Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Các tiềm năng chủ yếu để xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá ở Huyện Thuỷ Nguyên dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1– KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN THUỶ NGUYÊN

2.1.1- Điều kiện tự nhiên

2.1.1.1- Vị trí địa lý

Huyện Thuỷ Nguyên là một huyện duyên hải của thành phố Hải Phòng, có diện tích khoảng 242,7km2, dân số 203.870 người (số liệu năm 2005) nằm ở phía Bắc thành phố Hải Phòng. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh qua các sông Bạch Đằng, Đá Bạc; phía Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương; phía Đông và Nam giáp các quận Hải An, Ngô Quyền và Hồng Bàng qua sông Cấm. Nhìn trên bản đồ huyện Thuỷ Nguyên như một hòn đảo, xung quanh đều là sông bao bọc.

Huyện có 37 đơn vị hành chính bao gồm: thị trấn Núi Đèo, thị trấn Minh Đức và 35 xã là: Gia Minh, Gia Đức, Minh Tân, Trung Hà, Ngũ Lão, Hoà Bình, Thuỷ Đường, Thiên Hương, Hoa Động, Lâm Động, Hoàng Động, Tam Hưng, Phục Lễ, Phà Lễ, Lập Lễ, Thuỷ Triều, Thuỷ Sơn, An Lư, Tân Dương, Dương Quan, Liên Khê, Lưu Kỳ, Kỳ Sơn, Lưu Kiếm, Chính Mỹ, Quảng Thanh, Kênh Giang, Đông Sơn, Mỹ Đồng, Lại Xuân, An Sơn, Phù Ninh, Hợp Thành, Cao Nhân, Kiền Bái.

2.1.1.2- Địa hình

Vùng đất Thuỷ Nguyên là kết quả của sự hoạt động địa chất, địa mạo lâu dài; quá trình biển tiến, biển lùi phức tạp qua nhiều triệu năm. Địa hình nơi đây bao gồm hai hình thái trái ngược nhau; vùng đồi núi chia cắt khá mạnh và vùng đồng bằng ô trũng.

Đồi núi chiếm khoảng 12%, phân bố chủ yếu ở phía bắc Thuỷ Nguyên. Đồng Bằng ở Thuỷ Nguyên chiếm khoảng 80% diện tích tự nhiên của huyện. Khu vực này nằm ở phía Nam huyện, trải rộng trên toàn bộ diện tích các xã Hợp Thành, Cao Nhân, Mỹ Đồng, Kiến Bái, Thiên Hương, Đông Sơn, Tân Dương, Dương Quan, An Lư, Thuỷ Triều, Tam Hưng, Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ và chiếm phần lớn các xã Phù Linh, Kênh Giang, Thuỷ Đường, Hoà Bình, Trung Hà, Ngũ Lão…Ngoài ra một số cánh đồng nhỏ hẹp còn nằm xen kẽ giữa các dải núi đồi ở khu vực phía Bắc của huyện.

2.1.1.3- Khí hậu Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Nằm trong mảnh đất Hải Phòng nhưng với những đặc trưng về vị trí địa lý, địa hình riêng biệt nên khí hậu Thuỷ Nguyên vừa mang tính chất của khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa vừa có những đặc trưng kiểu khí hậu của khu vực đồng bằng xen kẽ với núi đá vôi. Nhiệt độ trung bình hàng năm vào khoảng 23°- 24°C, lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 1500mm – 1650mm. Khí hậu ở Thuỷ Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa Đông lạnh, mùa Hạ nóng và thường có nhiều mưa bão vào các tháng 7, 8, 9. Mùa Đông kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau.

2.1.1.4- Thuỷ văn

Huyện Thuỷ Nguyên được bao quanh bởi sông Kinh Thầy, Thái Bình, Bạch Đằng, sông Gía, sông Hàn, sông Ruột Lợn…Nội địa vùng đất, Thuỷ Nguyên là hệ thống kênh mương dày đặc. Các dòng sông chính chảy qua phần đất Thuỷ Nguyên đều là phần hạ lưu cuối cùng của hệ thống sông Thái Bình, gồm: sông Bạch Đằng (30km), sông Kinh Thầy (27km), sông Hàn (8km), sông Ruột Lợn (5km) và sông Gía. Đặc biệt, sông Bạch Đằng là nơi ghi dấu những chiến công lừng lẫy trong lịch sử đấu tranh của dân tộc (năm 939 Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, năm 1288 chiến thắng Nguyên – Mông).

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2- Điều kiện lịch sử, kinh tế – xã hội

2.1.2.1- Lịch sử

Tên đầu tiên của huyện là Nam Triệu Giang. “Giang” có nghĩa là một đơn vị hành chính tương đương cấp huyện. Thời Hùng Vương, Thuỷ Nguyên thuộc bộ Dương Tuyền (Thanh Thuyền) một trong 15 bộ của nước Văn Lang xưa. Vào thời Minh đô hộ, trong sử sách tên Thuỷ Đường được nhắc đến nhiều lần. Thời Nguyễn, Thuỷ Nguyên thuộc phủ Kinh Môn, Trấn Hải Dương. Từ 31-01-1898 sát nhập vào tỉnh Phù Liễn (năm 1906 tỉnh Phù Liễn đổi tên là tỉnh Kiến An). Tháng 11 năm 1949 thuộc tỉnh Quảng Yên, đến năm 1953 thuộc khu Hồng Quảng. Năm 1956 được cắt chuyển về tỉnh Kiến An, ngay sau đó lại thuộc thành phố Hải Phòng. Khi Kiến An và Hải Phòng sát nhập (20-10-1962), Thuỷ Nguyên chính thức trở thành một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hải Phòng. Đến nay Thuỷ Nguyên có 35 xã và 2 thị trấn Núi Đèo, Minh Đức. Năm 1886 kiêng tên huý vua Đồng Khánh (Ưng Đường) nên Thuỷ Đường đổi tên là Thuỷ Nguyên và được duy trì đến ngày nay [5].

Trong suốt chiều dài lịch sử, Thuỷ Nguyên luôn là địa bàn chiến lược, nơi đầu sóng ngọn gió, đồng thời cũng là địa thế hiểm yếu, phải đương đầu với muôn vàn biến động của lịch sử. Đặc điểm đó tạo nên bản sắc đáng trân trọng của con người Thuỷ Nguyên: cần cù, sáng tạo trong lao động; dũng cảm trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Mảnh đất này không ít lần chứng kiến và góp phần lập nên nhiều chiến công hiển hách, chôn vùi ý đồ xâm lăng của nhiều đạo quân xâm lược. Tiêu biểu là các trận quyết chiến tiêu diệt quân Nam Hán (năm 938), quân Nguyên Mông (năm 1288). Cũng trên mảnh đất này đã sản sinh biết bao người con ưu tú cống hiến cho sự nghiệp dựng nước mà tên tuổi họ còn sống mãi với truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam như Vũ Hồng, Vũ Thị Lê Hoa, Trần Độ, Trần Cao, Lê Na… [1].

2.1.2.2- Dân cư Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Thuỷ Nguyên nằm trên hành lang phía Bắc thành phố Hải Phòng, nằm trên trục giao thông chính nối liền hai thành phố công nghiệp Hải Phòng và Quảng Ninh. Nguyễn Trãi đã từng ví đây là “phiên dậu lớn nhất phía Đông” vùng đất này được hình thành từ rất sớm, dân cư sống ở vùng đất này có mặt từ xa xưa. Những di chỉ khảo cổ học tìm thấy mộ cổ Việt Khê (Phù Ninh) được khai quật vào năm 1962 có niên đại khoảng 2000 năm.

Theo các kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở di chỉ Tràng Kênh (thuộc văn hoá Phùng Nguyên), di chỉ Việt Khê (thuộc văn hoá Đông Sơn) từ rất sớm con người đã có mặt ở Thuỷ Nguyên. Khi ấy họ cư trú trên các sườn đồi, chân núi rồi xuống đông bằng ven biển, cùng nhau chinh phục tự nhiên, khai khẩn đất đai, xây dưng nên xóm làng trù phú, chống lại thiên tai, giặc giá xâm lẫm.

Nét nổi bật của cư dân Thuỷ Nguyên là đa thành phần, đa dòng họ. Theo bia ký, ngọc phả của các làng còn được lưu giữ, dân cư thuộc khu vực xã Phù Ninh, Thuỷ Đường, Minh Đức thuộc vào lớp đã có mặt ở Thuỷ Nguyên từ cổ xưa.Cư dân các xã còn lại đều là có nguồn gốc từ các vùng khác. Họ di cư đến Thuỷ Nguyên quai đê, lập ấp, thành lập thôn trại cách đây chưa lâu lắm.

Chính vì có nguồn gốc khác nhau nên cư dân ở mỗi xã có một giọng nói riêng. Thậm chí hai làng sát nhau, chỉ cách nhau một con đường mà phong cách, nếp sống, lời ăn tiếng nói của dân cư ở đó cũng khác nhau. Dân xã An Lư, Trung Hà, Thuỷ Triều khi nói không có sự phân biệt giữa thanh (?) và thanh (~). Dân ở xã Phả Lễ, Lập Lễ thường nhấn mạnh ngữ điệu vào âm cuối tạo giọng ngân nga, kéo dài trong khi nói.

Thiên nhiên đã ban tặng cho Thuỷ Nguyên, khung cảnh non xanh, nước biếc, sông ngòi uốn khúc, đồi núi trập trùng có đồng nội làng mạc trù phú, khí hậu biển quanh năm mát mẻ… Vì thế con người sông ở nơi đây có điều kiện rất tốt phát triển cả thể lực và trí lực. Từ ngàn xưa Thuỷ Nguyên đã là vùng quê giàu có, và là vùng đất nổi tiếng có nhiều trai tài gái sắc, thông minh lịch lãm. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi chép về Thuỷ Nguyên đã từng coi nơi đây là vùng đất quân yếu của bờ cõi mặt biển. Bởi trong lịch sử dân tộc, những lần giặc phương Bắc xâm lược nước ta, chúng thường đi bằng hai con đường: một là đường bộ qua Lạng Sơn, hai là đường thuỷ men theo ven biển đến Hạ Long, theo sông Bạch Đằng rồi tới sông Lục Đầu để tiên sâu vào nội địa. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

2.2.3- Một số nét về kinh tế – văn hoá – xã hội

Thuỷ Nguyên như một hòn đảo nằm trong vòng ôm của những dòng sông, ở phía Tây Bắc là sông Hàn nối với sông Đá Bạc, sông Bạch Đằng kéo dài suốt phía Bắc tới phía Đông huyện, phía Tây là sông Hàn nối liền với sông Văn Dương và sông Cấm ngăn cách huyện Thuỷ Nguyên với các vùng xung quanh. Nằm ngang huyện là hồ sông giá thơ mộng, bốn mùa nước trong xanh với trữ lượng nước lớn chạy dài từ Đông sang Tây Bắc, nằm giữa hai dãy đồi đất sa diệp thạch kì thú.

Tận dụng tối đa các thế mạnh của một vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về ngành nghề, Thuỷ Nguyên đã nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có. Trên cơ sở đó, nhanh chóng xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư phát triển, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Trong giai đoạn 1998 – 2002, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 58% xuống 47,9%; công nghiệp – xây dựng tăng từ 11,9% lên 26,4%; ngành dịch vụ cũng được điều chỉnh hợp lý hơn. Nhờ đó, năm 2002, tổng giá trị các ngành sản xuất và dịch vụ đạt 688,7 tỷ đồng, tăng 16,5% so với năm 2001, trong đó ngành nông nghiệp tăng 5,1%, ngành công nghiệp – xây dựng tăng 26,4%, ngành dịch vụ tăng 22,8%.

