Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương để phục vụ du lịch ở Cần Thơ dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Giới thiệu chung về Cần Thơ

2.1.1. Lịch sử

Cần Thơ vốn là đất cũ tỉnh An Giang thời Lục tỉnh của nhà Nguyễn. Khi người Pháp chiếm Miền Tây Nam Kỳ (1867) thì tỉnh An Giang bị cắt thành sáu tỉnh nhỏ: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu.

Năm 1957, dưới thời Đệ nhất Cộng hòa tỉnh có tên là Phong Dinh với tỉnh lỵ là Thị xã Cần Thơ.

Năm 1976, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lập Hậu Giang gồm ba tỉnh: Phong Dinh, Chương Thiện (có thị xã Vị Thanh) và tỉnh Ba Xuyên (có thị xã Sóc Trăng) của Việt Nam Cộng hoà. Cuối năm 1991, tỉnh Hậu Giang lại chia thành hai tỉnh: Cần Thơ và Sóc Trăng.

Ngày 1 tháng 1 năm 2004 tỉnh Cần Thơ được chia thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang ngày nay.

Thành phố Cần Thơ chính thức trở thành đô thị loại 1 trực thuộc trung ương kể từ ngày 24/6/2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định số 889/QĐ-TTg, công nhận TP Cần Thơ là đô thị loại I trực thuộc Trung ương, đạt được 82,39 điểm/100 điểm (quy định từ 70 điểm trở lên).

Có thể bạn quan tâm:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội

2.1.2.1. Điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý

Cần Thơ là một thành phố nằm trên bờ phải sông Hậu, cách Tp. Hồ Chí Minh 169 km về phía tây nam. Diện tích nội thành 53 km². Thành phố Cần Thơ có diện tích 1.389,59 km² và dân số 1.187.089 người

Khí hậu Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Khí hậu ở Cần Thơ là khí hậu nhiệt đới với 2 mùa rõ ràng: mùa mưa (tháng 5 đến tháng 11) và mùa khô (tháng 12 đến tháng 4). Độ ẩm trung bình là 83%, lượng mưa trung bình 1.635 mm, nhiệt độ trung bình 27°C.

Tài nguyên thiên nhiên – cảnh quan

Ai đó đã gọi Cần Thơ với cái tên là Tây Đô chắc chắn cái tên ấy không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần như tên gọi hay cũng không phải do vẻ lộng lẫy của bến Ninh Kiều mang lại mà chính là do những tài nguyên thiên nhiên tiềm ẩn mang lại.

Cần Thơ nằm bên bờ sông Hậu, lại ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long, giữa một mạng lưới sông ngòi chằng chịt đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thông, trao đổi.

Vốn là vùng đất phù sa màu mỡ quanh năm mưa thuận gió hòa cùng sự hiện hữu của những cù lao thơ mộng mang nét đặc trưng của vùng sông nước đã tạo nên một Tây Đô kiêu sa.

Con sông Cần Thơ trữ tình lãng mạng, trên sông lại có nhiều cồn bãi, giồng đất cao và nhiều vườn cây ăn trái phát triển mạnh trên mảnh đất phù sa màu mỡ này. Chính khí hậu, ánh nắng và sông rạch nơi đây là nguồn tài nguyên vô giá tạo cơ hội để du lịch Cần Thơ tiến xa hơn nữa.

Cần Thơ có 17 khu vườn sinh thái, trong đó nổi bật là: vườn du lịch Mỹ Khánh với những vườn trái cây, cất rượu truyền thống, nhà cổ Nam Bộ……Bên cạnh đó còn có vườn cò Bằng Lăng và nhiều cồn: cồn Ấu, cồn Khương… đang được quy hoạch và hoàn thiện cho phát triển du lịch.

Đánh giá: Sông và vườn, hiện đại và cổ kính như lồng ghép vào nhau để đánh thức giác quan của du khách qua cuộc hành trình về với thiên nhiên miệt vườn sông nước. Cần Thơ được thiên nhiên ưu đãi sông ngòi chằng chịt, quanh năm cây lành trái ngọt. Đi tàu trên sông, vào vườn ăn trái cây, thưởng thức những món ăn dân dã mang đậm chất Nam Bộ, xong du khách có thể thoả thích câu cá, bơi xuồng, tìm hiểu cuộc sống của người dân Nam Bộ xưa qua những chương trình du lịch, say lòng với những câu hát ngọt ngào. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

2.1.2.2. Điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội

Cơ sở hạ tầng

Giao thông

  • Đường bộ

Thành phố Cần Thơ có các đường liên tỉnh:

  • Quốc lộ 91 từ Cần Thơ đi An Giang
  • Quốc lộ 80 từ Cần Thơ đi Kiên Giang
  • Quốc lộ 1A, từ Cần Thơ đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long như Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau

Quốc lộ 1 bị ngăn cách bởi sông Hậu, một bên là Vĩnh Long, một bên là TP Cần Thơ. Việc giao thông giữa 2 bờ phụ thuộc vào phà Cần Thơ.

Hiện tuyến đường Nam Sông Hậu (đoạn nối liền Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu) đang từng bước hoàn thành và dụ kiến thông xe vào cuối quý 1 hoặc đầu quý 2 năm 2009. Sắp tới thành phố cũng sẽ triển khai xây dựng tuyến cao tốc Cần Thơ

  • Vị Thanh.

Ngày 24/4/2010 Cầu Cần Thơ chính thức được thông xe và Phà Cần Thơ cũng chính thức ngừng hoạt động. Phương tiện giao thông đường bộ phong phú. Hiện nay có 4 công ty taxi và 6 công ty xe khách đang hoạt động. Trước đây, trong nội ô còn có một phương tiện đặc trưng là xe lôi, nhưng nay do mật độ phương tiện khá cao nên xe lôi bị ngưng hoạt động.

  • Đường thủy

Cần Thơ nằm bên bờ phía nam sông Hậu, một bộ phận của sông Mê Kông chảy qua 6 quốc gia, đặc biệt là phần trung và hạ lưu chảy qua Lào, Thái Lan và Campuchia. Các tàu có trọng tải lớn (trên 1.000 tấn) có thể đi các nước và đến Cần Thơ dễ dàng. Ngoài ra, tuyến Cần Thơ – Xà No – Cái Tư là cầu nối quan trọng giữa TP. Hồ Chí Minh, tỉnh Hậu Giang và Cà Mau.

Cần Thơ có 3 bến cảng: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

  • Cảng Cần Thơ: Diện tích 60.000 m², có thể tiếp nhận tàu biển 10.000 tấn.
  • Cảng Trà Nóc: Có diện tích 16 ha, cảng có 3 kho chứa lớn với dung lượng 40.000 tấn. Khối lượng hàng hóa thông qua cảng có thể đạt đến 200.000 tấn/năm.
  • Cảng Cái Cui: Có thể phục vụ cho tàu từ 10.000-20.000 tấn, khối lượng hàng hóa thông qua cảng là 4,2 triệu tấn/năm.

Sau khi thực hiện xong dự án nạo vét và xây dựng hệ thống đê tại cửa biển Quan Chánh Bố, Cảng Cái Cui sẽ là Cảng biển Quốc Tế tại TP. Cần Thơ.

  • Đường hàng không

Cần Thơ có Sân bay Cần Thơ, sân bay lớn nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Sân bay hiện đã hoàn thành công việc cải tạo, chính thức đưa vào hoạt động ngày 03.01.2009. Hiện đang xây dựng Nhà Ga hành khách và trong vòng quý 4 năm 2010, Cần Thơ sẽ có Sân bay đạt chuẩn quốc tế với những đường bay trong khu vực và sẽ dần mở rộng ra các nước xa hơn. Nhưng hiện nay, Cụm cảng hàng không miền nam đã lên kế hoạch mở tuyến bay Cần Thơ – Đài Bắc (Đài Loan) vào đầu tháng 2/2010 để phục vụ nhu cầu ăn Tết của kiều bào.

  • Điện

Cần Thơ có Nhà máy nhiệt điện Cần Thơ có công suất 200 MW, đã hòa vào lưới điện quốc gia. Hiện tại, đang xây dựng Nhà máy nhiệt điện Ô Môn có công suất giai đoạn đầu là 600 MW, sau đó sẽ được nâng cấp lên 1.200 MW. Dự án đường ống dẫn khí Lô B (ngoài khơi biển Tây)- Ô Môn đưa khí vào cung cấp cho Trung tâm điện lực Ô Môn (tổng công suất dự kiến lên đến 2600 MW) đang được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam triển khai, dự kiến hoàn thành năm 2009. Đến thời điểm đó, Cần Thơ sẽ là một trong những trung tâm năng lượng lớn của Việt Nam.

  • Nước

Cần Thơ có 2 nhà máy cấp nước sạch có công suất 70.000 m³/ngày, và dự kiến xây dựng thêm một số nhà máy để có thể cung cấp nước sạch 200.000 m³/ngày.

  • Viễn thông Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Hệ thống bưu điện, viễn thông của thành phố Cần Thơ gồm 1 bưu điện trung tâm, 4 bưu điện huyện đủ điều kiện cung cấp thông tin liên lạc giữa Cần Thơ với các nước trên thế giới.

  • Kinh tế

Tổng thu ngân sách năm 2008 đạt 3.782,1 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm qua đạt 15,5%, thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 1.444 USD, tỷ lệ hộ nghèo 6,04%. Cần Thơ là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục – đào tạo, đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế của vùng ĐBSCL và cả nước.

  • Nông nghiệp

Cây nông nghiệp chính của Cần Thơ là lúa. Sản lượng lúa tại Cần Thơ là 1.194,7 tấn. Ngoài ra có một số cây hoa màu khác nhưng sản lượng không đáng kể.

