cát” ( Ngày 6 tháng 2 năm 1924 trùng tu cổ miếu An Biên, dựng cột, thượng lương tòa hậu cung, việc tốt lành). Chính gian giữa có bức đại tự khắc 4 chữ Hán: Nghi gia vạn thế ( Gia đình Nữ tướng Lê Chân mãi mãi được người dân nhớ ơn phụng thờ). Trong cung cấm, trung tâm của di tích là ban thờ Nữ tướng Lê Chân. Thần tượng Bà ngự trong khám thờ với dáng vẻ uy nghi, khuôn mặt đôn hậu, xinh đẹp… Gian bên phải hậu cung là ban thờ thân mẫu của Nữ tướng, gian bên trái là ban thờ thân phụ. Hai ban thờ vọng không đặt thần tượng.
- Nhà giải vũ
Từ hai gian hồi của tòa tiền bái đi vào là đến hai tòa giải vũ (tả vũ và hữu vũ). Hai tà giải vũ được xây kiểu “đầu hồi bít đốc trụ đấu”, mỗi nhà ba gian mái chảy. Phần tường xây để trống ở phía trước và mở hai cửa nách phía hồi để tiện đi lại sang các công trình khác. Hệ thống giải vũ vì gỗ được làm theo kiểu vì kèo quá giang, biến thể giá chiêng.
2.3.3. Di vật tiêu biểu trong khuôn viên di tích Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
- Bia thần tích
Bia đá lớn được để trang trọng trong lầu bia, trên chính diện đường thần đạo trước sân Đền Nghè. Bia ghi “Hải Phòng An Biên thần tích bi”, nghĩa là bia ghi thần tích miếu cổ làng An Biên, thành phố Hải Phòng. Trên bia khắc hơn 1000 chữ Hán do dân làng An Biên tạo tác vào mùa xuân năm 1924.
Bia thần tích đặt trên đế bia bằng đá. Bia gồm 3 phần: Trán bia, thân bia, đế bia. Trán bia khắc nổi hình lưỡng long chầu nhật ở trung tâm, xung quanh trang trí các cụm vân mây. Thân bia là phần ghi nội dung, xung quanh thân bia có diềm bia khắc nổi hoa cúc dây, phía dưới diềm thân bia chạm khắc lưỡng long như nâng đỡ bia. Đế bia là một khối đá liền tạo dáng như một bàn thờ kiểu chân quỳ dạ cá, mặt hướng tiền chạm nổi hổ phù, hàm thọ. Dạ cá hai bên hồi bàn đá chạm nổi hoa lá thiêng. Nhìn tổng thể, bia thần tích tạo dáng giống một bài vị lớn, các họa tiết trang trí mang ý nghĩa linh thiêng và sự tôn thờ cao cả. Bia có kích thước: Cao 1.5m, rộng 1m, dầy 0.2m.
- Voi đá- Ngựa đá:
Cùng với hệ thống các di vật cổ vật trong khu di tích Đền Nghè, với ý nghĩa là đền thờ một nữ tướng trận mạc, người xưa khi dựng đền thờ Bà đã đưa các vật linh gắn bó với cuộc đời chinh chiến của Nữ tướng Lê Chân phối thờ cùng.
Voi đá ( một cặp): trong tư thế buông vòi phủ phục chờ chủ tướng xung trận Ngựa đá ( một cặp) trong tư thế đứng, sẵn sàng cương đai như chờ đợi chủ tướng xuất kích.
Voi đá và ngựa đá được tạc bằng đá xanh nguyên khối, có kích thước không lớn ( cao 60 cm, rộng 40 cm). Những di vật này được tạo trong đợt tu sửa năm 1924.
- Khánh đá:
Khánh đá treo tại nhà tiền tế Đền Nghè, đây là chiếc khánh đá có kích thước lớn ( 160 × 97 × 6 cm) . Mặt trước khắc nổi trang trí đề tài lưỡng long chầu nguyệt trong nền vân tản ( vũ hội long vân). Mặt sau khắc nổi đề tài cụm sen, tứ linh ( long, ly, quy, phượng). Phía trên gần đỉnh khánh tạo lỗ treo khánh. Mặt trước khánh in dòng lạc khoản: “ Mậu Thìn niên thu tạo, đệ tử Bùi Thị Tý, hiệu Diệu Nguyên cung tiến” ( khánh đá là do bà Bùi Thị Tý hiệu Diệu Nguyên công đức vào Đền Nghè mùa thu năm 1928). Cùng với chuông, trống, khánh đá là những đồ tế khí mang lời thỉnh cầu của chúng sinh lên bậc tôn kính…
Đền Nghè còn lưu giữ hệ thống các di vật, cổ vật có niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như : Hệ thống câu đối, đại tự, sắc phong, bia đá ( bia hậu), cây hương…Đây là những di vật được hình thành trong quá trình xây dựng và tôn tạo di tích do nhiều cá nhân, tập thể cung tiến vào Đền. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
- Bia đá
Bia đá lớn được để trang trọng trong lầu bia, trên chính diện đường thần đạo trước sân Đền Nghè. Bia ghi “ Hải Phòng An Biên thần tích bi”, nghĩa là bia ghi thần tích miếu cổ làng , thành phố Hài Phòng. Trên bia khắc hơn 100 chữ Hán do dân làng An Biên tạo tác vào mùa xuân năm 1924.
2.3.4. Điện Tứ phủ Đền Nghè
Điện Tứ Phủ nằm trong khuôn viên di tích lịch sử Đền Nghè. Điện hướng mặt về phía Bắc nhìn ra phố Lê Chân.
Trong lịch sử hình thành các đền thờ nữ thần thường gắn liền với Tứ phủ thờ hệ thánh Mẫu của người Việt. Tứ phủ đền Nghè cũng được ra đời cùng với sự ra đời của đền thờ Nữ tướng Lê Chân. Ban đầu kiến trúc và thờ tự còn sơ sài, hiện nay là công trình kiến trúc được tu sửa vào năm 2007 – 2009.