Những năm gần đây, Thuỷ Nguyên nhộn nhịp như đại công trường xây dựng với 3 khu công nghiệp Minh Đức- Bến Rừng, Nam Cầu Kiền; Lưu Kiếm- Gia Minh và hàng trăm dự án ngoài các khu công nghiệp này. KCN Minh Đức – Bến Rừng có 14 dự án thuộc lĩnh vực đóng mới, sửa chữa tàu biển, nhiệt điện, dự án hạ tầng giao thông, công trình phúc lợi và nhà ở. KCN Nam cầu Kiền có 6 dự án lớn như xây dựng KCN VINASHIN-SHINEC, đóng tàu Sông Cấm, Thành Long, VINASHIN An Dương, sửa chữa phương tiện giao thông đường bộ do Công ty TNHH Thương mại-Vận tải Hoàng Hải làm chủ đầu tư. KCN Lưu Kiếm-Gia Minh có 6 dự án đầu tư gồm: tổ hợp resort tại Lưu Kiếm, Chính Mỹ và, Liên Khê, Nhà máy sản xuất công nghiệp nặng FeLix, xi- măng Liên Khê, sản xuất vôi, xăng dầu khu vực 3 và đóng tàu Nam Sơn. Các dự án mang lại hiệu quả thiết thực, đóng góp lớn cho ngân sách và thúc đẩy tăng trưởng GDP trên địa bàn, tạo việc làm cho số lượng lớn lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế Thuỷ Nguyên theo hướng công nghiệp-xây dựng chiếm chủ yếu (42,1%); dịch vụ 28,9%; nông nghiệp- thuỷ sản 29%. Năm 2008, tổng giá trị sản xuất các ngành của Thuỷ Nguyên đạt hơn 2100 tỷ đồng tăng 16,9% so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp thuỷ sản, công nghiệp xây dựng, dịch vụ đạt khá. GDP đạt 980 tỷ đồng, tăng 16,6% so với năm 2007.

Hiện trên địa bàn Thuỷ Nguyên có 39 dự án đã và đang triển khai, trong đó có 30 dự án mới với tổng diện tích đất thu hồi 964,6 ha, khoản tiền bồi thường cho hơn 10 nghìn hộ dân lên tới 1323 tỷ đồng. 32 dự án có quyết định thu hồi đất của UBND thành phố với 599 ha, 7611 hộ dân liên quan phải di dời, trong đó có 317 hộ cần tái định cư và bố trí giãn dân.

Năm 2009, mặc dù chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, nhưng nhờ sự nỗ lực và quyết tâm cao của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện, tình hình kinh tế – xã hội của Thuỷ Nguyên vẫn tiếp tục ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: nông nghiệp – thuỷ sản 26%, công nghiệp – xây dựng 43,7%, dịch vụ 30,3%. Tổng giá trị sản xuất đạt 2.443,8 tỷ đồng, tăng 15,9%; tổng thu ngân sách đạt 194 tỷ đồng, tăng 42%; huy động đầu tư toàn xã hội đạt 710 tỷ đồng, tăng 18,3% so với năm 2008. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Tín hiệu đáng mừng là: dịch vụ thương mại tăng 23,2%, dịch vụ vận tải tăng 20,5%, dịch vụ khác tăng 16,6%; quy hoạch các điểm dịch vụ thương mại và hệ thống ga rác ở các xã, thị trấn cũng như quy hoạch phát triển hệ thống lưới điện đến năm 2020, các cụm công nghiệp ven sông Kinh Thầy, sông Đá Bạc, khu xử lý chất thải Gia Minh đã cơ bản hoàn thành. Lúc này ở Thuỷ Nguyên, tỷ lệ hộ dân dùng nước hợp vệ sinh đạt 85%, số trường học đạt chuẩn quốc gia là 47 (riêng năm 2009 xây dựng được 5 trường), tỷ lệ hộ nghèo còn 4,51%.

Năm 2010, huyện đề ra các nhóm giải pháp tập trung tháo gỡ khó khăn để phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; giữ vững quốc phòng – an ninh, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh nhằm thực hiện tốt 9 chỉ tiêu kinh tế – xã hội. Trong đó, phấn đấu tổng giá trị sản xuất các ngành 2.851 tỷ; tốc độ tăng trưởng kinh tế 16,6%; 91% hộ dân được dùng nước sạch…(Báo an ninh Hải Phòng 15/06/2010).

Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thuỷ Nguyên có điều kiện phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp như: hồ Sông Giá, hang Lương, hang Vua, khu vực núi Tràng Kênh… và nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng cùng với những lễ hội truyền thống độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc.

Về mặt văn hoá – xã hội, cư dân Thuỷ Nguyên đã sinh sống trên mảnh đất này ngay từ buổi đầu dựng nước. Trải qua các biến động, thăng trầm lịch sử, dựa vào tự nhiên để sinh tồn, cộng đồng dân cư ở đây đã sáng tạo, củng cố và hoàn thiện được những đặc trưng văn hoá của riêng mình. Phong tục tập quán, tín ngưỡng và hệ thống lễ hội của họ đã hình thành, tồn tại và phát triển qua hàng nghìn năm. Ngày nay, nó vẫn được duy trì củng cố và hoàn thiện trong hoàn cảnh mới.

Nét đặc trưng về phong tục, tập quán trong lao động sản xuất ở Thuỷ Nguyên có: Lễ Hạ điền (xuống đồng) để mở đầu một chu kỳ sản xuất mới hàng năm. Lễ hội này được tổ chức nhằm cầu mong cho mùa màng bội thu. Thời gian tổ chức thường vào một ngày cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6 (âm lịch). Đáng chú ý là tục tế thần nông cầu mong mưa thuận, gió hoà cho lúa và hoa màu tươi tốt, được mùa, ấm no. Đến nay các lễ hội này đã mai một. Gần như mỗi làng ở Thuỷ Nguyên đều có một lễ hội riêng. Đó thường là lễ hội cúng Thành Hoàng, người có công với dân với nước hoặc hội đình, hội đền, hội chùa. Các lễ hội tiêu biểu ở Thuỷ Nguyên phải kể đến: lễ hội Trần Quốc Bảo ở Minh Đức (6/ Giêng), lễ hội cúng Thành Hoàng làng ở đìng Kiền Bái (10/10 âm lịch), lễ hội chùa ở Lâm Động (17/ Giêng), hội chùa Mỹ Cụ xuất xứ từ ngày giỗ Sư tổ mùng 6 tháng Giêng thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia… nhằm giúp cho việc tổ chức lễ hội được tốt đẹp, suôn sẻ. Hàng năm các làng thường có tục làm “cai đám”. Các giáp trong làng mỗi năm cử một người thay mặt giúp mình để đăng cai việc tổ chức đình đám. Người “cai đám” này được chia cấy ruộng hậu của làng để lo việc. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Cũng như bao làng quê khác, tục thờ cúng tổ tiên là nghiã cử cao đẹp được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong các gia đình, dòng họ ở địa phương. Trong các làng xã đều thờ Thành Hoàng làng là những anh hùng có công với đất nước, làng xã, là người sáng lập làng hoặc ông tổ nghề.

Thuỷ Nguyên đó là các anh hùng dân tộc: Cao Sơn, Quý Minh, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Bảo …hoặc sáng lập ra quê mình như: ông Vũ Đại, ông Lủi… được nhân dân tôn thờ. Ở Thuỷ Nguyên, hai tôn giáo có nhiều tín đồ, ảnh hưởng sâu rộng trong tư tưởng tín ngưỡng nhân dân trong huyện là: Phật giáo, Thiên Chúa giáo. Phật giáo được truyền vào Thuỷ Nguyên từ đầu công nguyên nhưng qua nhiều năm thăng trầm, tới thế kỷ X mới phát triển, đến thế kỷ XVII thì hệ thống truyền tam pháp của thiền gia được thành lập.

Theo thống kê chưa đầy đủ ở Thủy Nguyên có khoảng 130 di tích lịch sử văn hóa, phân bố khá đều ở các làng xã với mật độ trung bình 1 di tích/1km². Do vậy Thủy Nguyên là một trong những huyện có mật độ di tích lịch sử văn hóa cao nhất cả nước. Trong đó đã có 18 di tích được xếp hạng quốc gia và 23 di tích được xếp hạng thành phố (Phụ lục 3) cũng thuộc mật độ cao nhất trong cả nước. Hiện nay, Thuỷ Nguyên là huyện có nhiều chùa nhất ở Hải Phòng, trong đó có 4 chùa vừa là chốn tổ đình vừa là danh thắng. Tiêu biểu là chùa Thường Sơn (Hàm Long tự), được xây dựng năm Chính Hoà hai mươi ba (1702) thời Lê Hy Tông thuộc phái Trúc Lâm; chùa Mỹ Cụ (Linh Sơn tự) được xây dựng vào thời Tiền Lê, hiện chùa còn lưu giữ 6 bộ kinh quý của Nhà Phật.

Tính đa dạng của tự nhiên ở Thuỷ Nguyên là tiền đề quan trọng tạo cho con người nơi đây cởi mở, phóng khoáng, thẳng thắn. Đồng thời cũng tạo điều kiện phát triển các hình thức hoạt động kinh tế với nhiều nghành nghề khác nhau. Trên cơ sở cuộc sống lao động đó cư dân huyện Thuỷ Nguyên tạo dựng được bản sắc văn hoá riêng.

2.2- MỘT SỐ DI SẢN VĂN HOÁ TIÊU BIỂU CỦA HUYỆN THUỶ NGUYÊN CÓ THỂ ĐƯA VÀO KHAI THÁC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

2.2.1- Các di tích lịch sử văn hoá

2.2.1.1- Cụm di tích Bạch Đằng lịch sử Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Dân tộc Việt Nam trong lịch sử đã trải qua bao thế hệ chống xâm lăng, đã tạo cho mình một truyền thống chiến đấu bền bỉ và kiên cường. Trải qua những năm dài chiến đấu đó biết bao địa danh đã thành tên chiến thắng: sông Như Nguyệt gắn với chiến công vang dội của Lý Thường Kiệt; ải Chi Lăng – của Lê Lợi; Đống Đa, Rạch Rầm – của Nguyễn Huệ, Điện Biên Phủ mang tính chất quyết định trong chiến tranh Đông Dương… Nhưng không ở một vùng đất nào những chiến công cực kỳ hoành tráng lại xảy ra liên tiếp tại một nơi như sông Bạch Đằng lịch sử.

Sông Bạch Đằng, còn gọi là Bạch Đằng Giang (chữ Hán: 白藤江), là một con sông dài 32 km, nằm trong hệ thống sông Thái Bình, chảy qua rìa đông huyện Thuỷ Nguyên. Điểm đầu đối diện với thôn Bạch Đằng, xã Gia Đức, Thuỷ Nguyên. Điểm cuối là cửa Nam Triệu, một bên là đảo Đình Vũ, một bên là đảo Cát Hải, Hải Phòng. Đây là con đường thủy tốt nhất để đi từ miền nam Trung Quốc vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa).

