Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Điều kiện phát triển loại hình du lịch từ thiện tại Hải Phòng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1 Khái quát về Hải Phòng

2.1.1 Điều kiện và tài nguyên du lịch tự nhiên

2.1.1.1 Vị trí địa lý

Hải Phòng là thành phố nằm trên bờ biển Đông miền Duyên hải Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội hơn 100km. Tổng diện tích tự nhiên là 152.318,49ha (số liệu thống kê năm 2001) chiếm 0,45% diện tích tự nhiên cả nước.

Về ranh giới hành chính, phía Bắc giáp Quảng Ninh, phía Nam giáp Thái Bình, phía Tây giáp Hải Dương, phía Đông giáp biển Đông.

2.1.1.2 Địa hình

Địa hình Hải Phòng thay đổi rất đa dạng, phản ánh một quá trình lịch sử địa chất lâu dài và phức tạp.

Khu vực phía Bắc Hải Phòng có dáng dấp của vùng trung du với những đồng bằng ven đồi, trong khi phần đất phía Nam lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng bằng thuần tuý nghiêng ra biển. Địa hình đồi núi chiếm khoảng 15% diện tích của cả thành phố nhưng lại phân tán hơn nửa phần ở Bắc thành phố tạo thành từng dải liên tục chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, có quá trình phát sinh gắn liền với hệ núi Quảng Ninh thuộc khu Đông Bắc Bộ về phía Nam. Đồi núi của Hải Phòng hiện nay là các dải đồi còn sót lại, di tích của nền móng uốn nếp cổ bên dưới, trước đây nơi này đã xảy ra quá trình sụt võng với cường độ nhỏ. Xen kẽ với đồi núi là những đồng bằng nhỏ phân tán rải rác các vùng trong thành phố. Hải Phòng có 62.127ha đất canh tác hình thành phần lớn từ phù sa của hệ thống sông Thái Bình và vùng đất bồi ven biển.

2.1.1.3 Khí hậu Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Hải Phòng nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới Bắc bán cầu, gần chí tuyến Bắc. Khí hậu Hải Phòng mang đặc điểm chung của khí hậu vùng đồng bằng miền Bắc và những đặc điểm riêng của vùng thành phố ven biển có nhiều đảo.

Tính chất nhiệt đới gió mùa của khí hậu Hải Phòng thể hiện có một mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều và một mùa đông lạnh ít mưa. Mùa đông lạnh kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3, mùa hạ nóng kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9.

Nhìn chung, khí hậu Hải Phòng tương đối ôn hoà. Nhiệt độ trung bình năm là từ 20oC – 23oC, trong tháng nóng nhất nhiệt độ có thể lên tới gần 40oC, thấp nhất có khi là 5oC. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600mm – 1800mm, thường hay có bão vào các tháng 7, 8, 9. Độ ẩm trung bình vào khoảng 80% – 85%. Trong cả năm có khoảng 1692,4 giờ nắng, bức xạ mặt đất trung bình là 117kcalcm/phút

Với điều kiện khí hậu như trên, Hải Phòng rất thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch tắm biển và nghỉ dưỡng.

2.1.1.4 Sông ngòi

Hải Phòng có hệ thống sông ngòi dày đặc, mật độ trung bình từ 0,6 – 0,8km/ km2.

Sông của Hải Phòng đều là chi lưu của sông Thái Bình đổ ra vịnh Bắc Bộ. Hải Phòng có 16 sông chính với hơn 300km toả rộng khắp thành phố như sông Thái Bình dài hơn 30km chảy vào địa phận Hải Phòng từ Quý Cao ngăn cách hai huyện Vĩnh Bảo và Tiên Lãng; sông Lạch Tray dài 45km chảy qua địa phận Kiến An, An Hải và vùng nội thành; sông Cấm dài hơn 30km ngăn cách giữa huyện Thuỷ Nguyên và An Hải; sông Bạch Đằng dài hơn 32km là ranh giới phía Bắc và Đông Bắc của Hải Phòng, Quảng Ninh

2.1.1.5 Bờ biển, biển và hải đảo Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Vùng biển Hải Phòng là một bộ phận thuộc Tây Bắc vịnh Bắc Bộ. Do đó, đặc điểm cấu trúc địa hình đáy biển và đặc điểm hải văn biển ở đây gắn liền với đặc điểm chung của vịnh Bắc Bộ và biển Đông.

Bờ biển dài hơn 125km (nếu bao gồm cả bờ biển xung quanh các đảo khơi thì là trên 300km). Bờ biển có hình như một đường cong lõm của bờ vịnh Bắc Bộ, thấp và khá bằng phẳng, có cấu tạo chủ yếu là bùn do 5 cửa sông chính đổ ra. Trên đoạn chính giữa bờ biển, mũi Đồ Sơn nhô ra như một hòn đảo, có cấu tạo đá cát kết (sa thạch), đỉnh cao nhất khoảng 125m, độ dài nhô ra biển khoảng 5km theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Chính những ưu thế về cấu trúc tự nhiên đã tạo cho Đồ Sơn có một vị trí chiến lược quan trọng về an ninh quốc phòng, mặt khác đây cũng là một điểm du lịch nổi tiếng thu hút nhiều du khách mỗi năm. Ngoài khơi thuộc địa phận Hải Phòng còn có nhiều đảo phân tán rải rác trên mặt biển, trong đó lớn nhất là đảo Cát Bà và Bạch Long Vĩ.

Bờ biển, biển và hải đảo của Hải Phòng rất đa dạng với nhiều cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, có giá trị cho việc khai thác phục vụ du lịch của thành phố.

2.1.1.6 Động – thực vật

Đây là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Hải Phòng, nhất là sinh vật biển với gần 1.000 loài tôm cá, hàng chục loại rong biển với nhiều loại có giá trị kinh tế cao như tôm he, tôm hùm, bào ngư, tu hài, ngọc trai, cua biển. Hải Phòng còn có 12.000ha vừa phục vụ cho khai thác vừa có thể nuôi trồng thuỷ sản nước mặn và nợ. Bên cạnh đó, Hải Phòng còn có rừng ngập mặn và rừng cây lấy gỗ, cây ăn quả với diện tích 17.000ha. Rừng nguyên sinh Cát Bà với thảm thực vật phong phú, đa dạng, trong đó có những loài quý hiếm ở Việt Nam như lát hoa, kim giao, đinh hệ động vật đa dạng với 69 loài chim, 20 loài thú, 15 loài bò sát, 11 loài ếch nhái, 105 loài cá, 100 loài thân mềm, 60 loài giáp xác.

2.1.1.7 Các thắng cảnh tự nhiên

Do đặc điểm địa hình cùng với những biến đổi phức tạp về địa chất trong quá trình hình thành đã tạo nên những thắng cảnh tuyệt đẹp cho Hải Phòng như những hang động ở núi Voi – ngọn núi cao nhất ở phía Bắc Kiến An, bên bờ sông Lạch Tray. Dưới chân núi là động Long Tiên – nơi thờ nữ tướng Lê Chân. Bênh cạnh đó, núi Voi còn có nhiều hanh động đẹp như hang Họng Voi, hang Chiêng, hang Bể, động chùa, động Bàn Cờ Tiên. Trong các hang động có nhũ đá muôn hình muôn vẻ và du khách còn có thể đứng trên đồi thiên văn ở núi Voi để quan sát được toàn cảnh thành phố. Ngoài ra, còn có những hang động ở Tràng Kênh (Thuỷ Nguyên), đây là một thắng cảnh đẹp lại chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.

Khi nói tới các thắng cảnh của Hải Phòng không thể không nhắc đến Đồ Sơn và đảo Cát Bà, đây là hai thắng cảnh nổi tiếng bấc nhất của thành phố được khai thác từ thời Pháp thuộc. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Bãi biển Đồ Sơn cách trung tâm thành phố hơn 20km về phía Đông Nam, nằm giữa hai cửa sông Văn Úc và sông Lạch Tray. Đây là một bán đảo với đồi núi, rừng cây nối tiếp nhau vươn ra biển đến 15km. Dưới thời Pháp thuộc, Đồ Sơn đã được phát hiện và trở thành khu nghỉ mát lý tưởng của các quan chức Pháp và giới thượng lưu người Việt. Bãi biển Đồ Sơn được chia làm ba khu, mỗi khu đều có bãi tắm, đồi núi, rừng thông yên tĩnh.

Từ đất liền hay từ Đồ Sơn, du khách có thể đi bằng tàu hay tàu cao tốc tới thăm đảo và vườn quốc gia Cát Bà. Quần đảo Cát Bà nằm kề bên Vịnh Hạ Long với hàng trăm núi, đảo nổi lên giữa biển mênh mông. Điều kiện khí hậu chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa lại mang tính chất hải dương nên về mùa hè mát mẻ kết hợp với địa hình đa dạng, xen kẽ giữa các hang động kỳ thú là các bãi cát trắng mịn như Cát Cò, Cát Dứa Cát Bà thực sự là “hòn đảo ngọc” của thành phố và là tiềm năng lớn cho việc khai thác phục vụ du lịch.

Tài nguyên du lịch tự nhiên của Hải Phòng là khá đa dạng và phong phú được hình thành bởi đặc điểm tổng hợp của các yếu tố địa chất – địa hình, khí hậu, động – thực vật. Với nguồn tài nguyên này, ở Hải Phòng có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch như sinh thái, thể thao, nghỉ dưỡng, thăm quan, tắm biển.

Có thể bạn quan tâm:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2 Điều kiện kinh tế – xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn

2.1.2.1 Kinh tế

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của cả nước, kinh tế Hải Phòng có những sự tăng trưởng với tốc độ cao. Hải Phòng vốn nổi tiếng với cái tên thành phố Cảng. Cảng Hải Phòng là một trong những cảng được xây dựng đầu tiên trên cả nước, hàng năm đón hàng trăm chuyến tàu chở hàng, chở du khách từ nhiều quốc gia cập bến. Do vị trí địa lý và tài nguyên biển phong phú nên Hải Phòng có ưu thế về kinh tế biển và cảng biển. Với vị thế là một trong những cảng biển lớn nhất Việt Nam, cảng Hải Phòng kéo dài hơn 12km gồm những cảng hàng rời, cảng container, cảng hàng nặng với năng suất xếp dỡ hơn 9 triệu tấn/ năm. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Hiện nay, trong cơ cấu kinh tế Hải Phòng, công nghiệp – xây dựng giữ vai trò chủ đạo, chiếm 40% GDP với các ngành mũi nhọn như công nghiệp sản xuất kim loại, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất thiết bị điện Các khu công nghiệp mọc lên ngày càng nhiều góp phần không nhỏ vào việc khẳng định vị thế của công nghiệp trong nền kinh tế Hải Phòng. Bên cạnh thế mạnh về công nghiệp – xây dựng, số lượng các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và các lễ hội đã giúp cho ngành du lịch, dịch vụ ngày càng phát triển đóng góp hơn 50% trong GDP toàn thành phố.

2.1.2.2 Văn hoá- xã hội

Nguồn nhân lực của Hải Phòng khá dồi dào, dân số tính đến năm 2009 là hơn 1,8 triệu người, trong đó có gần 1 triệu người trong độ tuổi lao động. Trong những năm qua, đời sống xã hội của Hải Phòng có nhiều chuyển biến tích cực, hơn 90% dân số trong độ tuổi lao động có việc làm. Hệ thống điện thoại, nước sạch đã đưa đến tận các địa bàn vùng sâu, vùng xa trên thành phố. Hải Phòng là một trong số ít các địa phương có bác sĩ công tác tại cấp xã, các trung tâm y tế quận, huyện được đầu tư xây dựng và nâng cấp đảm bảo chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Hải Phòng là thành phố luôn thực hiện tốt công tác giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên tại các trường Trung học, Tiểu học luôn được đảm bảo. Hiện nay, trên địa bàn thành phố có bốn trường Đại học, nhiều trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp của Bộ giáo dục và thành phố quy tụ hàng ngàn sinh viên mỗi năm từ hầu hết các tỉnh, thành khu vực phía Bắc.

2.1.2.3 Tài nguyên du lịch nhân văn

Hải Phòng là vùng cửa biển tiền tiêu. Xưa Hải Phòng đã có tên là “Hải tần phòng thủ” là mảnh đất chứa đựng nhiều sự kiện lịch sử, đã để lại dấu ấn qua số lượng lớn các di tích. Các di tích của Hải Phòng không những có giá trị lịch sử mà còn có giá trị về mặt kiến trúc, nghệ thuật. Nhiều di tích nằm trong các khu danh thắng hoặc bản thân là một danh thắng như hang Vua, Núi Voi, Đền Trần Quốc Bảo, Hải Phòng lại là miền đất có nhiều lễ hội, có những lễ hội nổi danh không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài như hội chọi trâu Đồ Sơn. Hải Phòng còn có nhiều làng nghề thủ công truyền thống đặc sắc có sức thu hút khách du lịch.

Cho đến nay theo thống kê chưa đầy đủ, toàn thành phố có khoảng 300 di tích, mật độ trung bình 19,9 di tích/km2. Như vậy Hải Phòng là một trong 7 tỉnh, thành phố của cả nước có mật độ di tích cao.Tính đến năm 2003 toàn thành phố đã có 89 di tích được công nhận xếp hạng di tích quốc gia như Đền Nghè, Đình Kênh, chùa Dư Hàng, Miếu Ngà… [ 1;12 ]. Có thể nói các di tích lịch sử Hải Phòng có giá trị cao đối với phát triển du lịch, nếu được tổ chức quản lý và khai thác một cách hợp lý để có thể phát huy được giá trị các tài nguyên quý giá này thì chắc chắn sẽ đem lại những đóng góp hiệu quả cho sự phát triển du lịch của thành phố. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Thành phố còn có nhiều công trình kiến trúc đẹp như nhà hát lớn, bảo tàng thành phố, nhiều biệt thự cổ là đối tượng cho khách du lịch tìm hiểu, thăm quan.

Là vùng đất biển nên Hải Phòng có những món ăn đặc sản biển nổi tiếng như: cua biển rang muối, nước mắm Cát Hải, tu hài Cát Bà

Về sinh hoạt văn hoá dân gian phải kể đến hát Đúm, hát Ca trù, múa rối nước Phong tục tập quán của người Hải Phòng, truyền thống của người Hải Phòng một nét đặc trưng văn hoá của vùng biển cũng là nguồn tài nguyên nhân văn để phát triển du lịch và bảo tồn văn hoá truyền thống.

2.2 Hoạt động du lịch ở Hải Phòng

2.2.1 Nguồn khách

Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế và chính sách mở cửa của nhà nước ta bao gồm những chính sách kích thích du lịch phát triển: chính sách giảm giá, chính sách miễn thị thực visa với một số nước làm cho lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng. Bên cạnh đó, đời sống của nhân dân ta ngày càng được nâng cao, từ đó làm nảy sinh nhu cầu đi du lịch càng nhiều nên lượng khách nội địa cũng tăng lên.

Trong những năm gần đây, từ năm 2005 cùng với sự gia tăng nhanh của dòng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, dòng khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng cùng gia tăng đáng kể. Theo số liệu thống kê của Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch Hải Phòng thì lượng khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng tăng rõ rệt. Bảng 1: Số lượng khách du lịch đến Hải Phòng giai đoạn 2005 – 2009

Biểu đồ thể hiện số lượng khách du lịch nội địa và quốc tế đến Hải Phòng giai đoạn 2005 – 2009

Qua biểu đồ ta thấy tốc độ tăng trưởng của khách du lịch quốc tế năm 2006 là 18,5%, năm 2007 là 18,54%, năm 2008 là -7%. Năm 2008 có giảm so với những năm trước là vì khủng hoảng kinh tế thế giới, giá cả tiêu dùng tăng cao nên xu hướng chi tiêu tiết kiệm hơn và do đường bay quốc tế Hải Phòng – Hồng Kông/ Ma Cao vẫn chưa hoạt động lại, những sự kiện thể thao trên thế giới được tổ chức (thế vận hội Olympic Bắc Kinh, vòng chung kết bóng đá châu Âu) làm giảm nhu cầu đi du lịch của du khách đến Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Năm 2009 là năm có nhiều biến động, do thành phố chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự suy thoái về nền kinh tế thế giới, sự bùng phát và lây lan của dịch bệnh nên khách quốc tế đến Hải Phòng có chiều hướng giảm nhẹ. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Thị trường khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng trong thời gian qua đã thay đổi căn bản. Trong thời kỳ bao cấp, thị trường khách chính của Hải Phòng là khách du lịch các nước Đông Âu và Liên Xô cũ theo các hiệp định đã ký kết giữa các tổ chức công đoàn, đoàn thể với giá bao cấp, đồng thời được phân bổ tương đối đồng đều giữa các tháng trong năm. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, do những biến động của Đông Âu và Liên Xô cũ làm mất đi hầu hết khách từ thị trường các nước này đến Hải Phòng. Thay vào đó là các thị trường chủ yếu như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Pháp… là những thị trường khách hầu như chưa đến hoặc ít đến Hải Phòng. Một thị trường khách du lịch lớn nhất và phù hợp với sản phẩm du lịch đặc trưng của Hải Phòng là Trung Quốc. Thị trường khách này có nhiều điểm thuận lợi như: sự gần gũi về mặt địa lý, văn hoá, phong tục… nhưng trong thời gian qua vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả. Khách quốc tế đến Hải Phòng chiếm trung bình khoảng 20% so với tổng lượng khách. Nếu khai thác tốt nguồn khách này thì du lịch Hải Phòng sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn nữa.