Tứ phủ Đền Nghè có kiểu chuôi vồ ( chữ Đinh), gồm một tòa Tiền bái, một tòa hậu cung và hai gian phụ hai bên.
Tiền bái là tòa nhà có kiểu tường hồi bít đốc. Phía ngoài, có hai trụ biểu lớn ngự hai bên hồi, trên có đôi câu đối ca ngợi vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của vùng đất này. Trên nóc Tiền bái, ở trung tâm trang trí lưỡng long chầu nguyệt, mặt nguyệt do một hổ phù lớn ngậm theo tích “ hổ phù ọe mặt trăng”, hai bên cạnh là rùa đội Hà đồ và phía góc có hai đầu rồng ngậm nóc mái.
Bên trong, Tiền bái có kiều vì chồng rường con thuận. Ở trung tâm gian Tiền bái đặt bàn thờ Công đồng các quan. Hai bên tòa Tiền bái là nơi thờ các ông Hoàng, bên trái thờ ông Hoàng Mười, bên phải thờ ông Hoàng Bảy.
Từ trung tâm của Tiền bái đi vào Hậu cung là một tòa ống muống 2 gian kiểu chồng rường giá chiêng. Gian phía trước là nơi thờ Ngũ vị tôn ông. Gian trong cùng Hậu cung và là trung tâm của di tích là nơi đặt bàn thờ Tam hòa Thánh mẫu. Ba vị Mẫu cai quản 3 miền: trời, đất, nước. Thần tượng các vị Mẫu được đặt trong khám thờ trong tư thế ngồi thiền, trang phục áo thêu kim tuyến, mỗi màu áo gắn với miền cai trị của các vị Mẫu: Mẫu Thượng thiên ( tượng đặt chính giữa) mặc yếm màu đỏ, Mẫu Địa ( tượng đặt phía bên trái) mặc yếm xanh, Mẫu Thoải ( đặt bên phải) mặc yếm màu trắng. Phía trước Mẫu Thượng thiên là thần tượng Mẫu Liễu Hạnh. Trong dân gian, Mẫu Liễu Hạnh là con của Ngọc Hoàng thượng đế giáng trần nên thường được đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên. Bên cạnh các Mẫu có các hầu cô, tiên cô, nàng Hương, nàng Thị… giúp việc.
Hai gian bên cạnh Tam tòa, gian bên trái là bàn thờ vị Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thần tượng đặt trong khám thờ trong tư thế ngồi, tượng mặc văn phục, tay cầm hốt lạnh điều quân … Gian bên phải Tam tòa thờ Mẫu Sơn trang, vị Mẫu cai quản miền núi rừng. Ban thờ được tạo dựng giống một sơn động núi non, thác nước, cây cỏ và hang động … Mẫu mặc áo xanh, ngồi trong tư thế ngồi thiền động, bên cạnh có nhiều tiên cô giúp việc theo hầu …
2.3.5. Các đối tượng thờ tại Tứ Phủ Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
- Tín ngưỡng thờ mẫu
Thiên Phủ do Mẫu Đệ nhất ( Mẫu Thượng thiên) cai quản. Đây là vị Mẫu làm chủ các hiện tượng tự nhiên : mưa, mây, gió, bão, sấm, chớp. Trong tâm thức dân gian, Mẫu Thiên Phủ – Mẫu Thượng thiên thường được hiện thực hóa là vị Mẫu Liễu Hạnh, con gái của Ngọc Hoàng Thượng đế đã giáng trần vào thời Lê sơ ( thế kỷ XVI) và hiện diện giúp dân trừ giặc dã, đối thơ cùng Phùng khắc Khoan … Ở Trung Bộ và Nam Bộ, Mẫu Đệ nhất được đồng hóa với Mẫu Thiên Yana, Thiên Mụ.
Nhạc Phủ do Mẫu Đệ nhị ( Mẫu Thượng ngàn) cai quản. Đây là vị Mẫu chủ việc cai quản rừng núi, ban phát của cải. Đền thờ Mẫu Đệ nhị phổ biến ở vùng miền núi phía Bắc nước ta…
Thủy Phủ do Mẫu Đệ tam ( Mẫu Thoải) cai quản. Đây là vị Mẫu trị vì các miền sông nước, cung cấp nước cho nông nghiệp, bảo trợ nghề đánh cá … Mẫu Thoải thường được thờ vùng đồng bằng ven biển.
Địa Phủ do Mẫu Đệ tứ ( Mẫu địa phủ) cai quản. Đây là vị Mẫu quản lý đất đai nguồn gốc của sự sống.
Điện Tứ Phủ ở Đền Nghè Hải Phòng nằm trong quần thể di tích Đền Nghè. Nơi thờ vị Nam Hải uy linh Thánh Chân Công chúa, Bà vừa là một nhân vật trong lịch sử Việt Nam đồng thời là một vị nữ thần. Nhân dân phụng thờ Thánh Lê Chân và tôn xưng Thánh Mẫu là đề cao công lao của bà với đất nước, nhân dân. Đây là một hình thức thờ nữ thần nằm trong hệ thống thờ Mẫu của nhân dân ta.
Trong tín ngưỡng dân gian, Mẫu đệ nhất – Mẫu Thiên là mẫu có quyền lực bao trùm, đây là lực lượng sang tạo ra trời và các hiện tượng trên bầu trời như mây, mưa, sấm, chớp, bão tố vv… Mẫu đã tạo ra miền trời và đặt ra các quy luật vận hành của miền trời, thờ Mẫu Thiên vì mong được mưa thuận gió hòa … Mẫu Đệ nhị là Mẫu Thượng Ngàn – Mẫu biểu tượng về núi rừng – nguồn của cải vô tận để ban phát cho con người. Ở miền núi rừng được coi là nơi
chuyển tiếp của các kiếp người đã qua ( chết) để trở thành cô, cậu. Ở đây thể hiện tính nhân bản của người Việt: Không chỉ chăm lo cho người sống mà còn chăm lo cho cả người chết. Người chết có thể chuyển hóa thành cô, cậu. Cho nên, việc thờ cô, cậu là nói tới một nhận thức về luân hồi, một biểu hiện cụ thể về điều thiện để con người hướng tới; thứ nữa là lòng mong muốn mọi sự tốt lành cho người đã mất. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Mẫu Đệ tam là Mẫu Thoải hay Thủy là lực lượng tạo ra nguồn nước.
