Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch

Rate this post

Trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hoá xã hội và hoạt động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ vì thế tác giả đã lựa chọn Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch làm bài Luận văn tốt nghiệp, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Du lịch không chỉ để con người nghỉ ngơi giải trí, mà con nhằm thoả mãn nhu cầu to lớn về mặt tinh thần. Đề tài: Khai thác múa xòe Thái tại Mường Lò, Yên Bái phục vụ cho phát triển du lịch, dưới đây mong sẽ giúp các bạn hoàn thành tốt bài luận.

Nội dung chính

2.1 Khái quát chung về Mường Lò, Yên Bái

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Mường Lò là một trong 4 cánh đồng lớn của Tây Bắc. Cánh đồng này thuộc phía Tây của tỉnh Yên Bái, rộng khoảng 2300 ha. Qua quá trình lịch sử và các lần thay đổi dịa dư hành chính, Mường Lò hiện nay nằm trong địa giới huyện Văn Chấn và thị xã Nghĩa Lộ của tỉnh Yên Bái.

Đây là nơi tập trung phần lớn số lượng người Thái Đen của tỉnh Yên Bái. Đa số người dân vẫn giữ được nét văn hoá cơ bản của dân tộc mình và bảo tồn chúng trong những nếp nhà sàn, trong từng thiết chế thôn bản và đời sống cộng đồng.

Thung lũng Mường Lò được ví như một lòng chảo khổng lồ bao trọn toàn bộ thị xã Nghĩa Lộ và một vài xã của huyện Văn Chấn. Thị xã nằm ở phía Tây Nam tỉnh Yên Bái, cách trung tâm tỉnh lỵ 84 km theo quốc lộ 32. Thị xã bao trùm toàn bộ cánh đồng lớn thứ hai của miền núi Tây Bắc Việt Nam: cánh đồng Mường Lò.Địa giới hành chính thị xã: phía tây giáp huyện Trạm Tấu, các phía còn lại giáp huyện Văn Chấn. Đây là vùng khí hậu ôn hoà, địa hình tương đối bằng phẳng, tài nguyên nước có trữ lượng lớn.

Mường Lò nằm trong vùng đất cổ thuộc cấu tạo địa chất Indonixit với hệ thống kiến tạo địa máng mang đậm nét của vùng Tây Bắc Việt Nam. Nằm ở trung tâm vùng lòng chảo Mường Lò rộng lớn, thị xã có địa hình tương đối bằng phẳng, theo hướng nghiêng từ Tây sang Đông, từ Nam lên Bắc, độ cao trung bình 250m so với mặt biển, xung quanh là những dãy núi cao bao bọc.

Vị trí địa lý và địa hình đó đã tạo ra cho Mường Lò các yếu tố khí hậu mang đặc trưng của tiểu vùng khí hậu Tây Bắc, trong năm có 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình của cả năm là 22,5 °C, trong đó tháng trung bình cao nhất là 27,4 °C, trung bình tháng thấp nhất là 16,4 °C. Là địa phương có số giờ nắng cả năm hơn 1700 giờ, cao hơn các nơi khác trong tỉnh. Lượng bức xạ nhiệt luôn dương tạo ra các sinh khối lớn thuận tiện cho sự phát triển của cây lúa và các loại cây hoa quả có hạt như nhãn, vải…. Với lượng mưa trung bình một năm từ 1400mm-1600mm, là nơi có lượng mưa thấp so với một số địa phương trong tỉnh. Mưa lớn tập trung vào các tháng 5, lượng mưa không đáng kể tập trung vào tháng 11, 12.

Là khu vực nằm sâu trong nội địa, độ ẩm Mường Lò thường thấp hơn so với một số nơi trong tỉnh. Độ ẩm tương đối 84% rất thích hợp phát triển cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả.

Nguồn tài nguyên đất ở Mường Lò mang đặc trung địa hình bồn địa, được kiến tạo bồi đắp bằng vật liệu rửa trôi. Với tầng mùn tương đối, tầng dày phong hóa lớn, độ dốc nhỏ đã tạo nên một vùng trọng điểm cây lương thực mà chủ yếu là cây lúa của tỉnh. Trong tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích nhóm đất nông nghiệp chiếm 2.069,9ha, trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 1.297,4ha, đất lâm nghiệp chiếm 725,05ha; nhóm đất phi nông nghiệp 587,33 ha, đất chưa sử dụng 333,51ha.

Khoáng sản ở Mường Lò nhìn chung nghèo nàn. Hiện tại, chưa tìm thấy ở địa phương một điểm mỏ nào ngoài nhóm vật liệt xây dựng như đất pha sét để sản xuất gạch và cát, đá, sỏi được khai thác ở ven ngòi, ven suối.

Trên một diện tích hẹp, song chế độ thủy văn ở đây khá phong phú. Bao quanh là ngòi Thia, ngòi Nung, Suối Đôi. Ngòi Thia là một phụ lưu cấp I lớn nhất của sông Hồng, bắt nguồn từ vùng núi Trạm Tấu với chiều dài 165 km, đoạn chảy qua thị xã khoảng 5 km. Độ cao bình quân của lưu vực Ngòi Thia tới 907 m, độ chênh lệch lưu lượng giữa mùa lũ và mùa cạn lên tới 480 lần. Đây là yếu tố gây bất lợi cho khai thác tiềm năng nước mặt của Ngòi Thia ở những nơi có nó đi qua. Trong mùa mưa lũ thường gây thiệt hại cho sản xuất, đời sống của nhân dân ven ngòi. Tuy nhiên, cùng với tài nguyên nước ngầm, hệ thống ngòi suối là nơi cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất và sinh hoạt.

Các yếu tố về địa hình, khí hậu, tài nguyên đất, thủy văn…đã tạo điều kiện thuận lợi cho thị xã phát triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên những mặt trái của nó cũng có những ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất và đời sống sinh hoạt.

2.1.2 Điều kiện kinh tế – xã hội. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Các ngành kinh tế

Nông nghiệp: Đất nông nghiệp chiếm gần 10% diện tích tự nhiên, trong đó có cánh đồng Mường Lò rộng 2.300 ha nổi tiếng vùng Tây Bắc với nhiều sản vật có giá trị như: chè, quế, gạo nếp Tú Lệ, cam Lục Yên, nhãn Văn Chấn. Công nghiệp: Vì là tỉnh miền núi, nên công nghiệp kém phát triển hơn so với các tỉnh miền xuôi. Sản phẩm công nghiệp chính gồm: chè khô, xi măng, gỗ,… Dịch vụ: Dịch vụ ở Yên Bái phát triển tầm trung bình. Các ngành ngân hàng, buôn bán lớn, bất động sản đều tập trung ở các nơi đông đông dân cư, đô thị lớn như: thành phố Yên Báicác thị trấn đông đúc,… còn những vùng cao, miền núi thì dịch vụ là những phiên chợ vùng cao để trao đổi hàng hoá.

Dân cư và xã hội: Cư dân của thị xã Mường Lò mang đặc trưng của cư dân thành thị miền núi Tây Bắc. Những năm đầu thế kỉ XX, dân cư ở Mường Lò thưa thớt, chủ yếu là người Thái bản địa ít, người Kinh, chủ yếu ở dưới xuôi lên theo các chủ đồn điền khai thác thuộc địa phiêu bạt trong nạn đói 1945. Sau này, Đảng và Chính phủ đã có chủ trương chuyển dân Thái Bình, Hưng Yên, Hà Tây… lên đây xây dựng vùng kinh tế mới. Hiện nay Mường Lò là cái nôi của 17 dân tộc anh em chung sống, trong đó dân tộc Thái, Kinh, Tày chiếm tỉ lệ đông nhất… Người Thái là cộng đồng dân tộc đông nhất ở thị xã Mường Lò . Người Thái sống quây quần thành bản làng, ở nhà sàn, có bản sắc văn hóa dân tộc đậm đà thể hiện rõ nét trong trang phục, lễ hội, ẩm thực… trong tục lệ về đám cưới, đám ma… Họ có kỹ thuật thâm canh lúa nước 2 vụ khá cao với một hệ thống thủy lợi thích hợp, ngoài ra người Thái còn rất giỏi về đan lát, dệt vải, đặc biệt là dệt vải thổ cẩm, làm chăn, đệm, túi. Người Thái có 2 nhóm người là Thái trắng và Thái đen. Dựa theo các thư tịch cổ Mường Lò luôn được người Thái đen xác định như là miền đất tổ của họ.

Người Thái có trang phục độc đáo. Phụ nữ mặc áo cỏm, đủ các màu sắc, đính hàng khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu… chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với váy dài màu thẫm, cuốn hình ống, có hoa văn ở gấu, thắt eo bằng thắt lưng xanh lá cây, đeo xà tích bạc bên hông. Đồ trang sức của phụ nữ như hoa tai, nhẫn vòng tay chủ yếu bằng bạc. Người Thái đen đã có chồng phải “tằng cẩu” (Búi tóc). Phụ nữ Thái hầu hết có thân hình đẹp bởi được lao động và mặc áo bó từ nhỏ. Phụ nữ Thái đen đội khăn piêu nổi tiếng với các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc sặc sỡ. Nam giới người Thái mặc quần cắt theo kiểu chân què có cạp để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở 2 bên gấu vạt, người Thái trắng có thêm túi bên ngực trái. Màu quần áo chủ yếu là màu thẫm. Người Thái khéo tay, đặc biệt là phụ nữ Thái giỏi nghề thủ công truyền thống tiêu biểu là nghề dệt thổ cẩm. Nói về nghề dệt, người Thái có câu thành ngữ “Vợ con tay guồng, tay tơ”. Cộng đồng người Thái quan niệm: gái tốt, gái đẹp phải là người khéo trong trồng bông, dệt vải. Mọi thiếu nữ đều được mẹ giáo dục chăm chút từ nhỏ, truyền kinh nghiệm để khi cô gái đến tuổi về nhà chồng đã có đủ váy, áo, chăn đệm, gối… do chính mình làm ra mang theo. Người Thái có câu ví đặc trưng “Mí phải chăng pên ếm” (có vải mới thành mẹ) thể hiện sự đảm đang, khéo léo của người phụ nữ.