Hiện nay, Hải Phòng đang đẩy mạnh hoạt dộng kinh doanh lữ hành, đặc biệt là kinh doanh lữ hành quốc tế. Các doanh nghiệp lữ hành tập trung vào khai thác các thị trường khách trọng điểm như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước ASEAN…

Khách du lịch nội địa đến Hải Phòng chủ yếu từ Hà Nội, Quảng Ninh và các tỉnh phụ cận. Thị trường khách nội địa chiếm tỷ lệ 80% so với tổng lượng khách đến Hải Phòng. Khách nội địa liên tục tăng trong những năm trở lại đây. Nguyên nhân cơ bản là chính sách giảm giờ làm, tăng thời gian nghỉ ngơi cho cán bộ viên chức Nhà nước, chính sách tiền lương được điều chỉnh, đời sống nâng cao đã tạo điều kiện cho người dân có cơ hội đi du lịch nhiều hơn.

Mục đích chủ yếu của khách du lịch nội địa khi đến Hải Phòng là nghỉ dưỡng, tắm biển, thăm quan… Theo thống kê của Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch Hải Phòng (Bảng 1) thì lượng khách du lịch nội địa đến Hải Phòng trong những năm gần đây có sự gia tăng đáng kể. Năm 2006 là 23%, năm 2007 là 23,1%, năm 2008 là 11,41%. Năm 2009 là thành phố tổ chức một số sự kiện quảng bá, xúc tiến lớn về du lịch: lễ hội kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ về thăm làng cá Cát Bà, khai trương du lịch Hải Phòng năm 2009, liên hoan du lịch “Đồ Sơn – Biển gọi 2009”, tổ chức 2 môn thể dục Aerobics và bắn cung trong chương trình Đại hội Thể thao châu Á trong nhà lần thứ 3 năm 2009 do Việt Nam đăng cai, do đó lượng khách du lịch nội địa đến Hải Phòng tăng lên. Hải Phòng đang dần trở thành trung tâm du lịch hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế.

2.2.2 Doanh thu từ du lịch Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) đã áp dụng hệ thống thống kê cho các nước thành viên về thu nhập du lịch được tính bằng toàn bộ số tiền mà khách du lịch phải chi trả khi đi thăm một nước khác (trừ chi phí cho việc vận chuyển hàng không quốc tế). Tuy nhiên, ở nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng, hệ thống thống kê chưa được hoàn chỉnh nên toàn bộ các khoản chi trả của khách du lịch trong toàn bộ chương trình du lịch chưa tập hợp được đầy đủ và chính xác. Ngược lại, trên thực tế có những doanh nghiệp du lịch tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, kinh doanh tổng hợp… nhưng thu nhập này lại được tính cho ngành du lịch, điều này cũng chưa hợp lý. Chính vì lẽ đó mà theo thống kê sự đóng góp của ngành du lịch trong nền kinh tế chưa đầy đủ và chuẩn xác.

Do điểm xuất phát của du lịch Hải Phòng thấp nên trong giai đoạn đầu của sự phát triển tốc độ tăng trưởng ở mức cao, những năm tiếp theo du lịch Hải Phòng vẫn duy trì được mức tăng trưởng đáng khích lệ.

Cơ cấu doanh thu du lịch vẫn chủ yếu là từ dịch vụ lưu trú và ăn uống (chiếm 65% – 75%). Thu nhập từ các dịch vụ du lịch khác như bán hàng lưu niệm, vận chuyển, đổi tiền, bưu chính, vui chơi giải trí… chỉ chiếm khoảng từ 25% – 35% tổng doanh thu. Đó là một tồn tại cần khắc phục trong hoạt động kinh doanh du lịch của du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Hải Phòng nói riêng. [ 1;28 ]

Doanh thu từ khách du lịch gia tăng nhanh chóng là tiền đề nâng cao đóng góp GDP của du lịch Hải Phòng nói chung vào tổng GDP của thành phố. Bên cạnh đó, một số ngành mũi nhọn của Hải Phòng như công nghiệp, chế biến, may mặc… vẫn duy trì được ở mức độ cao, qua đó đã nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tạo môi trường đầu tư sản xuất kinh doanh thông thoáng hơn, các dịch vụ kinh doanh trong đó có hoạt động du lịch phát triển nhanh và bền vững hơn. Điều này cũng phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước là dịch chuyển nền kinh tế theo hướng tăng dần tỉ trọng của khu vực kinh tế dịch vị trong nền kinh tế quốc dân.

Qua số liệu thống kê của Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch có thể thấy được doanh thu từ du lịch ở thành phố có sự tăng trưởng cao. Bảng 2: Doanh thu từ du lịch ở Hải Phòng giai đoạn 2005 – 2009

2.3 Những điều kiện để phát triển loại hình du lịch từ thiện tại Hải Phòng

2.3.1 Hoạt động từ thiện tại Hải Phòng

Thành phố Hải Phòng là một trong những thành phố lớn của đất nước. Trong những năm gần đây, Hải Phòng đã đạt nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, các chỉ tiêu kinh tế – xã hội tăng trưởng khá, nhiều công trình xây dựng tầm khu vực và quốc gia đã được đưa vào sử dụng. Nhiều vấn đề bức xúc của xã hội từng bước được giải quyết. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, bước vào nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu còn có mặt trái của cơ chế ngày càng bộc lộ trên một sỗ lĩnh vực đời sống xã hội. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng. Một bộ phận nhân dân đời sống gặp rất nhiều khó khăn. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Theo số liệu điều tra của nhiều ngành chức năng thành phố, những năm qua tại Hải Phòng, tỷ lệ hộ nghèo còn 5%, số người già cô đơn không nơi nương tựa là 3.700 người, số trẻ em mồ côi là 1.154 em, số người tàn tật là 26.793 người và vẫn còn rất nhiều nhà tranh vách đất. [ 11 ]

Nhằm giúp đỡ đồng bào đang gặp khó khăn vươn lên hoà nhập cộng đồng, phong trào từ thiện nhân đạo ở Hải Phòng diễn ra rất sôi nổi trong mọi tổ chức, mọi tầng lớp xã hội với phương châm “ người người làm việc thiện, nhà nhà làm việc thiện”, với nhiều hình thức phong phú ở nhiều địa bàn trong thành phố như phong trào giúp đỡ người già cô đơn, người tàn tật, người bị nhiễm chất độc màu da cam, phong trào làm nhà tình thương, nhà tình nghĩa, tổ chức lớp dạy nghề, phòng khám bệnh miễn phí… đã đem lại kết quả khả quan.

Trên địa bàn Hải Phòng có rất nhiều các trung tâm từ thiện: Làng Trẻ SOS, Làng trẻ Hoa Phượng, Trung tâm bảo trợ xã hội thành phố Hải Phòng… và rất nhiều các tổ chức hội làm từ thiện: Hội từ thiện Hải Phòng, Hội chữ thập đỏ Hải Phòng, Hội nạn nhân chất độc màu da cam, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi Hải Phòng, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hải Phòng, Hội Liên hiệp phụ nữ… cùng với các nhóm từ thiện của học sinh sinh viên toàn thành phố: nhóm Ngọn lửa nhỏ, Hải Đăng…

Hội từ thiện thành phố Hải Phòng được thành lập và hoạt động đúng theo tên của mình “Hội từ thiện”. Hội được thành lập theo quyết định số 865/QĐ- UB ngày 27/9/1990 với mục đích giúp đỡ đồng bào có hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh, người già cô đơn, trẻ mồ côi không nơi nương tựa… Đây là tổ chức xã hội của những người giàu lòng nhân ái, tự nguyện làm công việc từ thiện. Nội dung hoạt động của Hội là tuyên truyền sâu rộng trong cộng đồng về truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân… của dân tộc góp phần xây dựng nếp sống văn hóa, nhân ái, vị tha và ý thức trách nhiệm trong cộng đồng. Tích cực vận động các cá nhân, tập thể, các tổ chức kinh tế – xã hội của Việt Nam và nước ngoài ở Hải Phòng và các tỉnh khác, đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, các cá nhân và tổ chức quốc tế… ủng hộ và tham gia vào các chương trình từ thiện, nhân đạo của Hội. Phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ngành hữu quan, các tổ chức tôn giáo, các cá nhân và tập thể trong và ngoài nước…tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện trong thành phố. Ngày 22/12/2008 Hội từ thiện thành phố kết hợp với Uỷ ban Đoàn kết Công giáo tổ chức tặng 114 chăn ấm nhân mùa Giáng sinh cho học sinh lang thang trong lớp học tình thương của Nhà thờ Chánh toà và cho các giáo dân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở các giáo xứ của các quận, huyện Lê Chân, Hồng Bàng, An Dương và Thuỷ Nguyên. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Trong những năm qua, với tinh thần nỗ lực không ngừng của các cán bộ hội viên, Hội từ thiện đã làm tốt công tác từ thiện thông qua các chương trình từ thiện. Hội đã duy trì chương trình trợ dưỡng thường xuyên hàng tháng cho các cháu mồ côi, người tàn tật, người già cô đơn không nơi nương tựa cho 107 người; phát học bổng cho 454 em học sinh nghèo vượt khó học giỏi với hơn 100 triệu đồng; tặng 930 chăn ấm cho người già và người nghèo; trợ cấp cho người nghèo khó và tặng quà nhân dịp Tết Mậu Tý 2008… với tổng số tiền chi cho các chương tình từ thiện lên đến hơn 429 triệu đồng [ 11 ]. Qua đó ta thấy được công tác tuyên truyền từ thiện nhân đạo trong các tầng lớp nhân dân được quan tâm đẩy mạnh, mạng lưới cộng tác viên hoạt động từ thiện ngày càng phát triển và hoạt động có hiệu quả. Trong thời gian tới, Hội tiếp tục duy trì mở rộng các chương trình trợ dưỡng thường xuyên hàng tháng đối với người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật và tiến hành một số biện pháp để mở rộng mạng lưới cầu nối những tấm lòng nhân ái đối với công tác từ thiện giúp đỡ người nghèo khó được tốt hơn.

Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi thành phố Hải Phòng trong những năm qua đã có những đóng góp không nhỏ vào chương trình chăm sóc đời sống người tàn tật, trẻ mồ côi thành phố bằng nhiều hình thức phong phú. Ngoài việc phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể quần chúng và nhân dân trong việc chăm sóc đời sống cho người tàn tật, trẻ mồ côi về vật chất và tinh thần, các cấp hội bảo trợ của thành phố còn tăng cường mở rộng quan hệ với tổ chức Hội tại các tỉnh, thành phố bạn, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài như Hands of Hope, Tổ chức hỗ trợ nhân đạo cho trẻ Việt Nam, Sứ mệnh xe lăn, Trả lại tuổi thơ cho trẻ em… để tranh thủ sự ủng hộ về vật chất, tinh thần, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc người tàn tật và trẻ mồ côi trên địa bàn thành phố.

Trong thời gian qua, Hải Phòng đã nghiêm túc chấp hành Pháp lệnh về Người tàn tật và đã xác định việc chăm lo, trợ giúp người tàn tật là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của thành phố. Hàng năm, trên cơ sở điều tra rà soát, phân loại các đối tượng người tàn tật, địa phương đã chỉ đạo các ngành, các cấp, đặc biệt quán triệt, hướng dẫn đội ngũ cán bộ làm công tác thương binh xã hội ở cơ sở thực hiện các chương trình, chế độ chính sách, chăm lo cho người tàn tật cả về đời sống vật chất và tinh thần. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã thực hiện đúng, đầy đủ các chế độ và trợ cấp xã hội thường xuyên cho gần 22.000 người tàn tật, với tổng kinh phí gần 20 tỷ đồng/năm. Số người tàn tật nặng, có hoàn cảnh khó khăn được xét hưởng trợ cấp thường xuyên. [ 12 ] Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Để giúp người tàn tật có cơ hội tìm và tự tạo việc làm, các quận, huyện, các tổ chức xã hội, trường dạy nghề cho người tàn tật, Hội Liên hiệp Phụ nữ đã tổ chức nhiều lớp dạy nghề miễn phí, đào tạo nghề vừa học vừa làm cho 2.684 người tàn tật. Thông qua chương trình vay vốn giải quyết việc làm, trong 5 năm qua đã có 5.065 người được tạo việc làm, trong đó có 2.050 lượt người được hỗ trợ vay tổng số vốn quay vòng là 3.862.600.000 đồng. Cũng tại thành phố đã hình thành 70 cơ sở sản xuất kinh doanh của người tàn tật, thu hút gần 2.000 người vào làm việc. [ 12 ]

Bên cạnh các tổ chức hội, học sinh- sinh viên cũng rất tích cực tham gia làm từ thiện không chỉ trong địa bàn thành phố mà còn ở các tỉnh khác. Đây là đội ngũ nhiệt tình, sôi nổi và họ đã thổi vào hoạt động từ thiện một luồng gió mới.

Thành phố Hải Phòng đang tích cực thực hiện theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc xã hội hoá hoạt động từ thiên “ Toàn xã hội tham gia làm việc thiện”.

2.3.2 Những điểm làm từ thiện tại Hải Phòng có thể kết hợp vào tour du lịch

  • Làng Trẻ SOS – đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, cách khách sạn Nam Cường Hải Phòng 3km.
  • Làng Trẻ Hoa Phượng – 486A Ngô Gia Tự – phường Cát Bi – quận Hải An- Hải Phòng.
  • Trung tâm Bảo trợ xã hội thành phố Hải Phòng – An Lão – Hải Phòng
  • Nhà tình thương Niệm Nghĩa
  • Trung tâm trẻ bị nhiễm chất độc màu da cam Thiện Giao, tổ 8 – phường Ngọc Xuyên – Quận Đồ Sơn – Hải Phòng.
  • Nhà tình thương xứ An Toàn, xã Tân Thành – quận Dương Kinh – Hải Phòng.
  • Trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi quận Kiến An – phường Văn Đấu – quận Kiến An – Hải Phòng.
  • Làng mồ côi Philis Hope – 47 Phố Mới – xã Thuỷ Sơn – huyện Thuỷ Nguyên – Hải Phòng.
  • Thôn Bính B (còn được gọi là “xóm liều”, “xóm ăn mày”) – xã Tân Dương – huyện Thuỷ Nguyên – Hải Phòng.

2.4 Xây dựng một số tour du lịch từ thiện tại Hải Phòng Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Du lịch từ thiện là một loại hình du lịch còn khá mới mẻ với người dân Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Loại hình du lịch này trước hết là hướng tới thu hút đối tượng khách du lịch quốc tế, đặc biệt là khách đến từ những nước có nền kinh tế phát triển mạnh và đã quen thuộc với loại hình du lịch này. Đối với khách du lịch nội địa, có thể tập trung vào hai đối tượng chính: những người nghỉ hưu, phụ nữ buôn bán, họ thích đi đền chùa và làm các việc thiện để mong sẽ bình an, may mắn; học sinh, sinh viên, đây là đối tượng trẻ có lòng nhiệt huyết, năng động, sôi nổi, muốn trải nghiệm cuộc sống, muốn góp công sức nhỏ bé của mình để giúp đỡ những người khó khăn.

Tour 1: Trung tâm thành phố – Làng trẻ Hoa Phượng – Chùa Phổ Chiếu – Chùa Vẻn – Chùa Hàng. (1 ngày)

  • 6h45 đón khách tại địa điểm thoả thuận.
  • 7h đoàn ghé thăm tượng nữ tướng Lê Chân, quán Hoa, nhà hát Lớn
  • 08h30 đến Làng trẻ Hoa Phượng làm từ thiện.
  • 11h xe đưa đoàn về ăn trưa tại nhà hàng.
  • 12h45 đoàn khởi hành đến thăm chùa Chiếu, chùa Vẻn, chùa Hàng.
  • 17h xe đưa đoàn về cổng Khách sạn sinh viên.

Bài thuyết minh:

Buổi sáng, xe đưa đoàn đến trung tâm thành phố. Dải công viên trung tâm thành phố Hải Phòng là một điểm du lịch hấp dẫn. Tại nơi đây có thể thăm quan tượng đài nữ tướng Lê Chân, chiêm ngưỡng nét cổ kính của nhà hát thành phố, sự thanh lịch của Quán Hoa… Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Trong dải công viên trung tâm, tượng nữ tướng Lê Chân được đặt uy nghi trước cửa Nhà triển lãm. Tượng được đúc bằng đồng, cao 7,49m, cả bệ cao 10,09m, riêng lông chim trên đầu cao 0,7m. Tượng năng 19 tấn, là một trong những bức tượng nặng nhất Việt Nam, sau tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (ở Nam Định). Tượng nữ tướng Lê Chân là mẫu dự thi của hai hoạ sĩ Nguyễn Phúc Cường và Nguyễn Mạnh Cường, do Công ty đúc đồng Hải Phòng thực hiện. Nữ tướng có khuôn mặt đôn hậu, trẻ trung, đứng nhìn ra biển Đông, dáng hiên ngang, vững chãi, tay cầm đốc kiếm như đang quan sát để chuẩn bị một kế hoạch chống giặc, dựng ấp. Đó là vóc dáng của nữ tướng đã có công trong việc khai lập làng An Biên xưa và cùng với Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống giặc xâm lược. Người dân Hải Phòng Tự hào là con cháu của nữ tướng Lê Chân.

Tiếp theo đoàn sẽ đi bộ lên chiêm ngưỡng nhà hát lớn và Quán Hoa. Nhà hát Lớn thành phố nằm trên phố Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hồng Bàng. Năm 1904. Pháp đuổi chợ, lấy đất xây Nhà hát Lớn. Theo thiết kế, nguyên vật liệu xây dựng đều mang từ Pháp sang. Việc xây dựng do thợ Việt Nam thực hiện dưới sự chỉ đạo của kiến trúc sư Pháp. Nhà hát Lớn cao hai tầng, mái vòm, trang trí lẵng hoa, có 600 ghế. Thời Pháp thuộc, đây là nơi sinh hoạt chính trị, văn hóa của người Pháp và người giàu bản xứ. Thời ấy, chỉ những gánh hát từ Pháp sang hoặc những gánh hát nổi tiếng cả nước mới được biểu diễn. Đây cũng là nơi hàng năm phát phần thưởng cho học sinh giỏi. Quảng trường Nhà hát thành phố có tên là Place Théâtre municipal. Sân nhà hát có hai cột đèn bằng gang theo kiểu cột đèn Pháp. Thân đèn cũng bằng gang có hoạ tiết hoa văn xung quanh, năm 1985, được thay bằng hai cột xi măng với hệ thống đèn hiện nay. Trước đây, ở mặt trước Nhà hát, hai bên có trang trí tượng thiếu nữ Pháp; xung quanh sân có bồn cỏ, trồng dừa và đặt một số ghế gỗ, nay không còn. Ngày nay, Nhà hát Lớn thành phố là nơi hội họp vào những ngày lễ lớn.

