Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa ở Bắc Ninh dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Nội dung chính

2.1. Thực trạng khai thác du lịch tại các di tích lịch sử văn hóa ở Bắc Ninh

Được coi là xứ sở của đình, đền, chùa và lễ hội, tỉnh Bắc Ninh có trên 1.259 di tích lịch sử văn hóa, trong đó 191 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 237 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Các di tích đó đã và đang là thành tố quan trọng làm nên bản sắc văn hóa Bắc Ninh – Kinh Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung, bởi hàm chứa trong đó là những giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc đặc trưng của dân tộc qua các giai đoạn phát triển.

Với sự quan tâm của các cấp chính quyền, các nhà quản lý và các nhà khoa học, nhiều di tích trên địa bàn tỉnh đã gìn giữ được các giá trị truyền thống, khuôn viên, cảnh quan được tôn tạo khang trang, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời mở ra triển vọng lớn để phát triển ngành kinh tế du lịch Bắc Ninh.

Tuy nhiên, do các di tích lịch sử văn hóa có số lượng lớn và được phân bổ rộng ở 8 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh, nhiều di tích có lịch sử xây dựng cách đây hàng nghìn năm, đến nay đã và đang xuống cấp nghiêm trọng. Bên cạnh đó, nhận thức của nhân dân một số địa phương về công tác bảo vệ di sản nói chung còn nhiều hạn chế, ở một số di tích vẫn còn hiện tượng bị lấn chiếm đất, công tác trùng tu, tôn tạo di tích thiếu kinh phí… đã ảnh hưởng không nhỏ tới công tác quản lý, trùng tu và bảo tồn di tích. Mặt khác việc phát huy giá trị của các di tích thông qua hoạt động du lịch hiện nay thiếu các giải pháp hiệu quả, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa công tác quản lý, bảo tồn và tổ chức các hoạt động du lịch. Tại các di tích vẫn còn hạn chế về mở rộng hợp tác, kết nối với các công ty du lịch lữ hành để xây dựng sản phẩm du lịch hấp dẫn, chưa có lực lượng thuyết minh viên chuyên nghiệp, sản phẩm lưu niệm còn nghèo nàn, thiếu bến, bãi đỗ xe, khu vệ sinh…, các thông tin về di tích tới du khách còn chưa nhiều, lao động tham gia vào các hoạt động du lịch của địa phương có số lượng rất ít. Do đó có thể thấy mặc dù có rất nhiều tiềm năng, các điểm di tích lịch sử văn hóa ở Bắc Ninh còn thiếu tính chủ động và khả năng sẵn sàng đón khách.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.1. Khai thác tại các di tích Chùa

2.1.1.1. Chùa Dâu

Chùa Dâu, đã từ lâu được coi là một đỉnh trong tam giác Phật giáo của Việt Nam (Yên Tử – chùa Dâu – chùa Bổ Đà); là 1 trong 38 di tích đặc biệt quan trọng của quốc gia. Chùa nằm ở trung tâm của khu di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu và phong phú bậc nhất của quê hương Kinh Bắc. Nơi đây bao gồm thành cổ Luy Lâu, đền thờ và văn mộ Sỹ Nhiếp, hệ thống chùa tháp, dấu tích đền đài, dinh thự, đường xá, bến bãi, phố chợ… Sức hút từ văn hóa truyền thống chính là lý do để du khách đến với chùa Dâu. Theo thống kê của Phòng văn hóa thông tin huyện Thuận Thành, trong những năm gần đây lượng khách du lịch đến với chùa Dâu và đặc biệt là lượng khách du lịch quốc tế ngày càng gia tăng, tập trung chủ yếu vào dịp tết nguyên đán và lễ hội đầu năm.

Bảng 1. Tổng lượng khách du lịch đến chùa Dâu năm 2010

Bảng 2. Tổng lượng khách du lịch đến chùa Dâu quý I – 2011 Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Với những số liệu nêu trên thì kết quả đó vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng hiện có của chùa Dâu nói riêng và của huyện Thuận Thành nói chung. Thông qua bảng tổng lượng khách du lịch đến chùa Dâu năm 2010 ta có thể dễ dàng nhận thấy khách du lịch đến chùa Dâu đông nhất là vào 3 tháng đầu năm và vào dịp lễ hội chùa Dâu. Theo ông Nguyễn Văn Tế – Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã Thanh Khương, trưởng tiểu ban tổ chức lễ hội, ước chừng có khoảng 40.000 lượt khách đến với lễ hội hàng năm. Ban quản lý di tích chùa Dâu cho biết vào dịp đầu năm, đặc biệt là tháng 1 (âm lịch) du khách về chùa Dâu rất đông trung bình mỗi ngày khoảng 30 xe khách (40 chỗ ngồi), ngoài ra chưa kể khách lẻ. Còn các tháng khác trong năm thì lượng khách đến chùa Dâu rất thưa, thậm chí có ngày không có khách nào. Khách du lịch đến chùa Dâu phần lớn là khách nội địa (chiếm 90%) với mục đích tâm linh và tham quan, khách quốc tế rất ít chủ yếu là khách lẻ tập trung ở một số nước như: Pháp, Đức, Mỹ…

Cũng theo bảng tổng số lượng khách đến chùa Dâu năm 2010 và 3 tháng đầu năm 2011, ta thấy tổng số lượng khách đến chùa Dâu vào quý I năm 2011 tăng hơn so với cùng kỳ năm 2010. Nguyên nhân do nhu cầu du lịch tâm linh của người dân ngày càng cao, chùa lại được công nhận là nơi phát tích dòng thiền đầu tiên tại Việt Nam nên ngày càng thu hút du khách, hơn nữa chất lượng hoạt động du lịch tại chùa Dâu cũng có sự chuyển biến với sự đầu tư đáng kể. Tuy nhiên, số lượng khách tăng không nhiều (tăng 1.499 lượt khách) và chủ yếu là khách nội địa, khách quốc tế có xu hướng giảm, thời gian lưu lại chùa của du khách ngắn. Tuy nhiên nếu du khách muốn lưu trú lại lâu cũng không được bởi dịch vụ bổ sung quá ít, đơn lẻ dễ gây ra sự nhàm chán. Số lượng khách lưu trú một ngày ít, chủ yếu là tăng ni phật tử đến chùa để nghiên cứu.

Trong những năm gần đây, để phát huy có hiệu quả giá trị của di tích lịch sử văn hóa vào việc phát triển và đẩy mạnh hoạt động du lịch, chùa Dâu đã không ngừng được trùng tu, tôn tạo. Được sự cho phép của Cục Di sản Văn hóa, năm 2002, UBND tỉnh Bắc Ninh đã quyết định phê duyệt Dự án đầu tư, xây dựng công trình trùng tu, tôn tạo khu di tích chùa Dâu do Bảo tàng Bắc Ninh làm chủ đầu tư với kinh phí ban đầu hơn 10 tỷ đồng (Quyết định 1063/QĐ – CT ngày 7 – 10 -2002). Đến hết năm 2006, 25 hạng mục công trình của dự án đã hoàn thành. Chùa Dâu hiện nay khang trang, đẹp đẽ và có khả năng sẵn sàng đón tiếp du khách. Tuy nhiên, chùa Dâu vẫn chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng hiện có. Mặc dù đã được tu bổ, tôn tạo nhưng nhiều công trình vẫn đang bị xuống cấp đặc biệt là mái ngói nhà tiền thất đã bị xô, dẫn đến dột cục bộ; sân phía trước mặt chùa hẹp, không đủ diện tích để các hoạt động lễ hội diễn ra. Ngoài ra, sản phẩm du lịch ở chùa Dâu còn nghèo nàn, các dịch vụ du lịch chưa phát triển; công tác thuyết minh viên vẫn do ban quản lý di tích đảm nhiệm, chưa có tổ hướng dẫn viên du lịch chuyên trách. Diện tích bãi đỗ xe trước chùa hẹp do bị người dân lấn chiếm, hiện nay vẫn còn 17 hộ sinh sống trong khuôn viên chùa, song chính quyền địa phương vẫn chưa có biện pháp gì để can thiệp. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Hiện nay, để đáp ứng nguyện vọng của đông đảo Phật tử và du khách trong và ngoài nước, tiền công đức của chùa Dâu đã được ban quản lý di tích giao cho nhà chùa quản lý. Đó là nguồn kinh phí để nhà chùa mua hương đăng hoa quả thờ Phật, trùng tu sửa chữa, đào tạo đệ tử Tăng Ni, làm từ thiện và nuôi sống bản thân mình. Ngoài ra, chùa Dâu cũng đã mở nhà hàng cơm chay phục vụ du khách và cửa hàng bán đồ lưu niệm: Tranh Đông Hồ, tranh tre Đông Hồ, truyền thuyết Man Nương… Tuy nhiên, những dịch vụ này còn đơn điệu, sản phẩm nghèo nàn. Gọi là cửa hàng nhưng thực chất chỉ là một chiếc bàn nhỏ có bầy vài tờ tranh Đông Hồ, vài quyển sách về chùa Dâu, lễ hội chùa Dâu, về truyền thuyết Man Nương, nên hầu như không bán được. Do đó, có thể nói, doanh thu từ hoạt động du lịch tại chùa Dâu hầu như là không có.

Công tác quản lý di tích còn yếu, nhận thức về giá trị văn hóa của di tích còn hạn chế, vì vậy đã xảy ra việc xây dựng tam quan chùa Dâu năm 2007 không đúng quy định, vi phạm Luật di sản văn hóa. Đặc biệt là vào dịp lễ hội Chùa Dâu, lượng khách về đây rất đông kéo theo việc các dịch vụ trong lễ hội đua nhau “chặt”, “chém” du khách. Tại lễ hội chùa Dâu năm 2011, trong vòng bán kính khoảng 2km quanh khu vực chùa Dâu, có khoảng gần 20 điểm trông giữ xe và mỗi điểm có một loại giá khác nhau, dao động từ 15.000 – 20.000 đồng/xe máy (giá vé theo quy định là 2.000 đồng/xe), ôtô từ 50.000 – 70.000 đồng/xe trong khi theo quy định là 15.000 – 30.000 đồng/xe. Dịch vụ đổi tiền chẵn lấy tiền lẻ để vào chùa công đức cũng tranh thủ “ăn theo” với phí đắt đỏ: 100.000 đồng tiền chẵn sẽ đổi được 70.000 đồng tiền lẻ. Đáng nói nhất là các mặt hàng thực phẩm bị “đội” giá vô tội vạ. Một lon Coca Cola giá bán ngày thường khoảng 6.000 – 8.000 đồng thì tại đây, người bán nâng lên mức giá 20.000- 30.000 đồng/lon, 1 chiếc xúc xích nhỏ có giá 30.000 đồng/chiếc, bánh mì pa – tê giá rẻ nhất cũng 20.000 đồng/chiếc. Đắt đỏ như vậy nhưng công tác vệ sinh an toàn thực phẩm lại chưa được quan tâm đúng mức, không có bộ phận thanh tra đi kiểm tra, giám sát, xử lý…

Trước những thực trạng trên, các cấp chính quyền địa phương cần có những biện pháp hiệu quả để phát huy hơn nữa giá trị văn hóa của di tích chùa Dâu.

2.1.1.2. Chùa Bút Tháp

Nói đến Bắc Ninh, ta không thể không nói đến chùa Bút Tháp. Ðây là một ngôi chùa cổ, mặc dù đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng chùa vẫn giữ được những nét nguyên sơ hấp dẫn của nó. Chùa Bút Tháp ngày nay là điểm du lịch văn hóa hấp dẫn thu hút nhiều khách trong và ngoài nước. Chùa nằm trêm tour du lịch khá hấp dẫn làng tranh Đông Hồ – Lăng Kinh Dương Vương – chùa Bút Tháp – Chùa Dâu – Luy Lâu nên lượng khách đến chùa rất đông đạt khoảng 57000 lượt/năm trong đó khách quốc tế đạt khoảng 6000 khách/năm.

Bảng 3. Tổng lượng khách du lịch đến chùa Bút Tháp năm 2010 Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Cũng giống như chùa Dâu, chùa Bút Tháp thu hút đông khách du lịch nhất là vào quý I của năm, cũng là dịp Tết Nguyên Đán và vào mùa lễ hội. Trong đó, khách du lịch nội địa vẫn là chủ yếu, khách quốc tế chiếm số lượng ít chủ yếu là ở các nước: Anh, Pháp, Đức… Theo bảng thống kê số lượng khách đến chùa Bút Tháp ta thấy quý I năm 2011 tổng số lượng khách đến chùa Bút Tháp có sự gia tăng so với quý I năm 2010. Đây là kết quả của công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch của tỉnh. Cùng với việc Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể Đại diện của Nhân loại (30/9/2009) và việc đăng cai thành công Asian Indoor Game 3 vào cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 2009, Bắc Ninh đã thu hút được 152.411 lượt khách. Năm 2010 lại là năm du lịch Festival Bắc Ninh với các chương trình như “Về với Quan họ Bắc Ninh”, “Bắc Ninh với vương triều Lý”; nên đã thu hút sự quan tâm của du khách đến với vùng đất văn hiến này. Ngoài ra, so với chùa Dâu, chùa Bút Tháp thu hút lượng khách đông hơn cả về khách nội địa và khách quốc tế. Sở dĩ có sự chênh lệch này là vì chùa Bút Tháp là một công trình kiến trúc tuyệt xảo, được coi là bảo tàng kiến trúc mỹ thuật Phật giáo thời Lê. Do đó, ngoài việc thu hút đối tượng khách đi du lịch với mục đích tâm linh, Chùa Bút Tháp còn thu hút các đoàn khách đến tham quan nghiên cứu về kiến trúc, mỹ thuật, chủ yếu là các đoàn khách là học sinh, sinh viên về đây tham quan và học tập. Song có một điều đáng tiếc ở chùa Bút Tháp là hiện nay chùa vẫn chưa có hướng dẫn viên đuợc học chuyên ngành du lịch, công tác hướng dẫn vẫn do Ban quản lý di tích đảm nhiệm, phần lớn chưa được đào tạo bài bản và chưa có kiến thức sâu sắc về lịch sử. Do đó hầu hết du khách đến đây chỉ cảm nhận được chùa Bút Tháp là một ngôi chùa có quy mô lớn, khang trang, đẹp đẽ chứ chưa cảm nhận sâu sắc những giá trị văn hóa trong đó. Đây cũng là tình trạng chung của hầu hết các di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Hầu hết du khách khi rời khỏi Bắc Ninh đều có mong muốn trong tương lai tại các điểm di tích này sẽ có hướng dẫn viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức vững chắc về di tích nơi họ tham quan.