Dệt thổ cẩm là một nghề truyền thống lâu đời ở Nghĩa Lộ. Bao đời, nghề trồng bông, dệt vải đã gắn bó với từng gia đình người Thái. Ngày nay, nhiều nguyên liệu mới, hiện đại đã dần thay thế việc trồng bông, ươm tơ. Khung cửi truyền thống cũng được cải tiến, chạy bằng điện, giảm bớt sức người. Sản phẩm thổ cẩm của người Thái Nghĩa Lộ luôn được mọi người ưa chuộng và đã có mặt ở nhiều nơi trong nước. Người Kinh ngoài bộ phận cư trú từ lâu đời, hầu hết người Kinh từ các tỉnh miền xuôi lên xây dựng kinh tế miền núi và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức công tác trong các cơ quan nhà nước. Người Kinh sống xen kẽ với các dân tộc khác, họ làm nghề buôn bán, thợ thủ công, làm ruộng, công chức, viên chức, hình thành một cộng đồng gắn bó với người địa phương. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm lúa nước. Cộng đồng người Tày ở nhà sàn, sống xen kẽ. Người Tày ở thị xã Nghĩa lộ cũng mang đầy đủ những bản sắc của dân tộc mình thể hiện trong trang phục cổ truyền, các lễ hội mà đặc trưng là lễ hội “Lồng tồng”, trong các làn điệu dân ca và các tục lệ cưới xin, ma chay… Y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không có thêu thùa trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn bên trong và áo dài bên ngoài. Người Mường ở nhà sàn, kiểu nhà 4 mái. Canh tác chủ yếu là lúa nước. Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men, được đem ra mời khách quý và các cuộc vui tập thể. Phụ nữ Mường cũng rất giỏi nghề thủ công như dệt vải, dệt thổ cẩm, đan lát. Trang phục tiêu biểu của phụ nữ là khăn đội đầu và áo cánh ngắn màu trắng, váy đen có cạp dệt hoa văn sặc sỡ và họa tiết vô cùng phong phú…

Ngày nay, những trang phục truyền thống của dân tộc Thái, Tày, Mường… thường chỉ được mặc vào các dịp lễ, hội, tết… và ở những người trung tuổi trở lên. Với truyền thống đoàn kết gắn bó, cộng đồng các dân tộc ở Mường Lò luôn đoàn kết với nhau trong lao động sản xuất, trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm và ngày nay là xây dựng quê hương đất nước giàu mạnh, văn minh. Mỗi một dân tộc ở Mường lò đều có một bản sắc riêng, đậm đà nhưng hòa quyện vào nhau, cùng với thiên nhiên đã tạo ra một nét văn hóa riêng đó là văn hóa Mường Lò.

Ở Mường lò cùng với đa số người dân theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cha mẹ và những người có công với quê hương, đất nước còn có một bộ phận giáo dân theo đạo Công giáo. Văn hóa ẩm thực cũng là một trong những đặc trưng của văn hóa Mường Lò. Câu nói đã trở thành quen thuộc như: “Muốn ăn gạo trắng nước trong. Vượt qua đèo Ách vào trong Mường Lò” gợi nhớ về một vùng quê trù phú với những sản vật đặc trưng của vùng đất này. Được thiên nhiên ưu đãi, lòng chảo Mường Lò với cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay đã cho những hạt gạo nếp (nếp tan) đặc sản. Dưới bàn tay khéo léo của con người, món xôi nếp là một trong những đặc sản khó quên nhất của Nghĩa Lộ. Xôi Nghĩa Lộ dẻo, thơm, ai thưởng thức một lần thì nhớ mãi. Xôi được đồ bằng chõ gỗ, khi đơm không bày ra đĩa như người Kinh mà được đặt trong những chiếc giỏ đan bằng giang xin xắn (gọi là coóng khẩu).

Không chỉ có xôi, ở đây còn có nhiều món ăn tiêu biểu mà những nơi khác không có như món rêu nướng, rêu hấp (rêu ở dòng suối Thia), măng chua, thịt trâu sấy, nộm hoa chuối rừng, rau xôi thập cẩm… Không quá cầu kỳ nhưng những món ăn của vùng đất này luôn hấp dẫn bởi hương vị của các loại gia vị từ núi rừng (hạt sẻn, hạt dổi…). Với một tiềm năng về văn hóa dân gian đậm đà bản sắc, các loại hình nghệ thuật đặc sắc của miền đất này đã thể hiện giá trị nghệ thuật đích thực.

Vũ điệu xòe là một trong những loại hình nghệ thuật tiêu biểu của người Nghĩa Lộ. Đêm đến, bên đống lửa hồng, ai ai cũng đắm say hòa mình trong điệu xòe. Người Mường Lò có câu: không xòe không tốt lúa, không xòe thóc cạn bồ”. Xòe Thái có nhiều điệu tiêu biểu như xòe quanh đống lửa, xòe nâng khăn mời rượu, xòe tiến lùi, xòe tung khăn, xòe vòng tròn vỗ tay… Âm thanh trầm bổng, vũ điệu nhịp nhàng của hội xòe tưng bừng, hối hả thôi thúc mọi người đến với vòng xòe. Trong nhịp xòe, mọi người xích lại nhau hơn, thân ái, quây quần, đầm ấm. Điệu xòe hôm nay không còn là của riêng người Thái mà đã trở thành tài sản vô giá của nhân dân các dân tộc Mường Lò.

2.1.4. Lịch sử hình thành và phát triển múa xòe Thái tại Mường Lò ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

Xòe được dịch ra theo tiếng Thái ghi trong cuốn sách “Quám tố mương” – tức “Chuyện bản Mường” của người Thái Đen Tây Bắc có nghĩa là “xe”, xòe cổ là “xe cáu ké” nhằm chỉ một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian tập thể của đồng bào dân tộc Thái. Có thể nói xòe là biểu hiện nghệ thuật dân gian Thái đặc trưng và trở thành biểu trưng cơ bản và là thành tố quan trọng trong giá trị văn hóa đặc thù của dân tộc Thái.

Mường Lò được người Thái Đen ở Tây Bắc Việt Nam coi là quê tổ, bởi thế đồng bào cũng quan niệm đây là nơi sản sinh ra các điệu xòe cổ, là ngọn nguồn của những vòng xòe.

Xòe được hình thành và phát triển cùng với quá trình lịch sử hình thành bản sắc văn hóa truyền thống của cộng đồng người Thái, nó gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt, thể hiện đời sống vật chất và tinh thần của người Thái. Người Thái khi đặt chân đến Mường Lò, kinh tế truyền thống là nông nghiệp, sống quần tụ trong các bản làng ở các vùng lòng chảo, ven các sông suối. Trong cuộc mưu sinh để tồn tại và phát triển, người Thái luôn cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên, anh dũng đấu tranh chống lại thú dữ. Mỗi khi hoàn thành một công việc trọng đại, chinh phục được thiên nhiên hay chiến thắng kẻ thù thú dữ mọi người lại nắm tay nhau không phân biệt nam, nữ, già, trẻ và nhảy múa ăn mừng quanh đống lửa. Hoạt động ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần, dần dần được nâng lên cả động tác lẫn ý thức, hình thành lên các điệu xòe. Như vậy có thể nói chính từ môi trường tự nhiên, môi trường lao động sản xuất, khát vọng về cuộc sống tốt đẹp và nhu cầu về đời sống tinh thần của tộc người Thái đã hình thành nên những điệu xòe để mô phỏng những hoạt động lao động sản xuất từ việc khai phá đất đai, phát rẫy, trồng lúa, lấy nước và phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của người Thái.

Ngày 27/12/2012, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 5079/QĐ-BVHTT&DL công nhận sáu điệu xòe cổ của người Thái ở thị xã Nghĩa Lộ (Mường Lò) tỉnh Yên Bái là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

2.2. Đặc trưng của múa xòe Thái tại Mường Lò Xòe Thái  ở Mường Lò Yên Bái có 6 điệu xòe cổ

2.2.1. Đặc trưng của múa xòe Thái ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Điệu “khắm khăn mơi lẩu” (nâng khăn mời rượu).

Số lượng từ 4 đến 12 người, đều là nữ, đạo cụ là khăn xòe. Mở đầu của điệu xòe bao giờ cũng là hai vũ công ra nâng khăn mời rượu, bước chân nhún xuống, một bàn chân kiễng lên dịch chuyển nhẹ nhàng nhưng không rời khỏi mặt đất theo thế “Tin xệt” tỏ ý khiêm nhường và kính trọng. Hai người được mời đầu tiên này là người quan trọng nhất, đồng thời còn có ý nghĩa giống như “chén nóng” trong mỗi bữa cơm, tức là không chỉ mời những người còn sống, mà còn mời cả linh hồn những người quá cố đi theo phù trợ cho người còn sống được cùng hưởng. Tiếp theo bốn vũ công ra mời khách, số bốn này có ý nghĩa như bốn phương trời rồi có thể phát triển ra thành 8 hướng. Nhưng dù ở nơi đâu tình đoàn kết keo sơn không bao giờ thay đổi. Sau đấy các vũ công mời tất cả mọi người cùng chung vui thể hiện tình đoàn kết, gắn bó cộng đồng. Khèn bè được dùng theo nhịp 3/4 đầy chất trữ tình.