Theo các tài liệu hiện có, quán hoa Hải Phòng do đốc lý Luyxiani chủ trì xây dựng và chánh lục lộ Gôchiê phụ trách thiết kế kỹ thuật. Để xây dựng công trình người ta đã phải chọn lựa từ hàng chục mẫu thiết kế của nhiều kiến trúc sư trong cả nước để làm sao chọn công trình phù hợp với quần thể kiến trúc xung quanh, nhưng vẫn giữ được phong cách nghệ thuật Phương Đông.

Tổng số có 5 quán hoa, mỗi quán có diện tích rộng gần 20m2, cao gần 4m, các quán các nhau 6m, toàn bộ trải đều trên diện tích 300m2. Quán được thiết kế 4 cột gỗ lim, chân kê đá, hệ thống dầm dui cũng bằng gỗ lim, 4 mái lợp ngói mũi. Sau nhiều lần tu tạo, đến nay kiến trúc chung của 5 quán hoa đã lược giản đi ít nhiều nhưng vẫn giữ được hình thể ngày đầu xây dựng.

Theo các bậc cao niên kể lại: sau lễ khánh thành quán hoa khoảng tháng 8 năm 1944, trước ngày Nhật đảo chính Pháp, tại mỗi quán hoa ngày ấy thường có 2 phụ nữ mặc áo dài tân thời đứng bán hoa tươi cho mọi người.

Quán hoa nay vẫn còn đó, tuy không còn thấy những góc đao cong của mái đình, đường diềm trạm soi hoa lá cách điệu ở mái quán, các đá bệ xếp hoa và cả hai dàn hoa lẵng tiêu và tigôn ở đầu dãy quán giáp với đường Nguyễn Đức Cảnh cũng bị thời gian huỷ hoại. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Ngày nay, tại địa điểm này, nếp xưa vẫn còn được duy trì, người bán hoa tươi hầu hết đều còn trẻ, phong cách bán hàng cùng khác xưa nhưng đã có nhiều chủng loại hoa hơn, đẹp hơn trước nhiều. Quán hoa như một điểm nhấn trong dải trung tâm đô thị Hải Phòng tạo nên nét đẹp riêng, duyên dáng của thành phố Cảng.

Sau đó đoàn ghé thăm tặng quà và vui chơi với các em tại Làng Trẻ Hoa Phượng. Đây là trung tâm chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em khuyết tật bị bỏ rơi. Làng hiện có 8 gia đình – 8 mái ấm yêu thương được đặt những cái tên rất đáng yêu như Vàng Anh, Hoạ Mi, Hải Âu… với khoảng 70 em mồ côi, thiểu năng trí tuệ, trẻ sơ sinh bị bỏ rơi… chủ yếu các em ở độ tuổi 2- 15 tuổi. Làng nuôi dạy các em đến khi các em đủ 18 tuổi, có thể tự lo cho bản thân, tự lập bước ra với cuộc sống bên ngoài. Ngoài ra, những năm gần đây Làng còn bắt đầu nhận thêm đối tượng trẻ lang thang, trẻ đường phố để giúp các em trở về với gia đình. Nhà cửa và cơ sở vật chất của Làng giờ đã khang trang hơn nhiều nhưng về đời sống tinh thần và sinh hoạt hàng ngày của các em vẫn còn có nhiều khó khăn.

Buổi chiều, đoàn đến thăm một số điểm du lịch nhân văn tại Hải Phòng. Trước hết đoàn sẽ vào thăm chùa Phổ Chiếu thuộc phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân. Chùa được xây dựng trên khu đất rộng, quay hướng Đông, phía sau là con đường liên xã chạy qua. Chùa bố trí theo lối kiến trúc kiểu chữ “công” gồm 5 gian tiền đường, 3 gian ống muống và 3 gian hậu cung.

Về lịch sử hình thành, ngôi chùa ra đời khá muộn. Năm 1953, sư cụ Ngô Chân Tử người làng Cao Mại, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã đến xây dựng chùa và trụ trì tại đó. Lúc đầu, chùa được gọi là Tam Giáo Đường thờ 3 tôn giáo là Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo. Đây là nét thường gặp ở các ngôi chùa của Việt Nam. Nó thể hiện sự hoà hợp về tôn giáo (tam giáo đồng nguyên) và sự hoà hợp của dân tộc.

Tượng pháp chùa Phổ Chiếu được bài trí từ cao xuống thấp, gồm các pho Tam Thế, Cửu Long cùng các bức hoành phi, câu đối, cửa võng tuy còn đơn giản nhưng tất cả tạo nên một vẻ đẹp toàn diện và trang nghiêm của ngôi chùa. Gian tiền đường đặt hương án sơn son thiếp vàng thờ Phật, hai bên đặt pho tượng Hộ Pháp, khuyến thiện và trừ ác là những pho tượng có giá trị nghệ thuật cao. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Năm 1954, hoà thượng Thích Thanh Quang người phái Lâm Thế, Sơn môn Trà Lũ Trung, huyện Xuân Thuỷ, tỉnh Nam Hà từ chùa Vọng Cung (Nam Định) về trụ trì, đổi tên là chùa Phổ Chiếu. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa là một trong những địa điểm bí mật nuôi giấu cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thời kỳ 1954 – 1955, chùa lại được Liên hiệp Công đoàn thành phố (nay là Liên đoàn lao động) chọn là nơi hội họp và chỉ đạo nhân dân đấu tranh chống địch di chuyển máy móc và cưỡng ép người di cư vào Nam. Những năm tháng chống Mỹ, một lần nữa chùa là nơi đặt Sở chỉ huy của giám đốc Công an thành phố Hải Phòng.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, chùa Phổ Chiếu từ buổi đầu khởi dựng với tên Tam Giáo Đường không còn giữ được nguyên trạng của ngôi chùa làng Dư Hàng Kênh. Thể theo nguyện vọng của tăng ni, tín đồ phật tử và của nhân dân, chùa Phổ Chiếu được trùng tu vào năm 1985. Đặc biệt từ khi Đại đức Thích Thanh Giác lên trụ trì chùa năm 1989 đã quyên góp công sức của nhân dân, tín đồ phật tử mở mang, xây dựng thêm để ngôi chùa có diện mạo khang trang như ngày nay.

Hiện nay, ngoài kiến trúc hình chữ “công” của ngôi chùa chính, chùa còn xây thêm tả vu và hữu vu. Độc đáo hơn cả là chùa còn xây dựng một ngôi chùa nhỏ giữa hồ nước, mô phỏng theo kiểu kiến trúc chùa Một Cột Hà Nội. Bốn góc đắp nổi hình 4 con rồng đang trườn từ dưới mặt nước vươn lên và hướng về ngôi chùa nhỏ, làm khung cảnh của ngôi chùa vừa mang dáng vẻ thâm nghiêm lại vừa mang dáng vẻ hiện đại.

Ngoài ra, phía bên phải chùa là vườn tháp, nơi đặt xá lị của các nhà sư đã từng trụ trì ở đây. Phía bên trái của chùa có một ngọn tháp cao 9 tầng, trên đỉnh tháp là một bầu rượu tượng trưng cho bầu nước Cam Lồ của Phật Bà Quan Âm đặt trên đài sen. Trên bờ nóc của gian tiền đường có đặt một nậm rượu to, hai bên đầu hồi phía trước đắp đấu vuông, trên mỗi đấu vuông đó là 5 bầu rượu nhỏ thể hiện sự đồng nguyên của 3 tôn giáo Phật – Lão – Nho.

Hiện nay, chùa không ngừng được tu sửa để ngày càng khang trang phục vụ đời sống tâm linh của người dân địa phương. Sự hiện diện của ngôi chùa Phổ Chiếu to đẹp như ngày nay ở một xã ven đô Hải Phòng thể hiện lòng hướng thiện như điều răn của Phật giáo luôn trân trọng của nhân dân đối với đạo Phật, đạo Lão, đạo Nho và với di tích lịch sử cách mạng – chùa như chứng nhân của một thời hào hùng của dân tộc. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Hàng năm vào những ngày lễ Phật đản, Thượng nguyên, Vu Lan, Tất niên và các ngày rằm, mồng một, chùa Phổ Chiếu là một trong những nơi thu hút rất đông nhân dân đến cầu phúc cho bản thân, gia đình, bè bạn… Đây thực sự trở thành địa điểm sinh hoạt tôn giáo không những của nhân dân địa phương mà của cả nhân dân thành phố Hải phòng.

Sau khi rời chùa Phổ Chiếu, đoàn ghé thăm chùa Dư Hàng. Chùa Dư Hàng (tên chữ là Phúc Lâm tự), thuộc xã Dư Hàng Kênh (huyện An Dương), nay thuộc đại bàn phường Hồ Nam, quận Lê Chân. Nếu căn cứ vào bản ghi chép bia ký của chùa Dư Hàng thì chùa có nguồn gốc từ thời Tiền Lê (980 – 1009). Cuối thời vua Lê Đại Hành đã có vị sư tổ đến đây thuyết pháp, khai sáng giáo lý nhà Phật. Đến thời Trần (1225 – 1400), các vị sư tổ thiền phái Trúc Lâm do Trần Nhân Tông sáng lập ở Yên Tử Sơn, đã có mối quan hệ với bản chùa Dư Hàng.

Vì vậy, từ xưa đến nay, chùa Dư Hàng vẫn truyền lệ kỷ niệm sinh nhật vị sư tổ đệ nhất “Đền ngự giác hoàng tinh tuệ thiền sư” tức vua Trần Nhân Tông vào ngày 2/11 Âm lịch. Vị tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm là thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái vào ngày 3/11 Âm lịch. Đến đời vua Lê Gia Tông (1672), sư cụ Nguyễn Đình Sách (tự là Chân Huyền) đã xuất tiền để tậu ruộng đất, làm chùa to rộng, có đủ gác chuông, nhà thờ tổ, nhà tăng…

Từ đó trở đi, dù phải trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, ngôi chùa đã được các thế hệ hòa thượng, tăng ni, tín đồ phật tử sở tại chung sức, chung lòng sửa sang chùa ngày thêm khang trang, đẹp đẽ.

So với nhiều ngôi chùa thờ phật ở Hải Phòng, chùa Dư Hàng có kiến trúc bề thế, khuôn viên hoàn chỉnh, gồm tòa phật điện 7 gian, gác chuông cao 3 tầng, mái đao cong vút, quả chuông đồng cỡ lớn, chữ đề: “Phúc Lâm tự chung”, nghĩa là chuông chùa Phúc Lâm. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Tại tòa Phật điện, hiện còn lưu giữ được nhiều pho tượng phật cổ có giá trị, tạo hình chuẩn xác như bộ Tam thế, tòa Cửu long – Thích ca sơ sinh, hộ thiện, trừ ác, bộ tượng “Thập điện minh vương”… Nội thất tòa phật điện được trang trí nhiều bức hoành phi, câu đối, cửa võng sơn son, thiếp vàng rực rỡ, đường nét mềm mại, kỹ thuật tinh xảo, được thể hiện qua các mảng đề tài hoa lá, cỏ cây, muông thú, mang phong cách nghệ thuật triều Nguyễn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Gian tiền đường của tòa phật điện được trang trí bằng nhiều mảng chạm khắc nổi trên cửa võng, nhiều mảng đề tài quen thuộc: mai điểu, ngũ phúc, rồng mây… thể hiện ước muốn của muôn dân cho “mưa thuận, gió hòa, cỏ cây tươi tốt”, hộp hình khắc gỗ mô tả cảnh thầy trò Đường tăng trên đường sang Tây Trúc thỉnh kinh. Hiện nay, chùa Dư Hàng còn bảo lưu nhiều di vật quí giá như chuông, khánh, đỉnh đồng, đồ trang trí mỹ thuật bằng gốm sứ, đá xanh, bộ kim sách “A hàm” cổ được lưu truyền từ nhiều đời sư trụ trì.

Tại khu vườn tháp tĩnh mịch, rợp mát bóng cây cổ thụ xanh tươi, ngoài nhóm mộ tháp các vị sư tổ đã viên tịch tại bản chùa còn có mộ tháp chứa xá lỵ các vị tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, tháp sư cụ Chân Huyền và nhiều vị hòa thượng đã từng trụ trì tại ngôi chùa Dư Hàng. Chùa Dư Hàng được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1986.

Cuối cùng đoàn sẽ đến thăm quan chùa Vẻn, một ngôi chùa rêu phong cổ kính, toạ lạc ở số 224, đường Tô Hiệu. Cảnh quan kiến trúc của chùa khiến khách thập phương bước qua tam quan chùa là đã đứng trong vườn cảnh với đủ loại kỳ hoa dị thảo.

Vòm cây si cổ thụ cao ngất xòe ra như cái lọng che nắng đỡ mưa cho cả một vùng từ cổng tam quan, vườn cảnh và cả một phần của tháp chuông. Cây ngọc lan và cây đại ngự hai bên đầu hồi của tháp chuông, dưới thấp, xung quanh tường hoa và bồn hoa ở giữa vườn cảnh thì trồng đủ thứ hoa quý hiếm như mộc lan, móng rồng, lan tây, ngâu, hòe và nhiều giống lan rừng. Từ sau tháp chuông Chùa Vẻn, đi vòng qua một trong hai đầu hồi của công trình xây cất chính này là vào đến chánh điện và khu nhà khách và nhà chai, dãy nhà trực diện và hai dãy nhà ngang bao lấy cái sân rộng lát gạch Bát Tràng vuông vức rất thuận lợi cho việc lập đàn tế lễ, khu nhà ngang bên trái còn có chỗ để thờ Bà Thánh Mẫu. Lá cờ phướn ngũ sắc tung bay giữa sân chùa và những ngày Tết Nguyên Đán chùa trồng cây nêu.

 Tour 2: Trung tâm thành phố – Làng Trẻ Em SOS – Cát Bà – Hải Phòng. (2 ngày 1 đêm)

Lịch trình: Ngày 1

  • 6h45 xe đón khách tại địa điểm thoả thuận.
  • 7h đoàn đến thăm tượng nữ tướng Lê Chân, đền Nghè, Quán Hoa, Nhà Hát Lớn, Bảo Tàng.
  • 11h xe đưa đoàn về ăn trưa tại nhà hàng.
  • 13h đoàn xuống thăm Làng Trẻ SOS
  • 15h30 xe đưa đoàn đi ra phà Đình Vũ
  • 18h đoàn nhận phòng và ăn tối tại khách sạn ở Cát Bà.
  • Buổi tối khách tự do thăm quan tại trung tâm Cát Bà.

Ngày 2 Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

  • 6h đoàn ăn sáng tại khách sạn.
  • 7h đoàn đi thăm quan bãi tắm Cát Cò, Cát Dứa và tự do tắm biển.
  • 11h giờ đoàn ăn trưa tại nhà hàng Trúc Lâm.
  • 12h30 đoàn đi thăm vườn Quốc gia Cát Bà (tuyến Ao Ếch – Việt Hải)
  • 16h xe đưa đoàn ra bến Cát Bà về Hải Phòng.

Bài thuyết minh:

Buổi sáng, xe đưa đoàn đến trung tâm thành phố. Dải công viên trung tâm thành phố Hải Phòng là một điểm du lịch hấp dẫn. Tại nơi đây có thể thăm quan tượng đài nữ tướng Lê Chân, chiêm ngưỡng nét cổ kính của nhà hát thành phố, sự thanh lịch của Quán Hoa…

Trong dải công viên trung tâm, tượng nữ tướng Lê Chân được đặt uy nghi trước cửa Nhà triển lãm. Tượng được đúc bằng đồng, cao 7,49m, cả bệ cao 10,09m, riêng lông chim trên đầu cao 0,7m. Tượng năng 19 tấn, là một trong những bức tượng nặng nhất Việt Nam, sau tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (ở Nam Định). Tượng nữ tướng Lê Chân là mẫu dự thi của hai hoạ sĩ Nguyễn Phúc Cường và Nguyễn Mạnh Cường, do Công ty đúc đồng Hải Phòng thực hiện. Nữ tướng có khuôn mặt đôn hậu, trẻ trung, đứng nhìn ra biển Đông, dáng hiên ngang, vững chãi, tay cầm đốc kiếm như đang quan sát để chuẩn bị một kế hoạch chống giặc, dựng ấp. Đó là vóc dáng của nữ tướng đã có công trong việc khai lập làng An Biên xưa và cùng với Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống giặc xâm lược. Người dân Hải Phòng Tự hào là con cháu của nữ tướng Lê Chân.