Chính tại nơi đây, tổ tiên người Việt đã lập nên những chiếc công hiển hách và cũng bằng cách đóng cọc ngăn sông chống quân xâm lược, đó là trận Ngô Quyền chống quân Nam Hán năm 938, trận Lê Hoàn chống quân Tống năm 981, và oanh liệt nhất là trận Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên năm 1288. Xưa kia sông Bạch Đằng là con đường thủy tốt nhất để đi vào Thăng Long từ miền nam Trung Quốc, từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thầy, sông Đuống và cuối cùng là sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội.

Theo sử sách xưa kia sông có tên gọi là Vân Cừ, nhưng trong dân gian nó lại mang một một cái tên mộc mạc: sông Rừng. Người dân bảo rằng do ngày xưa hai bên bờ có rất nhiều cây cổ thụ và thường có sóng bạc đầu nên còn có tên gọi là Bạch Đằng giang. Sông Bạch Đằng xưa kia còn là một dòng sông rộng mà câu ca dao truyền lưu ở Thuỷ Nguyên đã mô tả:

Nhất cao là núi U Bò

Nhất lớn chợ Giá, nhất to sông Rừng.

Đi vào các làng ven sông Bạch Đằng, du khách sẽ được nghe các sự tích thành hoàng, hay thấy bản sắc phong ở đình miếu do vua chúa các triều đại ban cho các vị danh tướng, công thần trong đó nhiều nhất là đời Trần. Họ được nhân dân ghi công và lập đền thờ: đình và đền thờ Ngô Quyền, đền thờ Trần Hưng Đạo, đền thờ bà cụ bán nước có công giúp Trần Hưng Đạo đánh giặc…Ở bãi sông Chanh dưới chân núi Tràng Kênh còn tìm thấy nhiều cọc gỗ lim đầu vạt nhọn, cao đến ba, bốn mét, hiện được trưng bày ở Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

2.2.1.2- Đền thờ Trần Quốc Bảo

Trần Quốc Bảo là cháu vua Trần. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ ba (1287), Trần Quốc Bảo được giao nhiệm vụ trấn thủ miền ven biển. Ông đã đóng quân ở vùng Áng Hồ, Áng Lác trong dãy núi đá Tràng Kênh.

Vào khoảng tháng 2-1288, tướng giặc Nguyên là Ô-mã-nhi, chờ mãi không thấy thuyền lương của Trương Văn Hổ tới, đã kéo quân đến An Bang (Quảng Ninh ngày nay) vừa để đón Văn Hổ, vừa đi cướp bóc lấy lương thực ăn. Quân Nguyên bị quân ta chặn đánh. Trần Quốc Bảo đã đưa quân sang chiến đấu ở vùng này để giúp sức cho Trần Khánh Dư. Trong một trận giáp chiến quyết liệt giữa quân ta và quân Nguyên, tướng Trần Quốc Bảo bị trọng thương. Quân lính đưa ông về khu vực Áng Hồ phía sau. Mặc dù được sự chăm sóc tận tình nhưng vết thương quá nặng, Trần Quốc Bảo đã qua đời.

Khi ông mất, nhân dân và quân lính đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng ở chân núi Phượng Hoàng. Ngày nay mộ Trần Quốc Bảo hãy còn. Nhân dân còn xây đền thờ ông ngay dưới chân núi Hoàng Tôn thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên.

Đền thờ Trần Quốc Bảo là công trình tưởng niệm về vị tướng của vương triều Trần (1225-1400) có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông của dân tộc ta ở thế kỷ XIII. Di tích nằm ở phía nam chân núi Hoàng Tôn, thôn Tràng Kênh, thị trấn Minh Đức, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng.

Căn cứ vào các nguồn tư liệu như bản ngọc phả, văn bia, sắc phong của đền và chính sử nước ta thì thấy Trần Quốc Bảo là con trai của một vị Hoàng tộc trong vương triều Trần, cháu gọi vua Trần Nhân Tông (1279-1293) bằng ông. Trong trận chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, Trần Quốc Bảo đã anh dũng hi sinh, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của quân và dân nhà Trần. Vì vậy sau khi ông mất, triều đình nhà Trần đã truyền cho nhân dân địa phương vùng Tràng Kênh (nơi ông đóng quân và hy sinh) lập miếu thờ và truy phong làm Thái Tử. Các triều đại phong kiến tiếp theo đều thừa nhận công lao của Trần Quốc Bảo và suy tôn là “Thượng đẳng phúc thần”, phong sắc Thành hoàng làng Tràng Kênh.

Kiến trúc đền thờ Trần Quốc Bảo tiêu biểu cho mô hình của một trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng, gồm có hai phần. Phần trong còn gọi là hậu cung (hay nội điện), nơi thờ tự đức thánh Trần Quốc Bảo. Phần ngoài còn gọi là tiền đường (hay đại bái) có kiến trúc độc đáo gồm 2 tầng, 8 mái đao cong, đắp mô típ “rồng chầu, phượng mớm”, xung quanh bái đường không xây tường, làm cửa nhà mà để ngỏ 4 mặt, tạo ra sự thông thoáng, mát mẻ. Chính giữa là ‘Trung đình’, nơi đặt hương án, đồ thờ. Hai bên tả hữu của đại bái là nơi hội họp của các quan viên làng xã xưa kia. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Đền Trần Quốc Bảo đã phải trải qua rất nhiều lần tu sửa do đổ nát, xuống cấp, vết tích vật chất thể hiện ở kiến trúc, đồ thờ…có niên đại sớm ở thời kỳ Trần Lê hầu như không còn. Lần tu sửa mới đây (1994) chỉ giữ lại được các cột vì xà trong hậu cung mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Nhưng nét độc đáo của quần thế kiến trúc chữ ‘nhị’ rất tiêu biểu thường thấy ở các di tích thuộc huyện Thuỷ Nguyên (như miếu Thuỷ Tú, đình Trung, đình Thượng ở Thuỷ Đường, đền Đông Môn ở Hoà Bình). Toà đại bái thường có một khoảng cách với toà hậu cung, không có toà “ống muỗng”, nhưng mô típ kiến trúc toà đại bái với kiểu 2 tầng, 8 mái thì chỉ thấy có ở đền Trần Quốc Bảo Tràng Kênh mà thôi.

Lễ hội đền Trần Quốc Bảo (hay lễ hội Tràng kênh) bắt đầu vào mồng 6 tháng giêng âm lịch và kéo dài sau đó khoảng 5 ngày. Đây là một lễ hội có qui mô lớn nhất ở huyện Thuỷ Nguyên được duy trì và tổ chức đều đặn hàng năm, có sức lôi cuốn sự tham gia đông đảo của cả một vùng cư dân rộng lớn (Hải Phòng – Quảng Ninh). Từ một di tích để khói hương tôn thờ, tưởng niệm đến một không khí hội hè với nhiều trò, cảnh. Lễ hội ở đây đã kết tinh tình cảm cao quí đối với một vị tướng của vương triều Trần với lễ hội. Đó cũng là nét bản sắc của lễ hội dân gian truyền thống tiêu biểu mang sắc thái của một làng cư dân ven biển Hải Phòng.

Tràng Kênh đã đi vào lịch sử dân tộc như một địa bàn quan trọng của chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại. Đền thờ Trần Quốc Bảo vị danh tướng của vương triều Trần đứng sừng sững trông ra cửa sông Bạch Đằng Nam Triệu như một tượng đài kỷ niệm, nhắc nhở chúng ta về những chiến công oanh liệt chống giặc ngoại xâm [8].

2.2.1.3- Cụm di tích Liên Khê

Liên khê là một xã ở phía đông bắc huyện Thuỷ Nguyên. Nơi đây là một danh thắng, một khu di tích lịch sử trong phòng tuyến Trúc Động Tràng Kênh – Bạch Đằng của quân đội nhà Trần hồi thế kỷ XIII. Cách Hải Phòng chưa đầy 30 km, giao thông thuận tiện, Liên Khê là một trong những nơi thu hút du khách tới thăm quan.

Trong vùng còn lưu truyền nhiều câu chuyện, huyền tích lịch sử đầy thú vị về thuở trước cách đây hơn 700 năm, kể từ khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lấy Trúc Động (tên cũ của Liên Khê) làm căn cứ để tiến ra cửa sông Bạch Đằng, sông Chanh tiêu diệt và bắt sống đạo thuỷ binh của đế quốc Nguyên Mông, viết lên một trang sử hào hùng của dân tộc.

Liên Khê xưa kia thuộc tổng Trúc Động, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Liên Khê là vùng đất có lịch sử lâu đời, nằm trên mạch núi già của vòng cung Đông Triều. Con người đến sinh cơ lập nghiệp tại mảnh đất này từ rất sớm. Những hiện vật khảo cổ học tìm thấy dưới lòng đất Liên Khê gồm đồ gốm và đồ đá mách bảo về một nền văn minh cách đây trên 2000 năm. Thư tịch cổ cho thấy vào những năm tháng đầu công nguyên, nhân dân Liên Khê dưới sự lãnh đạo của ba anh em họ Trương, người trang Thiểm Khê đã kéo về Mê Linh (Vĩnh Phúc) theo Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Đông Hán.

Ba mặt của Liên Khê được bao bọc bởi sông Đá Bạc, sông Giá (tên cổ là Đô Lý), phía đông bắc có tám dãy núi đá vôi cao nằm sát sông Đá Bạc, tạo thành tấm bình phong thiên nhiên kỳ vĩ. Mười quả núi sa diệp thạch liền nhau chạy dọc theo chiều dài của xã là chỗ dựa cho các ngôi nhà và vườn đồi bậc thang qui tụ thành những xóm thôn trù mật. Lịch sử đã đi qua mảnh đất này và để lại những nét son oanh liệt. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Không những đẹp về cảnh, có lịch sử lâu đời, Liên Khê còn có vị trí chiến lược quan trọng. Các triều đại nhà Trần, nhà Mạc, nhà Nguyễn và thời thuộc Pháp đều nhận thấy điều đó và đặt đồn luỹ ở đây.

  • Đền Thụ Khê

Lịch sử kể rằng, trước nguy cơ bị quân dân Đại Việt tiêu diệt, Thoát Hoan viên tướng cầm đầu đạo quân viễn chinh Nguyên Mông phải tìm cách rút quân về nước. Quân Nguyên Mông chia làm hai đạo rút binh, cánh quận bộ do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy chạy theo đường Lạng Sơn, cánh quân thuỷ do Ô Mã Nhi cầm đầu tháo lui theo đường cửa sông Bạch Đằng. Do vị trí hiểm yếu nên Liên Khê được chọn là trận địa chốt giữ, đánh chặn không cho thuyền giặc lọt vào sông Giá. Tương truyền trận đánh này trực tiếp do Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Ngày mồng 7 tháng 3 âm lịch (tức ngày 8-4-1288), đoàn chiến thuyền của Ô Mã Nhi sau nhiều ngày đánh nhau liên tục với phục binh ta trên nhiều tuyến đường, mệt mỏi rẽ vào sông Giá để ra sông Bạch Đằng liền bị quân ta chặn đánh kịch liệt, buộc phải quay thuyền tháo lui theo đường sông Đá Bạc.

Để ghi lại chiến thắng Trúc Động (tên cũ của Liên Khê) và nhớ ơn vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, người trực tiếp chỉ huy trận Trúc Động – Bạch Đằng, nhân dân địa phương đã xây một ngôi đền thờ ông trên nền đại bản doanh xưa. Đó là đền Thụ Khê (còn gọi là Từ Thụ). Cạnh đền thờ Trần Quốc Tuấn có ngọn núi Từ Thụ cao vút là nơi quốc công truyền lại cho dân làng thanh gươm báu và kế sách chống giặc.