Ngành chăn nuôi ở Cần Thơ chủ yếu là nuôi heo và gia cầm. Số lượng heo là 2589,3 ngàn con, số lượng gia cầm là 13 ngàn con (vì bị cúm gia cầm). Các gia súc khác như trâu bò chiếm số lượng không nhiều. Ngành thủy sản ở Cần Thơ chủ yếu là nuôi trồng.

  • Công nghiệp

Công nghiệp Cần Thơ về cơ bản đã xây dựng được nhiều cơ sở hạ tầng để phục vụ cho các đối tác nước ngoài tác nhập; điển hình là 2 khu công nghiệp tại Trà Nóc trực thuộc quận Bình Thủy. Trung tâm Công nghệ Phần mềm Cần Thơ ,Cantho Software Park CSP cũng là một trong những dự án được Thành phố quan tâm đầu tư phát triển.

  • Thương mại – Dịch vụ Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Có nhiều siêu thị và khu mua sắm, thương mại lớn như: Co-op Mart, Maximart, Citimart, Vinatex, Best Caring, Siêu thị Điện máy Sài Gòn Chợ Lớn, Khu mua sắm Đệ Nhất Phan Khang, Khu Thương Mại Tây Đô, Trung tâm thương mại Cái Khế (gồm 3 nhà lồng và 1 khu ăn uống). Và sắp tới là Khu cao ốc mua sắm, giải trí Tây Nguyên Plaza hiện đang được xây dựng tại khu đô thị mới Hưng Phú.

Có 165 khách sạn ( 35 khách sạn từ 1-4 sao), và nhiều nhà hàng sang trọng, đạt tiêu chuẩn.

Dịch vụ rất đa dạng: rất nhiều loại hình dịch vụ đã và đang dần phát triển mạnh như Ngân hàng, Y tế, Giáo dục, Văn hóa xã hội,… Hiện có rất nhiều chi nhánh của các ngân hàng lớn trên khắp cả nước tại Tp. Cần Thơ như Vietcombank, Eximbank, Sacombank, Maritime bank, SeaBank, SCB, Ngân hàng Quân đội, Trust Bank, Vietbank, VietinBank, Gia Dinh Bank, Northern Asia Bank, HSBC, AZN…

Hiện Q.Ninh Kiều đang triển khai thử nghiệm loại hình Chợ Đêm hoạt động từ 18h đến 4h sáng hôm sau.

  • Giáo dục

Cần Thơ có các trường đại học: trường Đại học Cần Thơ, trường đại học Y Dược Cần Thơ, Trường Đại học Dân lập Tây Đô và trung tâm Đại học Tại chức Cần Thơ (đang được lên kế hoạch nâng cấp thành Đại học Kỹ thuật Công nghệ). Đặc biệt, trong tương lai, Đại học Cần Thơ sẽ được nâng cấp thành Đại học tầm cỡ vùng. Hiện tại cũng đã có Trung Tâm Học Liệu 3 tầng tại Đại học khu II với các trang thiết bị máy tính hiện đại kết nối Internet giúp Sinh viên học tập và tìm kiếm thông tin tốt nhất. Đại học Quốc Tế tọa lạc tại Phong Điền đang được triển khai xây dựng và Đại học Quốc tế tọa lạc tại Hưng Phú đang được lên kế hoạch và kêu gọi đầu tư. Phân hiệu Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh cũng đang có kế hoạch xây dựng tại Hưng Phú.

Các trường cao đẳng và trường trung học chuyên nghiệp: trường Cao đẳng Cần Thơ, trường Cao đẳng kinh tế đối ngoại, trường CĐ Y tế, trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật, trường Cao đẳng nghề, trường cao đẳng cơ điện và nông nghiệp nam bộ.

  • Y tế Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Tại Cần Thơ có một số bệnh viện như: Bệnh viện đa khoa TW Cần Thơ (quy mô 700 giường), Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ, Bệnh viện Thành phố Cần Thơ 30-4 (tương lai trở thành bệnh viện tuyến Quận Ninh Kiều) và Bệnh viện Thành Phố (đang được xây dựng tọa lạc tại bệnh viện trung ương cũ), Bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ, Bệnh viện Mắt-RHM, Bệnh viện y học cổ truyền Cần Thơ, Bệnh viện Tây Đô, Bệnh viện Hoàn Mỹ, Trung tâm Truyền máu và Huyết học khu vực Cần Thơ, Trung tâm chẩn đoán Y khoa, Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Cần Thơ, Bệnh viện Da liễu Cần Thơ, Bệnh viện Ung Bướu Cần Thơ, Trung tâm tâm thần Cần Thơ, các bệnh viện, trạm xá thuộc các phường, quận, huyện và Trung tâm phòng chống HIV/AIDS là một dự án do các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Các bệnh viện tư nhân như bệnh viện Đa khoa Tây đô, bệnh viện Hòan Mỹ cũng có mặt tại Cần Thơ. Ngoài ra Cần Thơ cũng sắp có một bệnh viện phụ sản 200 giường đang được xây dựng.

  • Thể thao

Cần Thơ có sân vận động lớn nhất Việt Nam (hơn cả sân Mỹ Đình – 4 vạn chỗ ngồi). Sân vận động Cần Thơ có thể chứa 50.000 người. Nhưng đội bóng của Cần Thơ thi đấu không hiệu quả nên thay vì tổ chức đá banh thì sân vận động lại tổ chức đua xe môtô. Và đây là môn thể thao được người dân Cần Thơ và các tỉnh lân cận ưa thích. Một năm thường tổ chức 3 lần đua là vào ngày mùng 4 Tết, ngày 30-4 và ngày 2-9.

Ngoài ra còn có Nhà thi đấu đa Năng (nhà đầu tư Quân Đội), Khu thi đấu tennis bãi cát quy mô 8 sân, Nhà thi đấu bơi lội và Sân bóng Quân Khu 9.

Hiện tại, Tp đang xây dựng dự án xây dựng khu Bãi Cát (1 phần cồn Cái Khế) thành Khu Liên hợp Thể thao Thành Phố

  • Giải trí Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Thành phố Cần Thơ có rất nhiều loại hình giải trí như:

Về phim ảnh, ca múa nhạc: Rạp chiếu phim Ninh Kiều, rạp Bãi Cát, Nhà hát Hậu Giang … và hiện đang có dự án xây dựng Trung tâm Điện ảnh Kịch trường TP Cần Thơ ở đường Nguyễn Thái Học, Q. Ninh Kiều.

Về những nơi thư giãn: Công viên nước Cần Thơ, khu du lịch Hương Phù Sa, Khu du lịch Mỹ Khánh, Khu du lịch Chợ Nổi Cái Răng-Phong Điền, Công viên Lưu Hữu Phước, Khu Vui Chơi Sấu Con, Khu Vui Chơi Sân Vận Động Cần Thơ. Và sắp tới đang quy hoạch xây dựng Khu du lịch Cồn Cái Khế và Cồn Khương.

Về điện tử, tin học, trò chơi: Khá phát triển. Tuyến đường có đông dịch vụ Internet nhất là đường Nguyễn Việt Hồng.

Ngoài ra có các quán ăn, quán nhậu… trải khắp nơi trong nội ô trung tâm thành phố:

Quán ăn: Nhà hàng Hoa Sứ, Nhà hàng Ninh Kiều, Nhà Hàng Golf… Quán nhậu: Đường Trần Văn Hoài và đường XVNT nối dài là 2 tuyến đường tập trung nhiều quán nhậu nhất tại trung tâm Quận Ninh Kiều.

Nơi giải trí về đêm: night-club: Xeloi club-được xem là hộp đêm sôi động nhất tại vùng sông Mekong, XK club và Golf Discotheque.

Còn rất nhiều quán nước, quán kem, đặc biệt là tuyến đường Đại lộ Lê Lợi ở cồn Cái Khế tập trung nhiều quán Trái Cây Dĩa, các quán cà phê đẹp và sang trọng.

2.1.3. Các điểm du lịch ở Tp. Cần Thơ

Chùa Nam Nhã: Chùa Nam Nhã, còn gọi là Nam Nhã Đường, ngôi chùa tọa lạc ở số 612 đường Cách mạng Tháng Tám, phường An Thới, Q. Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, cũng là một địa điểm tham quan khó bỏ qua khi đến Cần Thơ. Phía trước chùa là dòng sông Bình Thủy in hình những bóng cây đại thụ, đối diện là đình Long Tuyền uy nghi đồ sộ. Chùa được dựng vào thế kỷ XIX và trùng tu vào năm 1917. Chùa theo tông phái Minh Sư nên còn được gọi là chùa Minh Sư.

  • Hội Linh Cổ Tự: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Chùa Hội Linh, còn có tên gọi khác Hội Linh Cổ Tự, thuộc hệ phái Bắc tông – tọa lạc trên diện tích 6.500m2 tại số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách đường khoảng 200 mét), phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

Từ ngoài vào là cổng tam quan vừa hiện đại vừa cổ kính, dưới tán 2 cây đa cổ thụ rợp bóng, dãy tường rào tạo hình cánh cung, cổng chính vươn ra phía trước, trên nóc các cổng đều được lợp mái cong giả ngói âm dương màu xanh. Mỗi cổng đều có 2 câu đối bằng chữ Hán đắp nổi. Cổng chính lợp 2 lớp mái ngói, nóc có gắn lưỡng long tranh châu bằng đất nung màu xanh, hai bên trụ cột có 2 câu đối bằng chữ Hán.