Về cơ sở vật chất phục vụ khách du lịch tại chùa Bút Tháp hiện nay cũng chưa được quan tâm đầu tư. Tại cổng chùa cũng có một số cơ sở dịch vụ kinh doanh hàng lưu niệm nhỏ phục vụ khách nhưng còn đơn điệu nên chưa thu hút được du khách. Quanh khu vực chùa không có một cơ sở lưu trú nào, dịch vụ nhà hàng ăn uống chưa phát triển, chỉ có một số quán ăn nhỏ và tạm bợ. Nguyên nhân là vì các di tích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói chung và chùa Bút Tháp nói riêng nằm rất gần thủ đô Hà Nội, nên du khách chỉ đi trong vòng 1 ngày, thời gian dừng chân tại các điểm di tích không nhiều cùng lắm là 30 đến 45 phút.

Hơn nữa, sản phẩm du lịch Bắc Ninh còn nghèo nàn, thiếu cơ sở vui chơi giải trí nên không giữ được chân du khách.

Cơ sở hạ tầng cũng chưa phát triển, đường giao thông đi lại còn khó khăn. Đặc biệt là quãng đường dài 3,5km từ ngã tư Đông Côi đến chùa Bút Tháp đã bị xuống cấp trầm trọng: vào ngày nắng thì bụi bặm, vào ngày mưa thì bùn lầy, khiến cho việc di chuyển của du khách gặp nhiều khó khăn. Khu vực bãi đỗ xe của chùa hẹp nên vào dịp đầu năm lượng khách tham quan đông dẫn đến việc nhiều xe đã phải đỗ ngay ở đường dẫn vào chùa gây mất mỹ quan cho khu di tích.

Công tác quản lý di tích tại chùa Bút Tháp còn nhiều hạn chế do đó việc phát huy giá trị của di tích vào hoạt động du lịch còn kém hiệu quả. Vào những ngày hội, nhiều hàng quán tạm bợ được dựng ra lấn chiếm cả đường đi của du khách; tệ nạn xã hội như móc túi, cờ bạc trá hình vẫn còn. Song Ban quản lý cũng chưa có biện pháp khắc phục hiệu quả, do đó đã để lại nhiều ấn tượng không tốt cho du khách thập phương khi đến chùa lễ phật.

2.1.1.3 Chùa Phật Tích Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Chùa Phật Tích là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia còn gìn giữ được di vật cổ của Phật giáo với số lượng lớn và đa dạng.

Nhận thức được tiềm năng phát triển du lịch to lớn của Phật Tích, mấy năm gần đây tỉnh Bắc Ninh đã có hướng quy hoạch 4 xã: Phật Tích, Hoàn Sơn, Hiên Vân, Việt Đoàn làm khu du lịch tâm linh-sinh thái với quy mô 1.500 ha, trong đó lấy Phật Tích làm trung tâm với tổng vốn đầu tư dự kiến 1.000 tỷ đồng; hình thức đầu tư huy động 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc trong nước. Bước đầu để thu hút khách và tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp vào đầu tư…, tỉnh đã xây dựng và triển khai dự án (giai đoạn 1) gồm 7 tuyến đường nhánh vòng quanh khu du lịch Phật Tích có chiều dài 5 km với tổng kinh phí gần 11 tỷ đồng. Đến nay, 3 tuyến đã hoàn thành đưa vào sử dụng với chiều dài 3 km, các tuyến còn lại đang được đẩy nhanh tiến độ. Song song với đó, nhà chùa đã chủ động xây dựng và hoàn thiện, đưa vào sử dụng một số công trình như: Trung tâm tu tập Phật Tích (Quán âm viện); khu nhà khách, khu thư viện, hội trường, đường lên đỉnh núi Phật Tích và một số hạng mục khác với tổng kinh phí hơn chục tỷ đồng. Đặc biệt, hiện nay nhà chùa tiếp tục đầu tư làm pho tượng phật A-di đà bằng đá xanh cao 27m dự kiến đặt trên đỉnh núi Phật Tích. Kinh phí chủ yếu do sự hảo tâm công đức của các doanh nghiệp, khách thập phương và Trung tâm Phật giáo Việt Nam trợ giúp. Nhờ vậy, bước đầu Phật Tích đã có cảnh quan môi trường xanh – sạch – đẹp… hấp dẫn ngày càng nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm quan, trung bình ước đạt 28 – 30 nghìn lượt/năm, dịp lễ hội (mồng 4 và 5 – 1 âm lịch) ước đạt 18 – 20.000 lượt. Mặc dù đã có bước tiến triển rõ rệt, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại làm hạn chế việc khai thác tiềm năng du lịch vốn có của khu du lịch Phật Tích. Nguyên nhân chủ yếu do các cấp, các ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm chú trọng đến đầu tư phát triển du lịch. Tại điểm du lịch, sản phẩm du lịch và các dịch vụ phục vụ khách du lịch cũng như hướng dẫn viên giới thiệu di tích, bán hàng lưu niệm, khu vui chơi giải trí…. hầu như không có. Công tác tuyên truyền, quảng bá về giá trị di tích, lễ hội hạn chế; dự án quy hoạch khu du lịch Tâm linh, sinh thái chậm được triển khai. Tuy nhiên, nếu được sự quan tâm hơn nữa của các cấp, các ngành, địa phương dự án khu du lịch Tâm linh, sinh thái Phật Tích sớm trở thành hiện thực trong tương lai không xa sẽ thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đến với chùa Phật Tích nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung.

2.1.2. Khai thác tại các di tích Đền

2.1.2.1. Đền Đô

Đền Đô được xem như một trong những di tích văn hóa lịch sử có giá trị ở vùng đất Kinh Bắc. Với hệ thống di tích gồm cổng đền, phương đình, nhà chuyển bồng, nhà để kiệu cùng hồ bán nguyệt, tòa thủy đình rất đẹp cùng nhiều đồ thờ tự quý giá và hệ thống tượng các vị vua triều Lý, có thể nói đền Đô mang trong mình những giá trị về di tích, lịch sử, kiến trúc và văn hóa vô cùng đặc sắc. Từ nhiều năm nay, khu di tích đền Đô thường xuyên đón tiếp các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đồng bảo trong nước và nhiều quý khách nước ngoài tới tưởng niệm và tham quan. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Bảng 5. Tổng lượng khách du lịch đến đền Đô năm 2010

Theo kết quả trên ta thấy khách du lịch về đền Đô đông nhất là vào các tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 4, tháng 10, tháng 11 và tháng 12. Đó là vào dịp cuối năm và dịp lễ hội đầu năm. Trong đó chiếm số lượng lớn vẫn là khách nội địa (chiếm tới 90%), khách du lịch quốc tế chiếm số lượng rất nhỏ và chủ yếu là khách lẻ. So với các năm trước, lượng khách du lịch về Đền Đô trong năm 2010 tăng gấp 2 lần. Có những ngày cao điểm, Ban quản lý di tích phải tiếp đón vài nghìn lượt khách, tiêu biểu như chương trình hành hương về nguồn của hơn 5000 tuổi thơ thủ đô. Trong 3 tháng đầu năm 2011 số lượng khách du lịch đến với đền Đô cũng tăng lên đáng kể (tăng 11.494 lượt khách). Đền Đô đã trở thành tiếng gọi cội nguồn để mọi người tìm về gìn giữ bản sắc văn hóa, xây đắp ý chí tâm hồn Việt, là nơi tôn nghiêm để mọi trái tim tụ hội cùng ôn lại truyền thống hào hùng của dân tộc và từ đó nâng lên thành lý tưởng, hành động xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp. Khách du lịch trong nước đến với Đền Đô khá đa dạng, từ thiếu niên nhi đồng cho đến cựu chiến binh, lão thành cách mạng, thương bệnh binh, doanh nhân, nông dân, nhà nghiên cứu… Họ đến Đền Đô với nhiều mục đích, ý nghĩa khác nhau: dâng hương tri ân các đức vua triều Lý, ôn lại truyền thống lịch sử, gặp mặt, báo công… Đối với du khách nước ngoài, họ cũng đến từ nhiều quốc gia trên thế giới, về với Đền Đô để thêm yêu mến dân tộc Việt Nam qua bề dày truyền thống lịch sử và chiều sâu văn hóa cũng như hiểu thêm vẻ đẹp tâm linh của người Phương Đông…

Cũng như chùa Dâu, chùa Bút Tháp, đền Đô cũng tiến hành việc thu vé đối với khách quốc tế. AHLĐ – NGND Nguyễn Đức Thìn, người đã bao năm là hướng dẫn viên tình nguyện ở Đền Đô cho biết: vì khách quốc tế không không giống như khách Việt Nam, họ đến đền, chùa không bao giờ họ cung đức vì thế đền mới thực hiện việc bán vé cho khách quốc tế.

Để giữ gìn giá trị truyền thống của di tích lịch sử đền Đô và để phục vụ tốt hơn cho việc tham quan, nghiên cứu của du khách. Đền Đô đã được trùng tu, tôn tạo với tổng kinh phí khoảng 30 tỷ đồng. Hiện nay, dự án đầu tư xây dựng tôn tạo khu di tích đền Đô gắn liền sông Tiêu Tương được UBND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt tại Quyết định số 1345/QĐ – UBND ngày 1 tháng 10 năm 2010 theo hình thức đấu tư BT do Công ty cổ phần đầu tư A.D.E.L phối hợp cùng công ty cổ phần Sông Đà 2 và Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Trung Việt thực hiện. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Hoạt động du lịch tại đền Đô khá phát triển, hàng năm du khách về đền Đô rất đông, doanh thu du lịch năm 2010 đạt trên 4,5 tỷ đồng. Các dịch vụ phục vụ du lịch tại đền Đô như: bán hàng lưu niệm, thuyết minh viên, câu lạc bộ quan họ… được đa số du khách ưa thích. Hiện nay, ở Đền Đô đã có phòng trưng bày các tư liệu quý giá gồm các hiện vật bằng tranh, ảnh, sách, báo, đồ thờ cúng, gạch lát nền, gạch xây tường… Hệ thống sa bàn giới thiệu về các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu của Đình Bảng với từng chủ đề: Đình Bảng quê hương nhà Lý; Triều Lý trong lịch sử dân tộc; Đền Đô xưa và nay; Ảnh lưu niệm các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước với Đền Đô; Hậu duệ nhà Lý hành hương về nguồn; Nhân dân khắp mọi miền tổ quốc vinh danh hào khí Thăng Long. Nhưng có lẽ thu hút và để lại ấn tượng trong lòng du khách nhiều nhất vẫn là câu lạc bộ quan họ. Hơn 20 năm qua, Câu lạc bộ (CLB) Quan họ Đền Đô (hay còn gọi là CLB Quan họ Lý Bát Đế) đã phục vụ hàng nghìn đoàn khách du lịch trong nước và quốc tế. Hầu hết các liền anh, liền chị trong CLB đều là người Đình Bảng. Ngoài 18 thành viên, CLB còn có 10 cộng tác viên sẵn sàng cho những chương trình biểu diễn phục vụ số lượng lớn du khách. Dù không đặt trước nhưng vào bất cứ khoảng thời gian trong ngày, nếu du khách có nhu cầu nghe hát Quan họ thì các thành viên trong CLB cũng luôn sẵn lòng phục vụ.

Bên cạnh biểu diễn ca hát, tái hiện lại đầy đủ nghi thức, lề lối của một canh hát Quan họ cổ như: Tiếp đón khách, mời nước mời trầu, cùng hát giao lưu…; các thành viên trong CLB còn hướng dẫn cho du khách biết hát Quan họ, giúp du khách được sắm vai liền anh, liền chị trong những bộ áo tứ thân với khăn mỏ quạ, nón quai thao. Sau khi thăm quan, tìm hiểu về lịch sử triều đại nhà Lý, chiêm ngưỡng kiến trúc Đền Đô và quay ra Thủy đình để được nghe hát Quan họ, một du khách người Ý đã bày tỏ cảm xúc: “Thật tuyệt vời, quê hương các bạn không những có một bề dày lịch sử mà còn có những loại hình nghệ thuật truyền thống thật độc đáo, đặc sắc. Các bạn đã gìn giữ được những giá trị nhân văn không phải của riêng đất nước Việt Nam mà cho cả nhân loại. Chắc chắn, tôi sẽ trở lại miền quê giàu đẹp này thêm nhiều lần nữa cùng với người thân và bạn bè của tôi chứ không phải là một mình như lần này” [24].

Như vậy, CLB Quan họ Đền Đô đã biết gắn kết sinh hoạt văn hóa Quan họ với du lịch. Với cách làm này, giá trị văn hóa ở các điểm du lịch đền, chùa, đình cùng vẻ đẹp của nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống sẽ không còn “tiềm ẩn”. Đó là một cách làm hữu hiệu vừa thúc đẩy sự phát triển ngành “công nghiệp không khói” của quê hương nhà Lý nói riêng, tỉnh Bắc Ninh nói chung vừa giúp gìn giữ, quảng bá dân ca Quan họ – “đặc sản văn hóa” vô giá của vùng quê Kinh Bắc.