Sau khi thăm quan tượng đài, đoàn sẽ đi bộ xuống thăm đền Nghè thuộc phường Mê Linh (nay là phường An Biên, quận Lê Chân), đền Nghè là di tích lịch sử văn hoá thờ nữ tướng Lê Chân. Bà quê ở làng An Biên (thuộc Đông Triều, Quảng Ninh) đã đến vùng đất nơi ngã ba sông Tam Bạc đổ vào sông Cấm, lập ấp Vẻn, sau đổi là An Biên Trang, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng(40 – 43) chống quân Đông Hán xâm lược. Bà là một nữ tướng tài ba, anh dũng, lập nhiều chiến công vang dội trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được Trưng Vương phong chức Chương quản binh quyền nội bộ, giao trọng trách trấn giữ miền Hải Tần. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Để tưởng nhớ công lao của nữ tướng, người lập ra làng An Biên xưa và đặt nền móng cho thành phố Hải Phòng ngày nay, nhân dân đã lập lên toà miếu An Biên thờ Bà. Buổi đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ lợp tranh, đến năm 1919, được xây dựng khang trang. Đền Nghè hiện nay là một công trình mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn, đầu thế kỷ 20 bao gồm: tam quan, toà bái đường, thiêu hương, hậu cung, giải vũ, nhà bia, nơi đặt tượng voi đá, ngựa đá. Sau lại làm thêm toà tứ phủ. Toà bái đường gồm 5 gian được nâng đỡ bởi 16 cột lim, kê trên 16 viên đá tảng đục đẽo công phu, tỉ mỉ. Chính giữa nóc nhà bái đường đắp nổi hàng chữ Hán lớn An Biên cổ miếu. Hậu cung gồm 3 gian, xây cao hơn nhà bái đường với thiết kế kiểu 2 tầng mái, làm tăng thêm sự bề thế, uy nghi của công trình. Nét đặc sắc của kiến trúc đền Nghè là nghệ thuật chạm khắc trên gỗ, đá. Với các đề tài long ly quy phượng; tùng cúc – trúc mai… thể hiện kỹ thuật chạm khắc bong hình, chạm nổi, chạm chìm đạt đến trình độ tinh xảo.

Hiện nay, đền Nghè còn bảo tồn được nhiều tác phẩm điêu khắc trên đá rất có giá trị. Điển hình là tấm bia đá có kích thước lớn được tạc vào thời Nguyễn, nghi tiểu sử của nữ tướng Lê Chân. Toà bái đường treo khánh đá chạm nổi đề tài vũ hội long vân đường nét tinh vi, mềm mại, uyển chuyển. Ở toà thiêu hương có chiếc sập đá đồ sộ, tạo bằng khối đá liền, chạm nổi hình chim, thú, hoa, lá rất công phu. Tại toà hậu cung, tương Nữ tướng ngồi trên ngai thờ, đặt trong một khám lớn sơn son, thếp vàng với dáng vẻ uy nghi, đôn hậu, xinh đẹp.

Hội đền Nghè được tổ chức từ ngày mồng 8 đến ngày mồng 10 tháng 2 Âm lịch, thu hút đông đảo du khách đến tham quan di tích, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân. Đền Nghè được Nhà nước xếp hạng năm 1975.

Tiếp theo đoàn sẽ đi bộ lên chiêm ngưỡng nhà hát lớn và Quán Hoa. Nhà hát Lớn thành phố nằm trên phố Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hồng Bàng. Năm 1904. Pháp đuổi chợ, lấy đất xây Nhà hát Lớn. Theo thiết kế, nguyên vật liệu xây dựng đều mang từ Pháp sang. Việc xây dựng do thợ Việt Nam thực hiện dưới sự chỉ đạo của kiến trúc sư Pháp. Nhà hát Lớn cao hai tầng, mái vòm, trang trí lẵng hoa, có 600 ghế. Thời Pháp thuộc, đây là nơi sinh hoạt chính trị, văn hóa của người Pháp và người giàu bản xứ. Thời ấy, chỉ những gánh hát từ Pháp sang hoặc những gánh hát nổi tiếng cả nước mới được biểu diễn. Đây cũng là nơi hàng năm phát phần thưởng cho học sinh giỏi. Quảng trường Nhà hát thành phố có tên là Place Théâtre municipal. Sân nhà hát có hai cột đèn bằng gang theo kiểu cột đèn Pháp. Thân đèn cũng bằng gang có hoạ tiết hoa văn xung quanh, năm 1985, được thay bằng hai cột xi măng với hệ thống đèn hiện nay. Trước đây, ở mặt trước Nhà hát, hai bên có trang trí tượng thiếu nữ Pháp; xung quanh sân có bồn cỏ, trồng dừa và đặt một số ghế gỗ, nay không còn. Ngày nay, Nhà hát Lớn thành phố là nơi hội họp vào những ngày lễ lớn. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Theo các tài liệu hiện có, quán hoa Hải Phòng do đốc lý Luyxiani chủ trì xây dựng và chánh lục lộ Gôchiê phụ trách thiết kế kỹ thuật. Để xây dựng công trình người ta đã phải chọn lựa từ hàng chục mẫu thiết kế của nhiều kiến trúc sư trong cả nước để làm sao chọn công trình phù hợp với quần thể kiến trúc xung quanh, nhưng vẫn giữ được phong cách nghệ thuật Phương Đông.

Tổng số có 5 quán hoa, mỗi quán có diện tích rộng gần 20m2, cao gần 4m, các quán các nhau 6m, toàn bộ trải đều trên diện tích 300m2. Quán được thiết kế 4 cột gỗ lim, chân kê đá, hệ thống dầm dui cũng bằng gỗ lim, 4 mái lợp ngói mũi. Sau nhiều lần tu tạo, đến nay kiến trúc chung của 5 quán hoa đã lược giản đi ít nhiều nhưng vẫn giữ được hình thể ngày đầu xây dựng.

Theo các bậc cao niên kể lại: sau lễ khánh thành quán hoa khoảng tháng 8 năm 1944, trước ngày Nhật đảo chính Pháp, tại mỗi quán hoa ngày ấy thường có 2 phụ nữ mặc áo dài tân thời đứng bán hoa tươi cho mọi người.

Quán hoa nay vẫn còn đó, tuy không còn thấy những góc đao cong của mái đình, đường diềm trạm soi hoa lá cách điệu ở mái quán, các đá bệ xếp hoa và cả hai dàn hoa lẵng tiêu và tigôn ở đầu dãy quán giáp với đường Nguyễn Đức Cảnh cũng bị thời gian huỷ hoại.

Ngày nay, tại địa điểm này, nếp xưa vẫn còn được duy trì, người bán hoa tươi hầu hết đều còn trẻ, phong cách bán hàng cùng khác xưa nhưng đã có nhiều chủng loại hoa hơn, đẹp hơn trước nhiều. Quán hoa như một điểm nhấn trong dải trung tâm đô thị Hải Phòng tạo nên nét đẹp riêng, duyên dáng của thành phố Cảng.

Tiếp theo chuyến đi đoàn sẽ vào thăm Bảo tàng Hải Phòng. Bảo tàng được xây dựng vào năm 1919. Đây là một công trình kiến trúc đẹp, thiết kế theo kiểu gôtích. Du khách đến thăm quan Bảo tàng Hải Phòng được thưởng thức không chỉ vẻ đẹp bên ngoài với những vòm mái, khung nhà… mà còn được chiêm ngưỡng những phòng trưng bày giới thiệu về thành phố Hải Phòng theo từng chủ đề: Thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên Hải Phòng; Hải Phòng từ thời tiền sử đến chiến thắng Bạch Đằng năm 938; Hải Phòng từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 14; Hải Phòng – đô thị cảng biển của cả nước (1874, 1888, 1930); phong trào yêu nước và cách mạng ở Hải Phòng từ cuối thế kỷ 19 đến cách mạng Tháng Tám năm 1945; Hải Phòng 30 năm kháng chiến chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1945 – 1975); Thành phố Hải Phòng trong thời kỳ thống nhất đất nước và đổi mới (1975 đến nay); bản sắc văn hoá truyền thống Hải Phòng; Hải Phòng trong lòng bè bạn năm châu. Bảo tàng Hải Phòng còn là nơi trưng bày các đồ gốm, sứ cổ và hiện đại cùng với tranh, tượng cổ hoặc mới sáng tác có nhiều giá trị thẩm mỹ. Trong khuôn viên Bảo tàng còn trưng bày súng thần công, bia ký, máy bay MIC 17 và chiếc tàu rà phá thuỷ lôi của Hải quân nhân dân Việt Nam. Thăm Bảo tàng giúp bạn hiểu rõ hơn về Hải Phòng – miền đất nơi đầu sóng ngọn gió nhưng vẫn vươn mình đứng dậy phát triển không ngừng. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Buổi chiều đoàn ghé thăm Làng Trẻ Em SOS, tặng quà và vui chơi cùng các em. Làng được thành lập tháng 4 năm 1994 theo quyết định 287 về việc thành lập Làng Trẻ Em SOS Hải Phòng của Ủy ban Nhân dân thành phố Hải Phòng. Làng được xây dựng trên trục đường bao Nguyễn Bỉnh Khiêm từ cầu vượt Lạch Tray tới cảng Chùa Vẽ, do Chú Đốc Tác Bé làm giám đốc. Làng có 14 nhà gia đình được đặt các tên như Hoa Hồng, Hoa Cúc, Hoa Mai… một lớp mẫu giáo và một ngôi nhà thanh niên. Toàn Làng có 14 bà mẹ trực tiếp quản lý 14 gia đình, là mẹ SOS của các con, có 5 bà dì là những người mẹ thay thế khi cần thiết. Hiện tại Làng đang nuôi dưỡng và quản lý 208 trẻ từ 2 đến 21 tuổi. Cũng như các Làng trẻ em SOS khác, Làng Trẻ Em SOS Hải Phòng thực hiện ý tưởng nhân văn của Tiến Sĩ Herman Gmeiner trên cơ sở 4 nguyên tắc sư phạm là: Bà mẹ – Các anh chị em – Ngôi nhà gia đình – Làng. Bà mẹ SOS: là người phụ nữ nguyện không xây dựng gia đình, chăm lo cho những trẻ thơ bất hạnh. Bà mẹ là người sẽ liên tục ảnh hưởng tới thời thơ ấu và tiếp theo sau đó của trẻ. Bà mẹ sẽ đem lại cho trẻ tình thương và sự an toàn mà bất kỳ trẻ nào cũng cần có để phát triển. Các anh chị em: mỗi gia đình trong Làng đều có từ 9 – 11 trẻ, cả trai và gái ở một độ tuổi khác nhau lớn lên như anh chị em. Ngôi nhà: mỗi gia đình trong Làng có một ngôi nhà riêng của mình mang lại mái ấm bền vững cho trẻ, mỗi nhà đều có một phòng sinh hoạt chung, 3 phòng trẻ, và một phòng mẹ, nhà bếp, khu vệ sinh. Làng: với 14 gia đình , cộng đồng Làng được phát triển một cách tự nhiên, bổ sung thêm cho trẻ sự bình an và củng cố thêm niềm tin về sự gắn bó cũng như sự tự chủ. Là một cầu nối với thế giới bên ngoài và những ngôi nhà trong cộng đồng, Làng góp phần tích cực trong cuộc sống của cộng đồng xung quanh.

Nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của Làng là việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Đó là việc chăm lo sức khoẻ, học tập, tổ chức các hoạt động ngoại khoá, tổ chức lao động, xây dựng nề nếp vệ sinh tại các gia đình và cộng đồng Làng, đặc biệt xây dựng tình mẫu tử, tình huynh đệ trong mỗi gia đình và cộng đồng Làng chính là yếu tố quyết định sự nên người của trẻ; bởi tấm lòng yêu thương, sự dạy bảo ân cần của người mẹ có sức cảm hoá mãnh liệt đối với trẻ. Chính vì thế vai trò của bà mẹ trong gia đình của Làng là quan trọng nhất. Bà mẹ SOS có trách nhiệm toàn tâm, toàn ý chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho các con và ý kiến của bà có tính quyết định cao nhất trong cuộc sống hiện tại và tương lai các con.

Về hoạt động ngoại khoá, với mục đích tạo nên cuộc sống tinh thần phong phú và phát huy năng khiếu của trẻ, Làng tổ chức các Câu lạc bộ hàng tuần trên cơ sở lứa tuổi, khả năng và lòng ham thích của trẻ như: múa, hát, vẽ, đàn bầu, organ, thập lục, cờ vua, bóng đá, cầu lông, nữ công gia chánh, giáo dục giới tính, giáo dục đạo đức, nhân cách. Thông qua các Câu lạc bộ này, một số trẻ đã được phát huy năng khiếu, đạt các thứ hạng cao trong các cuộc thi cấp quận, thành phố và quốc gia, một số trẻ đã định hướng được nghề nghiệp tương lai của mình thông qua các hoạt động này, các em đã thi đỗ vào các trường Đại học theo các chuyên ngành như: kiến trúc, thể dục thể thao, âm nhạc. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Hoạt động tổ chức lao động và xây dựng nề nếp vệ sinh cũng là một công tác quan trọng và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với trẻ. Một môi trường cảnh quan luôn xanh – sạch – đẹp, nhà cửa gọn gàng, thoáng mát do chính sức lao động của cả tập thể Làng chăm sóc đã tạo điều kiện cho trẻ em có một cuộc sống an toàn và tiến tới sự phát triển toàn diện hơn.

Sau đó đoàn đón phà Đình Vũ ra đảo Cát Bà. Buổi tối khách sẽ tự do thăm quan khám phá Cát Bà về đêm.

Cát Bà là một quần đảo có tới 366 đảo lớn, nhỏ. Ðảo chính là Cát Bà rộng khoảng 100km², cách cảng Hải Phòng 30 hải lý, tiếp nối với vịnh Hạ Long, tạo nên một quần thể đảo và hang động trên biển làm mê hồn du khách. Đến đây du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành và hoà mình vào với thiên nhiên tươi đẹp.

Diện tích vườn quốc gia Cát Bà được quy hoạch bảo vệ là 15.200ha, trong đó có 9.800ha rừng và 4.200ha biển.

Ðịa hình vườn đa dạng, chủ yếu là dãy núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú và xen kẽ là những bãi cát trắng phau, mịn màng, nơi du khách tắm biển. Các ngọn núi đá vôi có độ cao trung bình 150m, cao nhất là đỉnh Cao Vọng cao 322m so với mặt biển.

Theo một câu chuyện dân gian vùng Ðông Bắc, đảo Cát Bà khi xưa vốn là hậu cung của người đàn ông đầu tiên đến khai sơn phá thạch ở vùng này. Khi ông phát hiện ra cái vịnh quý giá với nhiều hòn đảo đẹp mà sau này có tên là Hạ Long, thì cũng là lúc ông phải cưu mang cùng lúc nhiều số phận nhi nữ đơn côi, mà chồng của họ đã vĩnh viễn không trở về sau những chuyến đi biển đầy bất trắc. Rồi để rảnh tay khai phá vùng Hòn Gai, Bãi Cháy, ông đã tập hợp tất cả các bà ra sống tại hòn đảo xinh đẹp, trù phú, biệt lập giữa biển khơi, nằm trong vịnh Lan Hạ. Vì thế, sau này vùng đất Bãi Cháy, Hòn Gai có tên là đất Của Ông, còn hòn đảo kia thì có tên là đảo Các Bà. Trải bao biến đổi, thăng trầm, bây giờ còn lại hai địa danh Cửa Ông (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng) là do gọi chệch đi mà thành.

Lại có câu chuyện khác gắn với lịch sử giữ nước của Việt Nam rằng, thời chiến đấu chống quân Nguyên xâm lược, người anh hùng dân tộc Trần Hưng Ðạo đã chọn vùng biển Ðông Bắc này làm nơi tập kết, luyện quân, tích trữ lương thảo. Những hang động trong vùng biển này đều được huy động vào việc cất giấu quân lương, che ém tàu thuyền của quân ta. Vì vậy, vùng biển phía Hạ Long được chọn làm khu vực quân sự – ngày nay còn có Hang Dấu Gỗ tương truyền là nơi quân ta cất dấu những chiếc cọc gỗ bịt sắt đã làm nên chiến thắng Bạch Ðằng lừng lẫy, còn vùng biển phía vịnh Lan Hạ là nơi tích trữ lương thảo, chăm sóc y tế, là khu vực do Các Bà cai quản. Vì thế mà có tên là Cửa Ðức Ông, Ðảo Các Bà, sau gọi chệch thành Cửa Ông, Cát Bà…

Khí hậu trên đảo Cát Bà rất mát mẻ, trong lành, thích hợp cho du lịch nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Từ Hà Nội đến Cát Bà, khoảng 150km về phía đông, thuận tiện nhất là đi bằng đường bộ hay đường sắt đến Hải Phòng rồi từ Hải Phòng dùng ca nô hoặc tàu thủy ra đảo. Thuê một chiếc tàu du lịch, bạn có thể đi khắp vịnh Lan Hạ, ghé vào hơn 100 bãi tắm lớn nhỏ khác nhau, những bãi tắm cực đẹp với cái tên thật hấp dẫn: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Bãi Ðá Bằng, Bãi Bến Bèo, Bãi Cô Tiên…

Cát Bà là một cụm du lịch thiên nhiên, sinh thái không thể tách rời. Ở đây đã phát hiện được nhiều di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ đồ đá mới, những di tích văn hoá Hạ Long và dấu vết của người Việt cổ. Ngày nay Cát Bà trở thành vườn quốc gia, bảo tồn trong lòng mình hệ sinh thái rừng nhiệt đới nguyên sinh. Biển Cát Bà có tới 300 loài cá biển, 500 loài thân mềm và giáp xác, trong đó nhiều loại có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất hàng mỹ nghệ quý như đồi mồi, tôm rồng, trai ngọc, san hô, vỏ trai, ốc biển… Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Vườn Quốc gia Cát Bà vừa có rừng, vừa có biển với nguồn tài nguyên phong phú, cảnh quan đẹp và nhiều loại động thực vật quí hiếm. Tổng diện tích của vườn là 15.200ha, trong đó diện tích rừng núi là 9.800ha và diện tích biển là 4.200ha. Ðịa hình đa dạng, chủ yếu là núi đá vôi có nhiều hang động. Với độ cao trung bình là 150m, trong vườn còn có nhiều đèo nhỏ như đèo Ðá Lát, đèo Eo Bùa, đèo Khoăn Cao… và nhiều suối lớn quanh năm có nước như suối Thuồng Luồng, suối Treo Cơm, suối Việt Hải… Rừng Cát Bà thuộc loại rừng nhiệt đới với các kiểu phụ thổ nhưỡng đặc biệt. Rừng trên núi đá vôi chiếm diện tích lớn nhất, xen kẽ là những khu rừng mọc tự nhiên trên núi đất, đặc biệt ở khu vực Trung Trang có khu rừng Kim Giao mọc tự nhiên. Hệ thực vật ở đây có 620 loài, thuộc 123 họ có giá trị như Chó Ðãi, Trai Lý, Lát Hoa, Ðinh, Kim Giao…

Ðây là những loại cây cần được bảo vệ và phát triển. Hệ động vật ở đây cũng rất phong phú với 20 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư, đặc biệt có loài Voọc đầu trắng thường sống ở các vách đá cheo leo ven biển – đây là một loài thú rất quí hiếm mà bây giờ chỉ còn thấy ở Cát Bà. Hang động trên đảo Cát Bà cũng rất phong phú, mỗi hang có một vẻ đẹp khác nhau, tạo ra những bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, sống động khiến người xem như lạc vào cõi tiên. Tiêu biểu nhất là hang Luồn, động Trung Trang, động Gia Luận, động Thiên Long… với những nhũ đá muôn hình, muôn vẻ, rất đẹp mắt.