Nhân dân ta coi đây là yếu tố đầu tiên của nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp.
Mẫu Đệ tứ là Mẫu Địa – lực lượng tạo ra đất, yếu tố cơ bản của mọi nguồn của cải, cây cối. Các Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải đều gắn liền với nghề làm ruộng của người Việt.
Tín ngưỡng thờ Ngũ vị Tôn Ông
Ngũ vị Tôn ông là những lực lượng có nguồn gốc nhân thần được linh hóa, giúp Mẫu thần thực thi quyền năng, gồm các vị: Nguyễn Nghiêm ( Thần Gió); Nguyễn Quyền ( Thần Mây); Nguyễn Bé – Vũ Thiên Hầu ( Thần Mưa); Nguyễn Khoản – Lạc Long Quân ( Thần Sấm); Nguyễn Huề ( Thần Chớp). Hàng năm, tết 5 tháng 5 âm lịch lấy ngày hội lễ chung của Ngũ vị tôn ông.
Tại điện Tứ Phủ ở Đền Nghè, Hải Phòng, Ngũ vị Tôn ông được thờ ở gian trung cung. Y phục của các vị là áo quan văn, võ, mũ cánh chuồn.
Để biến ý định sáng tạo của Mẫu thành hiện thực, cần có một lực lượng thực hiện. Đó là Tứ Phủ Chầu bà ( hay Tứ Phủ Thánh Chầu) và Tứ Phủ QUan Hoàng. Nhiều vị của hệ thống này đã hóa thân xuống trần gian để làm tướng lĩnh giúp nước, yên dân.
Tứ Phủ Chầu Bà gồm: Chầu Đệ nhất, Chầu Đệ nhị, Chầu Đệ tam, Chầu Đệ tứ và Chầu Năm thờ ở nhiều nơi trong cả nước; Chầu Đệ ngũ được thờ ở suối lân, Lạng Sơn; Chầu thất Tiên La ở Hưng Hà, Thái Bình; Chầu Bát là Bát Nàn ở Đồng Mỏ, Lạng Sơn; chầu Cửu Tinh hay còn gọi là Bán thiên công chúa hoặc Cửu Thiên Huyền Nữ thờ ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa; chầu Bé thờ ở Bắc Lệ, Lạng Sơn …
Tứ Phủ Quan hoàng gồm có các vị:
Ông Hoàng Đệ nhất là một vị tướng của Lê Lợi có công đánh giặc Minh. Ông Hoàng Đệ nhị ( ông Hoàng Đôi) là một vị quan lớn Triệu Tường có công khai phá đất hoang được thờ ở Thanh Hóa.
Ông Hoàng Bơ ( Ba) được thờ ở đền Lảnh Giang (Lểnh Giang), Hà Nam và Hưng Yên với tư cách là thủy thần phò bua đánh giặc. Ông Hoàng Bơ, cháu của cụ Nguyễn Long Cảnh được thờ ở thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội đã có công đánh giặc Ma Na. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Ông Hoàng Bảy thường gọi là Ông Bảy bảo Hà. Theo truyền thuyết, Ông là con Đức Vua Cha. Theo lệnh vua, ông giáng trần trở thành con trai thứ Bảy trong danh tộc họ Nguyễn, triều Lê ( niên hiệu Cảnh Hưng 1740-1786). Khi ấy, khắp vùng phủ Quy Hóa, nhất là châu Thủy Vĩ và châu Văn Bàn luôn bị giặc cướp phá. Trước tình hình đó, triều đình cử danh tướng thứ Bảy họ Nguyễn lên trấn thủ vùng biên ải, ông đem quân tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn mạnh.
Trong một trận chiến đấu không cân sức với quân giặc, Ông đã anh dũng hy sinh, thi thể ông trôi theo sông Hồng tới Bảo Hà thì dạt vào bờ. Do có công với dân, nhân dân trong vùng đã xây dựng đền thờ để ghi nhớ công ơn ông.
Ông Hoàng Mười được thờ ở Bến Củi, bên bờ sông Lam, Hà Tĩnh, tướng đời Lê Thái Tổ ( có ý kiến cho rằng ông là tướng Nguyễn Xí). Theo truyền thuyết ở vùng Nghệ An, ông được vua Lê giao trấn thủ Nghệ An. Ông vừa có công dẹp giặc, vừa có công chăm sóc, vỗ về dân chúng làm ăn, khai mở lưu thông buôn bán với mọi miền. Nhờ vậy, mà đời sống nhân dân ngày càng thêm no ấm. Một năm kia, giặc ngoại bang tràn vào, ông đã xông pha trận tiền, đốc thúc binh lính dẹp tan giặc, giữ yên bờ cõi. Khi thắng giặc trở về thì một trận cuồng phong ập đến, nhà cửa dân chúng đổ nát, hư hỏng nhiều vô kể. Thương dân, ông cùng binh sĩ lên ngàn chặt tre, đốn gỗ đưa về giúp dân. Một lần không may, khi bè xuôi về đến chân Ngàn Hống ( Hồng Lĩnh), núi Ngũ Mã thì cuồng phong lại ập đến làm vỡ bè. Ông gặp nạn. Quân sĩ và dân làng chưa kịp mai táng thì mối đã đùn lên đắp thành mộ. Mộ mỗi ngày một to lên trông thấy. Cảm phục và biết ơn ông, dân trong vùng đã lập đền thờ ông ở núi Ngũ Mã. Thác rồi, ông vẫn linh thiêng, thường hiển Thánh cứu giúp muôn dân. Cũng trên đất xứ Nghệ, Ông Hoàng Mười còn được nhân dân đồng nhất với những nhân vật lịch sử nổi tiếng, gắn bó với vùng quê này như Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai thứ 8 của Lý thái Tổ …
Tại điện Tứ Phủ ở Đền Nghè, Hải Phòng, đại diện Tứ Phủ Quan hoàng được thể hiện : ở bên trái nhà bái đường có ban thờ ông Hoàng Mười. thượng ngồi trong khám thờ sơn son thiếp vàng, có hai tượng cô, cậu chầu hai bên. Ông Hoàng Bảy được thờ ở bên phải bái đường. Cũng như ông Hoàng Mười, ông Hoàng Bảy ngồi trong khám thờ sơn son thiếp vàng, có hai tượng Cô, Cậu chầu hai bên. Cả hai ông là chỗ dựa tin cậy, phò vua giúp nước an dân. Các ông được nhân dân tin yêu và là niềm tự hào của người dân.