Chùa Ông (Quảng Triệu hội quán): ngôi chùa của người Hoa được xây dựng vào năm Quang Tự thứ 20 (1894) và tồn tại cho đến ngày nay với kiến trúc hầu như còn nguyên vẹn từ hình dáng bên ngoài đến trạm trổ nội điện. Chùa có vị trí đẹp: gần bến Ninh Kiều, mặt tiền hướng ra sông Cần Thơ.

Chùa Munir Ansay: của người Khmer theo Phật giáo Nam Tông, tọa lạc tại số 36 Đại lộ Hòa Bình. Đây là ngôi chùa Khmer hiếm hoi trong lòng phố thị Cần Thơ. Với kiến trúc tiêu biểu của chùa Khmer: cổng chùa phù điêu, chánh điện cao vút,… Munir Ansay là điểm dừng chân đầy thú vị của du khách đến Cần Thơ

  • Bến Ninh Kiều.

Đã từ lâu, những con người Cần Thơ luôn tự hào và kiêu hãnh mỗi khi nhắc đến Ninh Kiều – nơi bờ sông nhìn ra dòng Hậu Giang hiền hòa, thơ mộng.

“Cần Thơ có bến Ninh Kiều /Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân”

Bến Ninh Kiều là một địa điểm mà du khách hay tìm đến nhất, nằm bên hữu ngạn sông Hậu, ngay ngã ba sông Hậu và sông Cần Thơ, gần trung tâm thành phố Cần Thơ. Trên bến sông luôn tấp nập tàu bè, thuyền xuôi ngược chở đầy những sản vật vùng đồng bằng sông Cửu Long. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Bên Bến Ninh Kiều là cảng Cần Thơ. Cảng này được xây dựng hiện đại có khả năng tiếp nhận trọng tải 5.000 tấn, gần bến Ninh Kiều có chợ Cần Thơ, một trung tâm buôn bán lớn ở miền Tây Nam Bộ.

Đến bến Ninh Kiều, du khách còn có thể tham quan các nhà hàng thuỷ tạ, chợ nổi trên sông, vừa thưởng thức các món ăn đặc sản, vừa ngắm dòng sông Hậu hiền hòa, thơ mộng.

  • Chợ cổ Cần Thơ

Liền kề với Bến Ninh Kiều là chợ cổ Cần Thơ, còn gọi là chợ Hàng Dương đã hơn trăm tuổi được xây dựng sớm hơn 2 ngôi chợ Bến Thành và Bình Tây (TP. HCM). Kiến trúc ngôi chợ được xem là đẹp nhất vùng, từ ngày xưa nó đã là trung tâm trung chuyển hàng hóa của cả miền Tây Nam Bộ. Ngày nay vẫn buôn bán tấp nập và là điểm tham quan hấp dẫn của du khách gần xa, có bến tàu du lịch, có hàng quán đặc sản và cửa hàng bán các mặt hàng quà lưu niệm cho du khách khi đến thăm đất Tây Ðô.

Chợ nổi Cái Răng: ra bến Ninh Kiều để lên tàu đi tham quan Chợ nổi Cái Răng, loại hình chợ đặc trưng chỉ có ở vùng sông nước miền Tây (nếu khách sạn gần khu vực bến Ninh Kiều, quý khách có thể đi bộ khoảng 5 phút). Từ bến Ninh Kiều đến khu vực Chợ nổi Cái Răng khoảng 30 phút. Chợ nổi có cách chào hàng rất độc đáo: người bán không rao mà treo hàng lên cây bẹo trước cửa tàu, ghe hàng để giới thiệu. Quý khách có thể mua trái cây hay rau quả tươi với giá rẻ hơn ở chợ và chụp hình cảnh họp chợ đông vui cùng những người nông dân miệt vườn nhiệt tình và mến khách.

  • Chợ nổi Phong Điền:

Là một chợ nổi để mua bán và trao đổi hàng hóa, một điểm tham quan hấp dẫn của sông nước miền Tây. Chợ nằm ngay ngã ba sông, nơi sông Cần Thơ phân lưu khỏi sông Hậu, cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 17 km về phía Đông Nam. Chợ thường nhóm vào khoảng 4-5 giờ sáng khi mặt trời vừa chớm mọc và đến 7-8 giờ là lúc mặt trời lên cao thì chợ cũng tan dần.

Khác với chợ nổi Cái Răng chỉ buôn bán nông sản là chủ yếu, chợ nổi Phong Điền phong phú hơn. Trong chợ có các ghe hàng bán những vật dụng sinh hoạt, công cụ lao động sản xuất như: xuồng, ghe, lá lợp nhà, dao, cuốc, rựa; các dụng cụ đánh bắt thủy sản như: chài, lưới, lờ, lọp… ; các sản phẩm của nghề đan đát như: thúng, rổ, nong, nia, sàng, sịa, cần xé… và các loại hàng bách hóa tổng hợp trong và ngoài nước. Ngoài ra , chợ còn bán cả thức ăn: hột vịt lộn, bún nước lèo, bún thịt nướng, cháo lòng, gỏi vịt, hủ tiếu, cà phê…

  • Các vườn trái cây Mỹ Khánh, Phong Điền, Tây Đô:

Du khách đến đây có thể đi dạo trong vườn cây xanh mát, tham gia trò chơi câu cá sấu, thưởng thức các món ăn dân dã miệt vườn, nghe đờn ca tài tử, tham quan nhà cổ Nam bộ, có dịp được thưởng thức niềm vui và cảm giác của “Một ngày làm nông dân”; “Cơm điền chủ”.

  • Đình Bình Thủy: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Theo đường Cách Mạng Tháng 8, hướng đi Long Xuyên, cách thành phố Cần Thơ 5km. Ðình Bình Thủy có quy mô diện tích vào loại lớn nhất trong các đình làng Cần Thơ (trên 4000 m2) được xây dựng từ năm 1844 khi mảnh đất này còn rất ít người sinh sống. Ðình được xây theo hình chữ Nhất, mặt hướng ra sông Bình Thủy.

  • Vườn lan Cần Thơ:

Điểm dừng chân cuối cùng là Nhà cổ Bình Thuỷ, còn có tên gọi là Vườn Lan. Nhà có kiến  trúc bên ngoài xây theo lối kiến trúc Pháp với nền nhà được nâng cao so với mặt sân hơn 1m, mặt tiền trang trí phù điêu đắp nổi, cầu thang kiểu Gotique với 4 bậc thang hình cánh cung tao nhã kết nối với khoảng sân rộng. Toàn bộ hệ thống vì kèo, bao lam, 4 hàng cột (gồm 24 chiếc) với đường kính mỗi cột khoảng 30cm và cao từ 4m đến 6m… đều được làm từ gỗ lim đen bóng, đặc biệt hơn hệ thống này được kết nối với nhau không phải bằng đinh mà bằng mộng ngàm

  • Làng cổ Long Tuyền

Theo QL91 hướng Long Xuyên qua cầu Bình Thủy rẽ trái sẽ đến làng cổ, thuộc phường Long Tuyền, quận Bình Thủy. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng những ngôi nhà trên 130 tuổi, chứa đựng những nét đặc trưng nhất của một làng cổ miệt vườn châu thổ sông Cửu Long, hiện nay các kiến trúc trang trí nội ngoại thất vẫn còn nguyên vẹn, đáng để ý là các công trình chạm khắc gỗ, kiến trúc của các ngôi nhà cổ là sự kết hợp của ngoại thất Pháp và nội thất Việt Nam, đây là nét đặc trưng nhất mà các đại điền chủ, phú hào ở đồng bằng sông Cửu Long rất ưa chuộng trong thời gian đó.

  • Vườn cò Bằng Lăng: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Khu vườn nay đã rộng 15 công và tất cả những bụi tre, ô môi trong vườn từ lâu đã là nhà của cò. Loài cò nhỏ có: cò ngà mỏ vàng, cò quắm, cò cá mỏ đen – loại có biệt tài bắt cá. Nhìn chung những loài này chỉ nặng chừng vài trăm gam. Lớn hơn có cò ma, cò rằn, cò xanh, cò ruồi mỏ vàng – loại cò hay đậu trên lưng trâu bắt ruồi. Phần lớn các loài cò trên tập trung đông đúc về vườn vào mùa sinh đẻ từ tháng 8 đến tháng giêng âm lịch hằng năm, riêng cò ma chúng tập chung về vườn làm tổ và đẻ trứng từ tháng hai đến tháng tư âm lịch. Nhỏ nhất trong họ hàng nhà cò tại đây là các loài: cò ráng hay còn gọi là cò lửa, lông có mầu đỏ như ráng chiều, cò lép, cò đúm – loại cò có mầu đen tuyền và điểm trắng ở ức.

Ngoài những loại trên với số lượng cá thể mỗi đàn đông tới hàng nghìn thậm chí hàng chục nghìn con.

  • Khu di tích lịch sử Mộ Thủ Khoa Nghĩa:

Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa sanh năm Ðinh Mão (1807) tại làng Long Tuyền, nay thuộc phường An Thới, TP. Cần Thơ. Ông đỗ Giải nguyên năm Ất Mùi 1835 và mất năm 1872. Ông là một nhà nho yêu nước, tiết tháo, cương trực, có nhiều tác phẩm lớn, Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa sanh năm Ðinh Mão (1807) tại làng Long Tuyền, nay thuộc phường An Thới, TP. Cần Thơ.

  • Khu di tích chiến thắng Tầm Vu :

Theo QL1A hướng Tây Nam, vào tỉnh lộ 61 cách TP. Cần Thơ 17 km. Nơi đây, thời kháng chiến chống Pháp, trên đoạn lộ từ Cái Tắc đến Rạch Gòi không quá 5 km đã diễn ra 4 trận Tầm Vu oai hùng.