Cát Bà hôm nay vẫn còn như một nàng tiên e lệ giữa biển khơi với dáng vẻ nguyên sơ, còn giữ được sức hấp dẫn với những truyền thuyết bao đời về bề dày lịch sử văn hoá của vùng đất này.

Nằm biệt lập với những con phố ồn ào của thị trấn Cát Bà (huyện Cát Bà, Hải Phòng), khu du lịch Cát Tiên được ví như một ốc đảo miền nhiệt đới, được tạo nên bởi hai bãi tắm là Cát Cò 1 và Cát Cò 2.

Như đầu con rùa, mỏm núi đá nhô ra biển đã chia cắt hai bãi tắm thành hai khung trời cách biệt. Cây cầu gỗ thơ mộng sẽ dẫn du khách đến Cát Cò 1 và Cát Cò 2. Bên phải là núi đá dựng đứng, bên trái là nước biển trong xanh. Ở đây mỗi thời khắc có một vẻ đẹp riêng. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Vườn Quốc Gia Cát Bà có một vùng ngập nước trên núi cao hết sức độc đáo, gọi là Ao Ếch rộng khoảng 3,2ha. Đây là đầm nước ngọt duy nhất trên núi cao, nước trong đầm không bao giờ cạn, kể cả vào mùa hè. Do có điều kiện tự nhiên thuận lợi và có nguồn nước ngọt dồi dào nên đây là nơi cư trú của nhiều loài thú nhỏ như nhím, chồn, các loài chim, rùa núi, rắn, ếch nhái và động vật thuỷ sinh cua, cá…

Du khách có thể đạp xe vào thăm quan làng Việt Hải, một ngôi làng nằm lọt giữa biển khơi được bao quanh bởi núi cao và rừng già của Vườn Quốc Gia. Đây là điểm tham quan hấp dẫn với du khách nước ngoài.

Tour 3: Hải Phòng – An Lão – Vĩnh Bảo – Tiên Lãng – Hải Phòng.   (1 ngày)

Lịch trình:

  • 6h xe đón đoàn tại địa điểm thoả thuận.
  • 6h45 đoàn đến thăm núi Voi ở An Lão
  • 08h thăm Trung tâm bảo trợ xã hội tại xã Thái Sơn – An Lão.
  • 10h lên đường đi Vĩnh Bảo và ăn trưa tại thị trấn Vĩnh Bảo.
  • 12h30 thăm quan Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
  • 13h30 thăm quan đình Nhân Mục – Nhân Hoà – Vĩnh Bảo, thưởng thức nghệ thuật múa tứ linh, múa rối nước.
  • 14h30 về Khu du lịch suối nước khoáng nóng Tiên Lãng – Hải Phòng.
  • 17h30 về Hải Phòng.

Bài thuyết minh:

Từ Hải Phòng đi sang An Lão, đoàn đến thăm Núi Voi, núi nổi lên như một Hạ Long cạn mang hình voi phục giữa vùng đồng bằng chim mỏi cánh. Núi Voi vùng non nước hữu tình của huyện An Lão, của thành phố Hải Phòng từ thời đại các vua Hùng đã được con người chọn làm nơi cư trú. Góp phần tạo tác nên nền văn minh sông Hồng nổi tiếng. Núi Voi còn là một trong những địa điểm khảo cổ học lớn ở miền Đông Bắc quốc gia, ẩn chứa trong mình bao dấu ấn lịch sử thời đại đồ đá, đồ đồng, một kho tàng văn hoá lịch sử. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử mảnh đất và con người nơi đây đã gắn bó keo sơn đấu tranh với thiên nhiên, giặc dã. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Từ những năm 1960 khu di tích lịch sử, danh thắng Núi Voi đã được Nhà nước cấp bằng, xếp hạng di tích cấp quốc gia. Qua đó chứng minh vị trí tầm quan trọng của một khu di tích. Đến Núi Voi mọi người được chứng kiến, chiêm ngưỡng vùng đất giàu tiềm năng, di sản vốn có. Nơi đây mấy ngàn năm về trước bước chân người đã về đây quần tụ, sinh cơ lập nghiệp, kiến tạo cuộc sống mà khảo cổ học đã tìm thấy những di tích hiếm quý của thời sơ kỳ đồ đồng, thời nhà Mạc…

Cũng chính vì vậy mà Núi Voi gắn liền với những sự tích lịch sử của dân tộc như từ thời nữ tướng Lê Chân cầm quân đánh giặc đã chọn Núi Voi là một điểm trọng yếu cất giữ quân lương, bảo tồn sinh lực lượng. Thời nhà Mạc núi Voi như một thành trì mà cha ông ta đã kiên trì bảo vệ nền độc lập quốc gia. Kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, quân và dân An Lão đã chọn nơi đây làm căn cứ địa vững chắc, địa thế hiểm trở gắn liền với những chiến công vang dội của bộ đội, dân quân, du kích.

Khu di tích lịch sử danh thắng Núi Voi còn chứa đựng trong mình một hệ thống hang động kỳ vĩ, huyền ảo, hoang sơ nổi tiếng nằm sâu trong lòng núi như: hang Họng Voi, hay Già Vị, hang Thành uỷ, bàn cờ Tiên, giếng Tiên, Nam Tào, Bắc Đẩu, Vàn Chúa Thượng, Vàn Chúa Hạ. Mỗi hang động đều là những tuyệt tác mà thiên nhiên tự tạo, gắn liền với những sự tích lịch sử, những huyền thoại và kho tàng văn hoá dân gian, văn hoá tâm linh như hệ thống đền, đình, chùa nổi tiếng từ lâu: Đền Hang, đền thờ nữ tướng Lê Chân, đình chùa Chi Lai cổ kính… nơi tôn thờ các vị anh hùng dân tộc có công với dân với nước.

Sừng sững, uy nghiêm màu đá xám cùng với dải núi đồi trải rộng quần thể khu di tích Núi Voi những năm gần đây đã và đang được thành phố, huyện An Lão đầu tư, tu bổ, tôn tạo nhiều hạng mục công trình cơ sở hạ tầng phục vụ việc tham quan, giải trí, tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân góp phần giữ gìn, bảo tồn những giá trị vốn có của khu di tích.

Sau đó đoàn ghé vào hỏi thăm và biếu quà cho các cụ già không nơi nương tựa tại Trung tâm bảo trợ xã hội thành phố Hải Phòng. Lúc đầu trung tâm được thành lập tại Vĩnh Bảo vào năm 1967, với 6 đối tượng: người già neo đơn, trẻ em lang thang, người khuyết tật, khiếm thính, khiếm thị, phục hồi nhân phẩm. Năm 1995, trung tâm tách ra và chuyển về An Lão với 2 dãy nhà nghèo nàn, là nhà kho của nhà máy dệt may thành phố, trung tâm này chuyên chăm sóc người già neo đơn không nơi nương tựa. Trung tâm hiện đang nuôi dưỡng và chăm sóc 87 cụ già với hoàn cảnh không nơi nương tựa, không được ai chăm sóc và nuôi dưỡng. Trong đó có những cụ bị liệt, không đủ sức tự chăm bản thân, tinh thần không minh mẫn… Trung tâm hiện đang trong giai đoạn xây dựng và sửa chữa cơ sở vật chất, điều kiện sinh hoạt còn nghèo nàn, mức sống còn thấp.

Rời khỏi An Lão, đoàn tiếp tục đến thăm Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khu di tích tích được xây dựng trên khu đất cụ sống lúc sinh thời tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Toàn khu di tích có 9 hạng mục gồm: tháp bút Kình Thiên; đền thờ dựng sau khi cụ mất (1585) với ba gian tiền đường, hai gian hậu cung, phía trước có hai hồ nước tượng trưng cho trời và đất, bức hoành phi trong đền ghi 4 chữ “An Nam Lý Học”; nhà trưng bày thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm; phần mộ cụ thân sinh ở phía sau đền; tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng đá cao 5,7m, nặng 8,5 tấn; hồ bán nguyệt rộng khoảng 1.000m²; chùa Song Mai; Nhà Tổ có tượng thờ bà Minh Nguyệt, vợ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Quán Trung Tân, nơi lưu giữ quan niệm mới về chữ “Trung” hướng lòng theo “chí trung chí thiện”. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Ngày nay khu di tích đã được xây dựng khang trang, trở thành điểm du lịch văn hóa lớn của khu vực, là nơi tổ chức các lễ hội lớn kỷ niệm danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lễ hội tưởng niệm cụ thường được tổ chức vào ngày sinh nhật cụ (10/4 âm lịch) và ngày mất (28/11 âm lịch). Ngày giỗ cụ lễ hội diễn ra với quy mô lớn hơn và trở thành một sự kiện văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng thu hút rất đông du khách trong và ngoài nước đến dâng hương tưởng niệm cụ.

Tạm chia tay với khu di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm, đoàn đến thăm Đình Nhân Mục thuộc xã Nhân Hoà huyện Vĩnh Bảo là nơi thờ Quí Minh đại vương – một trong những vị tướng dưới triều Hùng Duệ Vương.

Đây là ngôi đình khá bề thế, được xây dựng từ thế kỷ 17. Trước mặt là sân đình rất rộng, có một cái hồ nhỏ để diễn rối nước trong các ngày lễ hội. Mái đình không cao lắm nhưng các đầu đao cong vút, trên đó là hình các con nghê, hình thù rất dữ tợn. Đình quay sang hướng Đông Nam, bố cục theo kiểu chữ công gồm năm gian tiền đường, ba gian hậu cung và một gian ống muỗng. Kiến trúc đình dựa trên hệ thống vì, kèo, chồng, rường và đặc biệt là hàng cột lim to, tạo cho ngôi đình có dáng vẻ bề thế và vững chãi. Cột lớn (cột cái) có đường kính xấp xỉ 0,7m; cao 4,2m; vốn là những cây cổ thụ trong cánh rừng đại ngàn đã mất dạng từ lâu. Đình lợp ngói mũi hài đã phủ rêu mốc, có một hậu cung dài 9m; rộng 4m được nối với tiền đường bằng ống muỗng. Mái đao đình Nhân Mục là sự tiếp tục của “bờ xối” kết hợp với “mái tàu”, người nghệ sĩ tạo nên mái cong vút như bàn tay của thôn nữ trong động tác múa đèn. Đầu đao trang trí hình con rồng vút lên, những tay rồng vươn dài trong tư thế “phun châu, nhả ngọc” trước chim Phượng Hoàng với vũ điệu uyển chuyển, say sưa.

Đình Nhân Mục có bộ khung sườn bằng gỗ tứ thiết, được liên kết bằng vì kèo, xà với kỹ thuật sàm mộng. Vì kèo là sự phát triển ở đỉnh cao của kiến trúc dân dã “thượng rường hạ bẩy”, “giá chiêng chồng rường”… Trên các vì, kèo, hoành, câu đầu…đều chạm trổ hoa lá cách điệu. Đặc biệt trên bức cuốn rộng hình chữ nhật có bức chạm nổi một con rồng uốn lượn trong mây. Dưới máu đình là các bức chạm khắc trang trí tinh xảo, sống động. Nội thất đình ẩn chứa cả một khung cảnh lộng lẫy vàng son của đồ thờ, hoành phi, câu đối, cửa võng, đại tự, tượng thánh thần…đặc biệt có nhiều cổ vật quí như kiệu bát cống thế kỷ 18; nghề gốm, đao rồng bằng đất nung mang phong cách nghệ thuật thể kỷ 20.

Đình Nhân Mục không chỉ là nơi lưu giữ, bảo tồn những di vật nghệ thuật quí mà còn là trung tâm bảo lưu những sinh hoạt văn hoá cổ truyền tốt đẹp của dân tộc. Đến với hội đình, trong tiếng trống rộn ràng, tấm mành trúc thuỷ đình (tức sân khấu rối nước) hé mở, xuất hiện một con rối bằng gỗ lớn đó là chú bé bốn, năm tuổi, đôi mắt đầy vẻ tinh nghịch, nét mặt tươi cười, một chiếc áo nẹp không tay, không cài để hở cái bụng quả dưa, rồi cất tiếng hát. Hát xong, chú tiến lại bánh pháo treo trên một cây sào cắm giữa hồ và châm lửa. Pháo nổ ran mặt nước và ban đồng ca cất tiếng hát báo hiệu sắp kéo cờ. Những là cờ nổi lên từ mặt nước tung bay trước gió trong tiếng reo hò, tiếng trống rộn ràng của Hội đình Nhân Mục. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Đình Nhân Mục còn lưu giữ được khá nhiều bản sắc phong của các triều đại sắc phong cho Quí Minh Đại Vương là thành hoàng của làng Nhân Mục. Đình không những là nơi tôn thờ vị thành hoàng mà còn là nơi diễn ra các lễ hội của nhân dân địa phương. Ngày hội diễn ra từ mồng 10 đến hết ngày 22 tháng 3 âm lịch, trùng với lễ hội giỗ tổ Hùng Vương. Đình được Bộ Văn hoá thông tin quyết định công nhận là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 12 tháng 12 năm 1994.

Sau một ngày hoạt động đoàn sẽ kết thúc hành trình tại khu du lịch suối khoáng nóng Tiên Lãng để thư giãn, nghỉ ngơi. Khu du lịch suối khoáng nóng Tiên Lãng được nhiều người ở các tỉnh thành phố bạn và nước ngoài biết đến. Điều đó cũng dễ hiểu bởi nơi đây được thiên nhiên ban tặng cho nguồn nước suối khoáng nóng vô tận, với nhiều lợi ích nâng cao sức khỏe con người.

Từ xa xưa, nước khoáng nóng được coi là báu vật mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Đã có không ít truyền thuyết kể về việc sử dụng nước khoáng để chữa bệnh, và nước khoáng luôn có mặt trong đời sống cao sang của các bậc công hầu, vua chúa. Thời nay, nơi nào có nguồn nước khoáng nóng, nơi ấy đều trở thành những điểm nghỉ dưỡng – chăm sóc sức khỏe – chữa bệnh và nước khoáng ấy đều được khai thác, đóng chai, phân phối tới các nơi làm nguồn nước uống có tác dụng phục vụ sức khỏe con người.

Việt Nam có nhiều nguồn nước khoáng, nhưng chủ yếu năm ở các miền rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Tuy nhiên ở xã Bạch Đằng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, ngay vùng đồng bằng ven biển, đã gần nửa thế kỷ nay, phát hiện ra một nguồn nước khoáng nóng. Đây được đánh giá là 1 trong 5 mỏ nước khoáng đặc biệt có giá trị của Việt Nam, và cùng loại với nguồn nước khoáng nổi tiếng trên thế giới, như: Mirgorod của Nga, Darkov của Tiệp Khắc, Baisov của Bungari, E’laruc và Sallivs de Jura của Pháp.

Năm 1965, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Việt Nam được nước bạn Nga (Liên Xô cũ) viện trợ khoa học kỹ thuật, giúp ta thăm dò dầu khí một số nơi ở vùng đồng bằng ven biển. Trong đó có một mũi khoan số 14b tại xã Bạch Đằng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng được các bạn chuyên gia Nga khoan. Tới độ sâu 850 m dưới lòng đất, nóng 540C dâng trào phun lên khỏi mặt đất và Nguồn nước khoáng nóng Tiên Lãng được phát hiện từ đây nhưng do hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh nguồn nước được tạm thời đóng lại. Đến năm 1982 trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước, nguyên Phó thủ tướng Chính phủ Đoàn Duy Thành, nguyên Bí thư thành ủy thành phố Hải Phòng đã cho khai mở lại Nguồn nước khoáng nóng Tiên Lãng phục vụ đời sống – sức khỏe nhân dân. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Theo tài liệu số 56 ngày 18/6/1983, thì Đoàn cán bộ nghiên cứu của Trường Đại học Dược Hà Nội đã xác định nước khoáng nóng Tiên Lãng có tác dụng phòng, chữa một số bệnh như: viêm mãn tính và thoái hóa bộ máy vận động và đường hô hấp trên; viên mãn tính dây thần kinh ngoại biên; viêm mãn tính phụ khoa và rối loạn chức năng nội tiết của phụ nữ hoặc trẻ em dậy thì; lao hạch xương khớp không phải do lao, tạng bạch huyết trẻ em, một số bệnh ngoài da và phục hồi chức năng do di chứng chấn thương hoặc giải phẫu, uống trong để chữa một số bệnh mãn tính đường tiêu hóa.