Với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của ngôi đền thì việc đền Đô sẽ trở thành một điểm du lịch phát triển và hấp dẫn du khách sẽ diễn ra trong tương lai gần.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã làm được, du lịch ở đền Đô cũng còn nhiều hạn chế. Đến nay, mặc dù đã có 3 hướng dẫn viên được đào tạo chuyên ngành du lịch nhưng vẫn chưa có cán bộ phục vụ giới thiệu nào có sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử dân tộc, lịch sử triều Lý cũng như giá trị lịch sử văn hóa của khu di tích Đền Đô, như nhà giáo nhân dân, anh hùng lao động Nguyễn Đức Thìn – người đã bao năm tự nguyện làm một hướng dẫn viên không chuyên nhưng lại vô cùng chuyên nghiệp ở Đền Đô trước đây. Công tác tổ chức, quản lý lễ hội đền Đô của địa phương còn lỏng lẻo, tệ nạn xã hội còn nhiều. Chưa có một quy hoạch tổng thể về không gian tổ chức lễ hội bao gồm khu vực hành lễ (khu vực trung tâm của lễ hội), khu vực tổ chức các trò chơi và các dịch vụ (trông giữ phương tiện vận chuyển, ăn uống, bán hàng lưu niệm và các dịch vụ bổ xung khác). Các dịch vụ lưu trú và ăn uống tại đền Đô chưa phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu nghỉ ngơi của du khách, sản phẩm du lịch còn nghèo nàn nên chưa giữ chân được du khách ở lại lâu. Nguồn kinh phí để tu bổ, tôn tạo di tích còn hạn chế, chủ yếu là do nhân dân địa phương tự đóng góp. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Vì vậy, để khai thác và phát triển du lịch tại đền Đô hơn nữa là một việc làm đòi hỏi sự kết hợp của nhiều ngành nghề cũng như những nỗ lực không ngừng của địa phương – nơi có di tích lịch sử này.

2.1.2.2. Đền Bà Chúa Kho

Trên vùng quê Kinh Bắc cổ kính và văn hiến có không ít những đền thờ thần mẫu linh thiêng, huyền diệu, một trong số đó là đền thờ Bà Chúa Kho – ngôi Đền đầy ắp những truyền thuyết lịch sử của dân tộc, từ lâu đời đã đi vào tín ngưỡng dân gian. Đền Bà Chúa Kho hiện nay đã trở thành một công trình kiến trúc khang trang, thu hút nhiều du khách thập phương từ Bắc đến Nam về dự lễ xin cầu tài, cầu lộc, cầu may mắn.

Đền Bà Chúa Kho hiện do ban quản lý di tích của địa phương quản lý, nằm trong quy hoạch du lịch khu du lịch văn hóa quan họ Cổ Mễ. Khách đi lễ đền Bà Chúa quanh năm nhưng thời điểm đông nhất là từ tháng Chạp kéo dài cho đến hết 3 tháng xuân. Lượt khách trung bình đạt 40.000 lượt/năm – 50.000 lượt/ năm [35]. Với lượng khách đông, phần lớn ở xa đến nên rất cần lưu trú và được sử dụng những dịch vụ tiện ích gắn liền với khu di tích tâm linh này. Tuy nhiên hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở đây lại chưa đáp ứng được nhu cầu của đại đa số khách đi lễ đền Bà Chúa. Chính vì vậy mà lâu nay người dân khu Cổ Mễ cũng như thành phố chưa thể khai thác hết tiềm năng về thương mại, dịch vụ, du lịch của khu di tích.

Nhiều năm trở lại đây, nhân dân làng Cổ Mễ đã huy động sự công dức của du khách thập phương để khôi phục đền Bà Chúa Kho, phục vụ nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân. Nhằm phục vụ tốt khách thập phương, tạo điều kiện cho nhân dân mở mang dịch vụ, cải tạo cảnh quan đô thị…, dự án Khu du lịch văn hóa Quan họ Cổ Mễ được quy hoạch từ năm 1995, được thành phố ghi vào danh mục cần triển khai thực hiện trong nhiều năm và hiện nay được tỉnh xác định là công trình trọng điểm. Với quy mô đầu tư gần 1.000 tỷ đồng nhằm mục tiêu xây dựng một khu văn hóa, du lịch hiện đại, hấp dẫn ít ảnh hưởng môi trường và phát huy giá trị truyền thống của vùng Kinh Bắc. Trong tổng số hơn 40 ha đất của dự án thì tới 80% được dành cho các công trình công cộng. Dự án được quy hoạch gắn liền với khu di tích Đền Bà Chúa Kho sẽ tạo điều kiện tốt về hạ tầng như giao thông, khu giải trí, khu mua sắm… đáp ứng và thu hút thêm lượng du khách thập phương đến tham quan, du lịch, lưu trú không chỉ trong dịp lễ hội mà còn trở thành điểm kết nối các di tích, thắng cảnh như chùa Dâu, Bút Tháp, Phật Tích… trên địa bàn tỉnh.

Trong nhiều năm trở lại đây, ý thức của người dân tại khu vực đền Bà Chúa Kho và ý thức của du khách thập phương đã thay đổi rõ rệt: không còn cảnh chen lấn, xô đẩy; không còn cảnh người sau đứng vái người trước. Chỗ đặt lễ cũng được thóai mái để những người về lễ tạ có thời gian khấn cầu và tạ ơn Bà Chúa kho lương. Cụ Nguyễn Văn Tuyến, Trưởng ban Tổ chức lễ Đền Bà Chúa Kho năm nay cho biết, điều quan trọng là tuyên truyền, hướng dẫn người hành hương về lễ đền không bày đặt đồ lễ xa hoa, cầu kỳ một cách thái quá và đặc biệt là không đốt vàng mã quá nhiều, gây lãng phí. [36]

Cùng với sự phối hợp của lực lượng Công an tỉnh, Công an thành phố Bắc Ninh, Công an phường Vũ Ninh và các thành viên trong Hội Người cao tuổi phường Vũ Ninh, đã vận động bà con không đốt nhiều vàng mã. Số lượng vàng mã du khách mang đến cúng lễ thường được vận động giữ lại một phần, lưu trong kho chứa của đền để đầu năm có nhiều lộc phát cho người đến lễ, như một hình thức rước may mắn về nhà. Sắp lễ và khấn thuê từng là nỗi bức xúc của du khách hành hương về lễ Đền Bà Chúa Kho, nhưng với sự vào cuộc quyết liệt của Ban An ninh do các cụ người cao tuổi đảm nhiệm chính, với sự tăng cường của lực lượng Công an tỉnh Bắc Ninh, đội quân này đã không còn hoạt động lộ liễu, đeo bám, gây phiền nhiễu cho du khách. Người đi lễ cũng đã tự ý thức hơn trong việc chuẩn bị đồ lễ từ nhà, để không bị chặt chém, bị mời chào, lôi kéo khi mua đồ lễ, vàng mã ở quanh khu vực đền. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Tuy nhiên, công tác quản lý tại Đền Bà Chúa Kho còn nhiều bất cập. Tình trạng khấn thuê, cúng mướn và đốt vàng mã vẫn còn là vấn đề “nóng”. Mặc dù đã được tuyên truyền, vận động nhưng nhiều hộ dân tại khu vực đền Bà Chúa Kho vẫn bày bán hàng mã tràn lan. Đáng nói hơn, không chỉ bán đồ phục vụ lễ lạt, còn có những quầy hàng bán đồ chơi trẻ em; những quầy “di động” bán sách ngoài luồng, dù Ban quản lý di tích đền Bà Chúa Kho liên tục đi kiểm tra, thu giữ… Vào trong đền, khách hành hương cũng phải đợi xếp hàng mới đến được ban thờ, nhiều người không đợi thì đứng bái vọng từ xa. Sự đông đúc đã tạo điều kiện cho khấn thuê, lễ mướn được dịp “hoành hành”. Bên cạnh đó, do sự thiếu ý thức của du khách, hiện tượng vứt rác bừa bãi vẫn xảy ra, làm xấu cảnh quan khu vực đền. Vào những ngày đầu năm hàng quán đua nhau mọc ra gây mất mỹ quan khu vực xung quanh đền.

Trước tình trạng đó, ban quản lý đền cần có những biện pháp mạnh tay hơn để dẹp bỏ hoàn toàn việc khấn thuê, giữ gìn sự linh thiêng nơi cửa đền nhằm phục vụ tốt hơn cho hoạt động du lịch tại đền.

2.1.3. Khai thác tại Đình Đình Bảng và Văn miếu Bắc Ninh

2.1.3.1. Đình Đình Bảng

Từ lâu, trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nói về làng xã không ai quên nhắc tới ngôi đình làng, bởi đó là sự kết tinh trí tuệ, công sức, sự thịnh vượng của làng xã, niềm kiêu hãnh của làng xã, nơi chứng kiến và diễn ra các hoạt động lớn nhỏ của cả làng…, là nơi các chàng trai, cô gái gửi gắm, bầy tỏ tâm tình. Quanh đình Đình Bảng có cả cụm di tích văn hóa, nhất là những di tích về thời Lý, tạo thành một khu lưu niệm độc đáo, âm vang lịch sử, có tầm cỡ quốc gia, đủ cả: Đình, Đền, Chùa, Lăng, Tẩm …. đặc trưng của văn hóa làng Việt Nam.

Đình Đình Bảng là một di tích vô cùng quý báu đã được nhân dân trong vùng bảo vệ, gìn giữ trong suốt những năm dài kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Đến nay, ngôi đình đã và đang được nhân dân và các cấp uỷ Đảng, chính quyền trùng tu tôn tạo, trở thành một điểm du lịch văn hóa truyền thống đặc sắc của Bắc Ninh. Tuy nhiên lượng khách đến đình Đình Bảng phụ thuộc vào lượng khách đến Đền Đô. Đình Đình Bảng chỉ là điểm tham quan bổ trợ khi du khách đã thăm đền Đô. Thường thì có 1/3 lượng khách ở Đền Đô sẽ ghé thăm đình Đình Bảng. Vì lượng khách đến đây ít và ở lại không lâu nên các dịch vụ du lịch đây không phát triển. Mặc dù có tiềm năng lớn để phát triển loại hình du lịch văn hóa nhưng đình Đình Bảng vẫn chưa thực sự thu hút du khách. Công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch ở đây chưa thực sự được chú trọng, vì vậy mà hoạt động du lịch tại đây chỉ mang tính chất tự phát của du khách chứ chưa có sự phối hợp của nhân dân địa phương.

2.1.3.2. Văn Miếu Bắc Ninh Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Văn Miếu Bắc Ninh luôn được các triều đại phong kiến xưa cũng như nhà nước ta ngày nay dành sự quan tâm trong công tác đầu tư tôn tạo, gìn giữ cho các thế hệ sau tiếp nối truyền thống hiếu học của quê hương, đất nước. Ngày nay, giá trị lịch sử văn hóa của Văn Miếu Bắc Ninh đang trở thành một nguồn tài nguyên nhân văn để phát triển loại hình du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Sức hút từ văn hóa truyền thống đã tạo ra sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. Thực tế, Văn Miếu Bắc Ninh đang trở thành trung tâm của các hoạt động văn hóa có nội dung giáo dục, phát huy truyền thống hiếu học và khoa bảng của quê hương. Nơi đây hàng năm đã đón tiếp nhiều đoàn học sinh giỏi quốc gia, quốc tế của tỉnh đến dâng hương, báo công sau mỗi kì thi. Hiện nay, Văn Miếu Bắc Ninh đã được lập quy hoạch và đã đầu tư cơ sở hạ tầng khoảng 12,5 tỷ đồng, khách đến Văn Miếu trải đều tất cảc các tháng trong năm trong đó chủ yếu là khách nội địa chiếm tới 80% tổng lượt khách. Tuy nhiên, Văn Miếu Bắc Ninh vẫn chưa được rộng rãi du khách trong nước và quốc tế biết đến, các hoạt động để sẵn sàng đón tiếp du khách hầu như chưa được quan tâm đầu tư: công tác thuyết minh viên tại điểm, cán bộ thường trực, đón tiếp khách, việc tổ chức các sự kiện sinh hoạt văn hóa trong khuôn viên Văn Miếu còn quá ít, số lượng cây xanh nhất là cây xanh cổ thụ chưa nhiều, công tác tuyên truyền về giá trị lịch sử – văn hóa của Văn Miếu chưa rộng rãi, chưa hiệu quả.

Để Văn Miếu Bắc Ninh trong thời gian tới trở thành một điểm du lịch sẵn sàng đón du khách trước hết cần quan tâm đến công tác tuyên truyền quảng bá một cách rộng rãi và hiệu quả. Cơ quan quản lý nhà nước về Văn hóa, Du lịch của địa phương cần phối hợp với Hiệp hội du lịch Bắc Ninh và các doanh nghiệp lữ hành ngoài tỉnh thiết lập các chương trình du lịch trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong đó có điểm đến là Văn Miếu. Ngoài ra, ban quản lý di tích cũng cần chú trọng hơn tới công tác trùng tu tôn tạo, công tác thuyết minh viên tại điểm để Văn Miếu sẽ trở thành một điểm đến thú vị vủa du khách khi mỗi lần về thăm Bắc Ninh.

2.2. Thực trạng khai thác Tài nguyên du lịch lễ hội

2.2.1. Hội Lim

Hội Lim là một lễ hội lớn đầu xuân vùng Kinh Bắc được tổ chức vào ngày 13 tháng Giêng hàng năm, trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Lễ hội thu hút hàng nghìn lượt du khách trong và ngoài nước đến tham quan, du lịch.

Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm – Trung tâm hành chính của huyện gồm: Thị trấn Lim, xã Nội Duệ, Liên Bão, Phú Lâm có diện tích 2.767,5 ha tổng diện tích toàn huyện có 22/25 di tích lịch sử văn hóa được nhà nước xếp hạng gồm: 12 đình, 02 chùa, 01 lăng, 7 đền, có 7/9 làng quan họ gốc và 10 làng quan họ thực hành…, phải nói đây là một vùng quê có nền văn hiến lịch sử lâu đời. Như vậy ngoài chùa tháp do các làng xã xây dựng, tu bổ vào các thời kỳ xã hội khác nhau đến nay các di tích này vẫn được chính quyền các cấp quan tâm tu bổ và nâng cấp. Riêng khu di tích lịch sử cách mạng đồi Lim năm 2009 – UBND huyện đã đầu tư kinh phí trên 10 tỷ đồng xây dựng tường kè, điện thắp sáng bảo vệ xung quanh đồi Lim.

Hàng năm, Ban chỉ đạo lễ hội Lim đã xây dựng kế hoạch chi tiết công tác quản lý tổ chức lễ hội; trong đó đặc biệt chú trọng phần lễ (nghi thức, lễ rước) tổ chức trang trọng, phần hội: tổ chức nhiều các hoạt động văn hóa nghệ thuật, các trò chơi dân gian mang đạm bản sắc dân tộc, có sức hấp dẫn và thu hút được du khách tham gia; công tác quy hoạch không gian đảm bảo tổ chức tốt các hoạt động của lễ hội; quan tâm đầu tư hỗ trợ kinh phí cho việc khôi phục các trò chơi dân gian. Trong đó khu trung tâm bố trí các trò chơi dân gian, các lán trại hát quan họ, các khu vực khác xa trung tâm, bố trí khu dịch vụ ăn uống, các trò chơi hiện đại, các điểm trông giữ xe cho du khách được bố trí tại các địa điểm theo đúng quy hoạch. Đầu trục các đường vào lễ hội đều được treo Panô thông báo nội dung chương trình lễ hội và sơ đồ bố trí các địa điểm tổ chức các hoạt động của lễ hội… tất cả đã tạo nên không gian lễ hội được tổ chức trật tự tạo điều kiện cho công tác quản lý, tạo thuận lợi cho du khách thưởng thức tận hưởng các hoạt động văn hóa của lễ hội. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Đặc biệt, trong khuôn viên hội Lim năm 2011, tỉnh Bắc Ninh đã đầu tư gần 3 tỉ đồng để xây dựng hai lán quan họ phục vụ du khách. Ngoài ra ban chỉ đạo lễ hội cho thành lập 10 gia đình nghệ nhân tại các thôn Lũng Giang, Lũng Sơn, Duệ Đông, Liên Bão thuộc thị trấn Lim và có người hướng dẫn đến nhà các nghệ nhân nhằm phục vụ du khách thích nghe và hát giao lưu với các liền anh, liền chị. Mỗi gia đình được hỗ trợ 800 nghìn đồng để đun nước, pha trà mời khách. Điểm mới của hội Lim năm 2011 đó là các liền anh, liền chị hát đối đáp quan họ mà không sử dụng hệ thống loa máy, tăng âm hoặc đàn đệm nhằm thể hiện rõ bản sắc văn hóa quan họ truyền thống với các du khách thập phương. Đây là một nét mới trong hội Lim năm 2011 và đã được đông đảo du khách thập phương ủng hộ.

Sản phẩm du lịch cũng phong phú đa dạng, thể hiện được nét văn hóa của quê hương Bắc Ninh; đã có những điểm bán băng đĩa quan họ của Trung tâm phát hành và chiếu bóng Bắc Ninh đáp ứng nhu cầu mua băng đĩa của du khách thập phương.

Cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ lễ hội cũng được chú trọng nhiều hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của du khách.

Tuy nhiên, hội Lim vẫn còn nhiều thiếu sót cần phải khắc phục như:

Nơi sắp đặt địa điểm cho việc tế lễ tại trung tâm hội chưa được quy hoạch một cách cụ thể. Một trong những hoạt động tại hội Lim thu hút sự chú ý của khách thập phương là lễ rước từ các làng lên núi Hồng Vân, đoàn rước với đông đảo người dân tham gia trong những bộ lễ phục sặc sỡ sắc màu, sau đó là lễ tế trước lăng Hồng Vân, tưởng nhớ công lao của tiền nhân. Nhưng đại bộ phận công chúng đi hội đều không được giới thiệu ý nghĩa của các nghi lễ này và cũng không hiểu được lịch sử của lễ hội, kể cả những người sống trong vùng Lim, làm mất giá trị giáo dục truyền thống.

Việc bố trí các lán trại quan họ còn đậm đặc trên trung tâm đồi Lim, tạo ra những âm thanh va đập trái chiều khiến cho du khách chưa cảm nhận được hết vẻ đẹp đằm thắm của những câu ca quan họ trữ tình.

Việc quy hoạch lễ hội chưa được địa phương thực hiện một cách nghiêm túc, vì vậy các dịch vụ điện tử với công suất loa máy quá lớn đặt sát chân trung tâm đồi Lim làm ảnh hưởng rất lớn đến vẻ đẹp của lễ hội truyền thống.

Công tác vệ sinh môi trường cũng đã được chú ý nhưng do lượng khách quá đông, hội chính lại diễn ra trong một ngày nên không đáp ứng được khiến du khách vẫn còn chưa hài lòng.

Công tác quản lý lễ hội vẫn còn nhiều bất cập. Hiện tượng các liền anh, liền chị vừa hát quan họ vừa ngả nón xin tiền vẫn còn. Vẫn còn quá nhiều các trò chơi mang tính hiện đại như điện tử, đu quay, vui chơi có thưởng…, hàng quán la liệt với đủ loại thức ăn, đồ uống từ thôn quê đến thành thị khiến nhiều du khách có cảm giác như là đi hội chợ xuân hơn là đi hội quan họ, trong khi đó lại chưa có sản phẩm đặc trưng của địa phương. Các tệ nạn xã hội như: ăn xin, móc túi, chèo kéo khách, cờ bạc trá hình vẫn chưa được xử lý nghiêm khắc. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Do lượng khách quá đông lại tập trung nhiều vào ngày chính hội nên tình trạng ùn tắc giao thông vẫn chưa có giải pháp hiệu quả. Đường tắc, người đông càng khiến các điểm trông giữ xe từ xa đắt khách. Giá gửi xe trung bình từ 10.000đ – 15.000đ/ xe máy, có nơi khách bị “chặt chém” tới 20 – 30.000đ. Giá cả tại các hàng quán, các điểm kinh doanh dịch vụ quanh khu vực Hội cũng “đội” lên cao khi lượng khách đổ về hội ngày càng đông. Các cơ sở lưu trú và ăn uống cũng chưa đáp ứng được nhu cầu, du khách phải đi quá về khu vực Từ Sơn mới có cơ sở lưu trú.

Để hội Lim trở thành Tài nguyên du lịch , để tài sản văn hóa thực sự sinh lợi đang đòi hỏi Bắc Ninh phải đầu tư nhiều trí tuệ, công sức, khơi dậy những cái đẹp và giá trị văn hóa, cho lễ hội ngày càng trở nên hấp dẫn không chỉ với nhân dân trong nước mà cả với du khách quốc tế, đồng thời bảo vệ và phát huy hội Lim ngày càng sáng rõ và nổi bật những giá trị văn hóa cổ truyền, đáp ứng nhu cầu tâm linh và hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân và du khách.

2.2.2. Hội Đồng Kỵ

Hội Đồng Kỵ được tổ chức vào ngày mồng 4 tết hàng năm. Có thể nói lễ hội Đồng Kỵ được tổ chức sớm nhất ở vùng Kinh Bắc mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Hội luôn thu hút mọi người dân làng Đồng Kỵ cũng như các làng lân cận và cả du khách thập phương.

Lễ hội rước pháo làng Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn ) được tiến hành long trọng, qui mô lớn với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa, trong đó đặc biệt chú trọng tới việc tổ chức ca hát Quan họ trên bến, dưới thuyền, các cuộc thi dệt vải, đánh cờ người, đánh vật, tổ tôm điếm, đánh đu…mang sắc thái riêng, độc đáo, quảng bá, giới thiệu được những nét đặc trung nổi bật của lễ hội quê hương Kinh Bắc – Bắc Ninh. Lễ hội Đồng Kỵ có sự kết hợp cho khách tham quan tiếp cận với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống có tác động nhất định đối với lĩnh vực hoạt động du lịch, kích thích mở rộng quan hệ thị truờng.

Tuy nhiên, vì hội Đồng Kỵ không lớn như hội Lim nên các hoạt động du lịch ở đây chưa được chú trọng. Hơn nữa, hội Đồng kỵ mới chỉ thu hút nhân dân làng Đồng Kỵ, một số làng lân cận cùng lắm là một số huyện khác trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Họ chỉ tham dự lễ hội trong ngày nên các dịch vụ du lịch ở đây không có. Công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về ý nghĩa của lễ hội chưa được quan tâm nên phần lớn du khách tới đây chỉ với mục đích chơi hội là chính.

2.2.3. Hội Diềm Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Đến hẹn lại lên, cứ vào ngày 6/2 âm lịch người dân thôn Viêm Xá (làng Diềm) lại nô nức chuẩn bị cho ngày hội lớn nhất trong năm – ngày hội tưởng nhớ bà thủy tổ của hát quan họ. Trong ngày này, người dân khắp nơi trên cả nước một lần nữa được đắm mình trong không khí rộn ràng và linh thiêng của lễ hội, được đắm say trong những khúc hát giao duyên ý nhị, trữ tình… của người Quan họ.

Trước đây, trong những ngày diễn ra lễ hội có rất ít khách du lịch đến tham quan, chủ yếu chỉ là người dân quanh vùng đến tham gia vào lễ hội. Hiện nay, do sự quan tâm của chính quyền địa phương công tác tuyên truyền, quảng bá được mở rộng đã có nhiều du khách đến với lễ hội hơn. Để đẩy mạnh việc phát triển du lịch gắn với bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa giai đoạn 2011 – 2012, UBND tỉnh Bắc Ninh đã có kế hoạch triển khai dự án khu Thủy tổ quan họ ở làng Viêm Xá, xã Hòa Long nơi diễn ra lễ hội Diềm. Tuy chỉ có quy mô nhỏ, gói gọn trong một làng song với nhiều hoạt động quan trọng nhất của sinh hoạt văn hóa Quan họ thì Hội Diềm vẫn đủ sức hấp dẫn, bởi ẩn sâu nơi mảnh đất tương truyền có dáng hình tiên nữ ấy là cả một kho báu với những ai yêu mến văn hóa vùng Kinh Bắc. Các công ty du lịch cũng đã đưa hội Diềm vào chương trình du lịch của mình như công ty du lịch Sen Vàng có chương trình du lịch 1 ngày: lễ hội đền Bà Chúa Kho – quan họ làng Diềm. Tuy nhiên, lượng khách du lịch đi theo chương trình tour đến đây là không nhiều, chủ yếu là khách tự do.

Doanh thu đạt được từ hoạt động du lịch của lễ hội rất ít hầu như không có do khách du lịch đến với lễ hội chủ yếu là khách đi lẻ và thường là người dân địa phương hoặc ở một số địa phương lân cận, vì vậy mà thời gian lưu lại của du khách ở lễ hội nhiều nhất là một ngày. Hơn nữa do người dân chưa nhận thức được tiềm năng phát triển cho du lịch của địa phương nên cũng chưa có sự đầu tư cho du lịch.

Vì chưa có sự đầu tư xứng đáng cho du lịch nên cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật của địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách vào những hôm đông khách. Các cơ sở lưu trú và ăn uống không có, nhiều khi du khách phải đi hàng vài km mới tìm được một nhà nghỉ hoặc quán ăn.

Bên cạnh đó công tác quản lý lễ hội còn thiếu chặt chẽ, các dịch vụ bán hàng còn lộn xộn, công tác vệ sinh môi trường; quy hoạch dịch vụ, hàng quán, bãi đỗ xe chưa được coi trọng… do đó đã dẫn đến để lại nhiều ấn tượng không đẹp trong mắt du khách thập phương.

2.3. Thực trạng khai thác tại các làng nghề truyền thống Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

2.3.1. Làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ

Làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ truyền thống Đồng Kỵ là một trong những làng nghề nổi tiếng nhất về đồ gỗ mỹ nghệ không những chỉ trong tỉnh Bắc Ninh, trong nước mà còn ở các nước. Cùng với các làng nghề truyền thống khác của tỉnh Bắc Ninh, Đồng Kỵ đang ngày càng phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm làm rạng danh mảnh đất trăm nghề. Hiện Đồng Kỵ đang là một trong những làng giàu nhất của tỉnh Bắc Ninh.

Làng Đồng Kỵ có đến 93% các hộ gia đình tham gia sản xuất và kinh doanh các mặt hàng chế biến từ gỗ. Cả làng có tới 200 công ty với khoảng 500 giám đốc, phó giám đốc. Trong những năm gần đây để đáp ứng nhu cầu của thị trường, những sản phẩm của làng nghề đã được cải biến mẫu mã. Đồ gỗ Đồng Kỵ hiện nay không chỉ được ưa chuộng trong nước mà đã xuất khẩu sang nhiều thị trường nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc. Nhiều khâu trong hoạt động sản xuất tạo sản phẩm đã được chuyện môn hóa. Bên cạnh là một làng nghề truyền thống, hiện nay Đồng Kỵ đang đảm nhận là một trung tâm chuyên kinh doanh các mặt hàng mỹ nghệ được chế tạo từ gỗ.