Số người múa được chia đều thành hai hàng, khăn xòe vắt trên vai, hai đầu khăn đặt trên lòng bàn tay hướng lên trên, ngón cái và ngón trỏ kẹp giữ hai đầu khăn, hai chén rượu đặt trên hai lòng bàn tay đưa ra phía trước nhưng khủy tay gập thành một góc 900 khép sát thân. Hai hàng từ từ tiến vào trung tâm theo thế chân kiễng (tin dống dông). Chân trái bước làm trụ, chân phải bước theo sát chân trái nhưng không cao quá 5cm rồi nhún nhẹ xuống, kiễng lên nhún xuống, hai tay lúc đưa sang trái, lúc đưa qua phải nhẹ nhàng, duyên dáng, uyển chuyển. Chân phải không được bước trước. Đến trung tâm hai hàng thành một hàng dọc tiến đến khách được mời rượu theo nhịp 3/4 rồi chân chống quỳ, hai tay nâng khăn cùng hai chén rượu rồi khẽ cúi đầu mời. Khi mời thái độ chân thành và tôn trọng khách, khi khách nhận chén nét mặt tỏ sự vui mừng phấn khởi, khi khách cạn chén nhận lại với sự hài lòng. Sau khi người được mời cạn hai chén rượu, lại nhẹ nhàng đưa tay đón hai chén rồi từ từ đứng lên lùi lại sau hàng. Cũng có lúc hai hàng đổi chỗ cho nhau, lên xuống nhịp nhàng. Cũng có khi hai hàng nhập vào thành một hàng ngang, từng đôi tay nhẹ nhàng tiến lên trung tâm, quỳ gối, hai tay nâng khăn khẽ cúi đầu mời rượu. Khi khách nhận chén mới đổi chỗ cho đôi khác lên mời. Khi hàng thứ nhât tiến lên mời rượu thì hàng thứ hai xòe tại chỗ, chờ hàng thứ nhất mời xong mới tiến lên mời như hàng thứ nhất, cứ thế cho đến khi khách đều được mời thì điệu xòe kết thúc và lại xếp thành hai hàng lùi ra như lúc tiến vào.

Đây là điệu xòe thể hiện nét văn hóa trong giao tiêp ứng xử của đồng bào dân tộc Thái. Theo quan niệm của người Thái, thì bất cứ ai đến chơi nhà đều được đón tiếp rất trân trọng và hết sức chân tình, với những động tác mềm mại uyển chuyển, chén rượu mời khách được người thiếu nữ dâng lên đôi tay cùng với chiếc khăn xòe và câu khắp mời rượu, thể hiện sự chân trọng đối với khách. Đây là nét văn hóa rất riêng của người Thái ở thị xã Nghĩa Lộ (Mường Lò). ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Điệu “nhôm khăn” (tung khăn).

Đây là điệu xòe tưng bừng nhất, sôi nổi nhất, hay dùng khi mùa vụ bội thu, đám cưới, lên nhà mới… thể hiện niềm vui vô bờ bến trước mỗi thành công và hạnh phúc. Điệu nhôm khăn vòng xòe tiến lùi theo nhịp nhạc, dịch chuyển theo chiều kim đồng hồ, các thiếu nữ cầm đầu khăn xòe tung lên theo nhịp chân. Chân bước nhịp đơn, khăn xòe vắt trên cổ, có lúc các vũ công tạo thành vòng tròn nhỏ trong vòng tròn lớn và đổi chỗ cho nhau. Vòng xòe như bông hoa bừng nở, ngàn hoa khoe sắc, lóng lánh sắc màu, diễn tả niềm vui và hạnh phúc trong sáng. Khăn thổ cẩm rực rỡ như muôn màu của sự sống, thành quả lao động sáng tạo chân chính của con người. Một trong những công việc không thể thiếu của người con gái Thái là trồng bông dệt vải và chiếc khăn xòe bằng thổ cẩm là một trong những đỉnh cao của sáng tạo ấy. Ở điệu xòe này, nhịp xòe thay đổi cùng nhịp nhạc từ 2/4 đến 3/4, với thế tay khua vừa như bươn chải, vươn lên phía trước rồi tung khăn lên khi có niềm vui thắng lợi. Khi tung khăn, các thế chân kết hợp nhịp nhàng giữa “tin xắp” tiến và lùi, cùng với một chân đưa thẳng ra phía trước, khăn xòe choàng trên cổ, các vũ công hai tay cầm hai đầu khăn, đi theo hai hàng rồi biến thể thành các vòng tròn đồng tâm ít nhất là năm người, như bốn phương và trung tâm lần lượt ra vào, mỗi lần chụm vào thì tung khăn. Chiếc khăn xòe lúc này như muôn sắc mầu của cuộc sống, thể hiện niền chung vui vô hạn. Âm thanh trầm bổng của trống chiêng cùng tiếng khèn cháy bỏng làm tăng sự sôi động của vũ điệu xòe.

Điệu xòe “Nhôm khăn” có tên gọi như vậy bởi chiếc khăn gần như trở thành linh hồn của điệu múa với bước chân nhịp nhàng, người Thái gửi nét duyên dáng của mình vào chiếc khăn xòe. Điệu xòe này ra đời cùng với sự phát triển của nghề trồng bông dệt vải, điệu xòe Nhôm khăn có ý nghĩa biểu hiện niềm vui của con người trước những thành quả lao động của mình. Đồng thời thể hiện đôi bàn tay tài hoa của thiếu nữ dân tộc Thái. Nhôm khăn được coi là điệu xòe sôi động nhất diễn tả sự phấn khởi, tươi vui khi mùa màng bội thu, khi bản làng có chuyện mừng vui.

  • Điệu xòe “Đổn hôn” (tiến lùi).

Các vũ công từ hai bên tiến ra xen kẽ nhau tạo thành vòng tròn, tiến lên rồi lùi lại so le chéo nhau dịch chuyển theo chiều kim đồng hồ. Hai tay nâng khăn đưa chéo hai bên sườn. Bước chân đi xệt theo nhịp 1-2-3-4, khi đến nhịp 4 rút chân về, mũi chân bên cạnh nhún nhẹ. Hai hàng từ hai bên tiến ra tạo thành hình tròn. Có lúc các vũ công mặt hướng lên cao, đổi chỗ cho nhau. Trong vòng tròn, cứ một người bước tiến, một người sát cạnh bước lùi, động tác bước chân, tay cầm khăn tung cao như điệu xòe nhôm khăn, nhưng bước theo nhịp kép, hết một nhịp 4/4 mới tung khăn lên cao, và ký chân, sau đó người vừa có bước tiến thì bước lùi lại và người vừa bước lùi thì bước tiến lên, cứ như vậy theo nhịp trống. Điều đặc biệt trong điệu xòe này là thế chân luôn kết hợp với sự uyển chuyển nhẹ nhàng của toàn bộ thân thể, giống như dù trước mọi bão giông, trở lực trong cuộc sống, con người có lúc chao đảo nhưng vẫn gượng được, đứng vững và trụ lại để tiến lên. Trong điệu xòe này với thế chân cơ bản như: “tin xắp” tức là bước đi nhún thẳng, lúc người này tiến, lúc người kia lùi như thực tế trong cuộc sống, lúc thành công, lúc chưa thành, có lúc người hơn mình hay mình hơn người nhưng vẫn chung tay đoàn kết. Thế tay luôn khua ra phía trước như đang gạt mọi trở lực, vun vén, chắt chiu những thành tựu có được dù nhỏ.

Âm thanh chủ đạo của điệu xòe này là trống chiêng theo nhịp 2/4 như thôi thúc mỗi người vươn lên dẫu khó gian khổ, có lúc chiêng trống lặng đi nhường chỗ cho tiếng khèn réo dắt theo nhịp 3/4 như tiếng của lòng người lay động đất trời, chỗ cho tiếng khèn réo dắt theo nhịp 3/4 như tiếng của lòng người lay động đất trời. Điệu xòe này sử dụng tất cả các loại nhạc cụ như: Trống, chiêng, khèn bè, mác hính, tằng bẳng, pí ló, pí pặp.

Điệu xòe đổn hôn thể hiện tình đoàn kết keo sơn, cuộc sống dẫu thế nào vẫn còn mãi tình người cao đẹp. Bước tiến lùi của điệu xòe cũng ẩn chứa quan niệm sâu xa về cuộc sống, dù trời đất có đổi thay, cuộc sống có lúc gặp khó khăn, trở ngại nhưng ý chí và tình người thì vẫn luôn sắt son bền chặt. Ý nghĩa nhân sinh như được chắp cánh thêm trong các bước tiến lùi uyển chuyển, nhẹ nhàng của các cô gái Thái. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Điệu “phá xí” (bổ bốn).