Tứ Phủ Thánh cô và Tứ Phủ thánh cậu là thứ bậc thấp nhất, những người hầu phụ tá – các vị là lực lượng rất mực tôn trọng Mẫu, thường quần tụ bên Mẫu …
Ban thờ Sơn Trang thể hiện hình ảnh động đá. Trung tâm động đặt tượng bà chúa Sơn Trang, theo hầu bà chúa Sơn Trang có 12 tiên cô giúp việc, bố trí khắp sơn động. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Ban thờ Trần triều thờ Hưng Dạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Trần Hưng Đạo đương thời là Quốc công tiết chế, tổng chỉ huy quân đội Đại Việt. Cùng với vua tôi nhà Trần, ông đã chỉ huy quân dân Đại Việt ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ XIII. Vua Trần đã gọi ông là Thượng quốc công, ví ông với Lã Vọng giúp Chu Vũ Vương. Vua Trần phong cho ông là Hưng Đạo Đại Vương.
Trong văn hóa dân gian, Trần Hưng Đạo là vị thánh giữ sự trong sáng cho đời và có “phép” trừ tà ma quỷ quái, nhân dân tôn kính tôn xưng là “ Trần triều hiển Thánh” ( vị thánh hiển dưới triều Trần). Thần tượng đặt trong khám thờ, đầu đội mũ cánh chuồn, mặc võ phục, tay đặt trên đầu gối.
2.3.6. Giá trị của di tích lịch sử văn hóa Đền Nghè
2.3.6.1. Giá trị nghệ thuật
Buổi đầu, đền Nghè mới chỉ là một ngôi miếu nhỏ lợp gianh nứa, năm 1919, toà Hậu cung của đền đuợc xây dựng, năm 1925, toà hậu cung đuợc trùng tu, đến năm 1926, tòa Tiền Bái đuợc xây dựng. Đây là một tổng thể di tích lịch sử gồm voi đá, ngựa đá, sập đá, bia đá ghi tiểu sử bà Lê Chân và các tòa kiến trúc thể hiện nghệ thuật điêu khắc rất điêu luyện mang tính truyền thống của nhiều thế kỷ truớc. Toà bái đường gồm 5 gian được nâng đỡ bởi 16 cột lim, kê trên 16 viên đá tảng đục đẽo công phu, tỉ mỉ. Chính giữa nóc nhà bái đường đắp nổi hàng chữ Hán lớn An Biên cổ miếu. Hậu cung gồm 3 gian, xây cao hơn nhà bái đường với thiết kế kiểu 2 tầng mái, làm tăng thêm sự bề thế, uy nghi của công trình. Nét đặc sắc của kiến trúc đền Nghè là nghệ thuật chạm khắc trên gỗ, đá. Với các đề tài long ly quy phượng, tùng cúc trúc mai… thể hiện kỹ thuật chạm khắc bong hình, chạm nổi, chạm chìm đạt đến trình độ tinh xảo. Hiện nay, đền Nghè còn bảo tồn được nhiều tác phẩm điêu khắc trên đá rất có giá trị. Điển hình là tấm bia đá có kích thước lớn được tạc vào thời Nguyễn, ghi tiểu sử của nữ tướng Lê Chân. Toà bái đường treo khánh đá chạm nổi đề tài vũ hội long vân đường nét tinh vi, mềm mại, uyển chuyển. Ở toà thiêu hương có chiếc sập đá đồ sộ, tạo bằng khối đá liền, chạm nổi hình chim, thú, hoa, lá rất công phu. Tại toà hậu cung, tượng Nữ tướng ngồi trên ngai thờ, đặt trong một khám lớn sơn son, thếp vàng với dáng vẻ uy nghi, đôn hậu, xinh đẹp.
2.3.6.2.Giá trị lịch sử
Di tích lịch sử văn hóa Đền Nghè là một chứng tích quan trọng trong việc xây dựng lên địa bàn vùng đất An Biên bây giờ. Di tích còn gắn liền với những câu chuyện kể lịch sử mang tính huyền tích nhưng lại chân thật phản ánh cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược (tháng 4 năm 1874). Công trình kiến trúc Đền Nghè còn là kết quả của quá trình xây dựng và tu sửa của dân làng An Biên. Điều đó thể hiện tinh thần đoàn kết, tương trợ cùng vì công việc chung của làng và cùng góp sức chống lại thế lực ngoại xâm. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
2.3.6.3.Giá trị nhân văn
Tín ngưỡng thờ mẫu ở nước ta là một tín ngưỡng bản địa manh nha từ thời nguyên thủy với vai trò của người phụ nữ trong xã hội mẫu hệ. Ban đầu tín ngưỡng này thờ các thần nông nghiệp thông qua các pháp-phép (vân, vũ, lôi, điện) để phù giúp cho nông nghiệp. Sau này do sự du nhập của Phật giáo nên phát triển thành tín ngưỡng thờ Mẫu thần. Tín ngưỡng thờ mẫu với ý nghĩa là người mẹ có quyền năng sinh sôi, bảo tồn và che chở cho con người đã tồn tại trong dân gian Việt Nam từ xa xưa. Tại di tích đền Nghè hình tượng Mẫu không chỉ có quyền năng của một người mẹ mà Nữ tướng Lê Chân đã có công giết giặc, cứu nước và lập đất, lập nên trang An Biên – tiền thân của thành phố Hải Phòng. Những công việc đó vốn dĩ là của đấng nam nhi hay của những vị thần, vị thánh nhưng Bà một nữ nhi, là một nhân vật lịch sử có thật đã làm nên những câu chuyện huyền thoại ghi dấu chiến công oanh liệt.