Theo ông Ngô Xuân Tạo chủ tịch UBND phường Đồng Kỵ cho biết. Năm 2010, tổng giá trị kinh tế từ gỗ mỹ nghệ ở Đồng Kỵ đạt khoảng 2.500 tỷ đồng, trừ chi phí cả làng nghề thu về 550 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 là 35 triệu đồng. Hiện làng nghề đang giải quyết việc làm cho 5.000 lao động tại địa phương và khoảng 7.000 lao động địa phương khác.

Chính sự nổi tiếng của làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ cùng với vị trí địa lý thuận lợi, nằm rất gần thủ đô Hà Nội và các di tích lịch sử nổi tiếng như: đền Đô, Chùa Phật Tích, Chùa Tiêu, nên hàng năm các công ty du lịch đã đưa hàng chục lượt khách nước ngoài từ khắp mọi nơi trên thế giới như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Anh, Hà Lan.. đến tham quan, tìm hiểu làng nghề. Nhiều khách nước ngoài đã đặt mua sản phẩm mỹ nghệ Đồng Kỵ. Bên cạnh đó nhiều gia đình, công ty trong làng nghề đã đặt văn phòng giao dịch ở nước ngoài để giới thiệu sản phẩm. Cứ như thế, gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ không chỉ phổ biến ở thị trường nội địa mà còn vươn xa sang cả các thị trường nước ngoài.

Hiện nay vẫn chưa có số liệu thống kê chính xác lượng khách du lịch đến với Đồng Kỵ nhưng theo ước tính thì con số đó còn khá khiêm tốn so với tiềm năng của nó. Khách nội địa đến với làng nghề Đồng Kỵ phần lớn là đi xem đồ và mua sắm hàng hóa phục vụ cho sinh hoạt. Khách nội địa đến với Đồng Kỵ trải đều các tháng trong năm, nhưng tập trung chủ yếu vào dịp đầu năm, bởi đây là thời gian ở Bắc Ninh diễn ra nhiều lễ hội truyền thống. Trong quá trình đi lễ, tham quan các di tích lịch sử và xem hội họ kết hợp với việc tham quan mua sắm tại làng nghề Đồng Kỵ.

Đồng Kỵ đã tham gia rất nhiều cuộc hội chợ, triển lãm về hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong nước cũng như ở nước ngoài. Và đã được công nhận là một trong những làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu của Việt Nam năm 2008. Tuy ở Đồng Kỵ có đầy đủ các điều kiện để phát triển du lịch làng nghề, song trên thực tế du lịch làng nghề ở đây chưa phát triển tương xứng. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Hiện nay ở làng gỗ Đồng Kỵ đã có những show room trưng bày, giới thiệu sản phẩm giúp du khách có thể thỏa sức tham quan, chiêm ngưỡng và mua sắm. Tuy nhiên những show room này chỉ mang tính chất kinh doanh là chính, còn để phục vụ khách du lịch thì chưa có. Ở Đồng Kỵ hiện có trên 300 xưởng sản xuất, nhưng các xưởng sản xuất còn nhỏ bé, đơn điệu thiếu quy hoạch tổ chức sản xuất.

Hiện nay, cây cầu bắc qua con sông dẫn vào làng Đồng Kỵ đã được làm mới, con đường vào làng cũng được đầu tư nâng cấp, làm mới thành hai làn đường rộng rãi, sạch sẽ để phục vụ phát triển kinh tế, du lịch. Nhưng bên cạnh đó một số con đường nhỏ trong làng vẫn còn chưa được chú ý xây dựng, ngày mưa còn lầy lội, ngày nắng thì bụi bẩn vì xe ô tô lớn chở gỗ đi lại quá nhiều. Hơn nữa, ở Đồng Kỵ hiện nay rất thiếu không gian, cảnh quan môi trường của một làng quê vườn không còn, một bụi tre, một vạt cây ăn quả cũng không có, ao hồ cũng được san lấp để mở xưởng làm gỗ. Khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế không chỉ đến đây để tham quan làng nghề một cách đơn thuần, mà họ còn muốn tránh xa không khí ồn ào, náo nhiệt của các đô thị phát triển để thư giãn trong không khí thanh bình yên ả của làng quê, nhưng đến Đồng Kỵ hiện nay chỉ thấy toàn nhà cửa cao tầng san sát như ở Hà Nội, không gian chật hẹp, bụi bặm.

Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho khách du lịch như nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ chưa có. Ở Đồng Kỵ hiện nay người dân mới chỉ chú trọng đến phát triển làng nghề mà chưa chú trọng đến việc khai thác những thế mạnh của làng nghề để phát triển du lịch. Phần lớn các nhà nghỉ được xây dựng dọc hai bên quốc lộ 1A của thị trấn Từ Sơn, cách Đồng Kỵ 2km. Số lượng nhà nghỉ ở đây xây dựng khá nhiều song quy mô không lớn, trang thiết bị ở mức độ khá. Những nhà nghỉ này chỉ mang tính chất phục vụ kinh doanh lưu trú còn các dịch vụ bổ sung hầu như không có nên không thể đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.

Cơ sở vui chơi giải trí, thể dục thể thao ở Đồng Kỵ cũng không có, chỉ có một số khu liên hợp thể thao, vui chơi giải trí ở thị trấn Từ Sơn như khu liên hợp thể thao Nam Hồng được xây dựng khá quy mô với bể bơi, sân cầu lông, tennis, nhà thể thao đa năng, nhà hàng đặc sản rừng và biển… phục vụ nhu cầu của nhân dân trong vùng và có thể đưa vào phục vụ du lịch. Chính vì vậy mà doanh thu du lịch từ tất cả các khoản này ở Đồng Kỵ hầu như không có. Nguồn thu chủ yếu của làng nghề chạm khảm Đồng Kỵ là từ việc bán các sản phẩm tại chỗ và xuất các sản phẩm gỗ mỹ nghệ đi vùng khác.

Bên cạnh đó, thành phố Bắc Ninh và Sở du lịch chưa có những dự án đầu tư và giải pháp phát triển du lịch tại làng gỗ Đồng Kỵ thực sự có hiệu quả. Chính quyền và nhân dân địa phương chưa thực sự vào cuộc. Hiện Đồng Kỵ đã có một số trang web giới thiệu, quảng bá về thương hiệu gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, nhưng nội dung các trang web về Đồng Kỵ chưa phong phú, đa dạng, hầu hết đây mới chỉ là những trang web của các cơ sở kinh doanh tư nhân lập ra để quảng cáo cho công ty mình, cho các sản phẩm của mình chứ gần như không nói gì đến làng nghề và quảng bá giới thiệu du lịch làng nghề.

Tại Đồng Kỵ chưa có sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và người dân trong phát triển du lịch. Người dân mới chỉ quan tâm đến việc bán các hàng hóa, sản phẩm của làng nghề cho khách mà chưa quan tâm đến việc thu hút du khách từ chính hoạt động tạo ra sản phẩm của làng nghề. Hơn nữa, hoạt động liên doanh, liên kết với các công ty lữ hành trong việc sắp xếp, tổ chức các chương trình du lịch đến với làng nghề ở Đồng Kỵ chưa có, hầu hết các công ty lữ hành đều khai thác một cách hời hợt. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Trong bối cảnh như hiện nay, phát triển du lịch làng nghề ở Đồng Kỵ cần được quan tâm và chỉ đạo thống nhất từ trung ương đến địa phương mới có thể tạo nên bước đột phá mới cho du lịch làng nghề, khách du lịch khi đến đây mới thật sự hài lòng và từ đó góp phần quảng bá thương hiệu của làng nghề với bạn bè quốc tế.

2.3.2. Làng gốm Phù Lãng

Phù Lãng là một trong số những làng gốm nổi tiếng của miền Bắc thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Nằm cách Hà Nội khoảng 60km về phía đông bắc, cùng với gốm Bát Tràng (Gia Lâm) và gốm Thổ Hà (Bắc Giang), cái tên gốm Phù Lãng đã và đang dành được nhiều sự chú ý của khách du lịch trong và ngoài nước, đặc biệt là dân ham mê chụp ảnh.

Làng gốm Phù Lãng là một điển hình của làng quê nông thôn Bắc Bộ, với nhiều điểm du lịch văn hóa. Đến làng gốm Phù Lãng, ta dễ dàng nhận ra bởi những nét riêng biệt điển hình của một làng gốm.

Từ năm 2008 đến nay, do khủng hoảng kinh tế nên hàng mỹ thuật giảm mạnh, hiện cả làng chỉ có 10 lò gốm hoạt động, sản xuất gốm Phù Lãng hiện nay vẫn chưa hồi phục lại hoàn toàn.

Về sản phẩm của làng nghề, gốm Phù Lãng hiện nay có hai dòng sản phẩm chính là gốm truyền thống và gốm mỹ thuật.

Gốm mỹ thuật mới xuất hiện từ năm 1998 khi có những nghệ nhân mới được đào tạo từ trường mỹ thuật. Người khởi đầu cho dòng sản phẩm này là anh Vũ Hữu Nhung hiện là giảng viên trường Đại học Mỹ Thuật Hà Nội.

Hiện cả làng gốm có 6 người đã học các trường mỹ thuật và với kiến thức được học, họ đang thổi hồn vào đất, sáng tạo và phát triển những tinh hoa của nghề gốm với nghệ thuật tạo hình khối hoa văn. Các nghệ nhân đã tạo ra được nhiều sản phẩm và mẫu gốm mới như tranh gốm, lọ hoa gốm, ấm chén gốm, gốm trang trí, gốm ốp tường đã và đang được khách thập phương quan tâm và đón nhận. Tuy nhiên cho đến nay làng nghề này vẫn chưa thành lập được một tổ chức ngành, nghề cho riêng mình, đồng nghĩa với việc gốm Phù Lãng chưa xây dựng được tiếng nói chung. Việc chưa xây dựng được hội cho riêng mình dẫn đến các hộ sản xuất gốm Phù Lãng phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Đơn cử như việc các cơ sở sản xuất gốm muốn xuất khẩu hàng ra nước ngoài buộc phải qua khâu trung gian. Điều này làm cho các hộ không thể chủ động trong sản xuất, phụ thuộc vào khâu trung gian, nhiều lúc còn bị ép giá. Hiện tại, Phù Lãng có khoảng 250 hộ làm gốm nhưng chỉ có ba cơ sở có thể tự xuất khẩu sang nước ngoài, đó là công ty gốm Nhung, công ty Trí Việt và hợp tác xã (HTX) gốm.

Từ khi xuất hiện những xưởng gốm mỹ thuật, du khách đến với làng nghề gốm Phù Lãng nhiều hơn. Khách đi tour được dẫn thẳng tới các xưởng gốm thăm các công đoạn làm nghề và chọn mua sản phẩm. Họ thường chọn làng gốm Phù Lãng là điểm dừng chân trên tuyến đến Hạ Long. Khách du lịch biết đến làng gốm Phù Lãng chỉ trong hơn một năm trở lại đây, đặc biệt là dân du lịch bụi rất mê làng gốm Phù Lãng. Nhận thức được sự thu hút của làng gốm Phù Lãng với khách du lịch, hiện nay, làng gốm Phù Lãng đã được đưa vào rất nhiều chương trình du lịch như: Đền Bà Chúa Kho – Làng Diềm – làng gốm Phù Lãng; Văn Miếu – làng Tiến sĩ Kim Đôi – chùa Hàm Long – làng gốm Phù Lãng. Ngoài ra còn có tour du lịch theo sông Cầu: Đền Bà Chúa Kho – làng Kim Đôi – làng gốm Phù Lãng. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Tuy nhiên, hiện khách du lịch đến làng gốm Phù Lãng chỉ là tự phát, chưa phát triển chuyên nghiệp như làng gốm Bát Tràng, nhiều Tài nguyên du lịch chưa được khai thác. Nhược điểm lớn nhất cản trở Phù Lãng có thể trở thành điểm du lịch hấp dẫn là hạ tầng giao thong còn thấp kém. Đường về Phù Lãng rất nhỏ hẹp nên khi du khách đến đây thường phải chuyển sang xe nhỏ hoặc đi bộ nên mất rất nhiều thời gian cho khách đi tour. Có nhiều du khách thích thú với phong cảnh làng quê và muốn ở lại qua đêm cũng không có điểm lưu trú tương đối tiện nghi tại đây. Bên cạnh đó ở làng gốm Phù Lãng cũng không có các cơ sở vui chơi giải trí, các dịch vụ du lịch ở đây chưa phát triển nên doanh thu từ hoạt động du lịch của làng gốm Phù Lãng không đáng kể.

Làng gốm Phù Lãng hội tụ đầy đủ tiềm năng để phát triển thành điểm du lịch, tuy nhiên cần có sự đầu tư xứng đáng về hạ tầng cũng như về hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch.

2.3.3. Làng tranh dân gian Đông Hồ

Nói đến những giá trị nghệ thuật truyền thống của Việt Nam không thể không nhớ tới tranh dân gian Đông Hồ. Làng tranh truyền thống này đã tồn tại hàng trăm năm nay, trở thành nét văn hóa đặc trưng của quê hương Bắc Ninh, từ lâu đã đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân tộc.

Trước đây, người làng Đông Hồ vẽ tranh phục vụ cho Tết nguyên đán. Ngày nay họ vẽ tranh để bán cho khách hàng có nhu cầu bất cứ lúc nào. Một số đề tài như “Hứng dừa”, “Đám cưới chuột”, rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Tuy nhiên, đã 10 năm nay, làng tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng khắp vùng Kinh Bắc chỉ còn một vài nghệ nhân sản xuất tranh, 80% số hộ trong nghề đã chuyển sang nghề làm hàng mã. Nghệ nhân tranh dân gian Đông Hồ Nguyễn Đăng Chế cho biết nghề làm tranh dân gian Đông Hồ “thịnh” nhất là giai đoạn những năm 1945 trở về trước, với 17 dòng tranh các loại, còn từ đó đến năm 1985, tranh Đông Hồ gần như không còn được mọi người chú ý.