Đền Thụ Khê trước đây là một công trình lớn, kiến trúc theo kiểu ‘Nội công, ngoại quốc’, gồm toà bái đường, cung chữ ‘đinh’ và hai dãy dải vũ. Thời gian và chiến tranh đã làm cho ngôi đền không còn nguyên vẹn như xưa, nhưng hiện tại đền Thụ Khê vẫn còn những hiện vật quí như: cỗ ngai và bài vị thờ đức thánh Trần Hưng Đạo trong tư thế thiết triều; ngai thờ, bài vị cùng duệ hiệu tướng quân Phạm Ngũ Lão (con rể đức thánh Trần Hưng Đạo) và một số hiện vật khác còn lại trong di tích mang niên đại nghệ thuật Nguyễn đầu thế kỷ XX.

  • Chùa Thiểm Khê

Đối diện với bên kia đền Thụ Khê qua dãy núi chạy dài là một thung lũng hiểm yếu, nơi Hưng Đạo luyện quân sĩ, người xưa đã dựng chùa Thiểm Khê ghi dấu. Chùa Thiểm Khê có tên chữ là Hoa Linh Tự, được xem như đài tưởng niệm về chiến thắng Trúc Động. Chùa được dựng trên sườn cao của một thung lũng, lưng dựa vào núi Thiểm, bên phải có núi chùa Hang, bên trái là núi Mẫu Ba. Dưới con mắt phong thuỷ, chùa Thiểm Khê toạ lạc trên khu đất mang thể ỷ ngai, hai bên có tay long, tay hổ.

Về kiến trúc, chùa Thiển Khê do bị giặc phá hoại hồi kháng chiến chống Pháp, nên hầu hết những công trình hiện tại tuổi đời còn rất non trẻ. Nhưng trong chùa còn bảo lưu nhiều pho tượng quý, có giá trị nghệ thuật cao, được xếp vào loại tượng gỗ cổ nhất còn lại ở nước ta như: bộ Tam Thế, bộ Di Đà Tam Tôn, Quan Âm Chuẩn Đề, hai pho Bồ Đề Đạt Ma, tượng Bồ Tát, Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu, Thích Ca sơ sinh và tượng Đức Ông, Thánh Tăng. Đáng chú ý nhất là chùa Thiểm Khê còn bảo tồn được pho tượng Quan Âm thiên phủ thiên nhãn niên đại thế kỷ XVI rất đẹp, là một trong những pho tượng gỗ có niên đại sớm nhất được tìm thấy ở nước ta. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

  • Chùa Mai Động

Đến cụm di tích Liên Khê, người ta không thể bỏ qua ngôi chùa Mai Động – một công trình lưu niệm về chiến thắng Bạch Đằng (1288) chống để quốc Nguyên Mông của dân tộc. Tương truyền, chùa Mai Động được xây dựng trên mảnh đất đã từng là kho quân lương tiền phương của quân đội nhà Trần.

Chùa Mai Động tên chữ là Lễ Sơn Tự – một công trình kiến trúc có qui mô vừa phải và vẫn giữ được dáng dấp của nghệ thuật dân tộc cổ truyền. Chùa nằm trên sườn của dãy núi yên ngựa thấp. Khuôn viên chùa dốc theo độ thoải của sườn đồi khoảng 15 độ. Chùa quay hướng đông nam, trước chùa còn bảo lưu được 4 ngôi tháp mộ trong số hơn hai chục tháp sư của chùa.

Kiến trúc chùa có bố cục hình chữ “đinh” quen thuộc gồm 3 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Trong chùa có nhiều di vật quí hiếm: đó là hệ thống tượng tháp; toà tam bảo được bày trọn trong toà hậu cung trên hệ thống bệ thờ xây bằng gạch chắc khoẻ, cân đối. Chùa Mai Động còn lưu giữ một số bia đá, Thạch thiên đài, những thư tịch cổ văn của thế kỷ XVII, XVIII. Thạch thiên đài trụ dựng ở sân chùa là một cột đá hình chữ nhật vuông (cao 1,65m, rộng 22cm). Đỉnh cột tạo dáng búp sen tròn trên một đầu vuông thắt đáy (cạnh trên 38cm, cạnh dưới 30cm và chiều cao 16cm). Mặt trên đấu sen trang trí hình cánh sen đẹp, mỗi cạnh ba cánh. Trụ đá, hai đầu tạo đấu vuông. Đấu phía trên, mặt trước, mặt sau chạm nổi rồng và phượng đối nhau, hai bên mặt chạm cánh sen cách điệu. Đấu vuông chân cột mặt trước chạm nổi hình thú vờn chân, mặt sau chạm 3 con cá chụm đầu vào nhau tạo thành bông hoa ba cánh và hai mặt bên chạm bông sen mãn khai. Diềm cột trụ chạy hàng hoa dây cúc, rồng, phượng. Thân trụ khắc chìm chữ Hán trong ô tạo dáng cánh sen chữ nhật.

Liên Khê còn là căn cứ hoạt động của nghĩa quân Đốc Tít (1885 1887) và của phong trào Mạc Thiên Binh (1897 – 1898) chống thực dân Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến 9 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hang sâu, núi cao ở Trúc Động, Liên Khê đã che chở cho du kích bộ đội ta bám trụ, diệt thù.

Cụm di tích Liên Khê (Trúc Động xưa) là niềm tự hào của huyện Thuỷ Nguyên, của thành phố Cảng Hải Phòng và đã được Bộ Văn hoá thông tin cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá ngày 13-2-1996 [10].

2.2.1.4- Chùa Câu Tử Ngoại Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Lịch sử hình thành và tên gọi:

Thời xưa, chùa này thuộc trang Hùng Khê và nguồn gốc cư dân, ở các vùng Ngọc Khê, Việt Khê ra đây khai khẩn đất đai sản xuất, tạo lập văn minh xóm làng trên dải đất mới ven sông. Trải qua quá trình phát triển dân cư, hình thành ruộng đồng, thôn xã, Hùng Khê trang được đổi thành Câu Tử. Người địa phương kể: Hùng Khê trang được khai phá, lập nên làng xóm ấm cúng, bên dòng suối mát uốn lượn hình chữ ‘Mã’ trên bàn cờ tướng. Vì lẽ đó, địa danh Hùng Khê trang ban đầu đã được chuyển thành Câu Tử. Một câu phong dao lưu truyền tại địa phương còn nhắc:

Câu Tử ngựa non vươn những bước

Hoang vu ngày trước chỉ còn địa danh.

Câu Tử đã trở thành đơn vị hành chính cấp xã, trong bản danh sách các tổng, xã, thôn dưới triều Nguyễn (1802-1945). Vì thế, Câu Tử ngoại ngoài tên chữ là Bảo Phúc còn được gọi tắt là chùa Câu Tử, xã Câu Tử, tổng Thái Lai, huyện Thuỷ Đường (dưới triều Nguyễn).

Kiến trúc tổng quan:

Chùa Câu Tử Ngoại được dựng trên một khu đất cao phía nam của thôn Câu Tử. Chùa quay hướng nam, đối mặt với dòng sông Kinh Thầy quanh năm nước chảy. Sông Kinh Thầy đã góp phần bồi đắp, tạo lập mảnh đất Câu Tử, Hợp Thành ngày nay.

Chùa là một tổng thể kiến trúc nhiều toà ngang dẫy dọc, nhưng được bố cục gọn gàng. Kiến trúc chính hình chữ ‘công’ (I) đơn giản gồm 5 gian tiền đường và 4 gian hậu cung. Bên hồi trái dọc theo kiến trúc là một sân rộng vuông vức. Sau sân là toà thờ Tổ 3 gian; trước sân là điện thờ thánh mẫu Quận Đa phu nhân. Bên kia sân là nhà khách 3 gian. Kiến trúc chính của chùa vẫn giữ được phong cách của nghệ thuật kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Phía trước toà tiền đường có vườn chùa, với 5 ngôi tháp mộ, trông như bút tháp Hồ Gươm thu nhỏ. Nổi bật hơn cả là cây tháp đá kề bên đường thần đạo. Tháp này hình vuông, ba tầng nhỏ dần từ dưới lên, được ghép bằng những phiến đá vôi xám, lớn, mài nhẵn. Đỉnh tháp là bầu đá hình nụ sen cách điệu trên một đài sen cong vút, đắp đầu rồng cách điệu hoa lá. Ngăn cách các tầng tháp là những phiến đá phẳng, vuông, nhô ra khỏi thân tháp. Những phiến đá giới hạn chia tầng có tác dụng làm tăng qui mô, dáng bề thế cho ngôi tháp. Mặt ngoài tường tháp điểm xuyết một vài chữ Hán lớn và các gờ chỉ trang trí. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Mái chùa lợp ngói rồng cổ kính, rêu phong. Bờ nóc đắp trang trí; hồi tiền đường xây cuốn hình quai chảo, trông uyển chuyển, tạo nên nét sống động trong không gian cổ tích. Hồi hậu cung xây kiểu bố trụ, giật hai cấp chắc khoẻ. Nhìn chung, kiến trúc chùa Câu Tử Ngoại ít dùng hình thức chạm khắc trang trí. Trang trí nội thất dường như chỉ tập trung ở một vài câu đối hình chữ nhật phẳng, hình lòng máng sơn son thiếp vàng treo trên cột và hai lớp y môn trong toà hậu cung: y môn thứ nhất chạm nổi đôi phượng chầu hổ phù, ngậm chữ ‘thọ’; y môn thứ hai chạm lưỡng long chầu nguyệt và dải mây.

Phật điện của chùa được bày trong toà hậu cung theo kiểu thấp dần từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Hàng trên cùng là bộ tam thế, tiếp theo là bộ A di đà tam tôn. Hàng thứ ba là Di đà tiếp dẫn, tiếp theo là hàng cửu long giữa, hai bên là quan âm tống tử và bồ tát hiện thân. Hàng cuối cùng của toà tam bảo là Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu. Hai bên gian tả, hữu, gian hoà tiền đường đặt tượng Hộ Pháp. Gian hồi phải đặt bàn thờ Đức Ông ngồi trong khám gỗ. Chính giữa toà nhà tổ đặt hương án thờ 6 pho tượng tổ và những người tu từ, hành pháp ở chùa.

Ngoài việc thờ Phật, chùa Câu Tử Ngoại còn phối thờ Quận Đa phu nhân – vị thành hoàng có công đánh giặc ngoại xâm dưới triều Trần. Chuyện kể rằng xưa kia trên mảnh đất này có tên là Trang Hùng Khê do dòng họ Hoàng, họ Đoàn khai sáng, các dòng họ Bùi, Mạc xây dựng tiếp theo sau.

Dưới vương triều Trần, làng Câu tử có người họ Hoàng đỗ Thái học sinh đến nay nhân dân vẫn gọi là Hoàng tướng công vì có làm quan trong triều.

Gia đình Hoàng Công sinh hạ được một người con gái đặt tên là Hoàng Thị Bính, xinh đẹp nết na, được cha mẹ dạy dỗ cho theo học nghiên bút, văn chương. Đến 19 tuổi, Hoàng thị Bính đi ngắm cảnh hái hoa rồi tắm mát bên dòng Hùng Khê. Bên suối gò Rùa có xuất hiện vết chân lạ, nàng liền ướm thử chân mình. Từ đó mang thai, qua 10 tháng sinh được 2 người con trai, diện mạo khác thường. Người anh đặt tên Hoàng Minh Hộ, người em tên Hoàng Minh Thống. Người mẹ nuôi day 2 con ngày một lớn khôn, theo học cung kiếm, bút nghiên.