Điệu phá xí thể hiện tình đoàn kết keo sơn. Cuộc sống lúc thành công, lúc chưa thành, có lúc tôi chưa bằng bạn, thậm chí có lúc anh em vì mưu sinh, giặc giã phải ly tán nhưng lòng người luôn hướng về quê hương, tin vào sức mình chiến đấu. Điệu xòe hình thành từng nhóm 4 người và chia thành nhiều nhóm, có lúc tách thành nhiều nhóm nhỏ, khá phức tạp về tiết tấu nhịp chân và thế tay, diễn tả cuộc sống có lúc khúc khủy, chao đảo tưởng chừng con người bị tách rời nhau nhưng bằng tinh thần đoàn kết, tất cả đã vượt lên mọi trở lực. Ở điệu xòe này thế chân lại đi ngang “tin khoang”, cứ bốn bước lại chụm hai chân vào nhau như làm điểm tựa cho vững chãi rồi tiếp bước trên đường đời. Trong điệu xòe này, từng tốp 4 người thể hiện các động tác xòe theo nhịp bước chân cơ bản, động tác tay đan chặt giằng nhau áp sát từng người rồi lần lượt tách ra, từ người đầu tiên đến người thứ 4. Các vũ công từ hai bên quay mặt vào nhau tay nắm tay tiến vào xen kẽ thành vòng tròn, tiến lên rồi lùi rồi lại so le chéo nhau dịch chuyển theo chiều kim đồng hồ theo nhịp 1-2-3-4, hai tay xòe ngang thắt lưng. Ở nhịp 4, chân bên cạnh luôn theo sát chân trụ tạo sự vững chãi. Từ vòng tròn trung tâm tỏa ra thành bốn vòng tròn nhỏ xung quanh như bông hoa ban năm cánh, như bốn phương trời và trung tâm. Các vòng tròn nhỏ khi chuyển thành hình vuông, khi thành hình thoi hoặc hình bình hành. Các vũ công vừa biến đổi tạo hình, vừa nhún chân theo nhịp nhạc, tay đan kết vào nhau trong bước tiến. Có lúc đội hình tách thành từng đôi, đan tay vào nhau rồi lộn vòng bên trái rồi bên phải, sau đó chuyển về đội hình ban đầu để kết thúc điệu xòe. Cũng trong điệu xòe này còn có những bước đi dọc theo nhịp đuổi “tin xắp”. Từng đôi tay đan vào nhau thể hiện sự đoàn kết gắn bó, sau đó mới chuyển sang các biến thể, bốn người đan tay vào nhau. Khi hai người đan tay cùng lộn xoay vòng thì nhạc đệm theo nhịp 3/4, thế chân khi từng đôi lộn xoay vòng, một chân kiễng “tin dống dông” dịch chuyển nhẹ nhàng. Còn khi bốn, tám, mười hai người cùng lộn xoay vòng thì nhịp nhạc 2/4 lại như bước “tin xắp” rộn ràng, sôi nổi. Nhịp trống, nhịp chiêng và tiếng khèn lúc theo nhịp 2/4 sôi động, lúc 3/4 trữ tình thổi hồn cho mỗi bước vũ. Lúc khoan thai như bước đi thuận lợi, lúc nhanh chậm ngập ngừng như sự khó khăn trên đường đời, lúc sôi nổi hào hứng như niềm vui thành công.

Điệu xòe Phá Xí có ý nghĩa biểu hiện tình cảm của mỗi cá nhân trong cộng đồng, thể hiện sự đoàn kết của cộng đồng tộc người, dù là ai, dù có đi bốn phương trời thì cũng luôn nhớ về nhau, cùng hướng về nguồn cội. Xòe bổ bốn không chỉ diễn tả tình đoàn kết gắn bó keo sơn, mà còn mang bóng dáng quan niệm về vũ trụ, triết lý âm dương ngũ hành một cách tinh tế và sâu sắc của tộc người. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Điệu “khắm khen” (nắm tay).

Khắm khen là điệu xòe cơ bản nhất trong nghệ thuật xòe của đồng bào dân tộc Thái. Quanh đống lửa, mọi người nắm tay nhau nhảy múa vòng tròn theo chiều trái đất quay, cùng với nhịp tay giơ lên thì nhịp chân đưa chéo theo nhịp trống. Đây là điệu múa mang tính sơ khai, biểu lộ sự gắn kết cộng đồng, mong ước một cuộc sống ấm no, hạnh phúc vẹn tròn theo quy luật phát triển tất yếu của cuộc sống. Nhịp trống như thôi thúc, tiếp lửa cho mỗi người. Trong trời đêm, bên ánh lửa, tiếng trống như trái tim của bản mường. Trong điệu xòe này số lượng người không hạn chế, chẵn lẻ đều được, trai gái, già trẻ, đều được tham gia. Đạo cụ với nữ là khăn xòe vắt trên vai. Mọi người nắm tay nhau tạo thành vòng tròn trong một không gian thích hợp như một sân rộng, một khoảng đất hẹp hay trên sàn nhà. Nếu số lượng ít chỉ thành một vòng tròn, nếu đông thì xếp thành nhiều vòng tròn đồng tâm, dịch chuyển theo chiều trái đất quay theo nhịp 2/4 rồi quay ngược lại. Mọi người tay nắm tay, vai kề vai, chân người này nối tiếp theo chân người kia theo bước “tin khoang”, cách mặt đất không quá 5cm đồng thời hai tay vung về phía trước bằng vai, chân phải tiến lên phía trước một bước, sau đó lùi lại vị trí cũ, hai tay vung ra đằng sau một góc không quá 1500 theo thế “khua” như chém thẳng, cứ như thế các bước tiếp theo lại trở về từ động tác bước chân phải cho đến khi tàn cuộc.

Đây là điệu múa mang tính sơ khai, biểu lộ sự gắn kết cộng đồng, mong ước một cuộc sống ấm no, hạnh phúc vẹn tròn theo quy luật phát triển tất yếu của cuộc sống. Nhịp trống như thôi thúc, tiếp lửa cho mỗi người. Điệu xòe khắm then là điệu xòe cơ bản trong nghệ thuật dân vũ của dân tộc Thái, điệu xòe này được hình thành trong quá trình lao động từ thủa sơ khai, đây cũng là những động tác đầu tiên làm tiền đề để phát triển thành những điệu xòe tiếp theo và phát triển thành những tác phẩm múa dân gian đặc sắc.

Điệu xòe này thể hiện sự gắn kết cộng đồng, mỗi khi có niềm vui cộng đồng cùng nhau nhảy múa, khi gặp khó khăn hoạn nạn cộng đồng vẫn nắm chặt tay nhau cùng chung sức vượt qua.

  • Điệu “ỏm lọm tốp mư” (vòng tròn vỗ tay).

Đây là điệu xòe kết thúc mỗi cuộc vui, khi mọi người đã trao nhau những tình cảm chân thành, thì điệu xòe này biểu hiện niềm hân hoan, sự thỏa mãn, đó cũng là những bước chân chếnh choáng men say của rượu nồng và tình người ngây ngất, tiếng vỗ tay cũng nhỏ dần, thưa dần cùng ánh lửa le lói báo hiệu đêm sắp tàn, mọi người chia tay và chào đón một ngày mới. Các vũ công khăn piêu vắt trên vai, xếp theo hình tròn, quay mặt về phía trước, dịch chuyển theo chiều kim đồng hồ theo bước “tin khoang” (đi ngang), chân trái bước trước, chân phải bước theo nhịp 1-2-3-4. Đến nhịp 4, chân phải nhảy nhẹ co lên chếch ra phía ngoài hàng một góc không quá 1500. Hai bàn tay úp xuống, từng tay lần lượt khua ra phía trước theo điệu “tin khua”, và hai tay giơ ngang vai theo thế “khua” (còn gọi là vung) rồi vỗ tay theo nhịp chân nhảy, đầu hơi nghiêng nhìn theo vỗ, sau đó lại đảo theo chiều ngược lại, sau khi vỗ hai bên hai tay ngang vai hướng vào phía trước rồi vỗ tay. Có lúc các vũ công lại tạo thành vòng tròn nhỏ trong vòng tròn lớn, vẫn nắm tay nhau rồi di chuyển vòng tròn trong ra ngoài.

Điệu xòe “ỏm lọm tốp mư” có nghĩa là đi vòng tròn vỗ tay, khi mọi người đã trao nhau những tình cảm chân thành thì điệu xòe vỗ tay biểu hiện niềm hân hoan trong men say. Có thể nói, khi bước vào điệu xòe này con người như quên hết mọi khó khăn vất vả, tin yêu vào cuộc sống hơn. Đây là điệu xòe kết thúc mỗi cuộc vui, biểu hiện niềm hân hoan, sự bịn rịn lúc chia tay.

Có thể nói, xòe là nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng người Thái Mường Lò nói riêng và tộc người Thái vùng Tây Bắc nói chung. Xòe cổ là những gì cô đọng nhất của nét văn hóa ấy. Mỗi động tác, mỗi dáng đi, dáng đứng, mỗi cách sắp xếp đội hình đều là những cung bậc, những sắc thái tình cảm khác nhau mà nghệ thuật xòe có được. Sáu điệu xòe cổ với những thế chân, thế tay cơ bản nhất của nghệ thuật múa tộc người Thái đã phát triển thành 36 điệu xòe của miền Tây Bắc hôm nay, góp phần làm nên linh hồn của văn hóa Thái, trở thành biểu tượng của văn hóa vùng Tây Bắc Việt Nam.

  • Nhạc cụ sử dụng trong xòe cổ:

Nhạc cụ thường dùng trong 6 điệu xòe cổ gồm: Bộ gõ và bộ hơi, có thể có thêm bộ dây. Người Thái Mường Lò chủ yếu dùng trống, chiêng, khèn bè, tăng bẳng, mác hính, pí ló, pí pặp:

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

2.2.2. Những giá trị của múa xòe Thái ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Giá trị lịch sử

Nghệ thuật xòe cổ là một di sản văn hóa phi vật thể rất độc đáo, có lịch sử lâu đời trong xã hội cộng đồng tộc người Thái, nó phản ánh quá trình lịch sử của tộc người rất rõ nét.