Bước vào những năm đổi mới, nghề tranh Đông Hồ bắt đầu được khôi phục với mô hình tổ làm tranh thuộc hợp tác xã do ông Nguyễn Hữu Sam làm tổ trưởng. Nhưng cũng phải đến năm 1995 dòng tranh này mới được khôi phục một cách đúng nghĩa khi Bộ văn hóa Thông tin (cũ) công nhận Đông Hồ là làng nghề truyền thống cần được bảo vệ giữ gìn và phát huy.

Từ đó đến nay, nghề làm tranh Đông Hồ đã được các nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, Nguyễn Hữu Sam… tiếp tục phát triển. Song do cơ chế thị trường và cách hưởng thụ văn hóa của đại bộ phận người dân đã thay đổi, họ thích sở hữu những tấm tranh, ảnh hiện đại như cảnh thiên nhiên, bloc lịch khổ lớn… nên dòng tranh dân gian Đông Hồ không còn thu hút sự chú ý của nhiều người. Hơn nữa, do tính thương mại hóa nên làng tranh Đông Hồ không còn giữ được những nét đặc trưng vốn có của nó. Các thế hệ sau cũng ít muốn học và theo nghề tranh truyền thống của cha ông vì vất vả mà lợi nhuận lại ít. Người làng tranh bây giờ nảy sinh tâm lý: ai đặt thì làm, nhiều khi với số lượng tranh quá ít cũng không muốn làm. Vì không sản xuất được thường xuyên nên cũng khó tổ chức sản xuất tranh được đều đặn trong năm, ảnh hưởng đến thu nhập của người làm tranh. Vì thế họ phải tìm một nghề khác để duy trì cuộc sống. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Mặc dù gần đây đã có nhiều dự án khôi phục lại làng nghề, phát triển du lịch làng nghề truyền thống song làng tranh dân gian Đông Hồ vẫn chỉ đang tồn tại ở mức độ “phảng phất”, chưa thực sự được quan tâm đầu tư để phát triển. Riêng nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế do thích ứng nhanh nhạy với kinh tế thị trường nên đầu năm 2009 đã khai trương Trung tâm giao lưu tranh dân gian Đông Hồ, ông làm giám đốc, con trai Nguyễn Đăng Tâm làm phó. Trung tâm có mặt bằng rộng với nhiều hạng mục phục vụ trưng bày tranh mẫu và nơi sản xuất các sản phẩm của nghề.

Trung tâm giao lưu văn hóa tranh dân gian Đông Hồ do gia đình ông đóng góp xây dựng rộng 5.500m² thật sự tạo ra được một không gian văn hóa độc đáo, trở thành một địa chỉ không thể thiếu với các tour du lịch làng nghề cho du khách trong và ngoài nước. Điều đó cũng đã góp phần quảng bá hình ảnh một làng nghề truyền thống, thu hút đông đảo khách du lịch gần xa tìm về làng tranh dân gian truyền thống. Thời gian gần đây ngày càng có nhiều du khách nước ngoài tìm đến với Đông Hồ. Làng Đông Hồ đang cần được đánh thức, để mỗi du khách một lần bước chân đến đây đều thấy cần phải quay trở lại, như lời ca xưa nhắn nhủ:

“Dù ai buôn bán trăm nghề

Nhớ đến tháng Chạp thì về buôn tranh”

2.4. Thực trạng khai thác văn nghệ dân gian

2.4.1. Chèo Chải hê

Cứ mỗi lần tới mùa “đến hẹn lại lên”, không chỉ các liền anh liền chị xứ Kinh Bắc mà còn có cả hàng vạn du khách khắp nơi tìm về hội Lim để được đắm mình trong những câu ca quan họ mượt mà tình tứ. Nhưng có lẽ chẳng mấy ai biết chính trên mảnh đất họ đang đứng – làng Lim, còn có một loại hình nghệ thuật hết sức độc đáo được gọi với cái tên thật lạ: Chèo Chải hê. Sau mấy chục năm vắng bóng, giờ đâu đó trong miền quan họ người ta lại bắt đầu nhắc tới ba chữ: Chèo chải hê

Có thể nói, Chèo Chải hê là một nét rất đặc biệt của vùng văn hóa lúa nước, là hình thức diễn xướng cổ, tất cả động tác đơn giản gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần người Việt. Có một điều khá đặc biệt, không phải cứ nơi đâu có quan họ là ở đó có chèo Chải hê. Thực ra, trên bản đồ 49 làng quan họ cổ chỉ duy nhất hai làng Lũng Giang (Lim) và Tam Sơn có loại hình nghệ thuật này. Và lạ nữa, đây chính hai làng đã kết chạ (kết nghĩa anh em). Xưa làng Lũng Giang có ba xóm là Chùng, Chinh, Đông cả ba đều có phường Chèo Chải hê. Và để tạo đà cho sự phát triển, hàng năm các cụ đã tổ chức thi hát giữa các phường Chải hê với nhau. Loại hình nghệ thuật dân gian này cũng nổi tiếng và phát triển không kém gì quan họ những năm đầu thế kỷ XX. Thế nhưng, chèo Chải hê đã không tồn tại được để vang danh khắp mọi miền như Quan họ. Những năm 1950 – 1960, thanh niên hai làng (Lũng Giang và Tam Sơn) chỉ chuyên tâm vào việc làm ăn chứ ít quan tâm đến việc học hát xướng như các thế hệ trước. Do đó, sau này, càng có ít người biết về chèo Chải hê cũng như còn nhớ giai điệu da diết của điệu hát này. ông Nguyễn Năng Địch ở làng Lũng Giang (thị trấn Lim) khẳng định, buổi diễn cuối cùng ông được xem là vào hội Lim năm 1978, cho đến hôm nay, nó gần như bị lãng quên. Trải qua một thời kỳ dài, những người biết và hát được chèo Chải Hê dần dần đã đi vào cõi thiên thu. Nay chỉ còn lại mình ông Nguyễn Năng Địch – nghệ nhân cuối cùng của dòng chèo chải hê (thôn Lũng Giang, thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Năm 1967, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thu (Cục Biểu diễn nghệ thuật – Bộ Văn hóa Thông tin) đã về tận nơi khảo sát, thu băng một phần nội dung chèo Chải Hê mà lực lượng thu chủ yếu là cụ thân sinh cùng các ông bác chú, ông và bên nhà bố vợ bác Địch. Năm 1974, 1978, tác giả Nguyễn Hữu Thu còn tiếp tục về nghiên cứu, lăn lộn mấy tháng ròng. Từ đó đến nay, hầu như không ai nhắc đến chèo Chải hê nữa.

Năm 2006, Viện âm nhạc Việt Nam đã về làng Lũng Giang gặp một số nghệ nhân còn sót lại của làng chèo Chải hê để tìm cách phục hồi bộ môn nghệ thuật độc đáo này. Sau một thời gian tìm hiểu, Viện đã tập hợp được những nghệ nhân còn hát được chèo Chải hê để thu âm những trích đoạn chèo mà các cụ còn nhớ. Ngay sau đó trường trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Bắc Ninh đã kết hợp cùng Viện âm nhạc Việt Nam và nghệ nhân Nguyễn Đăng Địch phục dựng lại một số trích đoạn chèo và đem tham dự liên hoan âm nhạc và sân khấu kịch hát dân tộc học sinh, sinh viên các trường Văn hóa Nghệ thuật toàn quốc năm 2006 và đã đạt huy chương vàng. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Tuy nhiên, một số trích đoạn khi tham dự Liên hoan mới chỉ là “đánh thức” chèo Chải Hê. Bởi ngay cả người dân của 2 làng Lũng Giang – Tam Sơn cũng rất nhiều người chưa từng nghe và biết đến Chèo Chải hê. Muốn bảo tồn và phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật này cần phải có cả một quá trình, cần sự nhiệt tình truyền dạy của nghệ nhân, tâm huyết, ý thức học hỏi, giữ gìn của thế hệ trẻ và trên hết là vai trò hướng dẫn, tập hợp của ngành Văn hóa. Theo kế hoạch, chèo Chải Hê sẽ từng bước được đưa vào chương trình giảng dạy đối với các lớp năng khiếu nghệ thuật âm nhạc tại trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt để gìn giữ và thể hiện các trò diễn của chèo Chải Hê. Đó từng là một tín hiệu vui báo hiệu sự trở lại một cách bài bản của loại hình diễn xướng này song cũng từ đó đến nay, vấn đề bảo tồn Chèo Chải hê dường như vẫn “dậm chân tại chỗ”.

Như vậy, chỉ với nỗ lực của những người yêu thích và mong cho chèo Chải hê được phục hồi thì chưa đủ, nếu được Bộ Văn hóa – Thông tin và các ngành chức năng của tỉnh Bắc Ninh hỗ trợ, nhất định, những làn điệu chèo Chải hê sẽ sớm có cơ hội vang lên và sẽ phát triển không kém gì quan họ.

2.4.2. Trống cổ bộ

Trống Cổ bộ là loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo, giàu bản sắc dân tộc chỉ duy nhất có ở làng Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh.

Trống Cổ bộ chỉ được truyền dạy theo phương pháp xướng âm bằng miệng, thực hành gõ trực tiếp lên mặt trống, tang trống, dùi trống để phát âm ra âm thanh rồi bằng trực giác cảm nhận và thẩm định. Nhân dân ở Thị Cầu, nhiều đời nay vẫn thường tự hào cho rằng địa phương mình hiện đang gìn giữ một môn nghệ thuật thuộc dòng nhã nhạc cung đình Huế. Hiện nay, loại hình nghệ thuật này ở Huế cũng không còn. Khoảng hơn 10 năm trở về trước đã từng có cơ quan chức năng ở Thừa Thiên Huế mời cả đội trống ở Thị Cầu vào nhận mặt.

Trước kia, ở Thị Cầu, trống Cổ bộ được dùng trong các dịp quan trọng của địa phương như: Hội, giỗ tổ, các đám hiếu, mừng thọ. Ngày nay, người dân Thị Cầu thường sử dụng trống Cổ bộ trong các dịp lễ hội đình, đền, chùa vào các tháng giêng, tháng tư và tháng tám âm lịch hàng năm.

Trống Cổ bộ cũng có quãng thời gian vài chục năm sống lay lắt ở làng Thị Cầu. Đầu những năm 1990, khi đời sống kinh tế người dân đã khá giả hơn, các lễ hội truyền thống được khôi phục, môn nghệ thuật này mới có cơ hội được sống lại và phát triển. Hiện nay, ở Thị Cầu đã có 4 thế hệ biết chơi trống là lớp cao tuổi, trung niên, thanh niên và các cháu nhỏ. Bên cạnh đó các dòng họ trong làng như: Chu, Nguyễn Hữu, Nguyễn Văn… cũng tổ chức cho con cháu học trống để đánh trong lễ giỗ tổ. UBND phường Thị Cầu cũng đã thành lập 1 câu lạc bộ trống Cổ bộ, tạo nên sân chơi bổ ích cho các thành viên thuộc nhiều lứa tuổi tham gia.

Nếu như các loại hình nghệ thuật dân gian khác có thể bị chìm đắm lãng quên trong một khoảng thời gian nhất định nào đó thì trống cổ bộ lại sống mãi trong đời sống tinh thần người dân Thị Cầu như một mối tri ân sâu đậm, sang trọng, xuyên suốt từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Bên cạnh trống Cổ bộ được lưu giữ và bảo tồn khá tốt, ở phường Thị Cầu còn có di tích núi Dinh – là một di tích lịch sử, một điểm tham quan của du khách khi đến thăm vùng đất Kinh Bắc thơ mộng. Nhưng hiện nay di tích núi Dinh và loại hình nghệ thuật dân gian này vẫn chưa được khai thác cho mục đích du lịch. Nếu được sự quan tâm của UBND tỉnh Bắc Ninh và ngành du lịch tỉnh Bắc Ninh thì chắc chắn trống cổ bộ cũng sẽ là một loại hình nghệ thuật dân gian được nhiều du khách ưa thích khi đến thăm Bắc Ninh – mảnh đất ngàn năm văn hiến.

2.4.3. Quan họ Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Quan họ Bắc Ninh là một hiện tượng văn hóa dân gian sống động tồn tại ngay trong cuộc sống của người dân Kinh Bắc, nó phục vụ cho chính đời sống tinh thần và tâm linh của họ hàng ngày, hàng giờ, góp phần vào sự phát triển của mỗi cá nhân và cộng đồng. Đó là một loại hình dân ca dân gian đặc trưng của vùng Kinh Bắc, có từ lâu đời. Quan họ có nguồn gốc sâu xa từ sinh hoạt giao duyên, hát đối đáp nam nữ từ thủa xa xưa mà hầu hết các dân tộc anh em với người Việt đều có. Nó tồn tại thường nhật nhưng tập trung nhất và thăng hoa trong sinh hoạt lễ hội của nhân dân.

Trước kia, hát quan họ chỉ là hát giao duyên giữa liền anh, liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê, hát không có nhạc đệm và không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức. Ngày nay, quan họ được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm chủ yếu hát trên sân khấu và các sinh hoạt cộng đồng. Người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên trên thế giới. Quan họ ngày nay là một di sản văn hóa có giá trị cho việc phát triển du lịch ở Bắc Ninh.

Trong thời gian trước và sau khi dân ca quan họ được lập hồ sơ trình Tổ chức văn hóa và giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) xét công nhận là di sản văn hóa phi vật thể để đại diện của nhân loại, hầu như các địa phương trong tỉnh Bắc Ninh đều đã thành lập được câu lạc bộ quan họ. Điển hình là câu lạc bộ quan họ huyện Tiên Du, câu lạc bộ quan họ Đền Đô… các câu lạc bộ quan họ này thường xuyên tổ chức được các buổi biểu diễn phục vụ bà con nhân dân địa phương và phục vụ khách tham quan du lịch.