Để phát huy tác dụng nguồn nước khoáng Tiên Lãng phục vụ cộng đồng, từ năm 2004 đến nay, Công ty TNHH Phú Vinh đã đầu tư 100 tỷ đồng xây dựng ngay tại nơi đây một khu du lịch suối nước khoáng nóng, với diện tích gần 100.000 m2 để phục vụ khách du lịch nghỉ dưỡng thập phương. Nơi đây không chỉ sản xuất nước khoáng đóng chai mà thực sự trở thành điểm đến lý tưởng với những dịch vụ du lịch hấp dẫn.

Khu du lịch suối khoáng nóng có các dịch vụ đã được hoàn thiện và đi vào phục vụ: ngâm tắm nước nóng nguyên chất trong nhà và ngoài trời bằng hệ thống bồn tắm hiện đại xen lẫn thiên nhiên, tắm bùn khoáng trên đồi tiên xung quanh bao phủ bởi rừng thong và cây cảnh, tâm bể bơi được lắp đặt hệ thống massge thuỷ lực…

Tour 4: Hải Phòng – Thuỷ Nguyên – Hải Phòng. (1ngày)

Lịch trình:

  • 7h đón khách tại địa điểm thoả thuận.
  • 7h15 thăm đình Tả Quan – Dương Quan.
  • 8h đi thăm Làng Mồ Côi Philis Hope.
  • 11h ăn trưa tại nhà hàng tại Chợ Tổng, xã Lưu Kiếm.
  • 12h30 xuất phát đến xã Minh Tân thăm chùa Rãng Trung, Hang Vua.
  • 14h30 thăm thắng cảnh Tràng Kênh – Minh Đức.
  • 16h30 thăm đền An Lư – An Lư.
  • 17h xuất phát về Hải Phòng.

Bài thuyết minh: Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Bắt đầu chuyến du lịch, đoàn sẽ đến thăm quan Đình Tả Quan – Dương Quan – Thuỷ Nguyên là một di tích kiến trúc – nghệ thuật, một công trình tín ngưỡng được dân làng thôn Tả Quan dựng lên để thờ Quý Minh Đại Vương, một bộ tướng thân cận của Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18). Đây cũng là địa điểm sinh hoạt văn hóa truyền thống của người dân địa phương, lưu giữ được những phong tục tập quán tốt đẹp, cùng với lễ hội văn hóa đặc sắc và là một trong những tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị của vùng.

Sau đó vào thăm, tặng quà và chơi cùng các em nhỏ tại Làng Mồ Côi Philis Hope ở Thuỷ Sơn. Làng Mồ Côi Philis Hope có 4 gia đình lớn với 120 trẻ. Tất cả các cháu đều là trẻ mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại thì ốm đau tàn tật, nghèo khó không có khả năng nuôi được con. Khi vào làng trẻ các cháu sẽ được dưỡng nuôi theo mô hình gia đình, mỗi gia đình có 2 bà mẹ với 30 con với đủ các lứa tuổi tù 1 đến 18 tuổi. Tại đây, các cháu đều được đi học đầy đủ. Ngoài giờ học ở trường, các cháu giúp đỡ các mẹ lao động dọn dẹp vệ sinh nội vụ, tạo cảnh quan môi trường, trồng rau cải thiện bữa ăn, đồng thời từ đó rèn luyện ý thức lao động cho trẻ biết được giá trị của sức lao động. Tùy theo từng độ tuổi, các cháu được học từ lớp mẫu giáo đến hết phổ thông trung học. Tốt nghiệp phổ thông các trẻ sẽ được làng khuyến khích, tạo điều kiện thi vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp. Đến tuổi trưởng thành các cháu được trở về với người thân, với xã hội và tự mình kiếm sống. Là cơ sở bảo trợ xã hội, Làng đã xây dựng cho các cháu có được một mái ấm gia đình mới, có mẹ, anh, chị các em được chăm sóc sức khỏe, nuôi dưỡng học tập và tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ – thể dục thể thao như những trẻ cùng trang lứa khác. Tuy nhiên đời sống vật chất và tinh thần của các em tại Làng còn rất khó khăn.

Chia tay với các em tại Làng, điểm đến tiếp theo của cuộc hành trình là chùa Rãng Trung, tên chữ là Kiến Long Tự. Đây là một trong năm ngôi chùa cổ thờ phật của xã Minh Tân – huyện Thuỷ Nguyên (xưa là làng Dưỡng Động), là danh lam cổ tự nổi tiếng khu vực Hải Phòng – Quảng Yên.Gắn với quá trình tu luyện của hai vị cao tăng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17) còn lưu lại dấu vết ở hai ngọn tháp sư tổ trên vườn trước cửa phật điện của ngôi chùa. Nhân dân cho biết các đời sau chùa Rãng Trung còn có 4 vị sư tăng được Giáo hội Phật giáo phong làm hoà thượng. Năm 1960 vị hoà thượng trụ trì tại chùa từ 1954 – 1980 đã được bầu vào Hội đồng chứng minh Phật giáo trung ương, kiêm phụ trách trường Hạ của Giáo hội Phật giáo Hải Phòng. Chùa Rãng Trung còn giữ được nhiều di vật cổ có giá trị nghệ thuật văn hoá như tượng phật, tuy không đầy đủ về thể loại trên phật diện nhưng là tác phẩm thế kỷ 18. Quanh chùa có nhiều cây xanh bao bọc nên không khí trong chùa luôn dịu mát, du khách có thể thư thả nghỉ ngơi vãn cảnh chùa, làm lễ. Sau đó đi bộ khoảng 2 phút đoàn sẽ đến Hang Vua thuộc núi Vệ. Hang cao từ 15 đến 18m, rộng từ 5 đến 10m. Trong hang có nhiều ngách, có suối nước quanh năm trong mát. Gọi là hang Vua vì tương truyền rằng vua Hùng thứ 18 đã lập li cung ở đây. Đền thờ vua Hùng được đặt ở chính giữa hang, tượng vua được tạc bằng đá, trông rất sinh động. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Tiếp tục cuộc hành trình, đoàn đến thăm thắng cảnh Tràng Kênh thuộc huyện Thủy Nguyên. Tràng Kênh là một quần thể đồi núi đá vôi hang động, sông, nước với cảnh trí thiên nhiên nên thơ.

U Bò là một ngọn núi trong quần thể đồi núi này, tương truyền đây là nơi Trần Hưng Đạo đã đứng để chỉ huy trận thủy chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông. Đứng trên núi U Bò, du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh sông Bạch Đằng. Sông núi tĩnh lặng, trời nước mênh mang với nhiều huyền thoại làm cho cảnh sắc nơi đây càng thêm hấp dẫn.

Tràng Kênh, vùng đất cổ được biết đến qua di chỉ khảo cổ học nổi tiếng, hiện còn bảo lưu trong lòng đất.

Theo các nhà nghiên cứu, Tràng Kênh là một di chỉ khảo cổ học, một công xưởng chế tác đồ trang sức bằng đá lớn nhất vùng Đông bắc Tổ quốc, có niên đại cách ngày nay gần 4000 năm, thuộc sơ kỳ thời đại kim khí.

Từ buổi khai sơn, phá thạch, tạo dựng cuộc sống, người Tràng Kênh với bàn tay khéo léo đã chế tác ra những đồ trang sức bằng đá tinh xảo, với những vòng tay, hoa tai, chuỗi hạt đa dạng, phong phú, đầy màu sắc. Thông qua các cuộc khai quật và nghiên cứu, các nhà khảo cổ học đã kết luận rằng: Tràng Kênh cách đây gần 4000 năm đã thực sự là một công xưởng chế tác đồ đá có quy mô lớn, sản phẩm của nó không chỉ được trao đổi ở nội địa, mà còn vượt biển tới các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á.

Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vùng đất này được coi là một phên dậu chống giặc ngoại xâm. Dấu ấn lịch sử để lại đến nay cho biết, Tràng Kênh là một trận địa quan trong trận thủy chiến Bạch Đằng năm 1288 do Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo chỉ huy, đánh tan đội quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ 13. Với các địa danh đã đi vào sử sách dân tộc như núi U Bò, Hoàng Tôn, Phượng Hoàng hay cửa Bạch Đằng, nơi hợp lưu của 3 con sông đổ về, cùng các dấu tích về những trận địa cọc hay những địa danh như Áng Hồ, Áng Lác cho biết vùng đất này đã ghi dấu về một chiến trường do quân và dân triều Trần bày trận đón đánh quân thù. Ngày nay dưới chân núi Hoàng Tôn trong hệ thống núi đồi ở Tràng Kênh còn ngôi đền thờ một vị tướng của vương triều Trần. Đó là đền thờ Trần Quốc Bảo. Ông thuộc tôn thất nhà Trần có công trong trận Bạch Đằng năm 1288, khi mất được nhân dân địa phương lập đền thờ. Theo nội dung tấm bia dựng vào niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8 (1626) đời vua Lê Thần Tông, ngôi đền được xây dựng ở nơi có thắng cảnh đẹp vào hạng thứ nhất của xứ Hải Dương.

Tràng Kênh – Bạch Đằng, một địa danh lịch sử từ lâu đã đi vào tiềm thức của người dân thành phố Hải Phòng như một ký ức không thể nào quên về một chiến công vĩ đại chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cách đây trên 7 thế kỷ. Cùng với nhiều di sản mang những nội dung lịch sử văn hóa có giá trị, Tràng Kênh – vùng đất thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh năm 1962.

Đền An Lư thuộc xã An Lư, huyện Thủy Nguyên, thờ danh y Tuệ Tĩnh. Đền nằm trên dải sa bồi của hệ thống Sông Cấm, chảy qua thềm đất cổ Thủy Nguyên, nơi có sụ khai phá đất đai, tạo dựng xóm làng của cư dân làm nông nghiệp làm lúa nước và chài lưới từ rất sớm. Nhưng vì sao thiền sư Tuệ Tĩnh, nguyên là một trong hai vị thánh thuốc nam của nước Việt ta, quê mãi tận Cẩm Giàng, Hải Dương lại được dân làng An Lư thờ phụng uy nghi. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Sử liệu cũ thu thập tại địa phương cho thấy: Vào thời Trần Duệ Tông (1370 – 1377), cụ tổ họ Phạm tên Viết Trinh, vốn là thương gia, dẫn thêm 5 người thuộc các họ Bùi, Nguyễn, Vũ, Hoàng đi qua vùng đất phía đông thuộc huyện Thủy Đường ( tên gọi cũ của huyện Thủy Nguyên), nhận thấy đất đai nơi đây rộng rãi nhưng dân cư còn thưa thớt. Họ liền bàn bạc, đồng lòng cam kết lập thành khu vực mới để ở. Sau đó, từ quê nhà cũ ở Cẩm Giàng có nhiều người tiếp tục theo đến khai phá đất đai, lập xóm, dựng làng ngày thêm đông đúc. Gia sản của các dòng họ chuyển cư này được các thế hệ con cháu lưu truyền, suy tôn cụ tổ Phạm viết Trinh là người có công đầu trong việc khai phá đất đai, lập nên làng xóm An Lư ngày nay. Chuyển dân cư xuống vùng đất xóm ven sông Cấm được l7 năm, dân làng liên tiếp có người bị dịch bệnh, đau ốm liên miên, lòng người hoang mang, định trở về quê cũ làm ăn sinh sống. Khi bình tâm nhớ lại quê nhà, có môn thuốc bằng cây cỏ đem sao vàng, hạ thổ rồi sắc uống. Bài thuốc hay do chính vị danh y Tuệ Tĩnh truyền lại, mọi người bảo nhau là theo lời dặn , quả nhiên dịch bệnh bị đẩy lùi, dân cư được yên ổn. Năm đó, tại khu vực đồng Sim, dân làng lập ngôi đền nhỏ thờ danh y. Lại đặt tên chữ cho làng là An Lư có nghĩa là làng yên ổn, tên nôm là Xưa. Lập lại chợ Xưa, dựng thêm cây cầu 7 nhịp bắc bằng gỗ lim cho dân đi lại cho ngòi nước chảy ra sông Cấm để gợi nhớ hình ảnh quê hương cũ. Trước đây, tại mảnh đất An Lư còn nhiều công trình di tích khác như: Miếu Hổ, bến Bút, đình Chung được dân làng nhiều lần tổ chức nghi lễ liên quan đến việc tuyên truyền, phổ biến phương pháp chữa bệnh bằng cỏ cây, thảo dược, lưu truyền những bài thuốc hay của đại danh y Tuệ Tĩnh. Trải qua thời gian, chiến tranh, thiên nhiên khắc nghiệt đã hủy hoại hoàn toàn những di tích ban đầu của dân làng tôn thờ danh y Tuệ Tĩnh. Đầu năm 1948, dân làng An Lư đã rước thành hoàng đại danh y Tuệ Tĩnh về phối thờ tại ngôi đền An Bạch, là nơi dân làng thờ vị anh hùng dân tộc Trần quốc Tuấn và các con trai tại vị trí di tích hiện nay. Pho tượng đại danh y Tuệ Tĩnh được các nghệ nhân dân gian tạo tác bởi bàn tay điệu nghệ, giàu tính nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Tượng tạo gần bằng người thật theo lối tượng tròn, trang trọng trong sắc phục quan văn cuối thế kỷ 19.

Lễ hội làng An Lư diễn ra từ ngày 11/ 11 âm lịch hàng năm. Tùy theo điều kiện mà lễ hội kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Điều đặc biệt cho huyện Thủy Nguyên và riêng làng An Lư là ngoài lễ hội tưởng niệm vị đại danh y diễn ra tại ngôi đền thờ ông, còn bảo lưu truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc địa phương như: Họp phiên trợ Xưa vàng sáng mùng một tết nguyên Đán, có đầy đủ các sản vật địa phương và nhiều miền quê trù phú khác như. Tại đây, nhân mùa xuân mới người ta gặp gỡ, chúc tụng nhau những điều tốt lành, hy vọng một năm mới gặp nhiều may mắn, thuận lợi trong suốt cả năm. Đền An Lư được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1990. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Tour 5: Hải Phòng – Đồ Sơn – Hải Phòng. (1 ngày)

Lịch trình:

  • 7h đón khách tại khách sạn sinh viên Đại học Dân Lập Hải Phòng.
  • 7h30 thăm Trung tâm trẻ bị nhiễm chất độc da cam Thiện Giao thuộc Hội nạn nhân chất độc màu da cam Thiện Giao – Tổ 8 phường Ngọc Xuyên – Đồ Sơn. Tham gia vào các hoạt động lao động sản xuất của trung tâm.
  • Ăn trưa tại trung tâm.
  • 13h đi thăm đền Bà Đế, biệt thự Bảo Đại, bến tàu Không Số.
  • 15h30 tắm biển tại khu 2 Đồ Sơn.
  • 17h30 về Hải Phòng.

Bài thuyết minh:

Đoàn dành thời gian buổi sáng đến thăm và tặng quà các em nhỏ ở Trung tâm trẻ bị nhiễm chất độc màu da cam Thiện Giao, phường Ngọc Xuyên Quận Đồ Sơn. Các thành viên trong đoàn tham gia vào một số công việc tại trung tâm như: cuốc đất, trồng rau, tưới nước, cho cá ăn… Trung tâm thuộc Hội Chữ thập đỏ Thiện Giao. Hội được thành lập năm 2003 và được Sở Kế hoạch đầu tư cấp giấy phép kinh doanh năm 2004. Ngành nghề kinh doanh của Hội là nuôi dưỡng, dạy nghề tạo việc làm cho các nạn nhân chiến tranh và người tàn tật. Được chứng nhận là công ty có 94% lao động là người tàn tật. Đây là công ty cổ phần không chia cổ tức, toàn bộ lợi nhuận kinh doanh được dùng cho các hoạt động chăm sóc và dạy nghề cho các em bị nhiễm dioxin. Sản phẩm chính là nuôi trồng chế biến nấm ăn, nấm dược liệu, sản xuất các mặt hang mỹ nghệ…

Trung tâm có một mẹ và 22 người con do cô Hương, một cựu chiến binh thanh niên xung phong năm nay đã 61 tuổi quản lý. Ngay sau chiến tranh cô cùng một vài cựu chiến binh nữa tiến hành nhận nuôi và chăm sóc các con em của các đồng đội cũ có hoàn cảnh khó khăn. Các em này đều là nạn nhân của chiến tranh, không có gia đình hoặc gia đình không đủ khả năng để chăm sóc. Ban đầu, do hoàn cảnh kinh tế chung của đất nước nên cô và các em phải lưu lạc từ Hải Phòng rồi Nam Định, Bắc Giang, có thời gian phải lên núi để sống. Đến tận năm 2001 cô và các em bắt đầu quay về Hải Phòng và định cư trên mảnh đất này. Trung tâm là một khu nhà khá đơn sơ mang màu sắc thôn quê, nhà thì làm bằng tre, mái rạ, vách đất. Toàn bộ căn nhà đều do cô Hương và các em trong làng tự xây dựng còn các đồ đạc nội thất đều do những người có tấm lòng hảo tâm giúp đỡ. Cô cùng các em có khả năng lao động dựng mấy cái chuồng để nuôi lợn, vét ao nuôi cá, trồng rau, trồng nấm và học mót nghề làm mỹ nghệ để về tự làm. Hàng ngày thì cứ ăn rau trong vườn, vớt cá lên ăn, đôi ba tháng thì thịt con lợn rồi kho để ăn dần. Tiền bán đồ mỹ nghệ và nấm thì mua gạo, mua đồ dùng…Trung tâm tồn tại nhờ vào hình thức VAC từ những năm 90 nên cuộc sống của những con người nơi đây rất khó khăn. Các em ở đây rất ít được sự quan tâm của người ngoài nên có người ngoài đến chơi thì các em rất vui và thích thú. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Buổi chiều, sau khi chia tay cô Hương và các em ở Trung tâm Thiện Giao, đoàn đi thăm đền Bà Đế. Đền Bà Đế nằm ở chân núi Độc, thuộc phường Ngọc Hải, quận Đồ Sơn. Đền là một trong những đền nổi tiếng về danh thắng và linh thiêng.