Tam tòa thánh mẫu và Tứ Phủ công đồng là hệ thống sáng tạo thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan sơ khai của người Việt. Khi bước chân vào cửa đền mọi người đều có chung một niềm tâm trạng đó là lòng thành kính, biết ơn, giáo dục con người ta đạo lý uống nước nhớ nguồn.
2.4. Lễ hội Đền Nghè
Để nhớ đến công lao của Nữ tướng Lê Chân, từ xa xưa nhân dân Hải Phòng tổ chức nhiều hoạt động lễ hội tại đền Nghè để bày tỏ lòng ngưỡng vọng và biết ơn một vị tướng tài ba, tâm phúc của triều đại Trưng Vương. Trong số nhiều hoạt động lễ hội thì lễ Thánh Đản ( lễ hội đền Nghè ) được tổ chức long trọng và quy mô hơn cả. Những giá trị tinh thần đó trải qua thời gian được kết tinh lại thành giá trị văn hóa vô giá của dân tộc nói chung và trong tâm thức nhân dân thành phố Hải Phòng nói riêng, tiếp nối lưu truyền trong dân gian từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác.
2.4.1. Tên gọi, xuất xứ của lễ hội Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Lễ hội đền Nghè có tên gọi là lễ Thánh đản tức là ngày Thánh được sinh ra.
2.4.2. Không gian và thời gian tổ chức lễ hội
Lễ hội diễn ra từ ngày mồng 7 đến ngày mồng 10 tháng 2 Âm lịch hàng năm. Đây cũng là dịp để tưởng nhớ ngày sinh của Thánh Chân Công chúa ( ngày mồng 8 tháng 2 Âm lịch)
Gắn liền với không gian lễ hội làng An Biên là các di tích: Đình An Biên và đền Nghè. Đình là không gian chính diễn ra hội làng, miếu là nơi thờ thánh và nơi xuất phát lễ rước anh linh thần về đình bái tế an vị. Tuy đình là nơi diễn ra các hoạt động chủ yếu của lễ hội nhưng thánh ngự tại đền Nghè vì vậy mà tại đền Nghè các nghi lễ được cử hành trang nghiêm, kính cẩn.
2.4.3. Mục đích, lý do tổ chức lễ hội
Đây là một trong những lễ hội lớn nhất từ trước tới nay của địa phương, một sự kiện quan trọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong quận, thể hiện trách nhiệm và lòng thành kính của các thế hệ con cháu hôm nay, góp phần tôn vinh công đức của Nữ tướng Lê Chân. Việc tổ chức thành công lễ hội không chỉ đáp ứng niềm mong mỏi của nhân dân địa phương, mà qua đó còn góp phần ôn lại truyền thống, giáo dục con cháu lòng yêu nước, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào dân tộc và trách nhiệm của mỗi người dân đối với quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng và đất nước Việt Nam.
2.4.4. Nội dung của lễ hội
2.4.4.1. Lễ hội truyền thống
- Phần lễ
Trước khi tiến hành Lễ Thánh đản, nhân dân trong làng cử ra một ban hành lễ để điều hành lễ hội. Theo truyền thống trọng xỉ, những người trong Ban hành lễ là các cụ cao tuổi trong làng và các vị chức sắc hàng Tổng (Chánh tổng, Phó Chánh tổng) và xã (Lý trưởng, Tiên chỉ). Những người tham gia trong thời gian lễ hội phải kiêng kị nhiều điều: gia đình không có tang ma, con cái song toàn, mạnh khỏe, kiêng kị chuyện chăn gối… Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Ngày mồng 7 tháng 2 nhân dân thực hiện Lễ Nhập tịch (còn gọi là Lễ vào đám). Lễ vào đám là lễ chuẩn bị cho ngày chính lễ. Thủ từ biện lễ cáo thần xin phép được chuẩn bị cho ngày chính hội. Thủ từ cùng những người trông coi đền chỉ đạo việc quét dọn vệ sinh khu đền, loại bỏ những đồ hư hỏng trong đền, sắm sửa bổ sung các trang thiết bị cần thiết phục vụ lễ hội, lau dọn nhà đền, bao sai đồ tế khí :chấp kích, bát biểu, kiệu… Việc bao sái đồ tế khí phải dùng nước sạch, khăn lau để tẩy uế.
Trong ngày mồng 7, Thủ từ làm Lễ Mộc dục (Lễ tắm tượng), một nghi lễ quan trọng trong Lễ Vào đám. Thủ từ thắp nhang, gieo quẻ âm dương để âm dương để xem thần có ưng trì cho việc làm Lễ Mộc dục không. Nếu được đồng (bằng quẻ âm dương), Thủ từ sẽ đưa tượng ra tòa Đại bái hoặc ra sân. Nước tắm tượng do một trai đinh bởi ra giữa dòng sông Tam Bạc lấy chóe đựng nước, sau đó rước về bao sái tượng, sau khi tắm tượng , dùng nước thơm (ngũ vị hương) để xông, thay áo mới cho thần tượng. Dân gian gọi đó là Lễ Mộc dục (tắm tượng)với hi vọng thần tượng mới sẽ mang lại nhiều phúc ấm cho nhân dân.
Đồng thời với việc làm Lễ nhập tịch, mọi công việc chuẩn bị về người, cơ sở vật chất cho lễ hội cũng được hoàn tất trong ngày mồng 7.
Sau khi tiến hành Lễ Mộc dục là Lễ Cáo yết. Lễ Cáo yết là lễ báo cáo với thần linh mọi công việc chuẩn bị đã hoàn tất để chuẩn bị cho ngày chính lễ. Lễ vật dùng trong Lễ Cáo yết gồm 2 mâm xôi, 2 con gà.