  • Làng hoa Thới Nhựt:

Làng hoa Thới Nhựt thuộc xã An Bình có từ 100 năm nay, nhộn nhịp sôi động vào những ngày giáp Tết.

Lúc đầu chỉ khoảng 10 hộ trồng chủ yếu vạn thọ, cúc mâm xôi, thược dược, mai các loại…nhưng bây giờ có đến hàng trăm hộ phát triển thêm nhiều giống hoa nhập khẩu mới khá độc đáo như cúc Indonesia, vạn thọ Pháp, Xương rồng Thái, hướng dương, lan… và đặc biệt là mai ghép các loại.

  • Làng đóng ghe xuồng: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Cách TP.Cần Thơ khoảng 30 km, theo QL1A. Làng đóng ghe xuồng Ngã bảy Phụng Hiệp hình thành rất sớm ở ÐBSCL.

Vào những năm 1940, làng nghề Phụng Hiệp chỉ đóng ghe xuồng phục vụ dân chài lưới, đi câu, vận chuyển lúa gạo, thủy sản, trái cây…. Đã có hàng trăm hàng ngàn xuồng câu, ghe xuồng ra đời từ nơi đây lênh đênh trên sông nước Cửu Long.

  • Làng đan lưới Thơm Rơm:

xã Thạnh Hưng – Thốt Nốt có trên 70 hộ gia đình làm nghề đan lưới mỗi mùa nước đến, làng đan lưới tập trung huy động hàng ngàn lao động làm việc. Ðan tay, dệt máy, kết lưới bắt viền, cột phao, công việc luôn luôn nhộn nhịp. Có nhiều loại sản phẩm như loại lưới mắt nhỏ dùng để bắt cá linh, cá rô; Lưới mắt lớn hoặc lưới ba màn để bắt cá mè vinh và các loại cá lớn.

  • Làng đan lọp Thới Long:

Tại xã Thới Long (Ô Môn – Cần Thơ) có làng đan lọp bắt tép (dụng cụ bắt con tép), là phương tiện kiếm sống trên sông nước không thể thiếu của hàng trăm ngàn người dân vùng lũ ÐBSCL trong mùa nước nổi hàng năm. Làng nghề có trên 300 hộ hoạt động nhộn nhịp từ tháng 5 đến tháng 9 âm lịch hàng năm. Du khách sẽ được tận mắt nhìn thấy sự tinh tế, tỉ mỉ, của người thợ trong từng công đoạn đan lọp tép từ khâu đập vành, chẻ nan, bện hom, dệt khung cho đến câu mình, ráp thành cái lọp hoàn chỉnh. Mỗi năm làng đan lọp Thới Long sản xuất 400 – 500 ngàn sản phẩm (cái lọp) bán khắp ÐBSCL.

  • Bánh tráng Thuận Hưng

Bánh tráng Thuận Hưng không chỉ được tiêu thụ ở thị trường nội địa mà đã xuất ngoại tận Campuchia. Bánh tráng Thuận Hưng được ưa chuộng bởi chiếc bánh mịn đều, dẻo thơm, đặc biệt là rất đều, trăm chiếc như một. Mới đây, làng bánh tráng Thuận Hưng được UBND TP Cần Thơ công nhận làng nghề và là một trong những sản phẩm du lịch phục vụ Năm Du lịch Quốc gia Mekong – Cần Thơ 2008.

2.1.4. Các loại hình du lịch ở Cần Thơ Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Cần Thơ có nhiều điều kiện thuận lợi (như đã trình bày ở phần 2.1.2), để phát triển du lịch, đặc biệt là các loại hình du lịch sau:

  • Du lịch sông nước miệt vườn (theo phương tiện tàu thuỷ du lịch trên sông)
  • Du lịch sinh thái
  • Du lịch lễ hội
  • Du lịch thể thao
  • Du lịch nghiên cứu
  • Du lịch MICE

2.2. Tình hình bảo tồn và phát huy nghệ thuật cải lương phục vụ du lịch ở Cần Thơ

2.2.1. Vai trò của cải lương với phát triển du lịch ở Cần Thơ

Nhiều người người cho rằng: Đến Cần Thơ mà không đi coi vọng cổ, nghe tài tử, cải lương thì như chưa đến. Vọng cổ là một nét văn hóa đặc sắc của miền Tây Nam Bộ. Cần Thơ là thành phố trung tâm, là thủ phủ của cả miền Tây nên không có gì lạ khi nét văn hóa đó được giới thiệu như một đặc sản tinh thần độc đáo của Cần Thơ.

Có thể nói, cải lương là một tài nguyên du lịch có giá trị văn hoá thu hút không chỉ khách du lịch với mục đích tham quan nghiên cứu, mà còn thu hút đa số khách du lịch với mục đích khác, như nghỉ dưỡng, giải trí, khám phá…, ở các lĩnh vực khác, và từ khắp mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế.

Vì cải lương vừa có chất phóng khoáng, đa dạng, phong phú, chất “tài tử”, và đề tài cũng như lối diễn rất gần gũi với cuộc sống, nên khách du lịch dù có trình độ trung bình cũng có thể dễ dàng hiểu được. Hơn nữa, nhìn vào những động tác múa, điệu bộ của nghệ sỹ là người xem có thể hiểu được nghệ sỹ đang hoá thân vào nhân vật nào, tâm trạng nhân vật ra sao…

Nhờ có cải lương đan xen kết hợp vào cùng với các lọai hình du lịch tham quan, giải trí, khám phá… mà các loại hình này trở nên mềm mại hơn, hấp dẫn hơn, phong phú hơn, mang đặc trưng màu sắc bản địa của miền Tây sông nước.

Cải lương và du lịch có mối quan hệ qua lại, tương hỗ với nhau: cải lương thu hút khách du lịch, làm đa dạng du lịch và ngược lại, thông qua du lịch, cải lương được phổ biến rộng rãi hơn, với cả du khách trong nước và quốc tế, nhờ vậy mà cải lương ngày càng hoàn thiện hơn.

2.2.2. Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương để phục vụ du lịch ở Cần Thơ Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

2.2.2.1. Sự hấp dẫn của nghệ thuật caỉ lương đối với du khách (đặc biệt là khách quốc tế).

Cần Thơ thuộc Miền Tây Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng châu thổ với địa hình thấp có hệ thống kênh rạch chằng chịt đan xen những cù lao, miệt vườn cây trái 4 mùa. Quần cư gắn liền với vùng sinh thái này có đặc thù văn hoá “lúa nước” của một thời mở đất “khai khẩn đất Phương Nam”. Tại đây cũng là vựa lúa lớn nhất của cả nước. ĐBSCL có nền văn hoá đa dân tộc, nổi rõ là văn hoá Việt, Hoa, Khmer, được gìn giữ và phát triển trong quá trình sinh tồn của cộng đồng, vùng châu thổ với đặc trưng các lễ hội mang tính tín ngưỡng như hội Oc – Om – Bóc, hội Vía Bà (An Giang), Roya của người Chăm. Đồng thời với các di tích lịch sử như Ap Bắc (Tiền Giang), Đồng Khởi (Bến Tre), đồi Tức Dụp (An Giang),… cùng với nhiều chùa chiền mang dấu ấn tôn giáo đã tạo nên đời sống văn hoá tinh thần phong phú đa dạng của dân cư ĐBSCL.

Đồng bằng sông Cửu Long với tài nguyên du lịch rất phong phú và đa dạng, song song với yếu tố sinh vật về cây, con thì cảnh quan ở ĐBSCL cũng không kém phần hấp dẫn; khi bình minh hoặc hoàng hôn tren mặt sông, mặt biển, với những kỳ thú huyền ảo thanh bình để con người thư giãn đắm mình trong thiên nhiên cùng với những cảnh quan đẹp như Rừng Dừa Bến Tre, núi Sam An Giang, Hà Tiên, Phú Quốc Kiên Giang,… tạo nên các tuyến điểm du lịch mang dấu ấn cảnh quan môi trường mà cuộc sống công nghiệp đang muốn tìm về cội nguồn thiên nhiên. Bên cạnh đó, tài nguyên du lịch nhân chủng với đặc trưng dân cư quần tụ gắn liền với việc khai thác vùng đất mới. Con người ở đây không những biết lợi dụng điều kiện tự nhiên mà còn biết chinh phục thiên nhiên. Hệ thống kênh rạch chằng chịt và các đê bao quanh các vườn cây trái cho thấy sự lao động cần cù và thông minh của người dân ĐBSCL. Bên cạnh văn hoá lao động, văn hoá sinh hoạt dân cư với kiến trúc nhà ở, trang phục và phong cách ẩm thực tạo nên các nét riêng của cư dân của miền sông nước cùng với ca kịch cải lương, đờn ca tài tử, các điệu lý câu hò phản ánh cuộc sống dân dã, sâu đậm và phóng khoáng mà đây cũng chính là yếu tố hấp dẫn để khách du lịch tìm đến Đồng bằng sông Cửu Long. Và đương nhiên, khách du lịch không thể không đến thủ phủ của miền Tây, đó là Tây Đô Cần Thơ, với đầy đủ đặc trưng của miền sông nước Cửu Long, lại đang trên đà chuyển mình phát triển của một thành phố trẻ để xứng tầm là đô thị loại một, đô thị du lịch của miền Tây. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Qua bảng số liệu cho thấy lượng khách du lịch đến Cần Thơ tăng cao, trong vòng 4 năm lượng khách quốc tế tăng 1,7 lần, khách nội địa tăng hơn 1,6 lần. Từ đó cho thấy sản phẩm du lịch ở Cần Thơ có sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách mà đặc biệt là khách quốc tế, một trong những sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn đó thì có cải lương. Tuy cung cách hoạt động và hiệu quả chưa được đánh giá cao, nhưng nó đã chứng tỏ được sức sống mạnh mẽ và khả năng đáp ứng nhu cầu của du khách.