Năm 1287, khi quân Nguyên xâm lược nước Đại Việt lần thứ 3, từ trang Hùng Khê người mẹ đã tiến đưa 2 người con trai yêu quý của mình lên đường giết giặc, báo đền nợ trước. Trận Bạch Đằng lịch sử 8/3 năm Mậu Tý đại thắng, hai người con của bà đã anh dũng hy sinh nơi chiến trận. Bà buồn phiền qua đời ngày 18/8 năm Mậu Tý. Bà Hoàng thị Bính được truy phong là Quận Đa phu nhân làm thành hoàng của Câu Tử Nội và Câu Tử Ngoại ngày nay, được tạc tượng lập đền thờ. Cả 2 con là Hoàng Hộ và Hoàng Thống được tạc tượng tôn thờ ở đình Câu Tử Nội và Câu Tử Ngoại. Đền thờ 3 mẹ con bà Hoàng thị Bính ngày nay không còn nữa, dân làng thờ 3 mẹ con bà ở chùa Câu Tử Nội và Câu Tử Ngoại [10].

2.2.1.5- Đền thờ trạng nguyên Lê Ích Mộc Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Lê Ích Mộc (1462 – 1552) ngụ cư ở làng Ráng xã Thanh Lãng, huyện Thuỷ Đường xưa, nay là xã Quảng Thanh, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Ông đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tuất (1502) niên hiệu Cảnh Thống đời vua Lê Hiến Tông (thế kỷ XVI). Đền thờ chính trạng nguyên Lê Ích Mộc hiện nay ở thôn Quảng Cư, ngoài ra ở thôn Thanh Lãng (cùng xã Quảng Thanh) còn lưu lại nhiều dấu tích như lăng mộ, từ đường… Đây là cụm di tích tưởng niệm về vị trạng nguyên đầu tiên của thành phố Hải Phòng.

Theo gia phả Lê tộc để lại thì Lê Ích Mộc sinh ngày mồng 2 tháng 2 năm 1458 tại làng Ráng , huyện Thuỷ Đường , bậc khởi tổ là cụ Lê Văn Hộ từ đất Tây Kinh Thành Hoá đến đây sinh cơ lập nghiệp . Đến đời thứ 3 kết quả mối tình giữa cụ Lê Văn Quang và bà Nguyễn Thị Lệ sinh thành ra Lê ÍCh Mộc .Theo sinh đồ Lê Tuấn Mậu trong : “Tiểu sử thiền sư chùa Thành Lãng “soạn năm 1597 cho biết : Dưới triều Lê Thánh Tông, ở làng Ráng, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, có một người nối nghiệp nho, tư gia hiếu thảo, họ Lê tên Quang, vợ là Nguyễn Thị Lê, cửa nhà thanh bần, kính sư sùng Phật, hay giúp đỡ người nghèo khó. Một đêm kia vợ chồng năm chiêm bao thấy quan thế âm bồ tát cho một đoá hoa Sen và một bài thơ:

Phật cho Lê Thị một bông sen

Hiển hách nghìn thu dậy tiếng khen

Đích xác sang năm sinh quý tử

Danh lừng tam giáo gội ơn trên.

Hôm sau vợ chồng nói chuyện lấy làm vui mừng. Từ ngày ấy bà Lệ có mang và sinh hạ được một người con trai mặt vuông, tai lớn đặt tên là Lê Ích Mộc. Tục truyền rằng, thủa nhỏ Lê Ích Mộc là một cậu bé thông minh, ham học và ngoan ngoãn được bà con làng xóm yêu quý. Hàng ngày sau những buổi phụ giúp cha mẹ, cậu bé Mộc thường hay tới chùa Ráng giúp đỡ các vị tăng ni quét dọn nhà của, xới đất trông cây và trông cây và chăm chỉ học hành, nghe nhờ văn sách. Cảm động trước tấm lòng say mê hiếu học, nhà chùa đã nhận Lê Ích Mộc vào làm đệ tử, kèm cặp kinh sử. Ngày ngày ăn chay niệm phật Lê Ích Mộc vẫn dành thơi gian cho đèn sách. Đêm đêm, dưới ánh sáng mờ nhạt của ánh trăng khuya, ông lấy mâm cát làm sách học, Lê Ích Mộc chăm chỉ dùi mài kinh sử. Ông lấy cát đổ lên mâm xoa phẳng, dùng ngón tay viết lên chữ để đọc, ghi nhớ rồi xoá đi.đó là cách học “nhập tâm” giúp người tanh ớ lâu hiểu kỹ. Ích Mộc cho rằng : Việc học là việc khó nhưng không vì thế mà không học. Bởi thế mà ông nổi tiếng trong vùng là ngươi nhớ lâu hiểu kỹ. Tài học của ông, sách Đại Việt có ghi: “Tam công túc ngọc đáo Kim cang”. Tức là sau 3 năm ông đã thông hiểu đủ giáo lý, giáo pháp của bộ kinh Kim cương. Một hôm, Ích Mộc đang đi ở ngoai đường, gặp một vị sư già, nhà sư thấy Lê Ích Mộc có tướng và cơ duyên, là một cao tăng nên Ông theo Lê Ích Mộc về nhà. Cha Lê Ích Mộc thấy khách quý đến chơi xiết đỗi vui mừng, ân cần mời làm thượng khách. Nhà sư chỉ Lê Ích Mộc và nói rằng: Ông là người từ thiện nên cậu bé này có tướng làm nên sự nghiệp lớn, rạng danh gia phong. Nếu cho cậu ấy xuất gia đầu phật tương lai phong đỗ cao làm vinh hiển gia đình. Tiền đề không thể hạn định được. Ông Lê Quang bèn hỏi: Ý kiến con thế nào? Ích Mộc nhận lời. Từ đó Lê Ích Mộc xuất gia học đạo, gánh sách theo thầy đến ở chốn xa. Nhà sư là một vị cao tăng trụ trì tại chùa Yên Lãng (tức chùa Láng, Hà Nội ). Khoảng 5 năm Ích Mộc đủ thông hiểu các pho kinh phật, tiêng tăm của ông lừng lẫy khắp làng.

Thời gian theo học ở chùa Yên Lãng, Ông cũng là người đứng ra tu sửa chùa Ráng đã đổ nát thành chùa Diên Phúc Thọ. Đồng thời ông vẫn gần gũi dân quê, hướng dẫn từ công việc cày cấy, đồng áng đến cắm đăng, đan lưới đánh bắt tôm cá.

Sau mấy lần thi không đỗ, ông trở lại quê hương tiếp tục việc học hành. Bằng nghị lực, lòng kiên trì và trí thông minh, tại khoa thi năm 1502 đời vua Lê Hiến Tông, Lê Ích Mộc đỗ trạng nguyên khi đã ngoài tuổi 40. Bài thi của ông được đánh giá cao, khúc triết, mạch văn chặt chẽ, ý tứ sâu sắc, không hề sai sót. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Lê Ích Mộc bước vào con đường làm quan khi xã hội phong kiến Việt Nam thời Lê đã trở nên rối ren, bất công. Ông bèn treo ấn từ quan. Năm 1527, nhà Mạc hưng thịnh, mến mộ tài đức của ông, liền cho ông giữ chức Tả thị lang. Nhờ có đóng góp nhất định của Lê Ích Mộc, đạo phật thời Mạc đã phát triển trở lại, sau một thời gian Lê Ích Mộc xin nghỉ hưu. Về trí sĩ tại quê nhà, vốn là người có học vấn sâu rộng, đạo đức mẫu mực, Lê Ích Mộc đã có nhiều công lao đóng góp cho quê hương như mở trường dạy học, xây dựng chùa chiền, làm đường, trồng rừng, dấu tích đến nay vẫn còn như cánh đồng ở Quảng Cư, rừng lim ‘Quan Trạng’ ở Thanh Lãng.

Để ghi nhớ công lao của trạng nguyên Lê Ích Mộc, nhân dân nơi đây đã lập đền thờ tưởng niệm, thể hiện truyền thống dân tộc tôn sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn. Ngôi đền xưa được dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng, nơi ông cùng dân khai phá đất hoang lập nên đồn điền Quảng Cư. Trong những năm kháng chiến chống Pháp thực hiện tiêu thổ kháng chiến, ngôi đền cổ xưa không còn. Kiến trúc hiện nay mới được khôi phục nhưng dấu ấn thời đại thế kỷ XIX vẫn còn ghi lại ở một vài đồ án trang trí. Đền dựng theo hướng chính nam, có kiến trúc truyền thống với nhiều mái đao cong vút. Di vật có giá trị nhất còn lại là tượng Trạng nguyên. Tượng tạc bằng gỗ, ngồi trong ngai, hình dáng hài hoà mang tư thế của vị quan đương thời có giá trị điêu khắc của thế kỷ XIX.

Đền thờ trạng nguyên Lê Ích Mộc là một trong những di sản văn hoá ít ỏi còn lại góp phần nghiên cứu truyền thống khoa bảng ở Hải Phòng trong lịch sử. Cuộc đời và sự nghiệp của trạng nguyên Lê Ích Mộc là tấm gương sáng cho thế hệ nối tiếp nhau phấn đấu, học tập. Là một di sản văn hoá giáo dục, đền thờ Trạng nguyên Lê Ích Mộc đã được nhà nước công nhận cấp quốc gia năm 1991 [10].

2.2.1.6- Chùa Hoàng Pha Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Chùa Hoàng Pha có tên là An Lạc Tự thuộc xã Hoàng Động, huyện thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Không chỉ thờ Phật, hiện nay tại tòa nhà tổ của Chùa còn có ban thờ 4 vị thành hoàng làng Hoàng Pha, được nhân dân nơi đây rất tôn kính, đó là 4 danh tướng thời Nhà Lý (1010 – 1225 ) có nhiều công lao chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng đất nước. Đặc biệt là công ơn đóng góp xây dựng quê hương Hoàng Pha, Hoàng Động của 3 anh em họ Lý : Lý Minh, Lý Khả, Lý Bảo và Nguyễn Quốc Hồng. Tên tuổi và sự nghiệp của họ gắn liền với quá trình phát triển của làng xóm nơi đây.

Chùa Hoàng Pha có niên đại xây dựng muộn nhất vào đầu thế kỷ XVIII. Trên chiếc trống bằng đá do nhân dân địa phương cúng vào chùa ghi rõ niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 2 (1706). Chùa tọa lạc trên khuôn viên hình chữ nhật (rộng khoảng 1300m2) xung quanh xây tường gạch, ngăn cách chùa với xóm làng, đồng ruộng….Chùa quay về hướng tây nhìn ra dòng sông Cấm, đó cũng là hướng nhìn về đất tổ của đạo Phật (Tây Trúc).