Lễ Tế là nghi lễ trang nghiêm và long trọng nhất tại Đền Nghè. Lễ vật do Cai đám của năm đó phụ trách, chủ yếu là lợn, mỗi con khoảng 70kg. Lợn thờ được làng phân công cho Cai đám năm đó nuôi . Lợn phải được chọn và nuôi cẩn thận, phải gọi là ông lợn (lợn tế thánh), và phải được ăn theo chế độ riêng, khác lợn nuôi thường. Đến ngày Vào đám sẽ được tắm sạch sẽ, thả riêng. Lợn nuôi phải đủ cân, nếu thiếu cân nào, Cai đám năm đó phải chịu trách nhiệm, phải đền tiền cho làng là 5 hào, một chân rượu. Lợn được thịt lấy đầu và đuôi để biện lễ trên nhang án. Ngoài đình, nhân dân còn làm Lễ Mao huyết (tế máu và long gáy của lợn để tẩy uế khai quang). Ngoài lễ phẩm, Ban hành lễ cử người viết văn tế, thường do một người hay chữ, có uy tín trong làng viết (các thầy cúng hay các ông nghè). Văn tế ca ngợi công đức của vị thánh, thể hiện được ước muốn của nhân dân hướng lên Lê Thánh Công chúa để được ban ơn mưa cho mùa màng bội thu, hải vật phong phú, cầu mong sự phù trì để nhân dân ấm no, quốc thái, dân an, nhân khang vật thịnh. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Khi lễ vật đã hoàn tất, trước khi rước về Đình An Biên, Ban hành lễ tổ chức tế tại đền Nghè. Ban tế gồm 17 người; một Hội chủ, 1 Đông xướng, 1 Tây xướng, 12 Chấp sự chia đều đứng hai bên. Ban hành tế được bố trí dọc theo trục thần đạo hai bên nhang án, dưới đất trải chếu.
Lễ đầu tiên là Lễ trình. Lễ trình bắt đầu khi Đông xướng hô: “Khởi chiêng cổ”, lúc này 2 Chấp sự đánh 3 hồi trống, 3 hồ chiêng, Đông xướng tiếp xướng: “Quán tẩy sở” thì vị Chủ tế tiến hành rửa tay vào chậu nước thơm sẵn có, tiếp đến Đông xướng hô; “Phế cân”, vị Chủ tế tiến hành lau tay chuẩn bị lam lễ. Tiếp hô: “Nghệ hương tiền” thì vị Chủ tế lên chiếu đầu tiên chắp tay. Tiếp hô; “Thượng hương”: hai người bồi bái thắp nến và thắp hương đặt trên nhang án, bước tiên len và lui xuống đều hướng về phía trước, không được quay lưng lại. Trong nhiều lễ, Ban hành lễ tiến thoái theo chữ “á”. Tiếp hô: “Nghênh Hoàng
Đế cúc cung Nam Hải uy linh Thánh Chân Công chúa cúc cung bái”. Chủ tế quỳ xuống bái 5 bái, Bồi tế cũng bái theo. Tây xướng hô: “Hưng”, Chủ tế và Bồi bái đứng dậy tại vị. Đông xướng hô: “Bình thân phục vị”. Mỗi một tư thế cử động đều có nhạc (trống, chiêng) kèm theo làm nền cho lễ tế. Lễ trình xong.
Tiếp theo là Lễ Tiến phẩm. Vào lễ, Đông xướng: “Nhang hoa tiến cúng”. Hội chủ đánh 3 tiếng trống, 2 Bồi tế dâng hoa theo lễ trình: tiếng thứ nhất:Đặt tay vào vật phẩm; tiếng thứ hai:Đưa ra trước mặt; tiếng thứ 3: Dâng lên đầu. Theo nhạc điệu, các Bồi tế tiến lên dâng hoa trước nhang án rồi trở lại (phục vị), tiếp theo tuần tế dâng hoa là tuần tế dâng trà theo tuần tự như dâng hoa. Xong cả 3 tuần, Chủ tế tạ; “Hoàng đế cúc cung bái” rồi bái 5 bái, sau đó cả Đoàn tế vào bái 5 bái. Lễ tất.
Sau khi lễ tế tại Đền Nghè kết thúc, đoàn rước sẽ đưa bát nhang từ Đền Nghè lên kiệu để rước về đình An Biên. Trước khi kiệu khởi hành, từ Đền Nghè, trống chiêng đánh liên hồi để mọi người biêt được chuẩn bị tham gia. Khi rước kiệu ra khỏi đền, kiệu dừng lại một hồi để mọi người xếp vào hàng. Thứ tự rước đi như sau:
Đi đầu là cờ hiệu, sau đó là 5 cờ đuôi nheo, màu sắc theo Ngũ hành: Cờ màu vàng, cờ màu đỏ, cờ màu xanh, cờ màu trắng và cờ màu đen. Những người vác cờ do làng cắt cử đều là những trai tráng khỏe mạnh, mặc trang phục áo nâu. Tiếp theo cờ ngũ hành là trống cái to do 2 người khiêng, một người đánh trống (gọi là Thủ hiệu). Đây cũng là người chỉ huy nhạc điệu của đoàn rước và có người che lọng. Tiếp đến là chiêng do 2 người vác và một người đánh. Trống và chiêng sẽ giữ nhịp cho đám rước. Tiếp theo là những người rước bát biểu và bộ chấp kích, phía sau người rước bát biểu là 2 người đi song song mang biển: “Tĩnh túc” (giữ nghiêm trang) và biển: “Hồi tỵ” (thấy thì phải quay đầu tránh). Những người mang bát biểu và chấp kích đều là những trai đinh khỏe mạnh mặc trang phục áo nâu song giống những người vác cờ. Sau đoàn vác biểu là phường đồng văn gồm: Một người cai cầm trống khẩu, một người cầm thanh la, hai người cầm sênh tiền, 4 người đánh trống bản ngũ hồi. Sau phường đồng văn là một người mặc áo thụng xanh, vác cờ thêu chữ “lệnh”. Tiếp theo là phường bát âm gồm: đán, sáo, nhị,… Sau phường bát âm là kiệu hương. Trên kiệu đặt bát nhang hoặc trầm hương và lễ vật là mâm hoa quả. Tiếp theo kiệu hương là kiệu võng do các trinh nữ mặc áo đỏ thay nhau khiêng kiệu. Sau kiệu võng là kiệu thánh . Kiệu thánh là trung tâm của đoàn rước do tám trai đinh khỏe mạnh khiêng. Tiếp theo kiệu là các đoàn tế nam, đoàn tế nữ của các địa phương lân cận tham gia, các chức sắc, bô lão đi theo hộ giá, sau là nhân dân tham gia đông đảo. Theo quy định từ xa xưa, đoàn rước đi từ đền Nghè, qua lối Cầu Đất rẽ vào Cát Dài để vào đình An Biên. Thời gian rước khoảng một canh giờ.