2.2.3. Thực trạng bảo tồn và phát huy nghệ thuật cải lương phục vụ du lịch ở Cần Thơ.

2.2.3.1. Mặt mạnh:

  • Giữ gìn và phát phát huy được bản sắc văn hoá của dân tộc.
  • Tạo một lối sống sinh hoạt văn hoá lành mạnh cho xóm, ấp (xã, phường).
  • Tạo được sân chơi bổ ích cho những người yêu nghệ thuật.
  • Góp phần làm phong phú và đa dạng cho sản phẩm du lịch của địa phương
  • Tạo được sự hấp dẫn cho du khách, góp phần phát triển du lịch.

2.2.3.2. Mặt yếu:

  • Các cơ quan ban ngành chưa có sự quan tâm sâu sắc đối với bộ môn nghệ thuật này nên nó chưa được đầu tư để phát triển.
  • Hiện nay đã có sự liên kết là đưa nghệ thuật cải lương vào hoạt động du lịch. Tuy nhiên vẫn chưa mang lại hiệu quả cao vì còn quá sơ sài, chưa có chiến lược cụ thể.
  • Việc phục vụ cải lương tại các điểm du lịch chưa thực sự đúng nghĩa của nó. Thường thì chỉ hát các bài tân cổ, ca vọng cổ, hoặc trích đoạn chứ ít hát đầy đủ cả vở diễn, hoặc do thời gian hạn chế, không gian biểu diễn không phù hợp để nghệ sỹ biểu diễn các động tác múa, hình thể, nên không nói hết được cái hay, cái độc đáo của cải lương, bởi cải lương là loại hình nghệ thuật có tính tổng hợp. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.
  • Chưa mở được các lớp giảng dạy môn nghệ thuật này trong các trường Cao đẳng, Đại học tại địa phương.

2.2.3.2. Một số phương án khai thác nghệ thuật cải lương để phục vụ du lịch đã được triển khai

  • Phát triển du lịch sông nước miệt vườn kết hợp với thưởng thức nghệ thuật cải lương

Cần Thơ, vùng đất ven sông Hậu có vị trí trung tâm ĐBSCL, tự hào với tên gọi Tây Đô. Con người Tây Đô chân chất, hiền hoà, giàu lòng mến khách. Đây là vùng đất mới giàu tiềm năng phát triển du lịch. Nơi đây có thế mạnh về du lịch sông nước miệt vườn hết sức đa dạng, phong phú, văn hoá lễ hội, chùa chiền, di tích lịch sử của Tây Đô cũng là nét văn hoá đặc trưng cho vùng sông nước Nam bộ.

Cần Thơ, miền đất trù phú nằm bên nhánh sông mà người xưa có lúc đặt là Cầm Thi Giang, cái tên gợi lên giọng thơ, tiếng đàn vào những đêm trăng nước. Một trong những loại hình giải trí phổ biến nhất cho khách du lịch khi đến với Cần Thơ hiện nay là “Đờn ca tài tử”, “vọng cổ”, du khách đến đây sẽ được phục vụ “Đờn ca tài tử”, thả hồn theo những câu ca vọng cổ ngọt lịm, thưởng thức một số trích đoạn cải lương nổi tiếng ở các điểm du lịch sinh thái như: vườn du lịch Mỹ Khánh, vườn du lịch Thuỷ Tiên, vườn du lịch Xuân Mai, du thuyền trên bến Ninh Kiều.

Với tiềm lực sẵn có về cảnh quan thiên nhiên, vườn cây ăn trái, môi trường sinh thái đặc thù, các di tích, di sản văn hoá dân tộc và lễ hội đặc sắc của vùng sông nước Nam bộ, khai thác lợi thế vị trí địa lý khu vực, có các khu công nghiệp, khu chế xuất, cảng, sân bay. Từ đó Cần Thơ có thể phát triển loại hình du lịch trọng điểm như: Du lịch sinh thái, du lịch văn hoá – lịch sử, du lịch MICE.

Trong các loại hình du lịch này thì du lịch phong cảnh miệt vườn vẫn là nét đặc trưng độc đáo của Cần Thơ. Với hơn 30.000 ha cây ăn trái nổi tiếng như: cam, quýt, sầu riêng, nhãn, chôm chôm, măng cụt, mận, ổi, xoài, sapôchê. Trên diện tích trồng cây ăn trái trù phú này không chỉ đơn thuần là những vườn cây ăn trái xum xuê mà đa phần đã được người dân cải tạo săn sóc trở thành địa điểm du lịch phong cảnh miệt vườn hết sức hấp dẫn. Bên cạnh vườn cây ăn trái người dân còn thu hút khách du lịch bằng những vườn cảnh Bonsai mang tính nghệ thuật cao, với hàng trăm loại cây cảnh lớn nhỏ được tạo hình rất tinh vi. Xung quanh nhà vườn còn được thiết kế các ao thả cá với nhiều loại cá ngon và nổi tiếng. Hơn thế nữa, để tạo sự thoải mái vui tươi cho du khách các chủ nhà vườn còn kết hợp với các đội hát vọng cổ, cải lương, đờn ca tài tử để phục vụ cho du khách. Du khách vừa có thể vãn cảnh, vừa dùng bữa vừa thưởng thức ca nhạc tài tử tại vườn thật lý thú và ngon miệng.

  • Các tour du lịch kết hợp nghệ thuật cải lương ở Cần Thơ Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Trung tâm Dịch vụ Du lịch – Cty Cổ phần Du lịch Cần Thơ mở các tuyến mới phục vụ du khách tham quan cầu Cần Thơ và thưởng thức ca cải lương. Đêm nhạc hoa đăng (CADN1-07)

Chiêm ngưỡng cầu Cần Thơ về đêm

  • Cự ly đi và về: 10km
  • Phương tiện: Tàu Ninh Kiều
  • Thời gian: 1 giờ – Giờ khởi hành: 18h30, 19h30, 20h, 21h
  • Địa điểm: Bến tàu du lịch Ninh Kiều 01 – cạnh chợ cổ Cần Thơ

Theo dòng nước, tàu Ninh Kiều đưa du khách lênh đênh trên sông nước hữu tình, ngắm cảnh cầu Cần Thơ về đêm – công trình cầu dây văng có nhịp chính dài nhất Đông Nam Á. Du khách được thưởng thức tiệc tối nhẹ trên tàu.

Trên chiếc du thuyền trôi êm ả theo dòng nước, dưới vòm trời lấp lánh những vì sao nên thơ tĩnh mịch, du khách cùng với người Cần Thơ tìm hiểu và thưởng thức một loại hình nghệ thuật đặc trưng của Nam bộ: Cải lương. Thú vị và ý nghĩa hơn khi du khách tự tay thả những chiếc đèn Hoa Đăng và gửi gắm những mơ ước thầm kín của mình trên dòng sông Hậu hiền hoà. Phong cảnh hữu tình cùng những ngọn nến lung linh sẽ tạo cho du khách những khoảnh khắc khó quên.

Chợ nổi Cái Răng – Vườn Du lịch Mỹ Khánh

Tham quan Chợ nổi Cái Răng, loại hình chợ đặc trưng chỉ có ở vùng sông nước miền Tây. Từ bến Ninh Kiều đến khu vực Chợ nổi Cái Răng khoảng 30 phút. Chợ nổi có cách chào hàng rất độc đáo: người bán không rao mà treo hàng lên cây bẹo trước cửa tàu, ghe hàng để giới thiệu. Khách có thể mua trái cây hay rau quả tươi với giá rẻ hơn ở chợ và chụp hình cảnh họp chợ đông vui cùng những người nông dân miệt vườn nhiệt tình và mến khách.

Rời Chợ nổi, tàu tiếp tục đưa khách đến thăm Vườn du lịch Mỹ Khánh, Phong Điền. Khu vườn rộng hơn 7ha, trồng hơn 20 loại cây trái, hoa cảnh và nhiều loại động vật như: chim, khỉ, cá sấu, ba ba… Du khách đến đây có thể đi dạo trong vườn cây xanh mát, tham gia trò chơi câu cá sấu, thưởng thức các món ăn dân dã miệt vườn, nghe ca cải lương, đờn ca tài tử, tham quan nhà cổ Nam bộ, có dịp được thưởng thức niềm vui và cảm giác của “Một ngày làm nông dân”; “Cơm điền chủ”. Du khách ăn trưa và nghỉ ngơi tại vườn du lịch Mỹ Khánh. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

  • City tour và thưởng thức cải lương tại Nhà hát Tây Đô:

Du khách tham quan các điểm trong thành phố Cần Thơ như: Bảo tàng Cần Thơ, Trường Đại học Cần Thơ, lộ Vòng cung, bến Ninh Kiều, tham quan và mua sắm tại chợ cổ Cần Thơ, thăm Vườn Lan, buổi tối thưởng thức chương trình nghệ thuật của nhà hát Tây Đô, xem các nghệ sỹ diễn lại những vở cải lương nổi tiếng.

  • Phát triển các “Quán hát”:

Đây là hình thức thưởng thức nghệ thuật cải lương bình dân khá phổ biến ở Cần Thơ, được dân địa phương cũng như khách du lịch đặc biệt ưa thích. Các quán này thường là quán ăn, quán rượu có kèm phục vụ ca hát. Khách có thể vừa ăn uống vừa nghe các ca sỹ ca cải lương, và nếu ngẫu hứng khách cũng có thể hát cùng ca sỹ vì quán đã chuẩn bị sẵn một quyển sổ có ghi lời một số bài hát quen thuộc.