Mỗi động tác, mỗi dáng đi, dáng đứng, mỗi bước nhún chân, mỗi kiểu vung tay đều mang những ý nghĩa riêng của nó gắn với lịch sử di cư, lịch sử cư trú, lịch sử xã hội, lịch sử canh tác của tộc người. Những ý nghĩa cao cả mà mỗi điệu xòe hướng tới, mà người xòe muốn gửi gắm đều phản ánh một phần thực tế xã hội của cộng đồng. Như thế, nghiên cứu mỗi điệu xòe, mỗi động tác xòe, mỗi cách thức thể hiện xòe đều cho ta thấy được phần nào bức tranh của xã hội tộc người trong lịch sử.

  • Giá trị văn hóa – xã hội

Đây là di sản văn hóa phi vật thể có tính đại diện, thể hiện những gì cô đọng nhất, đại diện nhất của văn hóa tộc người, trở thành biểu tượng của văn hóa Thái. Mỗi điệu xòe, mỗi động tác xòe đều thể hiện những quan niệm của cộng đồng về thế giới quan, nhân sinh quan, thể hiện những cách ứng xử đẹp của con người với con người, con người với thiên nhiên, tình đoàn kết trong cộng đồng, sự hiếu khách với bạn bè bốn phương.

Xòe cổ tồn tại và phát triển xuyên suốt trong lịch sử, được ghi chép thành văn bản còn thể hiện sức sống bền vững của một nền văn hóa độc đáo, lâu đời.

Xòe cổ người Thái Mường Lò nói riêng và xòe Thái Tây Bắc nói chung đều có đặc điểm là sản phẩm sáng tạo của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vì vậy nó in đậm dấu ấn bản địa của một xã hội nông nghiệp với những động tác trong lao động, những ước mơ, khát vọng về một vụ mùa bội thu.

Xòe và các hoạt động xòe của người Thái hiện có sức cuốn hút đặc biệt với du khách tham quan trong và ngoài nước. Sinh hoạt văn hóa này đã và đang trở thành sản phẩm du lịch độc đáo của tỉnh Yên Bái. Tỉnh Yên Bái đang chỉ đạo ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch quan tâm nghiên cứu và chuẩn bị đề nghị

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giúp đỡ lập hồ sơ trình UNESCO công nhận di sản văn hóa phi vật thể nhân loại.

  • Giá trị khoa học.

Qua những điệu xòe, những động tác xòe, những đạo cụ hỗ trợ xòe giúp các nhà nghiên cứu có thêm tri thức về đời sống vật chất cũng như tinh thần của cộng đồng tộc người Thái.

Di sản nghệ thuật múa xòe cổ là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu truyền thống lịch sử, văn hóa – xã hội, phong tục tập quán, kinh tế truyền thống của đồng bào Thái vùng Mường Lò nói riêng cũng như người Thái Tây Bắc Việt Nam nói chung. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Giá trị nghệ thuật.

Người Thái Nghĩa Lộ – Mường Lò sáng tạo ra những động tác, đường nét xòe trong hội hè, nghi lễ nhằm thể hiện cảm xúc thẩm mỹ của tộc người. Sáu điệu xòe cổ mang giá trị nghệ thuật thẩm mỹ cao của một tộc người, có sức lan tỏa trong một không gian và thời gian rộng lớn. Vẻ đẹp từ khuôn hình cho đến ý nghĩa nhân sinh, mục đích làm cho người ta chiêm nhiệm, suy ngẫm bằng các giác quan, từ đó khâm phục, ngưỡng mộ. Trong lịch sử phát triển loài người, con người sáng tạo các loại hình nghệ thuật làm phong phú hơn cuộc sống, giúp con người thêm tự tin tồn tại và phát triển. Vì vậy sáng tạo nghệ thuật là quy luật tất yếu và là nhu cầu không thể thiếu của con người. Sáu điệu xòe cổ cũng là quy luật như vậy, nó thể hiện những cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh trước thiên nhiên hùng vĩ, trước những cuộc đấu tranh sinh tồn và phát triển. Đó chính là vẻ đẹp bất biến, cao cả của giá trị nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc.

Di sản văn hóa phi vật thể xòe cổ thể hiện trình độ nghệ thuật và óc sáng tạo cao của tộc người, bởi nó không sao chép hiện thực, mà nó dùng hình tượng sinh động cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền tải hiện thực. Sự phản ánh hiện thực ấy được thông qua lăng kính và cái nhìn của con người với những cảm xúc thẩm mĩ, sáng tạo, chứa đựng tư duy, suy nghĩ, ý nguyện, tình cảm và những khát vọng vươn tới cái chân – thiện – mỹ của mỗi thành viên trong cộng đồng tộc người. Đó chính là cái đẹp, cái cao cả của giá trị nghệ thuật đích thực mà nghệ thuật xòe nơi đây mang lại.

  • Giá trị giáo dục.

Nghệ thuật xòe cổ thể hiện những gì tinh túy nhất của văn hóa tộc người và được truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Qua đó, người ta truyền cho nhau những cách ứng xử hay, những hành động đẹp, những cử chỉ thân mật giữa con người với con người, con người với tự nhiên. Rõ rệt nhất có thể kể đến là tinh thần đoàn kết, tính cố kết cao trong cộng đồng, biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, biết giúp đỡ nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn, luôn nhớ về nguồn cội, biết trân trọng lịch sử cũng như cách giao tiếp ứng xử mỗi khi khách đến nhà, … Như thế, chỉ truyền cho nhau các điệu xòe, các động tác xòe là người ta đã truyền cho nhau những nét văn hóa đẹp, những triết lý sống cao cả để rồi từ đời này sang đời khác, những yếu tố văn hóa đặc trưng của tộc người cứ trường tồn mãi mãi với thời gian.

  • Giá trị trong du lịch:

Ngày nay, nghệ thuật xòe Thái đã trở thành biểu tượng của lòng hiếu khách, dấu ấn văn hóa tộc người, bản sắc văn hóa của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam… Nghệ thuật xòe Thái đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản phi vật thể quốc gia. Chính phủ đã đồng ý để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng hồ sơ quốc gia đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) xét duyệt vào danh sách văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trong đó, tỉnh Yên Bái là trưởng nhóm cùng Điện Biên, Lai Châu, Sơn La cùng tham gia xây dựng hồ sơ quốc gia trình UNESCO.

Ngày nay, múa xoè trở thành hoạt động không thể thiếu trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào dân tộc Thai ở Mường Lò . Mỗi khi có hội, có lễ (lễ cúng rừng, lễ mừng cơm mới…), người Thái lại tổ chức múa xòe. Xòe để cây lúa thành bông, cây bông thành bắp, trai gái thành đôi, xòe để quên đi những mệt nhọc của cuộc sống bộn bề hàng ngày. Đặc biệt, nếu đến Mường Lò vào mùa Xuân, du khách sẽ có dịp tham dự hội xòe được tổ chức vào tháng 1 âm lịch để cầu cho mùa màng tươi tốt, thóc gạo đầy nhà. Sau khi thầy cúng làm lễ cầu khấn, trong tiếng trống, chiêng, tiếng kèn pí lè vang lên rộn rã, tất cả mọi người không phân biệt tuổi tác, nam nữ cùng nắm tay nhau, hoà mình vào những điệu xòe truyền thống hết sức sôi nổi.

2.3. Hiện trạng khai thác múa xòe Thái cho hoạt động du lịch tại Mường Lò

Là một tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, Yên Bái được thiên được thiên nhiên ưu đãi ban tặng nhiều phong cảnh đẹp và hùng vĩ như: Hồ Thác Bà, Hồ Đầm Hậu, đầm Vân Hội. Danh thắng cấp quốc gia ruộng bậc thang Mù Căng Chải, núi Tà Xua. Bên cạnh đó, người dân trên địa bàn tỉnh vẫn duy trì các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa các dân tộc mình như: Hội Hạn Khuống của người Thái, Nghệ thuật múa xòe của người Thái. Mường Lò là nơi lưu giữ được những giá trị văn hóa phi vật thể đặc trưng của người Thái đặc biệt là xòe cổ của dân tộc Thái.

2.3.1. Lượng khách, doanh thu từ hoạt động du lịch tại Mường Lò ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Lượng Khách

Năm 2018 khép lại tại Mường Lò thuộc thị xã Nghĩa Lộ đã khẳng định dấu mốc của mình khi đón và phục vụ trên 77 nghìn lượt khách du lịch, vượt 2,7% Nghị quyết năm 2018 đã đề ra, tăng 18,5% so với năm 2017. Trong đó, khách quốc tế trên 4.200 lượt người, chủ yếu đến từ các nước Pháp, Mỹ và Canada cùng một số quốc gia khác. (tăng 18,7% so với năm 2017). Lượng khách thường đến du lịch Mường Lò vào các dịp đầu năm và cuối năm vì thời gian này tại Mường Lò hay tổ chức các lê hội văn hóa như là:biểu diễn đường phố; Hội chợ Du lịch và Ấm thực Tây Bắc (nằm trong khuôn khổ chương trình hợp tác phát triển du lịch 08 tỉnh Tây Bắc mở rộng năm 2019);

Festival dù lượn “Bay trên mùa vàng” ;Triển lãm ảnh nghệ thuật “Đất và Người Yên Bái”; Lễ hội Cốm Tú Lệ; Lễ tôn vinh cây chè tổ và không gian tiệm trà Suối Giàng; Chợ phiên Mù Cang Chải; Du lịch mạo hiểm Chinh phục đỉnh Tà Xùa, Tà Chì Nhù và thác Háng Tề Chơ; Du lịch trải nghiệm, du lịch sinh thái nước nóng và du lịch cộng đồng…

Có được kết quả trên là do từ đầu năm đến nay, Tỉnh đã tích cực phát triển nhiều loại hình du lịch như tổ chức thành công các hoạt động văn hóa, du lịch, lễ hội theo kế hoạch, đặc biệt là Tuần lễ Văn hóa – Du lịch Mường Lò và khám phá Danh thắng quốc gia Ruộng bậc thang Mù Cang Chải, du lịch tâm linh, du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm, du lịch trải nghiệm…. Nhiều tour, tuyến du lịch độc đáo, mang bản sắc riêng của Yên Bái như: “Triển lãm nghệ thuật cảnh quan mây pha lê” trên   ruộng bậc thang huyện Mù Cang Chải, Chương trình “Yên Bái – trải nghiệm hành trình di sản”, Festival dù lượn “Bay trên mùa nước đổ”,”Bay trên mùa vàng”, Trình diễn xe địa hình… hay Tuần Văn hóa – Du lịch Mường Lò, du lịch Bình nguyên xanh Khai Trung (Lục Yên)… thu hút hàng nghìn du khách tham gia trải nghiệm. Đây là cú hích quan trọng để Mường Lò hướng tới mục tiêu xây dựng thị xã văn hóa du lịch vào năm 2020, đưa du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, đem lại thu nhập cho người dân.