Kiệu thánh rước về tế an vị tại đình An Biên, ban hành lễ tiếp tục thực hiện lễ tế , đọc chúc văn và hóa chúc.
- Phần hội Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Sau khi phần lễ xong , các trò chơi diễn ra sôi nổi tiêu biểu như: trò đấu vật, trò chơi pháo đất, đánh phết, đánh cờ,… Các trò chơi này gắn với xuất xứ từ lúc sinh thời của Nữ tướng nhằm tập luyện sức khỏe và giải trí ngoài giờ thao trường của quân lính và được dân gian hóa và duy trì qua nhiều thế hệ, ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân trở thành một dịp lễ hội vui chơi giải trí sau những ngày mưa nắng ngoài đồng.
Trò đấu vật còn gọi là vật đập đất. trước kia Nữ tướng dã cho quân sĩ tập luyện bằng cách đấu vật để rèn luyện sức khỏe , cổ vũ tinh thần và xung khí chiến trận. Trong thời bình, vật là hoạt động dân gian mua vui cho dân chúng. Các đô vật là các trai đinh khỏe mạnh trong giáp đăng kí tham dự.
Đánh phết là một trò chơi dân gian phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tương truyền Nữ tướng Lê Chân qua vùng Tam Nông (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) thấy trẻ em chơi trò này Bà đã về An Biên bày lại cho mọi người chơi. Người tham gia chơi cầm một chiếc gậy tre cong một đầu, hoặc đẽo vát một đầu đánh vào quả cầu để đưa cầu đi. Gậy đó gọi là gậy phết quả cầu đó gọi là quả phết. Những người chơi phết chia làm hai bên, số người tham gia không hạn chế, thường là 10 người.Ở mỗi đầu bãi phết có một cái hố tròn sâu từ 40 – 50 cm, bên nào đánh được quả phết vào lỗ là thắng cuộc.
Ngoài ra còn có hội thi hoa Thủy Tiên là một nét đẹp văn hóa của nhân dân Hải Phòng. Theo nguồn tư liệu của Hội hoa cung cấp từ năm 1920 đến 1943 hằng năm đền Nghè đều mở Hội thi hoa Thủy Tiên. Chỉ những dòng thủy Tiên có cánh trắng mới được tham dự thi để dâng cúng nữ anh hùng vào ngày Thánh Đản của nữ tướng.
2.4.4.2.Lễ hội hiện đại
- Phần lễ
Về công tác chuẩn bị cho lễ hội ban tổ chức đã phối hợp cùng các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Xây dựng, Giao thông Vận tải; Công ty Điện lực Hải Phòng, Công viên cây xanh, Môi trường đô thị Hải Phòng; Lãnh đạo Bảo tàng Hải Phòng; Đoàn chèo; Trung tâm triển lãm mỹ thuật thành phố; Lãnh đạo Quận ủy, Ủy ban nhân dân quận; Trưởng các phòng, ban, ngành, đoàn thể, đơn vị thuộc quận; Các đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ban quản lý các cơ sở tín ngưỡng 15 phường để tổ chức thành công lễ hội. Phần lễ bao gồm các hoạt động: lễ cáo yết, dâng hương; tế nữ quan, lễ rước; lễ tạ
Lễ cáo yết là việc báo cáo những hoạt động về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của thành phố, những việc đã làm được và những việc đề xuất sẽ làm trong năm tới. Trong cuộc sống hiện đại đây là việc tiếp nối sự nghiệp của nữ tướng Lê Chân xây dựng thành phố Hải Phòng thêm giàu mạnh. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
Sau lễ cáo yết là lễ dâng hương – tên gọi khác của lễ trình trong lễ hội truyền thống. Lễ dâng hương được tiến hành đơn giản hơn lễ trình. Khi có trống và nhạc điệu thì người chủ sự (trưởng ban tổ chức) – Chủ tịch UBND thành phố Phạm Tiến Du lên thắp hương trên nhang án. Tiếp theo là lễ dâng hương của lãnh đạo các ban ngành, những người có vị trí quan trọng trong lễ hội.