Ngoài ra còn có các tour khai thác kết hợp và liên kết phát triển “tam giác du lịch” TP Cần Thơ, An Giang và Kiên Giang, cùng một số tuyến điểm sau đây:

2.2.3.3. Những thông số cụ thể

Kết quả kinh doanh du lịch 6 tháng đầu năm 2009

Khách đến Cần Thơ:

Tổng số lượt khách lưu trú trong 6 tháng đầu năm 2009 là 361.787 lượt khách, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước và đạt 44% kế hoạch cả năm 2009. Trong đó số khách quốc tế đến Cần Thơ trong 6 tháng đầu năm đạt 77.604 lượt khách, giảm 7% so với cùng kỳ, đạt 46% kế hoạch cả năm 2009.

Kết quả hoạt động lữ hành:

Lữ hành nội địa: Trong 6 tháng đầu năm các doanh nghiệp lữ hành đã phục vụ 21.830 khách, tăng 24% so với cùng kỳ và đạt 44% kế hoạch năm 2009. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Lữ hành quốc tế: Tổng số khách quốc tế do các doanh nghiệp lữ hành tại Cần Thơ đón vào trong 6 tháng đầu năm là 2.784 khách, tăng 22% so với cùng kỳ, đạt 43% kế hoạch năm. Đưa gần 3.230 khách đi du lịch, giảm 1% so với cùng kỳ, đạt 50% kế hoạch năm 2009.

Doanh thu du lịch: Doanh thu du lịch trong 6 tháng đầu năm 2009 đạt 250,5 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ và đạt 54% kế hoạch cả năm 2009.

Mặc dù hiện nay chưa có một số liệu thống kê cụ thể là hàng năm có bao nhiêu khách du lịch đến ĐBSCL để thưởng thức nghệ thuật cải lương, nhưng từ số liệu trên và từ các chương trình du lịch thì ta thấy hầu như tất cả các tour du lịch đến Cần Thơ đều có chương trình thưởng thức cải lương, và theo khảo sát thực tế thì du khách rất thích chương trình này.Khách du lịch quốc tế rất thích loại hình nghệ thuật này mặc dù khi nghe hát thì họ không biết lời hát nói gì nhưng qua cách diễn tả tâm trạng của người hát, rồi nghe tiếng đàn thì họ có thể hiểu bài hát đó muốn thể hiện tâm trạng vui hay buồn, yêu thương hay oán giận. Từ đó cho thấy loại hình nghệ thuật này đã có sức hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước, tuy chưa cao nhưng phần nào đã nói lên được giá trị của nó đối với hoạt động du lịch ở Cần Thơ.

2.2.3.4. Thực trạng đầu tư và các dự án đầu tư phát triển du lịch a. Các dự án đã được triển khai

Dự án xây dựng đường cao tốc Trung Lương và đặc biệt là cầu Hàm Luông và cầu Cần Thơ hoàn thành đã thu hút số lượng lớn khách nội địa cũng như quốc tế. Các tour du lịch mới du thuyền tham quan chợ nổi, ngắm cầu Cần Thơ về đêm, thả đèn hoa đăng và nghe ca cải lương rất hấp dẫn khách du lịch. Lượng khách đến Cần Thơ tăng 10% so với thời gian trước đó. Ngoài khách du lịch đăng ký đi theo các công ty, còn một lượng khách không nhỏ tự tìm đến Cần Thơ. Họ muốn tự mình chiêm ngưỡng vẻ đẹp cầu Cần Thơ và khám phá loại hình du lịch sông nước, vườn cây ăn trái độc đáo tại đây.

Thành phố đang khuyến khích người dân tham gia làm du lịch và mời gọi đầu tư mạnh hơn cho du lịch. Người dân xung quanh cây cầu này mở các dịch vụ, các điểm du lịch sinh thái nhỏ đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi, thưởng thức trái cây đặc sản của Cần Thơ. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Bên cạnh du khách đến với mục đích du lịch, lượng khách về Cần Thơ tìm hiểu đầu tư cũng tăng nhanh. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước chủ yếu nhắm vào các dự án xây dựng khu công nghiệp, cao ốc văn phòng, căn hộ chung cư, du lịch, xây dựng hạ tầng.

TP Cần Thơ đang dẫn đầu các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) về doanh thu du lịch sông nước miệt vườn với 585 tỉ đồng năm 2009, tăng 130 tỉ đồng so năm 2008.

Cần Thơ tăng cường xúc tiến du lịch, đa dạng hóa các loại hình du lịch sinh thái, sông nước miệt vườn, du lịch văn hóa, du lịch kết hợp hội nghị; đẩy mạnh việc khai thác vị trí trung tâm trung chuyển của địa phương đến các tỉnh ĐBSCL và các tỉnh thành khác trong nước; mở thêm các tua, tuyến du lịch sinh thái tại Cần Thơ và từ Cần Thơ đến các tỉnh khác trong và ngoài vùng ĐBSCL.

Thành phố còn hợp tác với các tỉnh An Giang, Kiên Giang hình thành “tam giác du lịch” mạnh nhất khu vực với các loại hình du lịch sông nước, biển đảo, núi. Đặc biệt, Cần Thơ hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng trên 20 khu du lịch sinh thái vườn rộng gần 300 ha, trong đó nhiều khu có tiện nghi đạt chuẩn quốc gia, quốc tế. Các yếu tố mỹ quan, văn minh, vệ sinh môi trường, an toàn trên các tuyến du lịch chợ nổi Cái Răng, Phong Điền và trên các tuyến du lịch cồn Khương, cồn Ấu, cồn Cái Khế được cải tiến.

Cần Thơ huy động nhiều thành phần kinh tế tham gia xây dựng 154 khách sạn, nhiều gấp 4 lần năm 2001 (trong đó có 31 khách sạn từ 1- 4 sao) với gần 3.800 phòng, 5.854 giường, dẫn đầu ĐBSCL, đồng thời còn đầu tư hàng ngàn tỉ đồng xây dựng các khu du lịch cồn trên sông Hậu.

Thành phố tăng cường đào tạo đội ngũ nhân viên có tác phong phục vụ chuyên nghiệp; hình thành các chương trình, tour du lịch sông nước, sinh thái vườn đồng bộ, chất lượng cao. Nhờ đó đã nâng tổng số khách đến đây trong năm 2009 là 1,1 triệu lượt (trong đó có 200.000 lượt khách quốc tế), tăng 250.000 lượt so 2008.

Năm 2010, Cần Thơ đẩy mạnh liên kết với các tỉnh An Giang, Kiên Giang mở rộng mô hình “tam giác du lịch”; hình thành thêm các tua, tuyến du lịch sinh thái tại Cần Thơ và từ Cần Thơ đến các tỉnh khác trong và ngoài vùng ĐBSCL; mở rộng các tuyến du lịch quốc tế thu hút khách thuộc khối ASEAN, Tây Âu, Bắc Mỹ, Đông Á – Thái Bình Dương; gắn phát triển du lịch với 3 đợt hội chợ quốc tế tại đây trong năm 2010, đặc biệt là “Festival Thủy sản VN lần thứ nhất (tháng 4/2010).

Thành phố đang tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch; triển khai đề án xây dựng khu du lịch quốc gia tại hệ thống cồn dọc sông Hậu; nâng cấp các tuyến du lịch Cần Thơ đến các tỉnh Vĩnh Long, Cà Mau, Kiên Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, Sóc Trăng, TP Hồ Chí Minh, nhằm thu hút 1,4 triệu lượt du khách, trong đó có 300.000 khách nước ngoài.

  • Các dự án đầu tư và chỉ tiêu phát triển Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

b1. Các dự án đầu tư

Định hướng đầu tư phát triển du lịch thành phố trong thời gian tới là:

  • Tiếp tục bảo tồn và phát huy nghệ thuật cải lương, đờn ca tài tử phục vụ du lịch.
  • Đầu tư hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng du lịch theo quy hoạch.
  • Phát triển hệ thống các cơ sở lưu trú và các dịch vụ du lịch, đặc biệt là các công trình dịch vụ gắn với thương mại, hội nghị, triển lãm…
  • Phát triển hệ thống các công trình vui chơi giải trí và các khu du lịch trên các cồn dọc theo sông Hậu, đồng thời xây dựng một số mô hình resort, nghỉ dưỡng để tạo điểm nhấn cho thành phố.
  • Đầu tư tôn tạo các di tích văn hóa – lịch sử – cách mạng và phát triển các sự kiện du lịch, nâng cấp lễ hội, làng nghề truyền thống phục vụ du lịch.
  • Đầu tư phát triển du lịch vườn, chú trọng tới các sản phẩm gắn với sông nước, ruộng vườn đặc thù của đồng bằng sông Cửu Long.
  • Đào tạo nâng cao nghiệp vụ du lịch cho đội ngũ lao động ngành du lịch.
  • Áp dụng công nghệ mới để phát triển và đẩy mạnh công tác xúc tiến quảng bá du lịch, cung cấp thông tin cần thiết cho du khách.