Ðền thờ bà Đế – vợ chúa Trịnh Giang. Ðền bà được vua Tự Ðức về thăm và ban sắc phong “Ðông Nhạc Ðế Bà – Trịnh chúa phu nhân”.

Ðền có cấu trúc giản dị nhưng thanh thoát và trang nhã, nép mình vào lưng núi, trước mặt là biển khơi bao la, tạo nên một kỳ quan thiên nhiên độc đáo không thua gì “Nam thiên đệ nhất động – Chùa Hương”.

Như bao đình chùa, miếu mạo ở nước ta thường được hình thành bắt nguồn từ một sự tích. Tương truyền vào năm 1718, ở phía đông nam vùng Ngọc Ðồ Sơn có đôi vợ chồng họ Ðào, đã hai mươi năm không có con. Hai vợ chồng tu thân, tích đức, cầu xin trời phật cho một mụn con. Trời phật động lòng, chứng giám, rồi báo mộng cho người vợ được mang thai. Tròn ngày, tròn tháng, đứa bé ra đời và được đặt tên là Ðào Thị Hương. Từ khi sinh ra, người đứa trẻ đã toả hương thơm ngát, phát ánh hào quang và đi đến đâu cũng có làn mây che đến đó. Càng lớn lên đứa trẻ (Bà Ðế) càng xinh đẹp, lộng lẫy.

Bà Ðế rất khéo tay, siêng năng mọi việc. Hàng ngày bà đi chăn trâu, cắt cỏ, tay làm, miệng hát, tiếng hát ngân vang cả núi rừng. Người ta nói rằng, tiếng hát của bà làm chim ngừng hót, sóng ngừng vỗ, đất trời lặng đi để lắng nghe.

Vào năm 1736, chúa Trịnh Giang về kinh lý Ðồ Sơn. Chúa cùng đoàn người dạo thắng cảnh bằng thuyền rồng trên núi Ðộc. Xúc động trước tiếng hát mượt mà, chúa truyền cho quân lính đi tìm người hát. Khi gặp được bà với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, chúa yêu mến và quyến luyến không rời. Khi về kinh đô, chúa có hẹn ngày về đón bà.

Bà mang thai, trong lòng rất lo sợ, ngày đêm trông ngóng thuyền hoa của chúa. Hàng Tổng biết chuyện đòi phạt tiền. Nhà nghèo không có tiền nộp phạt, hàng tổng đem bà ra khu núi Ðộc rồi dìm bà xuống biển.

Trước khi chết, bà ngửa mặt lên trời khóc than rằng: “Phận gái thân cô, gặp chúa yêu thương tôi đâu dám chống, nhìn mẹ cha, hàng xóm tôi đâu dám quên. Xin trời phật chứng giám cho lòng con. Khi con bị dìm xuống nước, nếu có oan ức, trời phật cho con nổi lên ba lần”. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Quả nhiên bà nổi lên ba lần, mọi người ai nấy đều kinh sợ. Sau một tháng, thuyền hoa của chúa về rước bà về kinh. Biết chuyện oan khuất, chúa Trịnh Giang cho xây đền, lập đàn giải oan cho bà. Ðền bà được vua Tự Ðức về thăm ban sắc phong: Ðông Nhạc Ðế Bà – Trịnh chúa phu nhân. Người đời sau thương tiếc và khâm phục lòng thuỷ chung của bà. Nhiều danh nhân đã đề thơ ca ngợi.

Từ bấy đến nay, khách thập phương tấp nập trẩy hội đền Bà Ðế. Người ta đến để xin tài, xin lộc và đặc biệt cùng bà giải mọi nỗi oan khuất mà mình gặp phải.

Ngay từ năm 1933, sau 1 năm lên cầm quyền, Bảo Đại đã đến đây và cho xây dựng Biệt thự nằm trên đỉnh đồi Vung, cao 36m so với mặt nước biển, thuộc khu II Đồ Sơn. Biệt thự được xây từ năm 1928 của Toàn quyền Đông Dương Pafquiere. Ngày 16/6/1949, Toàn quyền Đông Dương tặng cho vua Bảo Đại. Từ đó ngôi nhà này được gọi là biệt thự Bảo Đại.

Mỗi lần ra kinh lý miền Bắc, Bảo Đại đều đến Đồ Sơn và nghỉ tại biệt thự này. Đứng ở đây có thể nhìn toàn cảnh bán đảo Đồ Sơn và thả tầm mắt theo sóng biển mênh mông đến tận chân trời. Hơn nữa, khí hậu ở đây ôn hòa, mát mẻ.

Với tổng diện tích là 900m2. Biệt thự có phòng tiếp khách, phòng họp, phòng ăn, phòng ngủ của Vua, Hoàng hậu, các Hoàng tử và Công chúa. Tháng 5/1955, miền Bắc được giải phóng, ngôi nhà này được giao cho Bộ Quốc phòng quản lý. Thời gian trôi đi, chiến tranh tàn phá, ngôi biệt thự xuống cấp.

Ngày 28/ 3/ 1984, Bộ Quốc phòng bàn giao cho Công ty Du lịch Hải Phòng, nay là Công ty Cổ phần Khách sạn Du lịch Đồ Sơn quản lý.

Được phép của Nhà nước, Công ty đã phục chế lại và sau hai năm, ngày 26/ 7/ 1999, biệt thự mở cửa đón khách tham quan và nghỉ qua đêm. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Bến Nghiêng – Bến tàu Không số là một trong những điểm du lịch hấp dẫn đó. Bến Nghiêng – Đồ Sơn hiện là bến đỗ của tàu ra thăm đảo Hòn Dáu. Nơi dây cũng là Cảng xuất phát của tàu du lịch đảo Cát Bà, vịnh Hạ Long, Móng Cái. Cách đây hơn 50 năm, ngày 15/ 5/ 1955, tại bến Nghiêng, tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi miền Bắc theo Hiệp định Giơnevơ – Hiệp định đình chiến giữa chính phủ thực dân Pháp và nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau 9 năm kháng chiến gian khổ.

Bến tàu Không số ở chân đồi Vạn Hoa cạnh thung lũng xanh, hiện có khách sạn 100 phòng của Công ty Du lịch quốc tế Đồ Sơn. Dấu tích cầu cảng k15 xưa nay chỉ còn lại những cột bê tông. Cầu cảng này được xây dựng và bảo vệ bí mật, là nơi đỗ của những chiếc tàu không số, chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Ngày 11/10/1962, chiếc tàu gỗ chở 30 tấn vũ khí đầu tiên đã xuất phát ở đây. Sau 6 ngày lênh đênh trên biển cả, tàu đã cập bến tại Cà Mau, chuyển giao toàn bộ vũ khí cho quân khu 9. Tất cả có gần 100 tàu thuyền với tổng số 168 chuyến đi xuất phát tại đây – con đường được mệnh danh là “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển”.

 Tour 7: Hải Phòng – Tuần Châu – Hạ Long – Hải Phòng.(2 ngày 1 đêm) Ngày 1

  • 7h xe đón đoàn tại tại điểm thoả thuận.
  • 7h30 đoàn đến thăm và tặng quà cho những người nghèo tại thôn Bính B, xã Tân Dương, huyện Thuỷ Nguyên.
  • 9h đoàn đi thăm các làng nghề truyền thống ở Thuỷ Nguyên: đúc đồng Mỹ Đồng và cau Cao Nhân.
  • 11h đoàn ăn trưa tại Chợ Tổng, xã Lưu Kiếm, Thuỷ Nguyên.
  • 12h30 đoàn khởi hành xuống Tuần Châu, Quảng Ninh.
  • 16h30 đoàn về nhận phòng khách sạn tại Bãi Cháy.
  • Tối ăn tại khách sạn và tự do thăm quan.

Ngày 2

  • 6h đoàn ăn sáng tại khách sạn.
  • 7h đón tàu đi thăm quan vịnh Hạ Long.
  • Ăn trưa trên tàu.
  • 16h30 tàu cập bến. Đoàn về khách sạn trả phòng và về Hải Phòng.

Bài thuyết minh: Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Buổi sáng đoàn sẽ ghé thăm và tặng quà cho những người nghèo ở “xóm liều” hay còn gọi là “ xóm ăn mày” thuộc xã Tân Dương, huyện Thuỷ Nguyên. Trong xóm, nhà nào cũng giống nhau với cột tre, tường đất trộn rơm, mái lợp rạ và được bọc bởi những tấm bạt rách tả tơi. Mấy chục con người, bao nhiêu năm nay côi cút kiếm sống bằng nghề ăn mày thiên hạ. Cuộc sống khốn khó khiến mong ước lớn nhất của họ chỉ là có được bữa cơm no bụng. Những đứa bé đã quá tuổi để người đời thương hại móc ví cho tiền thì trai đi đánh giày, nhặt rác, gái đi rửa bát thuê, bán báo dạo… kiếm sống. Xóm nằm ngay dưới chân cầu Bính, những căn lều tụ vào một khu đất hoang rộng ngút tầm mắt, chỉ có cỏ cao lút gối, vũng trâu đằm… Trong nhà cư dân “xóm ăn mày” không có vật dụng gì đáng giá, chỉ là những thứ bãi thải của những người thành phố được họ khuân về dung. Từ khi lập xóm đến nay, đã 30 năm rồi mà xóm vẫn “không điện, không nước, không đường, không trường, không trạm”. Và vẫn còn rất nhiều con số không tròn trĩnh nữa. 13 nóc nhà với 70 cư dân “xóm ăn mày” vẫn sống hoang dại như cây cỏ.

Sau đó, đoàn tiếp tục cuộc hành trình ghé thăm làng nghề đúc Mỹ Đồng và làng cau Cao Nhân của huyện Thuỷ Nguyên.

Ở nước ta, nghề đúc đồng có từ rất lâu đời (khoảng 2000 – 3000 về trước). Trống đồng Ngọc Lũ, tháp Báo Thiên là chứng tích cho một thời kì rực rỡ của nghề đúc đồng Việt Nam. Hai vị sư thời Lý là Nguyễn Minh Không (Gia Viễn – Ninh Bình), Dương Không Lộ (Quế Võ -Bắc Ninh), được coi là ông tổ của nghề đúc đồng. Ở Hải Phòng, khi khai quật ở di chỉ Việt Khê, thôn Ngọc Khê, xã Phù Ninh, huyện Thuỷ Nguyên (3/ 1962) các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hiện vật như: trống đồng, muôi đồng và cả người đồng có niên đại từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 3 trước công nguyên. Qua đây ta thấy Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) cũng đã từng xuất hiện nghề đúc đồng. Trải qua thời gian, nghề cổ này hiện còn bảo lưu được ở một làng ở Thuỷ Nguyên đó là Phương Mỹ, xã Mỹ Đồng.

Nghề đúc đồng có từ lâu đời trong xã. Nó được truyền từ đời này sang đời khác. Hiện nay ở xã Mỹ Đồng, 80% hộ gia đình theo nghề này. Đến xã sẽ thấy rộn lên tiếng đe, tiếng búa gõ kim loại, kỹ thuật pha chế hợp kim, tạo khuôn tài tình, vừa đảm bảo được độ cứng của sản phẩm. Ngày xưa đúc đồng ở Mỹ Đồng chỉ có vài chục hộ gia đình làm mặt hàng đúc, sản phẩm chủ yếu là các đồ vật dụng gia đình: nồi, chảo, xanh, kiềng… Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Trong kháng chiến chống Mỹ, hợp tác xã Phương Mỹ đã góp phần tích cực vào việc sản xuất loại ống dẫn xăng phục vụ chiến trường. Hiện nay, nghề đúc đồng ở Mỹ Đồng ngày càng phát triển. Mặt hang không chỉ là đồ gia dụng mà còn có các mặt hang đòi hỏi kỹ thuật cao như: chân máy khâu, vỏ động cơ, bệ máy, chi tiết máy…

Về Cao Nhân vào mùa cau rộ, ai cũng sẽ cảm nhận được sự nồng ấm của hương cau và không khí lao động của một làng nghề. Chẳng biết xã Cao Nhân, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng thành làng Cau từ bao giờ, chỉ biết rằng khi hỏi một cụ già “thất thập cổ lai hy” của làng thì cụ cũng lắc đầu mà rằng “ đến đời cụ là đời thứ 3 đã gọi làng Cau rồi”. Dù cau ở đâu nhiều đến đâu nhưng có lẽ sẽ không nhiều bằng cau ở Cao Nhân và tiếng ngon thơm có lẽ cũng chỉ có cau Cao Nhân bay xa hơn cả trên dải đất hình chữ S này.

Mùa cau rộ nhất vào tháng 9,10,11 âm lịch nên vào những ngày này hầu như nhà nào ở Cao Nhân cũng tấp nập thu hái cau bán. Vườn nhà ai cũng trồng cau. Nhà ít thì vài chục cây cau, nhà nhiều thì đến mẫu cau. Gọi là làng Cau thì chắc ai cũng tưởng tượng được Cao Nhân rợp màu xanh trù phú của những cây cau, giàu nhờ cau.

Tạm rời xa làng cau xanh mát, xe đưa đoàn đến thăm Khu du lịch đảo Tuần Châu cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng 8km. Khu du lịch có diện tích 220ha, được kiến tạo bởi những ngọn đồi thoai thoải. Một con đường trải bê tông dài khoảng 2km nối đảo với đất liền. Tại Tuần Châu có rất nhiều hạng mục công trình đã và đang được xây dựng. Từ ngoài cổng đi vào lần lượt du khách sẽ đi qua một khu đồi với khu biệt thự có hạ tầng cơ sở đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Đi tiếp vào trong, khu phố ẩm thực với năm nhà hàng và nhà tròn được thiết kế theo kiến trúc cung đình rất đẹp cùng một lúc có thể phục vụ trên 1.000 thực khách với những món ăn Âu, Á và dân tộc do các đầu bếp nổi tiếng trong nước và ngoài nước thực hiện. Các tiếp viên nhà hàng đều mang trang phục truyền thống của Việt Nam. Vào khu trung tâm du khách sẽ choáng ngợp bởi câu lạc bộ biểu diễn cá heo, hải cẩu, sư tử biển được xây dựng rất hiện đại và độc đáo.

Bãi tắm Tuần Châu với thảm cát trải dài 2km sẽ làm cho du khách thoải mái vùng vẫy giữa làn sóng biển trong xanh. Sát bãi biển là khu biệt thự 50 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế 5 sao mang đến cho du khách những phút giây thoải mái. Ở đây còn có trên 300 phòng nghỉ khác đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Tại đảo Tuần Châu du khách có thể tham dự các hoạt động thể thao dưới nước: mô tô trượt nước tốc độ cao; ca nô kéo dù, lướt ván; câu cá trên biển Hạ Long; chèo thuyền; khinh khí cầu tham quan vịnh Hạ Long hoặc leo núi, cắm trại… Các dịch vụ: biểu diễn cá heo, sư tử biển, hải cẩu, xiếc thú, võ thuật phục vụ khách liên tục 3 suất/ngày trong tất cả các ngày trong tuần trừ thứ 2, công viên nhạc nước. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Buổi tối đoàn tự do tham quan, ngắm cảnh Bãi Cháy. Bãi Cháy là một bãi tắm nhân tạo với bãi cát dài hơn 500m, rộng 100m. Hàng ngày vào buổi sáng sớm hay chiều tà, hàng ngàn người xuống đây tắm, bãi tắm trở nên náo nhiệt lạ thường.

Theo truyền thuyết xưa, Bãi Cháy chính là nơi đoàn thuyền lương của quân Nguyên Mông do Trương Văn Hổ cầm đầu vào xâm lược Việt Nam đã bị Trần Khánh Dư cùng quân dân nhà Trần thiêu cháy và bị dạt vào bờ. Do nhiều thuyền giặc bị cháy, gió Đông Bắc lại thổi tạt lửa vào bờ phía tây Cửa Lục làm cháy luôn khu rừng đang hanh khô. Khu rừng bị cháy đó thành Bãi Cháy ngày nay.Một truyền thuyết dân gian lại cho rằng trước đây tàu thuyền thường neo đậu vào bãi biển phía tây Cửa Lục. Dưới đáy và bên sườn thuyền thường có con hà bám vào rất chắc có thể ăn hỏng thuyền vì thế dân chài phải lấy lá phi lao đốt xung quanh. Từ bên phía Hòn Gai và các nơi khác nhìn vào đó luôn luôn thấy lửa cháy rực lên nên gọi nơi này là Bãi Cháy.

Bãi Cháy quanh năm đón gió biển từ ngoài vịnh thổi vào. Đặc điểm địa hình là một dải đồi thấp chạy thoai thoải về phía biển, kéo dài hơn 2km ôm lấy hàng thông cổ thụ, nằm xen là những khách sạn, những biệt thự nhỏ kiến trúc riêng biệt. Bên con đường trải nhựa, sát bờ vịnh là dải cát trắng và hàng phi lao xanh mát, những hàng quán nhỏ xinh ẩn mình dưới những tán phi lao. Tắm biển xong du khách có dịp thưởng thức các món đặc sản chế biến từ hải sản. Gió biển ở đây như bàn tay thần kỳ mơn man xua đi nỗi ưu tư, phiền muộn.

Hiện nay công ty quốc tế Hoàng Gia đã đầu tư nhiều dịch vụ vào khu bãi biển này. Khu du lịch Bãi Cháy được qui hoạch thành một khu du lịch đẹp nhất thành phố Hạ Long bao gồm nhà hàng, nhà biểu diễn múa rối nước và ca nhạc dân tộc, công viên quốc tế Hoàng Gia, dịch vụ lướt ván và đi mô tô trên biển.