  • Doanh thu từ hoạt động du lịch tại Mường Lò

Đóng góp cho bức tranh du lịch năm 2018 nhiều ấn tượng tại Mường Lò thị xã Nghĩa Lộ đầu tiên phải kể đến hệ thống các nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, cửa hàng chất lượng cao tiếp tục được đầu tư, nâng cấp, mở rộng. Hiện nay thị xã có tổng 135 nhà hàng, dịch vụ ăn uống trong đó có 30 khách sạn nhà nghỉ với trên 350 phòng. Năm 2018 có thêm một nhà hàng cao cấp, 1 nhà nghỉ và 1 khu nghỉ dưỡng chất lượng cao đi vào hoạt động. Bên cạnh việc chú trọng đầu tư phát triển hệ thống nhà hàng, nhà nghỉ, khách sạn để phát triển du lịch. Thị xã Nghĩa Lộ cũng đặc biệt quan tâm đến hoạt động du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều kiện, khuyến khích, đầu tư, hỗ trợ các hộ, nhóm hộ tại các xã như: Xã Nghĩa An, xã Nghĩa Lợi đầu tư phát triển du lịch cộng đồng. Đến nay toàn thị xã có 15 hộ du lịch cộng đồng hoạt động hiệu quả. Chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng lên nhờ sự đầu tư về cơ sở vật chất, đổi mới nâng cao chất lượng phục vụ đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân trên địa bàn và du khách.

Là một trong những hộ gia đình đi tiên phong trong phát triển du lịch cộng đồng ở xã Nghĩa Lợi, thị xã Nghĩa Lộ. Hộ gia đình bà Hoàng Thị Loan, chủ cơ sở du lịch cộng đồng ở thôn Xà Rèn, xã Nghĩa Lợi đã trở thành tấm gương sáng phát triển du lịch nhờ sự sáng tạo và phát huy thế mạnh của địa phương. Là người được đi đây đi đó và trực tiếp thấy cách thức phát triển du lịch cộng đồng dựa trên những lợi thế vùng miền. Cuối năm 2014 sau khi nghỉ hưu với những kiến thức đã học, đầu năm 2015, xã Nghĩa Lợi triển khai Đề án “Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng gắn với giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới”, bà Loan đã đăng ký tham gia ngay. Trong thời gian làm du lịch cộng đồng bà Loan đã biết khai thác tiềm năng, thế mạnh địa phương; đẩy mạnh việc học tập tìm hiểu các kiến thức làm du lịch trên sách báo… Kết quả, bình quân mỗi tháng gia đình bà đón từ 15 – 20 đoàn khách. Riêng năm 2018, đón trên 1.300 lượt khách, trừ mọi chi phí thu về trên 100 triệu đồng, tạo việc làm ổn định cho 5 lao động địa phương.

Song song với hoạt động du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa để phát triển du lịch, trong năm 2018, thị xã Nghĩa Lộ đã tổ chức thành công Lễ hội văn hóa Mường Lò, với chủ đề “Mường Lò vui hội xòe hoa”. Lễ hội đã có nhiều hoạt động mới hấp dẫn, tạo ấn tượng vui tươi cho du khách và nhân dân như: diễu diễn đường phố, trình diễn ô tô vượt địa hình chặng 1 lần đầu tiên được tổ chức tại thị xã và lễ khai mạc Lễ hội văn hóa Mường Lò năm 2018. Bên cạnh đó, thị xã đã chú trọng công tác liên kết với các công ty lữ hành trong và ngoài tỉnh, tổ chức các tour, tuyến du lịch góp phần làm tăng giá trị sản xuất ngành dịch vụ. Trong năm, thị xã Nghĩa Lộ đã đón và phục vụ 77 nghìn lượt khách du lịch, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2017, vượt 2,7% nghị quyết HĐND thị xã đã đề ra, trong đó khách quốc tế là 4.284 lượt người. Đưa doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 184 tỷ đồng, tăng 11,5%. Trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú 19,2 tỷ đồng, doanh thu dịch vụ ăn uống 164,8 tỷ đồng.

2.3.2 Các điểm du lịch hấp dẫn tại Mường Lò. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Thung lũng Mường Lò (Cánh đồng Mường Lò)

Khi đến du lịch Nghĩa Lộ thì thung lũng Mường Lò, một trong những địa điểm Tây Bắc nổi tiếng view hoang sơ khách không nên bỏ qua. Mường Lò được biết đến là cánh đồng lúa có diện tích lớn thứ hai ở núi rừng Tây Bắc chỉ sau Thường Thanh ở thành phố Điện Biên. Khi đến với thung lũng Mường Lò bạn sẽ được tận mắt nhìn cảm nhận được vẻ đẹp của những cánh đồng lúa bạt ngàn, nhất là những thời điểm lúa chín vàng .Bên cạnh đó khi đến với Mường Lò bạn cũng sẽ được người Thái đen hát mời rượu và hòa mình vào điệu Xòe Thái dập dìu quanh bếp lửa hồng trong những căn nhà sàn. Cùng với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, sự nồng ấm của người dân tộc nơi đây cùng với chén rượu Thái và những món ăn đặc sắc của Mường Lò sẽ níu chân du khách ở lại với vùng đất này thêm nhiều ngày hơn.

  • Bản Sà Rèn

Sà Rèn là một bản dân tộc người Thái nằm dọc theo bờ con suối Thia. Bạn có thể di chuyển khoảng 2 tiếng bằng xe ô tô để đến tham quan và trải nghiệm điểm du lịch cộng đồng bản Sà Rèn này. Sà Rèn được biết đến là nơi sinh sống của 100% người dân tộc Thái đen nên vì thế họ vẫn giữ nguyên nét văn hóa truyền thống từ xa xưa đến nay. Sà Rèn được rất nhiều du khách trong và ngoài nước yêu thích và biết đến bởi nơi đây vẫn còn giữ nguyên được vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và bình yên. Bên cạnh đó cuộc sống của người dân tộc Thái đen vẫn được giữ gìn và nối tiếp bên tiếng chảy róc rách của suối Thia. Những mái nhà sàn cổ, những món ăn dân tộc độc đáo, cùng sợ mến khách của người dân nơi đây đã níu chân nhiều du khách khó tính nhất.

  • Di tích Căng Đồn Nghĩa Lộ

Ngoài những nét văn hóa đặc sắc của người dân tộc Thái đen và cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ thì Nghĩa Lộ còn nổi tiếng với các di tích lịch sử với tinh thần chống giặc ngoại xâm từ xa xưa. Minh chứng cho điều này đó chính là di tích lịch sử Căng Đồn ở Nghĩa Lộ. Nơi đây được biết là nơi là trại giam những người yêu nước trong thời kỳ thực dân Pháp xâm chiếm. Nhìn về tổng thể thì Căng Đồn giống như một chiếc tủ đứng với 3 dãy nhà riêng biệt là nơi giam giữ các nhà chính trị yêu nước thời bấy giờ. Bao bọc toàn bộ khu vực Căng Đồn này là những hàng rào dây thép gai kiên cố với phía ngoài là hầm sâu có chông cắm cực kỳ nguy hiểm, bốn góc của nơi này có chòi coi để lính gác ngày đêm canh giữ một cách cẩn mật.

2.3.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

Hiện nay, thị xã Nghĩa Lộ có trên 40 cơ sở lưu trú và gần 25 hộ làm dịch vụ ăn uống phục vụ các món ăn dân tộc với khả năng bố trí gần 1.000 chỗ nghỉ cho khách/ngày. Trong đó, trên 20 hộ tham gia hoạt động du lịch cộng đồng phục vụ trọn gói cả ăn và ngủ, du lịch trải nghiệm. Các cơ sở lưu trú chủ yếu nằm trong trung tâm hoặc vùng lân cận thuận tiện cho du khách đi lại, lưu trú, giao lưu ẩm thực, văn nghệ mà vẫn đảm bảo lịch trình tham dự các sự kiện trong khuôn khổ Tuần Văn hóa. Khái quát thêm về hiện trạng cơ sở vật chất: ví dụ cơ sở lưu trú tập trung ở đâu, mức độ bình dân hay cao cấp, dịch vụ ra sao, có thể thấy, đến thời điểm này, tất cả các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú trên địa bàn thị xã Nghĩa Lộ đều đã chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện từ cơ sở vật chất, nhân lực, vật lực, sẵn sàng đón tiếp và phục vụ du khách đến với Tuần Văn hóa Du lịch Mường Lò năm 2018. Kỳ vọng, sự chuẩn bị chu đáo này sẽ để lại ấn tượng tốt, thu hút ngày càng nhiều du khách thập phương đến với Mường Lò nói riêng và Yên Bái nói chung trong thời gian tới.