Ngoài khai thác quan họ trong các dịp lễ hội, các công ty du lịch, các khách sạn, nhà hàng cũng đã nhanh chóng lợi dụng ưu thế này vào hoạt động kinh doanh của mình. Với những giá trị đã được thế giới công nhận, di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh thực sự là nguồn Tài nguyên du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Dựa vào di sản văn hóa Quan họ, Bắc Ninh có thể tạo ra nhiều sản phẩm du lịch, kết hợp hình thành các tour, tuyến du lịch phong phú. Trong đó giống như du thuyền trên sông Hương nghe ca Huế, trên sông cầu thơ mộng cũng đã tổ chức các đội thuyền phục vụ du lịch, để du khách vừa được ngắm cảnh đôi bờ sông nước vừa được thưởng thức các làn điệu quan họ đằm thắm, mượt mà của các liền anh, liền chị.

Du lịch gắn với các giá trị di sản văn hóa Quan họ chính là điểm khác biệt, là thế mạnh nổi bật của Bắc Ninh. Nếu được quan tâm đúng mức và đầu tư bài bản cho hoạt động du lịch, chắc chắn hình ảnh du lịch gắn với Quan họ sẽ là thương hiệu hấp dẫn của điểm đến Bắc Ninh nói riêng và của Việt Nam nói chung.

Tuy nhiên, Quan họ chưa được tỉnh Bắc Ninh khai thác triệt để cho mục đích phát triển du lịch. Sinh hoạt Quan họ (hay lối chơi Quan họ) đã biến đổi nhiều. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Các làng Quan họ vẫn mở hội nhưng hội rước, hội ăn thì tưng bừng còn hội hát thì thưa thớt. Ở một số làng Quan họ cũ, các liền anh, liền chị các làng lập thành “bọn đi hát” đã vắng vẻ, người hát một cách hồn nhiên chỉ có một số cụ già, trai gái chỉ đi xem chứ ít người đi hát và biết hát. Các nhóm hát ở hội Lim phần lớn là các liền anh, liền chị của đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh và đội văn nghệ của các làng tham dự vào để gây không khí hội hè và dựng lại cảnh ca hát xưa. Người hát không còn nhập tâm với câu hát, với hoàn cảnh giao tiếp đậm chất Quan họ cũ mà như đang đóng vui, đang diễn lại cảnh xưa.

Trong các lễ hội truyền thống, ngoài đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh còn có khá nhiều ca sĩ và ca sĩ nghiệp dư, ca sĩ bình dân hát quan họ. Điều đó là tất nhiên và may mắn cho loại hình dân ca này, tuy nhiên một số người hát quan họ mà không hiểu gì về về văn hóa quan họ, chỉ là để mượn quan họ cho mục đích giải trí hay kiếm tiền. Hát quan họ trong nhà hàng, nơi ăn uống ngày nay rất phổ biến. Hát xong một đoạn người “quan họ” mang tráp đi mời trầu thực ra đó là đi xin tiền. Vấn đề tiền nong khiến cho sinh hoạt văn hóa quan họ hiện đại bị biến tướng, không hoàn toàn là sinh hoạt văn hóa thuần túy.

Mặt khác trong quá trình “chuyên nghiệp hóa” nghệ thuật quan họ, Quan họ ngày nay thường được hình dung như những tiết mục đơn ca, tốp ca có nhạc đệm, có điều kiện thí sử dụng dàn nhạc dân tộc cải tiến, không thì chỉ một cây đàn Ooc. Khi đưa quan họ lên sân khấu những tiếng đệm, tiếng láy,… bị cắt bỏ không thương tiếc cho vừa thời lượng với một ca khúc. Khi bị đệm đàn, tiết tấu của dàn nhạc tiếp tục phá hỏng nhịp điệu tự nhiên của hát quan họ. Các diễn viên quan họ hát nhanh hơn và với sự nỗ lực của tăng âm họ hát nhỏ hơn, hơi ngắn hơn, nhưng lại mở khẩu hình lớn hơn, dẫn tới triệt tiêu dần nhiều kỹ thuật thanh nhạc cổ truyền. Hậu quả là các diễn viên chuyên nghiệp khó lòng quay lại hát quan họ đúng như cổ truyền. Và khi quan họ được trình bày như một ca khúc, tất nhiên người ta sẽ không để ý tới bài đối với nó là gì.

Văn hóa quan họ đang bị thu hẹp phạm vi tồn tại và lưu truyền. Bởi trong bản thân các làng quan họ đang hiếm dần các nghệ nhân xưa, làng cũng không giữ được quan họ gốc. Lối chơi quan họ với hình thức trang nhã, quy định chặt chẽ đã mất dần bởi nhu cầu thưởng thức thẩm mỹ đương đại đã biến đổi nhiều so với trước. Tại một số làng quan họ đang có hình thức truyền nghề cho lớp trẻ yêu ca hát nhằm giữ lại nếp cũ. Song thực ra lớp trẻ chỉ may ra giữ được cách hát chứ không học được lối chơi quan họ.

Như vậy nỗi trăn trở là quan họ cải biên lên ngôi, những giá trị xưa mai một theo thời gian làm cho những làn điệu quan họ cổ thất truyền dần. Do đó vấn đề cấp thiết được đặt ra đó là phải không ngừng nâng cao nhận thức và hiểu biết, xác định trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể đối với mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi người bằng một nội dung và bước đi phù hợp trong việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy để văn hóa quan họ mãi mãi tỏa sáng trong đời sống hiện đại.

2.5. Thực trạng khai thác ẩm thực Bắc Ninh trong du lịch

Trong lịch sử tồn tại và phát triển, Bắc Ninh luôn có sự giao lưu văn hóa lien tục và thường xuyên với các vùng trong cả nước, đặc biệt là Hà Nội nên văn hóa Bắc Ninh nói chung, văn hóa ẩm thực nói riêng rất đa dạng về món ăn và cách thức chế biến. Có thể nói ẩm thực Bắc Ninh rất hấp dẫn đối với du khách. Tuy nhiên việc khai thác ẩm thực trong du lịch ở Bắc Ninh còn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng hiện có. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Hiện nay đã có nhiều nhà hàng, khách sạn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đưa các món ẩm thực truyền thống như bánh phu thê, bánh tẻ… vào thực đơn của nhà hàng, khách sạn mình. Nhưng hầu hết các nhân viên phục vụ ở đây mới chỉ mang món ăn ra và mời khách, chứ chưa có hoạt động giới thiệu về ẩm thực của quê hương cũng như cách thức thưởng thức. Vì vậy mà hầu hết du khách chỉ cảm nhận được đó là một món ăn đơn thuần chứ chưa thấy hết được giá trị nhân văn sâu sắc hàm chứa trong đó. Nếu như trước khi mời khách thưởng thức các món ăn đặc sản của quê hương, nhân viên các nhà hàng, khách sạn dành một chút thời gian để giới thiệu về nguồn gốc, xuất xứ của món ăn và quan trọng hơn là ý nghĩa của từng món ăn thì có thể xem đó là mọt trong những một cách thức quảng bá hữu hiệu nhất cho ẩm thực của Bắc Ninh.

Hơn nữa đã gọi là món ăn truyền thống thì cũng phải có nhà hàng truyền thống mang phong cách của miền quê quan họ. Nhưng trên thực tế hầu hết các nhà hàng, khách sạn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh chưa khai thác thế mạnh này của tỉnh vào phong cách kiến trúc cũng như trang trí nội thất bên trong. Theo ý kiến riêng của người viết thì các nhà hàng, khách sạn này bên cạnh phần hiện đại nên có những khu vực riêng cho quê hương quan họ, chẳng hạn như thay những bức tranh phong cảnh hiện đại bằng những bức tranh dân gian Đông Hồ, những bình hoa thủy tinh nên thay bằng những sản phẩm của làng gốm Phù Lãng…, như vậy sẽ thể hiện được bản sắc truyền thống của quê hương hơn.

Bên cạnh đó, mặc dù các món ăn truyền thống đã được đưa vào khai thác, đã nổi tiếng không chỉ ở tỉnh mà còn lan rộng đến thị trường Hà Nội và nhiều tỉnh thành khác trong cả nước nhưng việc khai thác nhìn chung còn nhỏ lẻ. Có một thực trạng là người sản xuất những đặc sản dân gian truyền thống chưa biết chào mời tiếp thị, hơn nữa họ cũng chưa dám sản xuất đại trà vì lo ế sẽ cụt vào vốn gốc. Tiêu biểu như bánh tẻ làng Chờ, nếu muốn có bánh dùng trong cỗ lễ, hội nghị hay làm quà biếu, khách hàng lại phải tìm vào tận nhà người sản xuất đặt trước đó ít ngày chứ người sản xuất không có sẵn. Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây là người sản xuất phải đổi mới tư duy kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, dám mạnh dạn mở mang tiếp thị sản phẩm của mình với thị xã tỉnh lỵ, các huyện bạn, dần lan rộng đến thủ đô và xa hơn nữa…

Bánh Phu Thê ở Đình Bảng cũng vậy, người dân nơi đây vừa sản xuất vừa mang đi tiêu thụ chứ chưa có hoạt động quảng bá hay giới thiệu đặc sản quê hương. Ở quanh khu vực đền Đô có rất nhiều quán bán bánh Phu Thê nhưng hầu hết du khách chỉ biết đây là món bánh đặc sản của vùng Kinh Bắc chứ chưa hiểu hết giá trị của bánh. Thiết nghĩ tại sao hướng dẫn viên du lịch tại đền Đô sau khi giới thiệu về di tích lại không giới thiệu về ý nghĩa văn hóa của món bánh đặc sản này?

Để các đặc sản ở Bắc Ninh không chỉ đơn thuần là một món ăn mà sẽ trở thành thứ khoái khẩu không thể thiếu đối với khách hàng trong các nhà hàng khách sạn, tỉnh Bắc Ninh cần chú trọng hơn nữa tới công tác quảng bá, giới thiệu sản phẩm. Chính quyền địa phương cần quan tâm, đầu tư hơn nữa đối với các làng nghề này để khi nhắc tới Bắc Ninh, du khách không chỉ nghĩ tới quan họ, tới hội Lim mà du khách còn biết nơi đây có bánh Phu Thê – Đình Bảng, bánh tẻ làng Chờ, Nem Bùi – Ninh Xá. Cũng giống như khi nhắc tới Hải Dương người ta nhớ ngay tới bánh đậu xanh, nhắc tới Huế là nhớ về Cơm Hến…

2.6. Đánh giá chung về thực trạng khai thác du lịch văn hóa ở Bắc Ninh

2.6.1. Về khách du lịch Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Khách du lịch đến Bắc Ninh chủ yếu là đi và về trong ngày, số lượng khách lưu trú qua đêm còn ít với thời gian lưu trú trung bình ngắn khoảng 1,2 ngày, một phần là do Bắc Ninh khá gần với thủ đô Hà Nội (cách 30km). Mặt khác, do tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch chưa được chú trọng xây dựng quảng bá nên chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và khai thác tối đa khả năng thanh toán của khách du lịch.

Lượng khách du lịch đến Bắc Ninh trong giai đoạn 2001 – 2010 có xu hướng ngày càng tăng, mức tăng trưởng bình quân là là 13,8%, vượt 8,8% so với chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra. Sau đây là bảng tổng lượng khách du lịch đến với Bắc Ninh giai đoạn 2001 – 2010.

Bảng 7. Tổng lượng khách đến du lịch Bắc Ninh (Giai đoạn 2001 – 2010)

Khách du lịch quốc tế đến Bắc Ninh chủ yếu là khách Trung Quốc, Mỹ, Bỉ, Hà Lan và một số khác thuộc khu vực Đông Nam Á. Lượng khách này chủ yếu do các công ty lữ hành quốc tế của các trung tâm du lịch lớn như thành phố Hà Nội, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh tổ chức. Còn các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại Bắc Ninh chưa chủ động tổ chức đưa và đón khách quốc tế.

Mục đích của khách du lịch nội địa đến với Bắc Ninh chủ yếu là mục đích tâm linh kết hợp với tham quan di tích, lễ hội (70%). Một phần khách đến với những mục đích khác như: Tham quan làng nghề truyền thống (10%), thăm thân (15%), mục đích khác (5%). Số lương khách đến với Dân ca Quan họ Bắc Ninh gần đây có xu hướng gia tăng. [9, 30]

2.6.2. Về doanh thu du lịch

Hiện nay doanh thu du lịch đóng góp vào GDP toàn tỉnh còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của tỉnh. Cơ cấu doanh thu du lịch chưa đồng đều, chủ yếu từ dịch vụ ăn uống (chiếm 51%), doanh thu từ dịch vụ lữ hành, vui chơi giải trí còn rất thấp (chiếm 1%). [9, 27]

Tốc độ tăng trưởng doanh thu du lịch tính chung cho cả giai đoạn 2001 – 2010 đạt bình quân 17,7%/năm, khá cao so với tốc độ tăng chung của cả nước. Song theo như đánh giá của các nhà nghiên cứu, hoạt động du lịch của Bắc Ninh mới có sự tăng trưởng về cơ học của lượng khách tự phát, do đó dẫn đến hiệu quả doanh thu từ du lịch chưa cao.