Đầu tư cho việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật cải lương để phục vụ du lịch:

Quy hoạch lại các điểm du lịch có phục vụ biểu diễn cải lương, thành lập các ban hát, đoàn hát có cấp phép của cơ quan chức năng, đồng thời hỗ trợ kinh phí hoạt động và đảm bảo cuộc sống cho người nghệ nhân để họ không chuyển sang nghề khác. Lập ra các cơ sở đào tạo, truyền nghề cho lớp trẻ để cải lương không bị mai một. Quan trọng hơn, chỉ một mình cải lương không thể thu hút lượng khách đông đảo, phải cùng kết hợp với các kiểu du lịch khác, phải có cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tốt, nhân viên phục vụ chuyên nghiệp… Dươí đây là một số dự án và chỉ tiêu cần đạt đến để phục vụ du lịch.

b1.1. Đầu tư giai đoạn đến năm 2010: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Cụm du lịch nội đô (cụm trung tâm):

  • Đầu tư hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng khu du lịch cồn Khương, hoàn thành đê bao cồn Ấu và hệ thống cáp treo song song với cầu Cần Thơ khi có điều kiện.
  • Xây dựng Trung tâm hội nghị, hội thảo, triển lãm quốc tế gắn với hệ thống khách sạn cao cấp, văn phòng cho thuê.
  • Đầu tư khu du lịch quốc gia “Hệ thống cồn dọc sông Hậu” bao gồm: cồn Khương, cồn Ấu, cồn Cái Khế, cồn Sơn và cồn Tân Lộc.
  • Đầu tư bờ kè dọc sông Hậu.
  • Đầu tư xây dựng các khách sạn từ 4-5 sao tại bến Ninh Kiều và cồn Cái Khế.
  • Đầu tư tôn tạo làng cổ Bình Thủy ( bao gồm nâng cấp nhà cổ…) hình thành tuyến du lịch làng cổ Bình Thuỷ – Lộ Vòng cung, sắp xếp chợ nổi Cái Răng, mở rộng chỉnh trang hệ thống điểm, khu du lịch vườn.
  • Nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ du khách như khách sạn, nhà hàng, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách.
  • Đầu tư phục hồi và phát triển làng nghề truyền thống như: làng đan lưới, làm bánh tráng ở Thốt Nốt, làng đan lợp tép, đắp lò ở Ô Môn,… để tạo sản phẩm du lịch, gắn lao động thủ công của cộng đồng với khai thác du lịch.
  • Phục hồi và nâng cấp các hoạt động văn hoá văn nghệ dân gian, đầu tư sản xuất sản phẩm quà lưu niệm đặc trưng của thành phố.
  • Đầu tư xây dựng Trường trung cấp du lịch Cần Thơ, xây dựng bến tàu du lịch tại bến Ninh Kiều và phố đi bộ dọc bến Ninh Kiều, chợ đêm Tây Đô.
  • Đầu tư giai đoạn đầu Trung tâm văn hóa Tây Đô kết hợp khai thác du lịch.

Cụm du lịch Thốt Nốt:

  • Đầu tư nâng cấp đường bộ vào vườn cò và mở rộng vườn cò Bằng Lăng.
  • Đầu tư nâng cấp hệ thống công trình dịch vụ phục vụ du lịch và phát triển làng nghề ở cù lao Tân Lộc.
  • Hình thành tuyến đi xe đạp thể thao khám phá nông thôn dọc theo cù lao Tân Lộc.

Cụm du lịch Ô Môn – Cờ Đỏ: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

  • Gắn phát triển du lịch với khu đô thị công nghệ cao kết hợp với các trung tâm giáo dục, nghiên cứu phục vụ công nghệ công – nông nghiệp.
  • Đầu tư nâng cấp tuyến tỉnh lộ 922.
  • Xây dựng đề án phát triển du lịch cộng đồng và nông thôn tại Cờ Đỏ.
  • Đầu tư bước đầu cơ sở vật chất, tạo mới điểm du lịch nông thôn tại Thới Lai.
  • Chỉnh trang cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ tại Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, Nông trường sông Hậu, Nông trường Cờ Đỏ kết hợp khai thác du lịch.

Cụm du lịch Phong Điền:

  • Quy hoạch và triển khai đầu tư từng bước khu đô thị sinh thái Phong Điền.
  • Đầu tư sắp xếp lại chợ nổi Phong Điền.
  • Quy hoạch và hướng dẫn phát triển hệ thống vườn du lịch, điểm nghỉ dưỡng.
  • Đầu tư khai thác tuyến du lịch làng cổ Bình Thủy – Lộ Vòng cung.

b.1.2. Đầu tư giai đoạn 2011 – 2015:

Cụm Du lịch nội đô (cụm trung tâm):

  • Đầu tư xây dựng khu du lịch cồn Ấu.
  • Đầu tư xây dựng bến tàu du lịch Quốc tế.
  • Hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng tại các khu du lịch trọng điểm để thu hút đầu tư.

Cụm du lịch Thốt Nốt:

  • Hoàn chỉnh khu du lịch vườn cò Bằng Lăng.
  • Phát triển làng nghề, dịch vụ du lịch ở cù lao Tân Lộc.
  • Xây dựng đề án khu du lịch cù lao Tân Lộc.

Cụm du lịch Ô Môn:

  • Hoàn thiện mô hình du lịch cộng đồng và nông thôn tại Cờ Đỏ.
  • Đầu tư khai thác du lịch kết hợp hoạt động của nông trường, Viện lúa ĐBSCL.
  • Hoàn thành mở rộng các khu du lịch vườn.

Cụm du lịch Phong Điền:

  • Đầu tư xây dựng khu đô thị sinh thái Phong Điền.
  • Hoàn thành đầu tư các khu du lịch vườn trọng tâm

b.1.3. Đầu tư giai đoạn 2015 – 2020:

Cụm Du lịch nội đô (cụm trung tâm):

  • Tiếp tục đầu tư nâng cấp mở rộng không gian du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng sản phẩm du lịch và phát triển văn hóa ẩm thực. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.
  • Mở rộng đường bay quốc tế từ sân bay Trà Nóc đến các nước Asean để thu hút khách du lịch từ các thị trường này.
  • Kết nối du lịch Cần Thơ với du lịch các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mêkông bằng đường thủy.
  • Đầu tư hoàn chỉnh các dự án, tổ hợp du lịch lớn tại cồn Khương, cồn Ấu, cồn Cái Khế, một số khách sạn 5 sao gắn với trung tâm hội nghị, hội thảo, triển lãm quốc tế.
  • Chỉnh trang nâng cấp tuyến Lộ Vòng cung.

Cụm du lịch Thốt Nốt:

  • Phát triển dịch vụ, mở rộng vườn cò Bằng lăng thành điểm du lịch trung tâm.
  • Tiếp tục đầu tư nâng cấp mở rộng không gian du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa sản phẩm du lịch.
  • Nâng cấp, cải tạo các bến phà và đội phà cù lao Tân Lộc phục vụ tốt hơn nhu cầu tham quan làng nghề, nhà cổ…
  • Hoàn thành đầu tư phát triển khu du lịch sinh thái, cộng đồng cù lao Tân Lộc.
  • Kết hợp khai thác du lịch với khu đô thị dịch vụ – công nghiệp Thốt Nốt.

Cụm du lịch Ô Môn – Cờ Đỏ:

  • Triển khai mạnh chương trình phát triển du lịch nông trại và nông thôn dựa vào cộng đồng, chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế và nâng cao thu nhập người dân địa phương từ du lịch.
  • Hoàn chỉnh cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển du lịch nông thôn tại Thới Lai.
  • Phát triển hệ thống dịch vụ, dịch vụ cộng đồng tại Cờ Đỏ.
  • Mở rộng phát triển du lịch về hướng Vĩnh Thạnh.

Cụm du lịch Phong Điền:

  • Hoàn chỉnh khu đô thị sinh thái Phong Điền.
  • Nâng cấp và xây dựng hoàn chỉnh hệ thống vườn du lịch.
  • Phát triển các khu dân cư cao, trung cấp kết hợp khai thác du lịch nghỉ dưỡng.
  • Chỉnh trang nâng cấp tuyến du lịch làng cổ Bình Thủy – Lộ Vòng cung.

b.1.4. Các dự án ưu tiên đầu tư: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Theo tính toán của Viện nghiên cứu phát triển du lịch, tổng nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2006-2010 của ngành du lịch Cần Thơ là 1.663 tỷ đồng tương 151 triệu USD và giai đoạn 2011-2020 là 9.612 tỷ đồng tương đương 873,8 triệu USD.

Để đảm bảo tính khả thi của các dự án đầu tư, chương trình căn cứ chính sách khuyến khích đầu tư của thành phố, định hướng phát triển du lịch Cần Thơ đến năm 2020 và các dự án đầu tư du lịch được duyệt, các dự án đã có chủ trương đầu tư, khả năng huy động các nguồn vốn và các nguồn lực phát triển, ngành du lịch thành phố đề ra các dự án ưu tiên để đầu tư tập trung từ nay đến năm 2020 theo danh mục dưới đây, trong đó tập trung phần lớn cho giai đoạn 2006 – 2010, vì đây là giai đoạn phải tạo sự chuyển biến mạnh để nhanh chóng thay đổi bộ mặt du lịch thành phố góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết lần thứ XI của Đảng bộ Thành phố Cần Thơ và Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 17 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần thơ trong thời kỳ Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Ngoài ra, các công trình đầu tư lớn của thành phố Cần Thơ có ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động du lịch như:

  • Trung tâm văn hoá Tây Đô.
  • Trung tâm huấn luyện TDTT IV.
  • Nhà hát lớn thành phố.
  • Trung tâm hội nghị hội thảo.
  • Và một số công trình quan trọng khác.

Khi hoàn thành sẽ là những điểm tham quan quan trọng, bổ sung tour, tuyến du lịch của thành phố tạo sự hấp dẫn thu hút khách.

b.2. Các chỉ tiêu chủ yếu

Căn cứ vào tốc độ phát triển du lịch thành phố giai đoạn 2001 – 2005 và các tiêu chí tính toán từ nguồn số liệu của Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, chương trình xây dựng và phát triển du lịch thành phố Cần Thơ đến năm 2010 – tầm nhìn đến năm 2020 phấn đấu đạt các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 như sau:

Chỉ tiêu khách du lịch: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Năm 2005, khách du lịch quốc tế đến Cần Thơ đạt 104.841 lượt khách tăng 21% so với năm 2004. Dự kiến đến năm 2010 sẽ thu hút 220.000 lượt khách quốc tế đến Cần Thơ, đến năm 2020 đón tiếp 800.000 lượt khách.