Toàn bộ kiến trúc của chùa hiện gồm 4 tòa nhà, cấu trúc theo hình chữ “quốc”

Mặt trước là tòa nhà kiểu chữ “đinh” gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Các bộ vì kèo có kết cấu “chồng rường đốc thước” quen thuộc. Ba gian giữa lắp hệ thống cửa gỗ kiểu “cửa thùng khung khách”. Tại gian đốc bên phải tòa tiền đường đặt bàn thờ Đức ông, gian bên trái đặt bàn thờ Mẫu, phía ngoài treo quả chuông đồng khá lớn cao 1,5m rộng 0,8m, niên đại ghi chuông là Tự Đức nguyên niên (1848). Ba gian hậu cung đặt tòa Tam Bảo, thứ tự trên cùng là bộ tượng Tam Thế, tiếp đến là tượng A di đà bên phải là Đại thế chí Bồ Tát, bên trái là Quan âm Bồ tát; hàng thứ 3 là Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay, hàng thứ 4 giữa là Quan Âm chuẩn đề, bên phải là A Nan Đà, bên trái là Di Lặc Tôn Phật; hàng thứ 5 là tượng Ngọc Hoàng, hai bên là Nam Tào, Bắc Đẩu, cuối cùng là tòa “ Cửu long và Thích ca sơ sinh”. Nhìn chung các pho tượng Phật ở đây được tác đơn giản, đáng quan tâm hơn cả là 3 pho tượng Tam Thế và tượng Quan Âm chuẩn đề mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.

Chùa Hoàng Pha còn là cư sở Cách mạng và kháng chiến chống Pháp. Hiện nay chùa đang được mở rộng và xây thêm một số công trình có qui mô khá lớn. Chùa còn bảo lưu được một số kiến trúc, tượng Pháp, đồ thờ có giá trị cần được quan tâm giữ gìn, bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc ở địa phương. Chùa Hoàng Pha được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa năm 1992.

2.2.1.7- Đình Lôi Động Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Đình Lôi Động thuộc làng Lôi Động (tên Nôm là làng Lở), xã Hoàng Động. Đình Lôi Động là điểm hội tụ văn hóa tín ngưỡng của một làng quê ven sông Cấm, có truyền thống làm nghề chài lưới. Đình thờ nhiều vị thần như: Nhân Linh tôn thần, Duệ Trí tôn thần, Linh Ứng tôn thần, Linh Phù địa giới uy linh tôn thần, Quí Minh thượng đẳng thần. Đình đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia ngày 13/2/1996.

  • Kiến trúc:

Đình Lôi Động là một công trình kiến trúc cổ của làng Lôi Động, có tiếng văn minh, nề nếp bởi thuần phong mỹ tục và cảnh sắc lao động của thần đất Thuỷ Nguyên. Đình cấu trúc kiểu chữ Đinh gồm năm gian đại đình, ba gian hậu cung. Phía trước ba bậc tam cấp bằng đá xanh, hai phía tả hữu có hai toà dải vũ năm gian và hệ thống cột trụ, cổng tam quan khiến người ta dễ hình dung ra cấu trúc của ngũ môn (ba cửa chính, hai cửa bên).

Từ khoảng sân rộng nhìn vào mặt trước đại đình ta thấy bờ nóc mái năm gian tiền đường đắp một mặt nhật và những đao lửa toả về hai bên, đắp đấu hoa hình con triện và đôi nghê chầu trong tư thế động. Trên ba cấp bậc thềm bằng đá xanh, có kích thước 13 – 14 – 70cm là ngưỡng gỗ gian trung tâm cao 30cm, trên có bộ cửa tùng khung khách. Do có hệ thống hành lang bao quanh nhà tiền đường và mái đao kiểu “cháo đao tàu góc”, đồng thời dấu vết các lỗ mộng trên các cây cột cái và cột quân giúp ta liên tưởng đến hình ảnh một ngôi đình Lôi Động (cũ ) có đầy đủ ván sàn, do việc tu sửa không được quản lý chặt chẽ ô con triện nay đã bị biến đổi so với ban đầu.

Nhìn từ phía trước ta thấy thanh mái tàu được gối lên 6 thanh bảy hiên; 4 thanh ở hai gian chính mặt khắc chữ triện. Đình trang trí bằng các mảng điêu khắc cúc trúc hoá long. Nét chạm to, nổi hẳn lên mặt thân bảy, rồng 4 móng như móng chim, đuôi xoáy 4 chẽ; bụng bảy để trơn, không trang trí gì. Kết cấu vì nóc mái theo kiểu trụ chồng giá chiêng, khung chịu lực được tạo bởi một mặt gỗ vát hình thang ngửa khắc chữ ‘thọ’, gác lên đôi cột trụ, đôi đấu sen. Toàn bộ kết cấu nóc mái đứng trên câu đầu nối hai đầu cột cái. Cột cái và cột quân là những cây gỗ lim nguyên cây, đứng trên các đấu, kê đá xanh giật hai cấp, đáy vuông, đỉnh tròn, là biểu tượng trời tròn, đất vuông như ông cha ta đã nghĩ trước kia. Phía dưới, những thanh câu đầu của mỗi vì cột được lắp các đầu dư hình đầu rồng. Quan sát kỹ ở một vài bộ phận trang trí trên kiến trúc, ta thấy có tận dụng một số vật dụng của ngôi đình cũ, nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII: 4 đầu dư hình rồng, có từng chùm đao mác, có các loài thú 4 chân cùng đùa giỡn. Do lối dải hoàn kiểu thượng tam, hạ tứ đã tạo ra một độ dốc vừa phải của mái đình. Ba gian cung của đình được tạo ra từ hai thanh xà thượng, nối hai ngọn cột cái phía trong, hai cây gỗ nối hai cột quân và thanh kẻ, tạo thành kết cấu mái xối vuông góc với 5 gian tiền đường. Kết cấu vì nóc mái gian cung thiêng kiểu giá chiêng, cốn gỗ bưng kín, nước sơn trang trí rồng mây…

  • Di vật: Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Trong đình có nhiều hiện vật có giá trị nghệ thuật cao, trong đó nổi bật nhất là hương án và ngai tượng. Hương án được kê chính giữa, nửa phía trong gian trung tâm tiền đường, có kích thước cao 114cm, rộng 150cm, ngang 84cm, phủ sơn son thếp vàng. Nét độc đáo của chiếc hương án đình, ngoài chức năng bày đặt đồ tế tự còn có hoa văn cả 4 mặt. Phần trang trí chạm khắc khá độc đáo, bằng cả kỹ thuật chạm thủng và nổi, cảnh bến nước, con thuyền, diềm hoa dây, hồi mai điều, chùa thấp 6 tầng. Ngai tượng có tượng 4 vị thành hoàng trong tư thế thiết triều, mặt đỏ, râu đen, trang phục đủ áo mũ, cân đai, mang kiến trúc nghệ thuật Nguyễn cuối thế kỷ XIX.

Những đồ tế khí được thờ trong đình Lôi Động còn phải kể đến: Long đình, bát bửu, chấp kích, bát hương men lam cao 29cm, đắp nổi đôi rồng Nguyễn, đôi độc bình cao 57cm vẽ cảnh sơn thuỷ, tùng lộc và một số sắc phong niên hiệu Khải Định năm thứ 9.

Đình làng Lôi Động là một trong những điểm hội tụ của hoạt động văn hoá , tâm linh của nhân dân địa phương. Không gian kiến trúc nội, ngoại thất của ngôi đình vẫn còn bảo lưu hàng chục mảng trang trí, chạm khắc gỗ nơi kẻ nách, bẩy hiên…Mặc dù ngôi đình đã trải qua nhiều lần tu sửa, tuy nhiên những tiêu bản trang trí nghệ thuật còn lại trên kiến trúc cho thấy ngôi đình được khởi dựng vào cuối thế kỷ 18.

Đến thăm ngôi đình Lôi Động , du khách hầu như bị lôi cuốn vào một không gian thoáng đãng trầm mặc, cổ kính như cảnh bến sông, làng xóm cây đa….Đình Lôi Động thờ các nhân vật lịch sử có từ đời Hùng Vương thứ 18:

Quý Minh – thường được gọi là Đức Thánh Ba; Đức Thánh Cả hay còn gọi là Địa Giới nhân thần có công phò nhà Lý đánh giặc Ai Lao. Đức Thánh Nhị thường được gọi là Cao Vị nhân thần có công đánh giặc ngoại xâm, nhưng sự tích chỉ được truyền khẩu trong nhân gian như những vị thần linh có công với làng xã. đức Thánh Trị hiệu gọi là Trung Nghị; đức Thánh Nam hiệu gọi là Linh Ứng. Một điểm chung nhất của các vị thành hoàng làng Lôi Động là đều có công đánh giặc, bảo vệ đất nước, có sắc phong, kèm mỹ tự, do các triều vua phong kiến Việt Nam như Tự Đức, Thành Thái, Duy Tân… phong tặng. Cụm di tích đình – chùa, khu Văn Chỉ làng Lôi Động là những công trình kiến trúc nghệ thuật cổ, được bảo toàn khá nguyên vẹn đã được nhà nước xếp hạng di tích năm 1996 [10].

2.2.1.8- Đình Kiền Bái Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Đình Kiến Bái nằm ở xã Kiền Bái, huyện Thủy Nguyên. Xưa kia, Kiền Bái còn có tên là Hổ Bái Trang thuộc huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Trang Hổ Bái có 12 xóm, dân cư tập trung đông hơn cả là xóm Đông. Do đó, đình Kiền Bái nằm ở ngay xóm Đông.

Theo “Thủy Nguyên huyện thần tích” hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán – Nôm, Hà Nội đình Kiền Bái thờ hai vị thành hoàng Ngọc và Bích, là hai anh em sinh đôi. Tương truyền lúc mới sinh, 2 vị đề khôi ngô tuấn tú, nhưng đề mất sớm, rất linh thiêng, đã nhiều lần phù hộ dân làng Kièn có cuộc sống yên ổn, làm ăn thịnh vượng. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta (1287 – 1288), 2 vị âm phù Vua Trần đánh giặc. Vua cho lập đền thờ và phong thần hiệu: Trung Quốc Cảm Ứng thượng đẳng thần và Lôi Công Uy Diệu thượng đẳng thần.

Đình Kiền Bái được xây dựng vào nửa cuối thế kỷ XVII, có cấu trúc kiển chữ đinh gồm 5 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Tiền đường, trừ gian giữ (khoang thuyền), 4 gian đều bừng gỗ, lát ván sàn. Trên cột cái, vì xà chính ghi năm tạo dựng (1681) và tên những đóng góp công đức. Đây là công trình kiến trúc điêu khắc tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc thời Lê hiện còn lại ở Hải Phòng. Điểm nổi bật của đề tài trang trí trên công trình kiến trúc nghệ thuật này là bên cạnh hình ảnh rồng, phượng, hoa lá cách điệu, tia lửa, lưỡi mác… còn thấy rất nhiều cảnh sinh hoạt dân gian rất tự nhiên, sinh động. Đó là hình rồng nối đuôi nhau, trước mặt rồng có nhiều con thú 4 chân leo trèo trong đám vây rông; có mảng hình rồng đan xen với thú 4 chân như thằn lằn, voi, ngựa, lợn ăn lá dáy; có mảng cảnh sinh hoạt hình em bé chăn trâu ngồi vắt vẻo trên mình trâu… Hội làng Kiền tổ chức từ ngày 10 đến ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Vào những ngày này, dân làng ra đình tế lễ và nô nức vào hội: hội hát đúm, hội nấu bánh chưng… nổi bật là trò chơi dân gian: cướp cây bông.

Để có được hội cướp cây bông, cả làng phải đi chọn 2 cây tre cao nhất. Nhà nào chọn được tre thì phải mang bánh chưng ra đình tế. Ông mạnh bái chọn 10 thanh niên 18 tuổi trở lên chưa vợ hoặc là con trai đầu lòng chặt cành của 2 cây tre, rồi mỗi người chọn 2 mắt tre làm 2 cây côn (gậy) dài độ 5 trượng đem vào thờ trong đình.