Buổi sáng hôm sau đoàn đón tàu tại Bãi Cháy ra thăm quan vịnh Hạ Long. Vịnh Hạ Long nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, là một phần bờ tây vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Đồn. Phía tây nam vịnh giáp đảo Cát Bà, phía tây giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới hạn trong các tọa độ từ 1060 58’ – 1070 22’ kinh độ Đông và 200 45’ – 200 50’ vĩ độ bắc, với tổng diện tích 1553 km2 gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Đảo ở Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía đông nam vịnh Bái Tử Long và vùng phía tây nam vịnh Hạ Long. Đây là hình ảnh cổ xưa nhất của địa hình có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 – 280 triệu năm, là kết quả của quá trình vận động nâng lên, hạ xuống nhiều lần từ lục địa thành trũng biển. Quá trình Caxtơ bào mòn, phong hoá gần như hoàn toàn tạo ra một Hạ Long độc nhất vô nhị trên thế giới. Trong một diện tích không lớn, hàng ngàn đảo đá với muôn hình, dáng vẻ khác nhau như những viên ngọc bích long lanh được đính lên chiếc khăn voan xanh biếc của nàng thiếu nữ. Vùng tập trung dày đặc các đảo đá có phong cảnh ngoạn mục và nhiều hang động đẹp nổi tiếng là vùng trung tâm Di sản Thiên nhiên vịnh Hạ Long, bao gồm vịnh Hạ Long và một phần vịnh Bái Tử Long.

Vùng Di sản được Thế giới công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam) và đảo Cống Tây (phía đông). Vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng năm 1962.

Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động. Đó là những tác phẩm tạo hình tuyệt mỹ, tài hoa của tạo hoá, của thiên nhiên biến hàng ngàn đảo đá vô tri tĩnh lặng kia trở nên những tác phẩm điêu khắc, hội họa hoàn mỹ với muôn hình dáng vẻ yêu kiều, vừa rất quen thuộc vừa như xa lạ với con người. Hàng ngàn đảo đá nhấp nhô trên sóng nước lung linh huyền ảo, vừa khoẻ khoắn, hoành tráng nhưng cũng rất mềm mại duyên dáng, sống động. Đi giữa Hạ Long với muôn ngàn đảo đá, ta ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá nơi đây. Đảo thì giống hình ai đó đang hướng về đất liền – hòn Đầu Người; đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá – hòn Lã Vọng; và kia hai cánh buồm nâu lực lưỡng đang rẽ sóng nước ra khơi – hòn Cánh Buồm; rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước – hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất – hòn Lư Hương… Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc. Những đảo đá diệu kỳ ấy biến hoá khôn lường theo thời gian và góc nhìn. Tới đây ta mới nhận ra tất cả chúng không phải là những hòn đảo vô tri tĩnh lặng mà như có hồn và đều sống động.

Tiềm ẩn trong lòng các đảo đá ấy là những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung… Đó thực sự là những lâu đài của tạo hoá giữa chốn trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là “kỳ quan đất dựng giữa trời cao”. Bao tao nhân mặc khách từ khắp năm châu khi đặt chân đến đây đều cảm thấy bàng hoàng trước vẻ đẹp kỳ vĩ của Hạ Long, dường như họ đều cảm thấy lúng túng và bất lực bởi vốn từ hiện có vẫn chưa đủ để mô tả vẻ đẹp của Hạ Long. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Vịnh Hạ Long cũng là nơi gắn liền với những trang sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc Việt Nam với những địa danh nổi tiếng như Vân Đồn – nơi có thương cảng cổ sầm uất vào thế kỷ thứ 12; có núi Bài Thơ lịch sử; cách đó không xa dòng sông Bạch Đằng – là chứng tích của hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của các thế hệ ông cha chống giặc ngoại xâm. Không chỉ có vậy, Hạ Long còn là một trong những cái nôi của con người với nền Văn hoá Hạ Long huy hoàng thời Hậu kỳ đồ đá mới tại những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… Với hàng ngàn loài động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng như tôm, cá, mực… có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ có ở nơi đây.

Với những giá trị đặc biệt như vậy, ngày 17/12/1994, trong phiên họp lần thứ 18 của Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO tổ chức tại Thái Lan, vịnh Hạ Long chính thức được công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới. Năm 2000, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận lần thứ hai Di Sản thế giới bởi giá trị địa chất, địa mạo. Điều đó đã khẳng định giá trị ngoại hạng mang tính toàn cầu của vịnh Hạ Long.

Đoàn thăm quan các hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt, động Thiên cung, đảo Ti Tốp. Giữa non nước mây trời Hạ Long tuyệt mỹ, một cái hang mang tên rất mộc mạc dân dã: hang Đầu Gỗ. Hang nằm trên đảo Đầu Gỗ. Từ phía xa nhìn lại, cửa hang có màu xanh lam hình một con sứa biển, qua 90 bậc đá xây ta tới cửa hang. Vòm hang cao khoảng 25m, từ trên cao ấy hàng trăm nhũ đá khổng lồ rủ xuống như một dòng thác kỳ lạ.

Hang được chia làm ba ngăn chính. Ngăn phía ngoài có hình vòm cuốn tràn trề ánh sáng tự nhiên, trần hang là một bức “tranh sơn dầu” khổng lồ, mô tả phong cảnh thiên nhiên hoang sơ với những rừng măng đá, nhũ đá nhiều mầu tạo nên nhiều hình thù kỳ lạ tuỳ theo trí tưởng tượng phong phú của mỗi người: những đàn voi đang đi kiếm ăn, những chú hươu sao ngơ ngác, chú sư tử lim dim ngủ…, phía dưới là một chú rùa đang bơi giữa bể nước mênh mông. Đứng dưới vòm hang ta có cảm giác như đang đứng giữa một toà lâu đài cổ kính, có lối kiến trúc đồ sộ và hùng vĩ.

Vượt qua ngăn thứ nhất, qua một khe cửa hẹp, ta sẽ bước vào ngăn thứ hai của hang. ánh sáng chiếu vào đây mờ ảo, những bức tranh mới lạ hiện lên long lanh huyền bí. Những chùm hoa đá lúc ẩn lúc hiện, những hình ảnh vừa quen thuộc vừa xa lạ,… tạo cho con người vừa sợ sệt vừa tò mò. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Tới ngăn thứ ba của hang, lòng hang lại đột ngột mở rộng. Tận cùng hang là một chiếc giếng tiên bốn mùa nước ngọt trong vắt, chảy tràn trề. Bất giác ta nhìn lên phía trên trong ánh sáng mờ ảo, ta nhận ra bốn xung quanh là hình ảnh toà thành cổ, trên đó đang diễn ra một trận hỗn chiến của những chú voi, ngựa đang xung trận, người và ngựa chen chúc, gươm giáo tua tủa, tất cả như đang xông lên và bỗng dưng bị hoá đá.

Sở dĩ gọi là hang Đầu Gỗ, theo truyền thuyết xưa kể rằng: Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo đã cho chuẩn bị nhiều cọc gỗ lim ở đây để cắm xuống lòng sông Bạch Đằng, tạo nên một trận thuỷ chiến vang lừng trong lịch sử. Sau đó còn rất nhiều mẩu gỗ sót lại vì vậy hang mang tên là hang Đầu Gỗ.

Lại có tên gọi là hang Giấu Gỗ vì theo truyền thuyết đây chính là nơi Trần Hưng Đạo cho giấu các cọc gỗ lim để chuẩn bị cho trận chiến Bạch Đằng chống quân Nguyên – Mông.

Nếu động Thiên Cung hoành tráng tinh tế, hiện đại thì hang Đầu Gỗ trầm mặc uy nghi và rất đồ sộ. Cuốn Merveille de Monde (kỳ quan thế giới) của Pháp xuất bản năm 1938 chuyên về du lịch giới thiệu các danh thắng nổi tiếng thế giới đã gọi hang Đầu Gỗ là Grotte des merveilles (động của các kỳ quan). Điều đó hoàn toàn chính xác.

Hang Đầu Gỗ như tập trung được một quần thể kiến trúc cổ xưa, Vẻ đẹp hoang sơ và tĩnh mịch với nhiều cột đá, trụ đá, măng đá nhỏ nhắn, cao vút như muốn vươn tận trời xanh…

Động nằm trên đảo Đầu Gỗ ở độ cao 25m so với mực nước biển. Hang Đầu Gỗ và động Thiên Cung cách nhau chừng 100m, được thông nhau bằng những lối đi quanh co, uốn lượn dưới tán lá rừng. Đường lên động Thiên Cung vách đá cheo leo, hai bên cây che phủ um tùm. Qua một khe cửa hẹp, lòng động đột ngột mở ra khoảng không bên trên một mặt bằng hình tứ giác với chiều dài hơn 130 m. Càng vào trong ta càng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp hết sức sinh động và lộng lẫy do thạch nhũ tạo nên. Trên vách động phía đông là một bức tranh hoành tráng đồ sộ, trong đó nổi lên những nhân vật trong truyện cổ tích xưa, đường nét mềm mại uyển chuyển và vô cùng tinh tế sắc sảo tới từng chi tiết nhỏ, những khối điêu khắc dù là đồ sộ hay nhỏ bé đều được bàn tay của tạo hoá trau chuốt tỉ mỉ. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Động gắn liền với truyền thuyết về vua Rồng xưa. Chuyện kể rằng: “Sau khi vua Rồng giúp dân ta đánh tan giặc giã, vua Rồng trở về động của mình, năm ấy trời hạn hán nặng, dân tình mất mùa nhiều nên họ phải cầu cứu vua Rồng ra tay làm mưa. Bao nhiêu người đã ra đi mà không có ngày trở về. Không sợ nguy hiểm gian nan, có một đôi vợ chồng trẻ quyết tâm cùng nhau đi tìm gặp vua Rồng. Người con gái của họ ra đời được đặt tên là nàng Mây. Nàng Mây lớn lên đã làm xao xuyến trái tim Hoàng tử Rồng và tình yêu đã giúp họ tìm đến với nhau, đám cưới được tổ chức 7 ngày 7 đêm tại khu vực trung tâm động. Để chúc mừng đám cưới, những chú rồng bay lượn lúc ẩn lúc hiện trong rừng mây nhũ đá, những chú voi con công kênh nhau lên nhảy múa, những con mãng xà lớn trườn mình quấn quanh cây đa cổ thụ, hai chú sư tử đá nhảy múa bờm tóc tung bay, trên cao những chú đại bàng dang rộng đôi cánh khổng lồ. Một chú voi lớn được trang trí diêm dúa, công phu đang nằm phủ phục chờ cô dâu chú rể bước xuống. Nam Tào, Bắc Đẩu tóc bạc như mây cũng đến dự tiệc vui, cảnh tượng vô cùng tưng bừng náo nhiệt”.

Trung tâm động là bốn cột trụ to lớn lực lưỡng chống đỡ thiên đình. Từ chân cột tới đỉnh đều được “chạm nổi” nhiều hình thù kỳ lạ như chim cá, cảnh sinh hoạt của con người, hoa lá cành… Trên vách động phía bắc là cảnh một bầy tiên nữ đang múa hát chúc mừng đám cưới. Dưới vòm động cao vút, từng chùm nhũ đá rủ xuống muôn màu tạo thành bức rèm đá tự nhiên lộng lẫy. Đâu đó có tiếng trống bập bùng như trong đêm hội làng xưa. Đó chính là tiếng gió thổi qua kẽ đá. Nhìn lên vòm động cao vút, màu thạch nhũ xanh như dát ngọc ta ngỡ như đang đứng trong cảnh bồng lai vậy.

Tới ngăn động cuối cùng, những luồng ánh sáng trắng xanh đỏ xen lẫn phối màu tạo nên khung cảnh hoa lệ. Một khe nước tự nhiên bốn mùa tuôn chảy róc rách, nơi đây có ba chiếc ao, nước trong vắt. Theo truyền thuyết, đây là nơi nàng Mây thường tắm cho 100 người con của mình và nuôi họ trưởng thành. Một con đường dẫn ra phía ngoài quanh co uốn khúc, đó chính là con đường mà nàng Mây cùng 50 người con của mình ra đi để khai phá vùng đất mới, 50 người con còn ở lại cùng với người cha xây dựng quê hương, di vật mà người mẹ để lại là bầu vú tiên tràn trề sức sống.

Ra khỏi động Thiên Cung, ta sẽ có cảm giác như vừa được xem một “bảo tàng mỹ thuật” vô cùng độc đáo, công phu, kỳ thú mà tất cả đều do bàn tay thần tình của tạo hoá làm nên, vượt khỏi tài trí và sức tưởng tượng của con người.

Nằm ở khu vực trung tâm của Di sản thế giới vịnh Hạ Long, hang động Sửng Sốt thuộc đảo Bồ Hòn. Người Pháp đặt cho động cái tên “grotto les suprices” (động của những sửng sốt). Ðây là một hang động rộng và đẹp vào bậc nhất của vịnh Hạ Long. Mặt khác động nằm ở vùng trung tâm du lịch của vịnh Hạ và đây cũng là nơi tập trung nhiều đảo đá có hình dáng đặc sắc không nơi nào có được. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

Ðường lên động Sửng Sốt luồn dưới những tán lá rừng, những bậc đá ghép cheo leo, du khách vừa có được cái thú của người leo núi, vừa có cái háo hức như đang đi lên trời vậy. Ðộng được chia làm hai ngăn chính, toàn bộ ngăn một như một nhà hát lớn rộng thênh thang. Trần hang được phủ bằng một lớp “thảm nhung” óng mượt, vô số những “chùm đèn treo” bằng nhũ đá rực sáng long lanh, những tượng đá, voi đá, hải cẩu, mâm xôi, hoa lá… tất cả dường như đang chuyển động trong một thế giới huyền ảo như thực như mơ. Chưa hết ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần kì của tạo hoá, ta bước vào ngăn thứ hai bằng một con đường nhỏ. Một luồng ánh sáng ùa vào rực rỡ, động mở ra một khung cảng mới hoàn toàn khác lạ, ngăn động rộng mênh mông có thể chứa được hàng ngàn người, ngay cạnh lối ra vào là một chú ngựa đá và một thanh gươm dài. Truyền thuyết xưa kể rằng, sau khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng đã giúp dân chúng ở đây đánh đuổi yêu ma, khi dẹp xong Thánh Gióng bay về trời và để lại thanh gươm và con ngựa quý để trấn an dân chúng, xua đuổi yêu quái.

Hiện nay trong hang còn nhiều hình ảnh tự nhiên dường như là những dấu tích của trận chiến ác liệt đó, vết chân ngựa Gióng trở thành những ao hồ nhỏ xinh xinh cùng nhiều tảng đá to lớn vỡ vụn. Ði vào trong cảnh trí còn lắm điều kỳ lạ, như nhũ đá, cây đa cổ thụ tán lá xum xuê, chú gấu biển, khủng long… Tới đỉnh cao nhất của động, bất ngờ một khu “vườn thượng uyển” mở ra trước mắt, có hồ nước trong vắt, phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, muôn loài cây như si, vạn tuế, đa cổ thụ cùng nhiều loài chim sinh sống. Những ngày đẹp trời, từng đàn khỉ kéo nhau xuống đây tìm hoa quả ăn làm náo động cả một vùng.

Đảo Ti Tốp có bãi cát hình vành trăng lưỡi liềm ôm trọn lấy chân đảo. Cát đây bốn mùa được nước thủy triều rửa sạch trắng tinh. Trong bản đồ của Pháp vẽ về Hạ Long cuối thế kỷ 19, đảo Ti Tốp có tên là hòn Cát Nàng, hòn đảo nhỏ xinh đẹp ấy tựa lưng vào vịnh Cửa Lục phía trước là vụng Sửng Sốt có đảo Bồ Hòn, bên phải là hòn Dầm Nam. Ngày 22/11/1962 hòn đảo nhỏ này được đón Hồ Chủ Tịch cùng nhà du hành vũ trụ, anh hùng lao động Liên Xô, anh hùng lao động Việt Nam Giéc Man Ti Tốp lên thăm và nghỉ tại đây. Để ghi dấu kỷ niệm chuyến đi đó, Hồ Chủ Tịch đã đặt tên cho đảo là đảo Ti Tốp. Nơi đây đã trở thành điểm du lịch tắm biển hấp dẫn. Các dịch vụ thuê áo tắm, phao bơi, nước ngọt luôn sẵn sàng phục vụ du khách.

Bãi tắm Ti Tốp nhỏ nhưng rất thoáng đãng và yên tĩnh, bốn mùa nước sạch và trong xanh, đặc biệt non nước, trời mây ở đây tuyệt đẹp. Du khách có thể tắm biển hoặc leo lên một chiếc lầu ở lưng chừng và một chiếc khác ở trên đỉnh núi để ngắm cảnh từ trên cao.

Rời đảo Ti Tốp tàu đưa đoàn cập bến kết thúc chuyến thăm quan vịnh.

Tiểu kết chương 2

Tổng hợp, khái quát về những tài nguyên du lịch ở Hải Phòng: vị trí, địa hình, khí hậu, sông ngòi, biển, động – thực vật… và các kết quả hoạt động kinh doanh về khách du lịch và doanh thu từ du lịch… đều là những tiền đề vật chất quan trọng để phát triển du lịch Hải Phòng.

Nhìn chung Hải Phòng là thành phố có vị trí địa lý, tài nguyên du lịch gồm cả tự nhiên và nhân văn, điều kiện kinh tế – xã hội tương đối thuận lợi cho phát triển du lịch.

Hoạt động từ thiện tại Hải Phòng đang rất được các ban ngành, tổ chức quan tâm hưởng ứng. Hải Phòng cũng có rất nhiều điểm từ thiện rất dễ kết hợp vào cùng với tour du lịch, đây là một điều kiện quan trọng để phát triển được loại hình du lịch từ thiện tại thành phố. Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Giải pháp phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng phát triển loại hình du lịch từ thiện tại HP […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993