  • Múa xòe Thái trong các san phẩm du lịch và sự kiện du lịch tại Mường Lò

Mường Lò mang đặc trưng khí hậu của vùng Tây Bắc Việt Nam với mùa hè tương đối mát mẻ (so với nền nhiệt độ chung) nhưng mưa nhiều, mùa đông lạnh và khô. Hàng năm cứ vào tháng 9, tháng 10, tỉnh Yên Bái lại tổ chức “Lễ hội văn hóa – du lịch Mường Lò và khám phá danh thắng Quốc gia ruộng bậc thang Mù Cang Chải”, trong đó nổi bật là lễ hội Xòe Mường Lò của người Thái ở thị xã Nghĩa Lộ với sáu điệu xòe cổ hay được gọi theo tiếng Thái là “xé cáu ké” bao gồm: xòe vòng (xé vóng), vòng tròn vỗ tay (ỏm lọm tốp mư), tung khăn (nhôm khăn), bổ bốn (phá xí), tiến lùi (đổn hôn), nâng khăn mời rượu (khắm khăn mơi lảu) được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2017.

Khác với thông lệ hàng năm, màn Đại xòe năm nay được mở rộng với số lượng người tham gia lên đến 5.000 nhân dân, nghệ nhân và du khách. Vì vậy, ban tổ chức Lễ hội dự kiến gửi hồ sơ đăng ký tới tổ chức Kỷ lục Thế giới (The Guinness World Records) nhằm giới thiệu nghệ thuật xoè cổ và quảng bá điệu múa dân gian, dân vũ của đồng bào dân tộc Thái – Tây Bắc ra thế giới.

Trong những lễ hội, ngày vui của bản làng, mọi người quây quần bên đống lửa, nắm tay nhau cùng xòe. Điệu xòe diễn ra như lời chào, lời mời gọi bạn bè, du khách gần xa, thể hiện sự mến khách, cách thức giao tiếp, kết nối cộng đồng, biểu trưng cho tình đoàn kết, mong muốn mở rộng hợp tác, giao lưu của đồng bào. Trong khuôn khổ Chương trình khai mạc Lễ hội Văn hóa, du lịch Mường Lò; khám phá Danh thắng Quốc gia Ruộng bậc thang Mù Cang Chải năm 2019 cũng sẽ có màn xòe ở cuối chương trình, thay cho lời chào tạm biệt, thể hiện sự lưu luyến và mong muốn được gặp lại của đồng bào đối với bạn bè, du khách bốn phương. Về quy mô của vòng xòe năm nay, dự kiến sẽ lớn hơn những năm trước do có sự tham gia của rất nhiều người, bao gồm cả người dân địa phương và du khách có mặt tại Lễ hội. Đặc biệt, năm nay, sân vận động Thị xã Nghĩa Lộ đã được tu sửa, tôn tạo, mở rộng diện tích, với sức chứa lên tới vài ngàn người, sẽ đáp ứng đủ điều kiện để thực hiện vòng xòe lớn nhất từ trước tới nay. Dưới đây là lịch trình các hoạt đông điễn ra Lễ hội văn hóa – du lịch Mường Lò và khám phá danh thắng Quốc gia ruộng bậc thang Mù Cang Chải

Hội chợ du lịch và ẩm thực Tây Bắc (Chương trình hợp tác phát triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng năm 2019).

– Thời gian: Từ ngày 19/9 – 25/9/2019

  • Địa điểm: Tại Nhà thi đấu đa năng, thị xã Nghĩa Lộ.
  • Nội dung:

+ Gian hàng du lịch: Gồm 8 gian hàng du lịch của 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng giới thiệu tiềm năng, thế mạnh và các điểm du lịch mới, chào bán các sản phẩm du lịch của các địa phương. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

+ Gian hàng ẩm thực: Dự kiến 7 gian hàng trưng bày, giới thiệu, trình diễn, thi chế biến các món ăn ẩm thực đặc trưng của địa phương như: xôi ngũ sắc, bánh chưng đen, bánh xíp xí, cá kẹp nướng, thịt lợn, thịt trâu sấy, ruốc tôm…

Triển lãm ảnh nghệ thuật “Đất và Người Yên Bái”

– Thời gian: Từ ngày 19/9 – 25/9/2019.

  • Địa điểm: Tại khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, thị xã Nghĩa Lộ.
  • Nội dung: Triển lãm các tác phẩm ảnh nghệ thuật phản ánh nét văn hóa về cuộc sống, sinh hoạt của các dân tộc tỉnh Yên Bái, các địa danh du lịch nổi bật của tỉnh.

Triển lãm ảnh nghệ thuật “Lung linh sắc màu văn hóa – du lịch và ảnh đẹp danh thắng quốc gia ruộng bậc thang Mù Cang Chải”.

– Thời gian: Từ ngày 20/9 – 25/9/2019.

  • Địa điểm: Tại khu vực Đài phun nước trung tâm thị trấn Mù Cang Chải.
  • Nội dung: Triển lãm các tác phẩm ảnh nghệ thuật phản ánh bản sắc văn hóa đậm đà và vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ với danh thắng quốc gia ruộng bậc thang Mù Cang Chải – một sản phẩm văn hóa độc đáo, hấp dẫn thu hút khách du lịch trong nước và thế giới.

Festival dù lượn Bay trên mùa vàng”

– Thời gian: Từ ngày 21/9 – 22/9/2019.

  • Địa điểm: Tại Đèo Khau Phạ, huyện Mù Cang Chải.
  • Nội dung: Tổ chức trình diễn và bay dù lượn trên những thửa ruộng bậc thang; hướng dẫn khách du lịch tham gia hoạt động dù lượn.

Lễ hội giã cốm

  • Thời gian: Ngày 22/9/2019.
  • Địa điểm: Tại bản Nước Nóng, xã Tú Lệ, huyện Văn Chấn.
  • Nội dung: Gồm 2 phần:

+ Phần lễ: Tổ chức lễ cúng mừng cơm mới.

+ Phần hội: Hội thi trình diễn trang phục các dân tộc xã Tú Lệ; thi giã cốm, thi nấu món ăn truyền thống, trò chơi dân gian, trưng bày, bán các sản phẩm nông nghiệp như cốm, gạo nếp Tú Lệ… Tổ chức Lễ tôn vinh cây chè tổ và khai trương không gian tiệm trà Suối Giàng

  • Thời gian: Ngày 20/9/2019.
  • Địa điểm: Khu vực cây chè tổ xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn.
  • Nội dung:

+ Phần lễ: Tổ chức rước lễ vật dâng lên tạ ơn cây chè tổ. Lễ được rước từ nhà thầy cúng Nghệ nhân Giàng A Lử, qua trụ sở xã, đường bao quanh hồ Suối Giàng đến vị trí cây chè tổ. Sau đó thực hiện nghi lễ cúng tạ ơn cây chè tổ.

+ Phần hội: Chương trình văn nghệ chào mừng

Tổ chức Lễ đón bằng công nhận Cây di sản Việt Nam chè Giàng Pằng, xã Sùng Đô

  • Thời gian: Ngày 23/9/2019.
  • Địa điểm: Thôn Giàng Pằng, xã Sùng Đô, huyện Văn Chấn.

Tổ chức hoạt động du lịch mạo hiểm

– Thời gian: Từ ngày 20/9 – 26/9/2019.

  • Địa điểm: Tại thị trấn Trạm Tấu và các xã lân cận của huyện Trạm Tấu.
  • Nội dung: Tổ chức hoạt động du lịch mạo hiểm, leo núi khám phá đỉnh Tà Xùa, Tà Chì Nhù và thác Háng Tề Chơ; du lịch trải nghiệm, du lịch sinh thái nước nóng và du lịch cộng đồng.

Ngoài ra hiện nay có rất nhiều tour du lịch cộng đồng đã kết hợp được biểu diễn múa xòe cho du khách thưởng thức. Không chỉ có gạo trắng nước trong, Mường Lò (thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái) còn níu chân người đến bằng những điệu xòe nồng say. Nếu đã một lần đến với Mường Lò đắm chìm trong vũ khúc xòe Thái và đón ngọn gió xuân mơn man khắp những nẻo đường xanh ngợp lá hoa thì hẳn sẽ chẳng ai có thể quên.

2.3.4. Lịch trình của tour du lịch cộng đồng đã được kết hợp biểu diễn múa xòe. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

Tour Hà Nội – Tây Bắc : Đền Hùng – Nghĩa Lộ – Tú Lệ – Mù Cang Chải – Yên Bái – Sapa – Điện Biên – Sơn La – Mộc Châu – Tặng Show Múa Xòe Dân Tộc Thái.

Ngày 1: Hà Nội – Yên Bái – Nghĩa Lộ( ăn trưa, ăn tối)

Xuất phát từ Hà Nội đoàn khởi hành đi Yên Bái trên đường đi đoàn thăm quan:

Đền Hùng: nơi thờ các vua Hùng có công dựng nước, tổ tiên của dân tộc

Việt Nam, một quần thể kiến trúc thâm nghiêm trên núi Nghĩa Lĩnh. Đoàn dâng hương đất tổ, thăm quan đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, Giếng Ngọc, Lăng vua Hùng.

Buổi tối, thưởng thức chương trình biểu diễn múa Xòe, giao lưu và tìm hiểu nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Thái.

Nghỉ đêm tại Nghĩa Lộ.