Cũng 2 cây tre đó được chặt hai khúc thành 2 cây bông. Trong 10 trai tráng trẻ, chọn ra 2 người vót cây bông. Người vót cây bông, trước hết phải nạo hết vỏ xanh của tre, rồi dọc theo tre mà vót thành hình cái hoa ở 2 đầu. Để cho cây bông được đẹp, người ta lấy giấy kim tuyến quấn vào từng tua tre một, rồi buộc chỉ ngũ sắc vào… Hai cây bông được rước vào đình.

Cướp cây bông diễn ra 2 đợt: trước tiên là lễ cướp thờ (không có giải), sau đó mới là lễ cướp giải. Tại lễ cướp thờ, khi ông mạnh bái tung cây bông lên thì 10 thanh niên quần đỏ, khăn điều, thắt lưng xanh xông vào cướp dưới sự hò la cổ vũ của dân làng. Tiếp đến là lễ cướp giải, tất cả mọi người đều tham gia. Cuộc cướp cây bông diễn ra rất vui, có khi kéo dài đến sáng.

Ai được giải cướp cây bông thì được ăn bánh của người giải nhất cuộc thi bánh chưng.

Thường thường, những người đoạt giải nhất cuộc thi cướp cây bông, cuộc thi nấu bánh chưng, nếu họ chưa vợ, chưa chồng thì được dân làng vun vén thành vợ, thành chồng. Người được trúng giải cướp cây bông thường được dân làng nể nang vì họ đã được diễm phúc của thần ban cho. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Vì cướp cây bông vui nhất trong họi làng nên người ta cũng đặt thành câu ca để nhắc nhở nhau:

  • Làng Kền (Kiền) có lễ cây bông
  • Rước lên Dọc Muống hội đồng giao quân
  • Mười một đánh bài giao quan.
  • Mười hai tế yến thì chàng phải sang…

Còn trong hát đúm, thanh niên nam nữ thường tế nhị biểu thị tình cảm với nhau:

  • Mười hai nữ hội thi rồi Sao anh còn ở tại nơi sân đình
  • Ngó ngang ngó dọc chi tình
  • Đây mà thua cuộc trách mình lăm thay.
  • Ai ơi đừng trách anh đây
  • Nếu ai thắng giải đình xuân Minh đây xin có tranh phần cây bông.

Đình là một bức tranh được khắc gỗ hoành tráng, được tái tạo trên nền của một công trình kiến trúc cổ kính và tao nhã phản ánh rõ nét xã hội Việt Nam lúc đó. Thông qua các mảng điêu khắc trang trí, những khát vọng, tư tưởng của nhân dân được thể hiện một cánh sâu sắc. Đây chính là nơi sản sinh ra nghệ thuật điêu khắc cổ truyền của dân tộc.

Trước hết là hình tượng con rồng. Mặc dù là di tích thờ một vị Thành Hoàng làng (không phải vua) nhưng rồng lại là đề tài chủ yếu được thể hiện đình Kiền Bái. Bởi trong tâm thức người Việt, rồng luôn là con vật linh thiêng luôn mang lại điềm lành, mùa màng tốt tươi. Với mỗi mảng chạm khắc ở trung tâm bao giờ cũng có một con rồng lớn, than mập ngắn, trên phủ một lớp vẩy, xung quanh có rất nhiều rồng con quấn quýt trong mây, thể hiện sự mong muốn con đàn cháu đống hội tụ, đoàn viên. Đi kèm với rồng là các con vật trong bộ tứ linh như phượng, lân, được tạo tác trong tư thế uyển chuyển của những vũ điệu quyến rũ.

Nét đặc sắc nhất của đình Kiền Bái là nghệ thuật điêu khắc đã phản ánh sự hoà quyện giữa vương quyền và thần quyền. Điều đó thể hiện ước muốn công bằng xã hội. Ở đay không chỉ có các con vật linh thiêng mà còn có cả voi, ngựa, cá, dê, mào… Đáng chú ý nhất là tượng con ngựa được thể hiện ở đình, lợn có than hình mập mạp, sống động và hoang dã trong những hoạt cảnh như lợn ngồi trên lưng rồng nắm chặt râu và đuôi rồng (cảnh lưỡng long chầu người, lưỡng long chầu lợn). Ngoài ra còn có những mảng chạm khắc như bày tỏ sự mong muốn về cuộc sống thanh bình như mèo ngủ ngày, lợn ăn lá ráy, ngựa voi âu yếm. Lại có cảnh cá chép vượt vũ môn hoá rồng. Trên bức chồng gian hồi lại chạm khắc cảnh người cưỡi phượng trong tư thế bay lên. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Đình Kiền Bái là di tích lịch sử văn hóa có giá trị nghệ thuật cao, được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia năm 1986 [10].

2.2.1.9- Đình Lâm Động

Địa bàn xã Lâm Động huyện Thủy Nguyên ngày nay nằm ven tả ngạn sông Cấm, lại có lạch triều lớn chảy từ Kiền Bái xuống Bính Động đổ ra sông Cấm tạo thành một cù lao nhỏ gồm các làng Hoàng Pha, Lôi Động, Bính Động, Phương Lăng (tên cũ là Hoa Lăng).

Theo các nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Chính và Nguyễn Quang Ngọc, các làng Lâm Động, Hoàng Pha, Đồng Lý có từ thời Bắc thuộc. So với thời mà các phát hiện khảo cổ ở Dực Liễn – Trịnh Xá với những quan tài cả cây gỗ mít khoét hình thuyền gần đây thì vùng đất này nhiều chỗ có người Việt sinh tụ còn sớm hơn. Nhưng trải qua thiên tai địch họa, sử liệu thành văn hầu như không còn nên khó kê cứu.

Địa danh theo trí nhớ của các cụ làng này vốn là trong Tùng Động. Sau kiêng húy Bình An Vương Trịnh Tùng nên đổi là Tòng Động. Vì nơi giáp sông, gần biển, đất rộng có nguồn nước ngọt dân nhiều nơi đến làm ăn với nghề nông, nghề đánh cá, trồng dâu, dệt lụa và một số nghề thủ công khác như mộc, nề, rèn. Nghề buôn cũng khá phát triển. So với các làng thôn quanh vùng, làng Lâm trước nay được xếp vào làng văn minh, giàu có. Làng có đủ đình, chùa, miếu, quán, từ vũ, từ văn, phong tục thuần hậu. Trải qua chiến tranh, cả xã chỉ bảo tồn được duy nhất ngôi chùa cổ có cây bảo tháp đẹp nổi tiếng. Còn công trình kiến trúc, lịch sử văn hóa khác chỉ còn lưu lại ít nhiều qua cuộc điều tra của Pháp quốc Viễn Đông học viện năm 1938-1939. Ngôi đình có thể được làm vào năm 1688, đã qua nhiều lần tu bổ, nhưng không có tài liệu ghi chép. Các già làng cũng không nhớ. Lần làm năm 1931-1935 thì dân làng nhớ rất rõ. Những năm ấy, làng Lâm kinh tế phát đạt, có nhiều người làm ăn phương xa giàu có nên sự đóng góp công sức tiền của khá lớn. Làng lại có phường mộc của ông phó Bảng, ông trương Trúc nổi tiếng khéo léo đã đi làm đình cho nhiều nơi.

Làng thuê 2 phường mộc và đặt giải thưởng: Mỗi phường làm một phần đình theo thiết kế của làng. Tất nhiên, họ phải giấu kín ngón nghề. Đến ngày dựng đình, phần việc của các nhóm thợ rất khớp về mộng, những mảng phù điêu chạm khắc công phu tỉ mỉ khiến làng khó phân hơn kém. Cuối cùng phường mộc Thủy Nguyên thắng vì có bộ đấu võng đẹp hơn. Đình gồm 5 gian, 2 dĩ, 2 hậu cung. Dân làng Lâm ngày ấy tự hào ngôi đình làng mình to đẹp nhất huyện. Ngày khánh thành mở hội mấy ngày liền, mời cả quan trên về dự. Đình Lâm thờ 6 vị thần thành hoàng, thần tích, thần sắc không còn. Chỉ biết chắc chắn đó là:

Đức thánh Niệm, tức Phạm Tử Nghi quê xã Niệm Nghĩa, huyện An Dương, danh tướng triều Mạc, làm quan đến chức Phò mã Đô úy Thái úy Thành Quốc công, sau khi qua đời được phong phúc thần với thần hiệu Nam Hải đại vương.

Phạm Thượng Quận tên là Phạm Đình Trọng, quê ở thôn Khinh Dao, xã An Hồng, huyện An Dương, đậu Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1739) đã dẹp các cuộc khởi nghĩa của Quận Hẻo, Quận He, giữ yên bình cho xứ Nghệ An, lại đánh tan giặc bể Quan Lan mà nhà Thanh không dẹp được. Sau khi mất, vua phong phúc thần. Các làng Khinh Dao, Lâm Động và Trung Thanh Lang huyện An Lão lập đền thờ. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Cung phi vua Lê, người họ Vũ xã Trung Hành, huyện An Dương. Họ Vũ Trung Hành nổi tiếng hiển đạt, nhiều người làm quan to. (Xác định được hai vị thần này vì ở đình có đôi câu đối:

Vũ Thị sản cung nga, tú dục Trung Hành thiên khải thánh Lê triều thanh hải phỉ, hóa qui Tùng Động địa chung linh

Nghĩa là:

Họ Vũ sinh vị cung nga, đất quý Trung Hành trời ban thánh

Triều Lê dẹp giặc bể, chết về Tùng Động đất chung linh

Tộc phả họ Vũ Trung Hành chép: Có con gái được vua Lê Hiển Tông (1840-1887) nạp vào cung. Lịch sử xã Lâm Động cho rằng tên bà là Vũ Thị Sản thì không đúng vì phạm húy và chữ “sản” (sinh) đối với chữ “thanh” (dẹp). Nếu hiểu chữ “sản” là tên riêng thì vế đối sai ngữ pháp vì không có động từ)

  • Theo truyền ngôn: Hai vị thần nữa là Triệu Quang Phục, vị tướng tài triều Tiền Lý (544-602) và Nguyễn Minh người Lâm Động tham gia chiến dịch Bạch Đằng năm 938 dẹp quân Nam Hán.
  • Đình còn thờ 12 vị tiên công, tức 12 ông tổ của 12 dòng họ Cao, Đàm, Nguyên Điều, Phạm, Đặng, Ngô, Vũ, Trần, Đoàn, Hoàng, Lại, Đào.

Trong cuốn Lịch sử xã Lâm Động (NXB Hải Phòng 1996) có đoạn: “Làng Sưa cũ nay là xã An Lư có ngôi đền thờ Trần Triều hiển thánh. Trong đền còn lưu giữ được tấm bia lớn khắc từ năm 1285 đến 1293 mới xong. Bia ghi tên những người trong làng xã có công trong chiến thắng Bạch Đằng, trong đó có 6 vị là người làng Lâm Động.