Bảng 8. Doanh thu du lịch Bắc Ninh (giai đoạn 2001 – 2010)

Về mức độ và cơ cấu chi tiêu của khách du lịch: Ở Bắc Ninh trung bình mỗi ngày khách, đối với khách du lịch quốc tế chi tiêu khoảng gần 80 USD/khách, còn khách du lịch nội địa chi tiêu chưa đến 1 triệu đồng VNĐ/khách. Phần lớn số tiền này du khách chi tiêu vào việc ăn, nghỉ và mua sắm hàng hóa, một số đồ thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm…[9, 28]

2.6.3. Về lao động trong du lịch Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Tính đến năm 2010, toàn ngành du lịch Bắc Ninh có 1.140 lao động trực tiếp. Trong đó, có 179 lao động có trình độ đại học và trên đại học, có 197 lao động có trình độ cao đẳng và trung cấp. [9, 31]

Trong những năm qua ngành du lịch đã có nhiều nỗ lực, chủ động trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng lao động đã đáp ứng được mục tiêu quy hoạch đề ra. Tuy nhiên, lao động trong ngành du lịch Bắc Ninh còn thiếu và yếu về nghiệp vụ. Với lao động trong các cơ sở kinh doanh du lịch, đa phần chưa qua đào tạo du lịch chiếm gần 50%. Tình trạng chung là thừa lao động lớn tuổi, chưa được đào tạo chuyên môn, thiếu lao động được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ và ngoại ngữ có chất lượng. Đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên và thuyết minh viên tại các điểm hiện đang gặp rất nhiều khó khăn về lực lượng và kinh nghiệm cũng như chuyên môn nghiệp vụ.

2.6.4. Về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch

Bảng 9. Số lượng cơ sở lưu trú du lịch của Bắc Ninh ( 2001 – 2010)

Tính đến hết năm 2010, toàn tỉnh có 178 cơ sở lưu trú, trong đó có 3 khách sạn 2 sao và 2 khách sạn 3 sao. Công suất sử dụng phòng trung bình đạt 36,6%/năm. Số giường trung bình 1,27 giường/phòng.

Trong thời gian gần đây, tốc độ xây dựng các cơ sở lưu trú du lịch như khách sạn, nhà nghỉ ở Bắc Ninh tăng nhanh, phương tiện vận chuyển khách cơ bản đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch. Công tác phát triển khu, tuyến, điểm du lịch bước đầu được quan tâm, đã tiến hành quy hoạch chi tiết các dự án trọng điểm, xác định được phương thức đầu tư và chủ đầu tư. Một số khu du lịch đã tiến hành đầu tư cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đi vào hoạt động kinh doanh còn mang tính tự phát, chất lượng kinh doanh dịch vụ lưu trú chưa cao, hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu của du khách. Cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như chất lượng dịch vụ còn hạn chế.

Hiệu quả kinh doanh tuy có bước tăng trưởng khá, song tỷ lệ và hiệu quả đóng góp vào mục tiêu kinh tế chung của tỉnh còn thấp.

Về hệ thống cơ sở ăn uống thì tương đối đa dạng, hầu hết các nhà nghỉ, khách sạn đều có kinh doanh ăn uống. Các nhà hàng từ đặc sản đến bình dân luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu du khách. Tuy nhiên, công tác an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn chưa được quản lý có khoa học và hiệu quả. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

2.6.5. Về công tác quản lý, tu bổ, tôn tạo di tích

Trong giai đoạn 2001 – 2010, công tác quản lý nhà nước về hoạt động du lịch ở Bắc Ninh đã được tăng cường, kịp thời có các chỉ thị, nghị quyết, chương trình, đề án về phát triển du lịch; tích cực hỗ trợ, định hướng các cơ sở kinh doanh du lịch cả về thực hiện pháp luật cũng như yêu cầu nguồn nhân lực gắn liền với chất lượng sản phẩm dịch vụ, hỗ trợ hoạt dộng tuyên truyền quảng bá và tạo điều kiện thuận lợi, đúng luật cho các hoạt động kinh doanh.

Tính đến nay hầu hết các di tích xếp hạng trên địa bàn tỉnh đã thành lập Ban quản lý di tích cơ sở, các di tích đều treo bảng, biểu gồm: bảng giới thiệu tóm tắt giá trị lịch sử di tích, quyết định xếp hạng di tích; bảng khoanh vùng khu vực bảo vệ di tích; nội quy bảo vệ di tích, biển chỉ dẫn vào di tích.

Công tác tu bổ, tôn tạo di tích cũng đạt nhiều thành tựu và kết quả quan trọng. Với việc thành lập các Ban quản lý di tích, đất đai di tích được bảo vệ; các công trình kiến trúc, các nguồn tài liệu cổ vật được bảo quản, lưu giữ phục vụ cho công tác nghiên cứu và giáo dục truyền thống; các sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội diễn ra trong di tích được bảo quản, tôn trọng. Tuy nhiên, Bắc Ninh vẫn chưa xây dựng được đề án về quy hoạch tu bổ, tôn tạo di tích mang tính tổng thể; một số địa phương khi tu sửa di tích không tuân thủ theo sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn, còn xây dựng tùy tiện không đúng vị trí của di tích, thậm chí còn làm mất cảnh quan, môi trường vẻ đẹp chung của di tích…

Ngoài ra, hoạt động của các Ban quản lý di tích, nhất là các Ban quản lý di tích ở cơ sở hiện còn nhiều lung túng và kém hiệu quả. Sự hạn chế trên do nhiều nguyên nhân: Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền địa phương còn hạn chế, việc chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chuyên môn cấp trên còn thiếu sâu sắc, quy chế hoạt động của các Ban quản lý còn nhiều bất cập, thiếu cụ thể, trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của thành viên Ban quản lý còn nhiều yếu kém, vấn đề quy định quyền lợi, trách nhiệm, quyền hạn của người quản lý trực tiếp di tích còn chưa rõ ràng. Ngay như khu di tích tiêu biểu Văn Miếu Bắc Ninh, cho đến nay vẫn chưa xác định một cách rõ ràng trên văn bản nhà nước Uỷ ban nhân dân Thành phố Bắc Ninh, hay Uỷ ban nhân dân phường Đại Phúc là đơn vị quản lý Nhà nước… Những nguyên nhân trên dẫn đến hoạt động của các Ban quản lý di tích ở cơ sở kém hiệu quả, do đó việc phát huy giá trị của di tích vào hoạt động của du lịch còn hạn chế.

2.6.6. Về hoạt động tuyên truyền quảng bá

Để du lịch phát triển thì công tác tuyên truyền quảng bá là một trong những hoạt động quan trọng và cần thiết. Do đó, công tác tuyên truyền quảng bá cho du lịch ở Bắc Ninh đã được quan tâm triển khai thực hiện và bước đầu có được sự chuyển biến tích cực. Trong 3 năm gần đây, công tác tuyên truyền quảng bá du lịch được đầu tư kinh phí tăng 5 đến 7 lần so với thời kỳ năm 2001-2005, tổng kinh phí đạt trên 1,658 tỷ đồng; về loại hình, hình thức quảng bá đã phong phú, đa dạng và có chất lượng hơn. [9, 30] Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

Ngoài việc xuất bản những ấn phẩm như tập gấp, tờ rơi được phát hành thường xuyên, ngành du lịch Bắc Ninh còn xây dựng được 4 biển quảng bá tấm lớn, phát hành hàng nghìn đĩa CD và nhiều chương trình quảng bá trên đài, báo trung uơng và địa phương. Bên cạnh đó, Bắc Ninh cũng bước đầu tham gia vào quảng bá du lịch thông qua các sự kiện văn hóa, thể thao du lịch của tỉnh như: AIG 3, Festival 2010, trên các Website của cơ sở cũng như của một số đơn vị lữ hành của tỉnh và của Hà Nội.

Tuy nhiên ngoài Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh đang tích cực đầu tư cho hoạt động quảng bá chung, các hoạt động quảng bá cụ thể của các đơn vị kinh doanh du lịch trên địa bàn Bắc Ninh còn hạn chế. Những thông tin về sản phẩm du lịch, dịch vụ du lịch còn rất mờ nhạt, bởi vậy có thể nói hoạt động tuyên truyền quảng bá nhìn chung còn manh mún, phân tán và chưa đáp ứng yêu cầu về chiều rộng cũng như chiều sâu, chưa thực sự tạo dựng rõ nét về hình ảnh du lịch Bắc Ninh.

2.6.7. Nhận xét chung

Với mật độ di tích lịch sử văn hóa dày đặc, tự hào là quê hương của di sản thế giới “Dân ca quan họ”, là “xứ sở của hội hè”, Bắc Ninh luôn được đánh giá là địa phương giàu tiềm năng về du lịch. Trên thực tế Bắc Ninh vẫn chưa biến lợi thế về tiềm năng thành thế mạnh để phát triển du lịch.

Du lịch Bắc Ninh có xuất phát điểm muộn. Chỉ vài năm trở lại đây, lĩnh vực du lịch trên quê hương của 44 làng quan họ gốc mới bắt đầu phát triển, song hiện tại vẫn còn rất nhiều hạn chế về nhiều mặt. Bắc Ninh nằm trên hành lang trung chuyển khách du lịch của 3 tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh, song vẫn chưa thực sự là điểm đến hấp dẫn, nhất là với du khách quốc tế.

Bắc Ninh là mảnh đất có bề dày lịch sử văn hóa, đâu đâu cũng có di tích, tuy nhiên hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động du lịch còn rất hạn chế. Toàn tỉnh hiện có gần 200 cơ sở lưu trú du lịch. Con số này không phải nhỏ nhưng chủ yếu vẫn là nhà nghỉ, chất lượng phục vụ còn nhiều bất cập, đội ngũ làm du lịch (lễ tân, phục vụ) ở các điểm lưu trú còn thiếu tính chuyên nghiệp, phần lớn chưa qua đào tạo bài bản. Trong 5 năm qua tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức 05 khóa học cho trên 300 lao động, với hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, do vậy, chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ yêu cầu về chất lượng chuyên môn và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của địa phương.

Trong khi đó, hoạt động lữ hành – yếu tố được coi là “đòn bẩy” của ngành du lịch Bắc Ninh những năm gần đây chưa có chuyển biến, vẫn manh mún, thiếu kinh nghiệm. Số đơn vị kinh doanh lữ hành đã ít, chất lượng lại không mấy khả quan. Các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này chủ yếu đưa khách đi du lịch tỉnh ngoài mà chưa có cách làm hay để quảng bá và tạo ra các sản phẩm du lịch đặc trưng thực sự hấp dẫn. Làm tour kém cũng là một nguyên nhân khiến việc phát triển du lịch văn hóa ở Bắc Ninh kém hiệu quả. Hầu hết các tour chỉ đưa du khách đến các điểm du lịch chứ chưa tận dụng và khai thác tốt dịch vụ tại các điểm này. Thêm nữa, các địa điểm vui chơi, giải trí chưa phát triển nên không giữ chân được khách du lịch lưu trú trong thời gian dài.

Hiện tại, so với các loại hình khác, du lịch văn hóa, tâm linh vẫn được coi là thế mạnh và có sức hút nhất với du khách, nhất là du khách quốc tế. Loại hình này thường gắn với các lễ hội, do đó thịnh hành hơn vào mùa xuân. Tuy vậy chiều sâu tiềm ẩn trong nét đặc sắc văn hóa những làng quê này mới thực sự là thế mạnh của Bắc Ninh. Các di tích lịch sử văn hóa, lễ hội, làng nghề truyền thống chưa được khai thác, xây dựng những sản phẩm du lịch phong phú, hấp dẫn khách du lịch.

Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch chưa đáp ứng yêu cầu do chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục và có tầm cỡ, chưa khuyến khích được các cơ sở kinh doanh quan tâm đầu tư đến hoạt động này.

Những khó khăn gặp phải trong lĩnh vực du lịch văn hóa ở Bắc Ninh là không nhỏ. Chính vì vậy, để phát huy có hiệu quả hơn nữa tiềm năng du lịch văn hóa ở Bắc Ninh cần có những giải pháp đồng bộ nhằm tập trung phát triển chất lượng nguồn lao động, chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch, củng cố cơ sở hạ tầng… chuyển từ xu hướng phát triển về số lượng sang chất lượng, từ chiều rộng sang chiều sâu. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

2.7. Tiểu kết chương 2

Trong giai đoạn 2001 – 2010, lượng khách du lịch đến với Bắc Ninh có xu hướng ngày càng tăng, mức tăng trưởng bình quân là 23,8%, vượt 8,8% so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng doanh thu du lịch tính chung cho cả giai đoạn 2001 – 2010 đạt bình quân 17,7%/năm khá cao so với mức độ tăng chung của cả nước. Song theo như đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, hoạt động du lịch ở Bắc Ninh mới có sự tăng trưởng về cơ học của lượng khách du lịch tự phát, do đó dẫn đến hiệu quả doanh thu từ du lịch chưa cao. Cơ cấu doanh thu du lịch chưa đồng đều, chủ yếu từ dịch vụ ăn uống (chiếm 51%), doanh thu từ dịch vụ lữ hành, vui chơi giải trí còn rất thấp (chiếm 1%).

Thực trạng trên cho thấy du lịch Bắc Ninh nói chung và du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng phát triển chưa xứng với tiềm năng hiện có. Có thể nói du lịch văn hóa là sản phẩm du lịch chính và độc đáo ở Bắc Ninh thế nhưng loại hình du lịch này chưa được khai thác cả về bề sâu và bề rộng. Chính quyền các cấp và nhân dân địa phương chưa thật sự vào cuộc, các công ty du lịch thì khai thác một cách hời hợt. Do đó, để du lịch văn hóa Bắc Ninh trở thành sản phẩm du lịch thực sự hấp dẫn du khách cần có những giải pháp cụ thể và thiết thực hơn nữa cho loại hình du lịch này. Khóa luận: Thực trạng khai thác loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Giải pháp phát triển loại hình du lịch văn hóa Bắc Ninh

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993