Năm 2005, ngành du lịch Cần Thơ đã đón và phục vụ 357.300 lượt khách du lịch nội địa, (tăng 11,42% so với năm trước). Dự kiến năm 2010 đạt 800 ngàn khách nội địa có lưu trú và đến năm 2020 là 2,6 triệu lượt khách nội địa có lưu trú.

Ngày lưu trú bình quân của khách du lịch ở Cần Thơ trong năm 2005 tương đối thấp (1,30 ngày đối với khách du lịch quốc tế và 1,20 ngày đối với khách du lịch nội địa). Thời gian tới cần làm phong phú và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, nhất là các dịch vụ vui chơi giải trí về đêm để đến năm 2010, ngày lưu trú bình quân của khách du lịch quốc tế đạt 02 ngày/khách và đến năm 2020 là 3,5 ngày và khách du lịch nội địa là 1,6 ngày, năm 2020 là 2,5 ngày/khách.

Là đầu mối giao thông của vùng, cơ sở vật chất phục vụ du lịch tương đối phát triển nên hàng năm Cần Thơ đón một lượng lớn khách du lịch dừng chân và tham quan trong ngày tương đối lớn (gọi chung là khách không lưu trú) năm 2005 đã phục vụ trên 800 ngàn lượt, lớn gấp gần 2 lần so với khách lưu trú, đây là đối tượng khách có tỷ trọng tăng trưởng lớn trong thời gian tới, cần có sự đầu tư tốt hơn vào các cơ sở dịch vụ để đến năm 2010 phục vụ 1 triệu khách và năm 2020 phục vụ 1,4 triệu khách không lưu trú.

Lượng khách du lịch đến Cần Thơ thời kỳ 2005-2020

Doanh thu du lịch bao gồm tất cả các khoản thu do khách du lịch chi trả như: doanh thu từ lưu trú, ăn uống, vận chuyển, mua sắm và các dịch vụ khác như: vui chơi giải trí, thông tin liên lạc, y tế, bảo hiểm…

Năm 2005, dự kiến trung bình một khách du lịch quốc tế chi tiêu tại khách sạn từ 25 – 30 USD/ngày (không tính các khoản chi tiêu ngoài cơ sở lưu trú), khách du lịch nội địa là 24 USD/ngày và khách tham quan không lưu trú khoảng 6 USD/ngày. Khi các sản phẩm dịch vụ được bổ sung, đầu tư tăng thêm thì mức chi tiêu của du khách sẽ tăng lên. Mức chi tiêu bình quân qua các giai đoạn đến năm 2020 được tính toán như sau:

Căn cứ mức chi tiêu bình quân của một khách du lịch trên địa bàn thành phố Cần Thơ, doanh thu toàn ngành du lịch thành phố được thể hiện ở bảng sau: Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

Doanh thu du lịch Cần Thơ thời kỳ 2005-2020

GDP du lịch:

Năm 2010 GDP du lịch Cần Thơ đạt 3,83% tổng GDP thành phố và chiếm 8,90% GDP khu vực III, năm 2015 chiếm tỷ trọng 4,08% tổng GDP toàn thành phố và đạt 9,64% tổng GDP khu vực III. Đến năm 2020 GDP du lịch Cần Thơ đạt 4,30% tổng GDP thành phố và chiếm 10% GDP khu vực III. Tốc độ tăng trưởng GDP du lịch giai đoạn đến 2010 đạt bình quân 26,6%/năm và giai đoạn 2011 – 2020 là 18,90%/năm.

Về cơ cấu chi tiêu của khách:  Hiện nay khách du lịch quốc tế và nội địa đến Cần Thơ chi tiêu phần lớn cho 2 dịch vụ chính là lưu trú và ăn uống, chi cho các dịch vụ khác không nhiều. Trong những năm tới cần xây dựng nhiều sản phẩm dịch vụ mới, đầu tư các mặt hàng lưu niệm, nâng cấp và bổ sung các dịch vụ để tạo sự hấp dẫn và kích thích nhu cầu chi tiêu của du khách.

2.2.3.5. Một số sự kiện du lịch nổi bật:

  • Sáng ngày 19/4/2010, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch thành phố Cần Thơ đã tổ chức buổi họp mặt các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn nhằm sơ kết công tác chuẩn bị phục vụ các ngày lễ lớn trong tháng 4/2010
  • Ngày 03/5/2007, Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP. Cần Thơ đã ký ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-UBND Về việc tổ chức Năm Du lịch quốc gia 2008 “Du lịch miệt vườn sông nước Cửu Long” tại TP. Cần Thơ.
  • Lễ Giỗ Tổ ngành Sân khấu: Sáng 30/9/2009 (12 tháng 8 ÂL), Nhà hát Tây Đô đã trang trọng tổ chức Lễ giỗ ngành Sân khấu tại nhà hát Tây Đô. Về tham dự lễ giỗ có các anh em nghệ sĩ đã và đang hành nghề tại thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, các trưởng, phó đoàn văn công, đoàn cải lương Tây Đô, quí lãnh đạo ngành văn hoá qua các thời kỳ, lãnh đạo Sở VHTT&DL, các anh em nhạc công và các vị khách quí từ các ban ngành trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
  • Từ ngày 1/12 – 5/12 tại Cần Thơ, chương trình “Những ngày Du lịch – Văn hoá Mêkông – Nhật Bản” sẽ được tổ chức với một loạt hoạt động phong phú. Đây là chương trình được tổ chức với sự tham gia của các nước tiểu vùng sông Mêkông gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar Và Nhật Bản.
  • Từ 28 đến 30/10/2009: Liên hoan âm nhạc hội nhạc sỹ Việt Nam lần thứ XI khu vực đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ
  • Các hoạt động đón Lễ hội Thuỷ sản Việt Nam – Cần Thơ tháng 4/2010
  • Hiệp Hội Du Lịch ĐBSCL tổ chức chương trình đào tạo nhân lực quản lý ngành du lịch 2010
  • Bảo tàng thành phố Cần Thơ phối hợp với Phòng Nghiệp vụ Du lịch tổ chức triển lãm ảnh, hiện vật kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Du lịch Việt Nam hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội trong tháng 7/2010.

2.2.4. Những hạn chế trong khai thác nghệ thuật cải lương để phục vụ du lịch ở Cần Thơ. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

  • Quá chú trọng vào khai thác thu lợi nhuận mà không chú ý bảo tồn, gìn giữ nét đẹp, nét văn hoá dặc sắc của dân tộc, người nghệ sỹ mất đi niềm hăng say sáng tạo.
  • Vẫn còn một số nghệ sỹ chạy theo lối diễn câu khách rẻ tiền, thương mại hoá sân khấu.
  • Vấn đề kịch bản đang là vấn đề cấp thiết đáng báo động cho cải lương. Sân khấu cải lương chính thống đang trong tình trạng “khan hiếm” những kịch bản hay, vừa giữ được nét truyền thống lại vừa phải mang hơi thở của thời đại, phù hợp với thị hiếu của công chúng. Trong khi đó, vẫn tồn tại không ít những vở diễn kích động bạo lực, tình dục…, là những “con sâu làm rầu nồi canh”.
  • Tình trạng sân khấu cải lương ngày càng thưa vắng khán giả, số lượng buổi diễn giảm sút, “người hát không đủ người nghe”…
  • Đời sống của những nghệ sỹ cải lương chân chính chưa được quan tâm đúng mực. Bởi nếu họ vẫn còn mang nặng nỗi lo cơm áo gạo tiền, thử hỏi làm sao còn cảm hứng sáng tạo? “cơm áo không đùa với khách thơ” là vậy.
  • Chưa quan tâm đúng mức tới việc đào tạo lớp nghệ sỹ trẻ cho mai sau. Trong buổi kinh tế thị trường như hiện nay, cả ca nhạc, văn hoá nghệ thuật cũng có thể bị “thị trường hoá”, lại thêm sự “hỗn tạp” trong âm nhạc và thị hiếu của giới trẻ, nếu các cơ quan, ban ngành có liên quan như Viện Sân khấu, Hội nghệ sỹ sân khấu, bộ Văn hoá thể thao và du lịch, các trường nghệ thuật… không có những giải pháp kịp thời thì nghệ thuật cải lương nói riêng, và nền âm nhạc dân tộc nói chung sẽ mai một dần…

Tiểu kết chương 2: Nghệ thuật cải lương đang được khai thác phục vụ du lịch ở nhiều địa phương thuộc ĐBSCL và đã đem lại hiệu quả không nhỏ. Đó là do sự hấp dẫn vốn có của cải lương và một phần do các nhà kinh doanh du lịch đã biết khéo léo kết hợp nghệ thuật bản địa này với nhiều loại hình du lịch khác. Tuy nhiên, nghệ thuật biểu diễn cải lương chính thống hiện nay đang đứng trước nguy cơ bị thương mại hoá, tầng lớp kế tục nghệ thuật đặc sắc này hiện nay quá ít ỏi, “như sao buổi sớm”. Đây không chỉ là trách nhiệm của các nghệ sỹ, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội, để gìn giữ nét văn hoá cổ truyền của dân tộc. Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Giải pháp nghệ thuật cải lương để phục vụ du lịch

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật cải lương cho du lịch […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993