Ngày 2: NGHĨA LỘ – MÙ CANG CHẢI – SAPA (Ăn sáng, trưa, tối)

-Trả phòng khách sạn, đoàn khởi hành đi Mù Cang Chải, ngang qua: Tú Lệ, Quý khách sẽ ngửi được mùi hương thoang thoảng theo gió bảng lảng trên mái nhà của “cơm mới”, nơi đây nổi tiếng với xôi nếp, cốm khô.

-Đèo Khau Phạ: đèo hiểm trở và dài nhất trên tuyến quốc lộ 32 được mệnh danh là một trong “tứ đại đèo” với độ dài trên 30km.

-Bản Lìm Mông: đây là Bản của dân tộc Mông và là nơi có ruộng lúa đẹp nhất Mù Cang Chải. Quý khách sẽ bị mê hoặc bởi vẻ đẹp hút hồn của cung đường ruộng bậc thang nổi tiếng tại 3 xã: La Pán Tẩn, Chế Cu Nha và Zế Xu Phình. Đoàn chiêm ngưỡng những thung lũng rộng hút tầm mắt, các thửa ruộng tầng tầng lớp lớp lượn sóng theo sườn núi, ngọn núi này nối tiếp ngọn núi khác.

-Buổi tối Quý khách dạo phố, ngắm nhà thờ Đá Sapa, tự do thưởng thức đặc sản vùng cao như: thịt lợn cắp nách nướng, trứng nướng, rượu táo mèo, giao lưu với người dân tộc vùng cao. Nghỉ đêm tại Sa Pa.

Ngày 3: SAPA – ĐỘNG TIÊN SƠN – LAI CHÂU (Ăn sáng, trưa, tối)

Trả phòng khách sạn, xe đưa đoàn ra ga Sapa, Quý khách trải nghiệm đến khu du lịch Fansipan Legend bằng Tàu hỏa leo núi Mường Hoa hiện đại nhất Việt Nam với tổng chiều dài gần 2000m, thưởng ngoạn bức tranh phong cảnh đầy màu sắc của cánh rừng nguyên sinh, thung lũng Mường Hoa.

  • Chinh phục đỉnh núi Fansipan với độ cao 3.143m hùng vĩ bằng cáp treo (chi phí tự túc).

Lễ Phật tại chùa Trình hay cầu phúc lộc, bình an cho gia đình tại Bích Vân Thiền Tự trong hệ thống cảnh quan tâm linh trên đỉnh Fansipan.

Sau đó xe khởi hành đi Lai Châu, trên đường ghé tham quan: Thác Bạc

  • Đỉnh đèo Ô Quy Hồ một trong “Tứ đại đỉnh đèo” phía Bắc (không bao gồm vé tham quan Thác Bạc, Cầu Kính, Cổng Trời…)
  • Động Tiên Sơn: trong động có nhiều thạch nhũ muôn hình muôn vẻ, mầu sắc huyền ảo. Nét đặc trưng là lòng động có dòng suối trong vắt chảy qua, luồn lách qua các cung động suốt bốn mùa.

Nghỉ đêm tại Lai Châu.

Ngày 4: LAI CHÂU – ĐIỆN BIÊN (Ăn sáng, trưa, tối) Đoàn khởi hành đi Điện Biên:

  • Trên đường ngắm cảnh rừng núi Tây Bắc dọc theo dòng sông Nậm Na và vùng ngập nước do đập nhà máy Thủy điện Sơn La dâng lên tại ngã ba sông: sông Đà, sông Nậm Na và sông Nậm Rốm.
  • Bảo tàng Điện Biên Phủ: được xây dựng vào năm 1984 nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
  • Nghĩa trang liệt sĩ đồi A1: thăm Đồi A1, Hầm sở chỉ huy quân đội Pháp Tướng Đờ Cát (De Castries).

Nghỉ đêm tại Điện Biên.

Ngày 5: ĐIỆN BIÊN – SƠN LA – MỘC CHÂU – THÁC DẢI YẾM (Ăn sáng, trưa, tối)

-Đoàn khởi hành đi Mộc Châu – Sơn La, tham quan:

-Đèo Pha Đin: đây cũng là một trong “tứ đại đèo” vùng Đông Tây Bắc và được xếp cùng nhóm 6 con đèo gây ấn tượng nhất Việt Nam.

-Thác Dải Yếm: toàn bộ thác rộng 70m, là một màn nước trắng xóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Nhìn từ xa, thác như một “dải yếm” vắt ngang qua triền đồi được ánh nắng nhuộm vàng màu mật ong (không bao gồm chi phí tham quan Cầu Kính).

-Đồi Chè Mộc Châu: những đường chè chạy vòng quanh đồi được sắp đặt thành hàng như những thửa ruộng bậc thang xanh ngắt cứ trải dài bất tận.

Mua sắm đặc sản nổi tiếng được chế biến từ sữa bò tươi nổi tiếng của Mộc Châu về làm quà. Nghỉ đêm tại Mộc Châu.

Ngày 6: MỘC CHÂU – MAI CHÂU (BẢN LÁC) – SÂN BAY NỘI BÀI (HÀ NỘI) (Ăn sáng, trưa)

Đoàn khởi hành đi Hòa Bình, tham quan:

Bản Lác Mai Châu – Tìm hiểu nhà sàn, phong tục tập quán, cách kinh doanh du lịch loại hình home stay của bà con người Thái nơi đây.

Ăn trưa tại Hòa Bình. Sau đó xe đưa quý khách trở lại Hà Nội.

2.3.5. Những thuận lợi và khó khăn trong việc khai thác múa xòe Thái cho hoạt động du lịch ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch )

  • Thuận lợi

Múa xóe Thái thuận lợi trong việc phát triển du lịch lễ hội và du lịch bền vững. Xác định bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc; phát huy gìn giữ các lễ hội là chất liệu quý để phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh, những năm gần đây, các cấp, các ngành đã quan tâm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, lễ hội bản địa gắn với các hoạt động du lịch.

Có tiềm năng phong phú đa dạng để phát triển du lịch cộng đồng: Nắm bắt xu thế, phát huy tiềm năng, các cấp chính quyền đã có những định hướng, chính sách hỗ trợ để phát triển du lịch cộng đồng. Cùng với đó, hàng trăm hộ gia đình đã tự bỏ tiền đầu tư, nâng cấp, xây dựng nhà cửa, trang thiết bị để phát triển loại hình du lịch homestay. Nhờ đó, các loại hình du lịch cộng đồng như: du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp và nông thôn, du lịch làng nghề, du lịch dân tộc hay bản địa và du lịch văn hóa… đang ngày càng được chú trọng phát triển rộng khắp trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Các hoạt động liên kết trong phát triển du lịch cũng được quan tâm thực hiện có hiệu quả. Điển hình như ở thị xã Nghĩa Lộ, huyện Mù Cang Chải và một số vùng khác trong tỉnh Yên Bái, thời gian qua các hộ gia đình chủ động liên kết với các công ty du lịch để được hỗ trợ về kiến thức, thiết kế nhà sàn, cách giao tiếp, ẩm thực của khách nước ngoài… Đây là tín hiệu đáng mừng khi người dân đã dần ý thức du lịch cộng đồng là ngành dịch vụ mang lại thu nhập đáng kể và cần phải hướng đến sự chuyên nghiệp.

Nhiều chương trình, lễ hội đã trở thành thương hiệu du lịch của Yên Bái như Tuần Văn hóa – Du lịch Mường Lò, Lễ hội khám phá Danh thắng Quốc gia. Ruộng bậc thang Mù Cang Chải; Lễ hội Bưởi Đại Minh; Lễ hội Quế Văn Yên; Festival “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Thượng ngàn”; Festival Dù lượn “Bay trên mùa nước đổ” và “Bay trên mùa vàng”…Kinh tế phát triển, cùng với sự giao thoa văn hóa, với sự trợ giúp của chính quyền địa phương, ý thức của người dân đã nâng lên trong gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa, danh thắng.

  • Khó khăn

Cơ sợ hạ tầng về giao thông, khu nghỉ dưỡng còn hạn chế. Điều này làm hạn chế khách du lịch đến thăm quan đặc biệt vào dịp lễ hội . Nguyên nhân là do còn hạn chế về kinh phí. Sản phẩm du lịch chưa được đa dạng còn thiếu khu vui chơi, giải trí các dịch vụ bổ xung.

Một số hoạt động quảng bá – xúc tiến du lịch chưa hoàn trỉnh, chất lương chưa cao, hình thức quảng bá chưa được phong phú, có rất ít các trang web giới thiệu cũng như quảng bá hình ảnh Mường Lò đến du khách.

Về nguồn nhân lực phục vụ trong ngành du lịch của huyện, xã số lượng còn quá ít và chuyên môn còn thấp kinh nghiệm tổ chức du lịch chưa tĩnh lũy được nhiều điều này đã không tạo ra được sự hấp dẫn với du khách.

Tài nguyên du lịch của xã vẫn còn ở dạng tiềm năng chưa được khai thác. Các ngành liên quan cần phải có quy hoạch dầu tư. Đưa du lịch trở thành một ngành kinh kế quan trọng góp phần phát triển kinh tế xã hội

Tiểu kết chương 2:

Đã giới thiệu khái quát về Mường Lò, các nguồn tài nguyên khai thác phát triển tại đây trong đó có múa xòe Thái.Giới thiệu khái quát Múa xòe Thái tại Mường Lò , Yên Bái. Đánh giá hiện trạng khai thác múa xòe Thái cho các hoạt đông du lịch tại Mường Lò.

Mời bạn tham khảo thêm:

Khóa luận: Giải pháp phát triển du lịch múa xòe Thái hiệu quả

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Khóa luận: Thực trạng hoạt động múa xòe Thái phát triển du lịch […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993