Sau khi lễ dâng hương kết thúc là lễ tế nữ quan diễn ra tại đề Nghè và đình An Biên vào sang ngày 7-2 Âm lịch theo đúng nghi thức truyền thống
Trước khi tiến hành lễ hội nhân dân địa phương cùng ban tổ chức cử ra một Ban hành lễ để điều hành lễ hội. Theo truyền thống trọng xỉ những người trong Ban hành lễ là các cụ cao tuổi hoặc những người có địa vị. Những người tham gia trong thời gian diễn ra lễ hội phải kiêng kị nhiều điều: gia đình không có tang ma, con cái song toàn, mạnh khỏe…
Đầu tiên là phần tế nữ quan diễn ra tại Đền Nghè và đình An Biên sáng 7-2 Âm lịch theo đúng nghi thức truyền thống. Lễ phẩm trong lễ tế là một con lợn được thịt lấy đầu và đuôi để biện lễ trên nhang án. Ban hành lễ còn cử người viết văn tế, thường do người hay chữ viết là các thầy cúng hay ông nghè. Văn tế ca ngợi công đức của vị thánh, thể hiện ước muốn của nhân dân hướng lên Lê Thánh Công chúa để được ban ơn mưa cho mùa màng bội thu, hải vật phong phú, cầu mong sự ấm no cho nhân dân, quốc thái dân an, nhân khang vật thịnh
Khi phần tế thực hiện xong là phần lễ rước, có 2 đoàn tiến hành từ 6 giờ sáng ngày 8-3, một đoàn theo hành trình từ Đền Nghè ra đường Nguyễn Đức Cảnh, rẽ qua quán hoa, đường Quang Trung đến Tượng đài Nữ tướng Lê Chân; một đoàn khởi hành từ đình An Biên ra đường Hai Bà Trưng, Cát Cụt, Nguyễn Đức Cảnh về quảng trường Tượng đài Nữ tướng Lê Chân. Các đoàn rước đều có đội múa lân, cờ đỏ sao vàng, cờ hội, trống, chiêng, đoàn bát biểu, kiệu Long Đình; đoàn nhạc bát âm, đoàn tế nữ quan, đoàn dâng lễ, đoàn phụ nữ, đoàn cựu chiến binh và đoàn lãnh đạo, cán bộ, giáo viên, cơ sở tín ngưỡng và nhân dân các phường…
Kết thúc là phần lễ tạ, sau đó là màn đánh trống khai hội, đọc chúc văn, biểu diễn trống hội, múa lân sư…
- Phần hội
Phần hội hấp dẫn bao gồm nhiều hoạt động như thi thể dục dưỡng sinh của Hội người cao tuổi; thi cắm tỉa hoa của Hội phụ nữ quận cùng các tiết mục hát ca trù, chèo cổ, nhạc cụ dân tộc, kịch…Hội thi cắm tỉa hoa là băt nguồn từ hội thi hoa Thủy Tiên của lễ hội truyền thống. Ngoài ra còn có các trò chơi dân gian như: đấu vật, đánh phết, đánh cờ…
2.4.5. Giá trị của lễ hội Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
- Giá trị nhân văn
Lễ hội là dịp để con người có dịp trở về nguồn cội. Dẫu là nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội dân tộc thì đều có ý nghĩa tâm linh thiêng liêng trong tâm thức người Việt. Tùy từng địa phương mà mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng thường là hướng tới một đối tượng linh thiêng được nhân dân suy tôn như anh hùng chống ngoại xâm, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, người có công dạy dỗ truyền nghề, giàu lòng cứu nhân độ thế…
Lễ hội mùa xuân là thời điểm hội tụ sức mạnh của cộng đồng Việt, ngưng kết nhiều ý nghĩa và biểu tượng văn hóa đã được trao chuyển từ đời này qua đời khác.
Chúng ta tìm thấy trong lễ hội đền Nghè là sự linh thiêng và cả ánh hào quang chiến thắng của những cuộc chiến tranh vệ quốc trong quá khứ, những tầng sâu của nền văn minh lúa nước, những ứng xử của con người đối với tự nhiên và sự giao hòa của con người với thiên nhiên cũng như những khao khát, ước vọng của con người về một cuộc sống thái hòa.
Lễ hội chính là một phần của văn hóa và đạo đức của toàn xã hội, người ta đến với lễ hội không chỉ để cầu xin mà còn để thể hiện niềm tôn kính, ngưỡng vọng đối với các vị anh hùng dân tộc, giáo dục con người lòng yêu nước, tự hào dân tộc và đạo lý uống nước nhớ nguồn.
- Giá trị cộng đồng
Lễ hội là chất kết dính tạo nên sức mạnh tập thể của những người tham gia lễ hội và của cả người dân thành phố Hải Phòng. Thông qua việc cùng tổ chức lễ hội, cùng chung một đối tượng tín ngưỡng thờ là nữ tướng Lê Chân người dân Hải Phòng thắt chặt tình đoàn kết để cùng vì công việc chung là tổ chức thành công lễ hội, cùng hưởng lợi ích chung.
- Giá trị cân bằng đời sống tâm linh
Đến với lễ hội đền Nghè mọi người đều có chung một tâm niệm là để tưởng nhớ, biết ơn đến người đã lập ra đất hải Phòng ngày nay. Lễ hội đã thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh của con người đó là nhu cầu về sự thành khẩn cầu xin thần linh ban phát cho những điều tốt đẹp, may mắn.. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
- Giá trị bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Lễ hội là nơi để lưu giữ và bảo tồn những nét văn hóa truyền thống của dân tộc đó là văn hóa về ăn mặc, văn hóa về cách ứng xử, văn hóa về truyền thống yêu nước,… đều được tái hiện trong lễ hội.
Thông qua lễ hội tăng cường quảng bá các điểm du lịch tâm linh các tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là thành phố Hải Phòng, thành phố đăng cai tổ chức Năm Du lịch quốc gia Đồng bằng sông Hồng 2013 và tiếp tục phát huy giá trị di tích lịch sử cấp quốc gia Đền Nghè
2.5. Tiểu kết chương 2
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kinh tế xã hội, Hải Phòng hấp dẫn du khách bởi điểm đến an toàn, sự nhiệt tình và lòng mến khách. Tuy nhiên điều kiện tiên quyết để làm nên sức hút du lịch của thành phố chính là đối tượng du lịch. Để đánh giá đối tượng du lịch một cách chính xác thế mạnh và điểm yếu là việc nêu ra những thực trạng của đối tượng du lịch đó. Đối với di tích và lễ hội đền Nghè việc nêu ra thực trạng đã phần nào đóng góp vào công tác điều tra nghiên cứu để từ đó có những giải pháp cụ thể cho từng mặt hạn chế. Ngoài những mặt tích cực thì di tích và lễ hội còn có nhiều hạn chế, để khắc phục được những hạn chế đó các cơ quan chức năng cần có những biện pháp khắc phục để phát triển du lịch văn hóa nhưng vẫn giữ được các giá trị nguyên gốc của nó. Khóa luận: Thực trạng di tích và lễ hội đền nghè Hải Phòng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Giải pháp khai thác hiệu quả di tích và lễ hội đền nghè

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com