Đình làng còn là di tích của vụ hơn 100 người con của làng và các làng bên tham gia hoạt động cách mạng bị thực dân Pháp thảm sát trong 2 ngày 13, 14 – 2 – 1949 (âm lịch). Nhưng tấm bia đền thờ Trần triều ở làng Sưa (tức An Lư) thì không phải bia tạo đời Trần mà qua hoa văn trang trí, kiểu chữ thuộc đời Nguyễn. Một mặt bia bị xây áp vào tường không rõ năm tạo bia, người soạn văn bia. Trán bia mặt ngoài ghi rõ Tiên hiền bi ký. Vậy đây là bia Văn từ huyện Thủy Nguyên ghi tên các tiên hiền toàn huyện. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Nội dung bia có các địa danh Hoa Lăng, Hoa Chương. Hoa là tên húy bà Hồ Thị Hoa, mẹ vua Thiệu Trị. Bà nổi tiếng hiếu hạnh, được vua tuyển vào cung khi Thái tử Nguyễn Phúc Đảm chưa làm vua (sau lên ngôi lấy niên hiệu Minh Mệnh). Tháng 5-1807, bà sinh hoàng trưởng tử Miên Tông (sau làm vua lấy niên hiệu Thiệu Trị). Nhưng chỉ 13 ngày sau khi sinh, bà qua đời khiến dòng tộc và gia đình vô cùng thương cảm. Vì vậy, vua Gia Long xuống dụ phải tránh chữ Hoa. Những từ Hoa phải đổi là Ba, là Huê, là Phương, là Hóa, là Bông…

Như vậy, bia Tiên hiền bi ký lưu ở đền An Lư đời Gia Long (1802-1819). 6 vị tiên hiền làng Lâm ghi trong bia này là Đô chỉ huy sứ Ngô tiên sinh, Tổng binh Đàm tiên sinh, Hùng Thắng bá Đặng tiên sinh, Lâm Thọ hầu Cao tiên sinh, Đại tướng quân Nguyễn tiên sinh. Rất tiếc các tiên hiền chỉ ghi chức tước, họ và quê, không ghi tên. Ở Viện nghiên cứu Hán Nôm, còn có thác bản văn bia Bản tổng hưng tạo từ vũ bi ký (số 8435-38) tạo năm Lê Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709). Văn bia do Cao Đức Lập là hiệu sinh người bản xã soạn, hiệu sinh Đỗ Đăng Triều viết chữ. Nội dung ghi việc: Văn chức các xã trong tổng Lâm Động huyện Thủy Đường phủ Kinh Môn tu sửa từ vũ, dựng bia ghi tên các vị văn chức trong tổng. Xã Lâm Động có xã sử Đào Đăng Đệ, xã ty xã chính, trưởng tổng. Xã Bính Động có các vị câu đương, xã xử, trưởng thị. Xã Lôi Động có các vị câu đương, hiệu sinh, xã chính… Qua bia từ vũ tổng Lâm Động trên thấy rõ 6 vị quan chức của xã không thể là người đời Trần.

Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ngôi đình quý của làng Lâm làm những năm 1931-1935 bị đổ nát hết. Từ ngày có đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, nhân dân làng Lâm mong muốn phục dựng đình làng. Nguyện vọng chính đáng của dân được lãnh đạo huyện Thủy Nguyên, xã Lâm Động ủng hộ. Dân làng người góp của, người góp công. Con em làng làm ăn xa quê nhiệt tình đóng góp, có người góp đến 350 triệu đồng. Sau 10 năm, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, đến nay, đình Lâm Động dựng xong về cơ bản với 3 gian, 2 dĩ tòa đại bái, 2 gian hậu cung chủ yếu bằng đá Ninh Vân (Ninh Bình) cùng gỗ tứ thiết. [11]

2.2.2- Những di tích văn hoá khảo cổ

2.2.2.1- Mộ cổ Việt Khê

Tục chôn cất người chết của người xưa hết sức phong phú, thể hiện ở các loại hình mộ táng thời Đông Sơn: loại mộ huyệt đất, mộ có quan tài hình thuyền, mộ có quan tài được đóng đinh đồng, mộ nồi – vò úp nhau…Qua nghiên cứu các loại mộ cổ thuộc văn hoá Đông Sơn có thể thấy rõ một hiện tượng: hình thức mai táng có thể khác nhau ở mỗi vùng đất có địa sinh thái khác nhau, nhưng tập tục chôn cất thì lại hoàn toàn giống nhau, Người Đông Sơn quan niệm rằng chết là sự chấm dứt cuộc sống ở thế giới bên này và bắt đầu cuộc sống ở thế giới bên kia. Cuộc sống sau khi chết cũng tương tự như khi đang sống, nghĩa là người chết vẫn phải lao động, sinh hoạt và chiến đấu. Do vậy người Đông Sơn đều thực hiện táng tục giống nhau; chôn theo đồ vật cho người chết. Bộ đồ vật chôn theo người chết thường đủ ba thành phần: dùng sinh hoạt, công cụ sản xuất và vũ khí.

Mộ cổ Việt Khê là một minh chứng điển hình cho táng thức và táng tục của cư dân Đông Sơn cách ngày nay khoảng 2.500 năm. Mộ Việt Khê là loại mộ có quan tài hình thuyền (hoặc cũng gọi là mộ thân cây khoét rỗng). Loại mộ này thường tìm được ở những vùng trũng gần sông nước. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Trước hết là một nhóm mộ gồm 5 ngôi, nằm cùng hướng trên giải ruộng hẹp bên bờ sông Hàn. Nói đặc biệt vì áo quan là một phần than cây lớn được khoét rỗng bênn trong hình lòng máng, đầu to đầu nhỏ. Nhìn toàn bộ giống như một chiếc thuyền. Cỗ áo quan lớn dài 4m60 trong lòng sâu từ 0,24-0,39m, chiều rộng của đầu to là0,76m, của đầu nhỏ là 0,57m. Nắp áo quan cũng có hình lòng máng nhưng nông hơn. Chiều cao kể cả nắp tới 0,60m. Cỗ áo quan nhỏ về hình dáng tương tự cỗ lớn nhưng cấu trúc đơn giản và dài 4,54m

Mộ Việt Khê được phát hiện năm 1961 tại thôn Ngọc Khê, xã Việt Khê, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Mộ chôn một người, đáng tiếc là di cốt đã mủn nát, nhưng đồ vật chôn theo hầu như còn nguyên vẹn gồm 107 hiện vật. Số biện vật này gồm ba thành phần: đồ dùng sinh hoại (âu, bình, thố, chậu…); công cụ sản xuất (rìu, dũa, đục, dùi, nạo móc…), vũ khi chiến đấu (lao, giáo, kiếm, dao găm, rìu chiến…). Chất liệu đồ vật chôn theo khá đa dạng: đồng (chiếm tỷ lệ cao nhất), gỗ, da, đất. Trong số 107 di vật, nổi bật lên một số hiện vật đậc sắc có giá trị nhiều mặt như: mảnh da có dấu ấn (có thể là chiếc hộ tâm phiến da thuộc được sơn màu trang trí), chiếc muôi đồng dáng hình quả bầu cán có tượng người thổi khèn độc đáo, chiếc bơi chèo gỗ có vết sơn ta màu đỏ, những ngọn giáo còn nguyên lưỡi và cán…

Những di vật này giúp chúng ta hiểu thêm được, nhiều khía cạnh về đời sống xã hội của cư dân Đông Sơn đặc biệt là những chất liệu có liên quan tới một số ngành nghề thủ công truyền thống của Việt Nam như nghề thuộc da, nghề sơn.

Theo các nhà nghiên cứu, số lượng đồ vật chôn theo cùng với loại hình và giá trị của đồ vật, chủ nhân của mộ Việt Khê thuộc tầng lớp quyền quý giàu có và như vậy xã hội thời văn hoá Đông Sơn phát triển đã bước vào giai đoạn phân hoá, hình thành giai cấp trong xã hội. Tư liệu khảo cổ học nói chung của văn hóa Đông Sơn, đặc biệt tư liệu mộ táng của văn hoá này nói riêng, đã cho thấy sự phân hoá xã hội – phản ánh sự phán hoá tài sản, trên cơ sở sức sản xuất phát triển tạo ra của cải dư thừa – đã dần tới hình thành các tầng lớp xã hội khác nhau mà sự phát triển ở giai đoạn sau của văn hoá này đã đạt tới mức hình thành các giai cấp đầu tiên trong xã hội.

2.2.2.2- Di chỉ khảo cổ Tràng Kênh

Khu di tích lịch sử và danh thắng Tràng Kênh thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng có bề dày lịch sử văn hóa, đồng thời đây còn là một danh thắng với cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ do hệ thống núi đá vôi và sông ngòi tạo thành. Tràng Kênh, vùng đất cổ được biết đến qua di chỉ khảo cổ học nổi tiếng, hiện còn bảo lưu trong lòng đất. Nơi đây – một vùng đất, một vùng núi, một vùng trời “bát ngát sóng kình muôn dặm, thướt tha đuôi trĩ một màu”. Đó là miền đất mang đậm dấu tích lịch sử Tràng Kênh – Bạch Đằng ở phía bắc huyện Thuỷ Nguyên, cách nội thành Hải Phòng 20km. Về phía nam có sông Giá, phía đông có sông Chanh. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

U Bò là một ngọn núi trong quần thể đồi núi này, tương truyền đây là nơi Trần Hưng Đạo đã đứng để chỉ huy trận thủy chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông. Đứng trên núi U Bò, du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh sông Bạch Đằng. Sông núi tĩnh lặng, trời nước mênh mang với nhiều huyền thoại làm cho cảnh sắc nơi đây càng thêm hấp dẫn.

Quanh Tràng Kênh có nhiều động kỳ thú. Hang Vua thuộc xã Minh Tân, cao 18m, rộng 10m. Trong hang có nhiều ngách, có suối nước quanh năm trong mát. Gọi là hang Vua vì tương truyền rằng vua Hùng thứ 18 đã lập li cung ở đây. Đền thờ vua Hùng được đặt ở chính giữa hang, tượng vua được tạc bằng đá, trông rất sinh động.

Nguyễn Trãi từng viết về đất này: các sông giao lưu, sóng nước liền trời, cây cối che bờ, thật là nơi hiểm yếu ở biên cảnh. Tràng Kênh – Bạch Đằng như dấu son đỏ chói ghi vào lịch sử, gợi lòng tự hào sâu sắc về nước non này, về những chiến công hiển hách ba lần chiến thắng quân xâm lược phương Bắc, cùng những trang sinh động về cuộc sống của ông cha thời dựng nước. Những di tích bãi cọc, hang động ở chân núi U bò, núi Phượng Hoàng, nơi dấu quân, nơi Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo đánh trống chỉ huy trận đánh. Đền thờ Trần Quốc Bảo còn đó rêu phong. Trong những năm 1960 – 1970, nhiều nhà khảo cổ đã khai quật, phát hiện những ngôi mộ cổ, có bếp đun nấu và trên 30 mảnh gốm, nhưng giá trị nhất là 3.476 hiện vật bằng đá quí. Đó là những chiếc rìu nhỏ xinh xắn, những chiếc vòng trang sức tròn nhẵn bóng chứng tỏ người thợ đá cổ Tràng Kênh thời xa xưa đã đưa kỹ thuật chế tác đồ đá lên đỉnh cao nghệ thuật. Người Tràng Kênh thời Hùng vương đã biết làm nông nghiệp, chăn nuôi, đánh cá, săn bắn tê giác, voi, hổ, báo, lợn rừng, hươu, nai, ba ba, rùa, rái cá, làm gốm, đúc đồng, thì người Thuỷ Nguyên nay cũng lắm nhân tài và sản vật.

Bây giờ Tràng Kênh – Bạch Đằng đã trở thành khu công nghiệp phía đông bắc của thành phố. Nơi đây có các xí nghiệp khai thác đá nung vôi hoá chất, đất đèn Tràng Kênh, có Nhà máy xi măng Chinfon với biểu tượng hoa Đào. Ở cửa sông Giá trông ra sông Bạch Đằng có Nhà máy sửa chữa tầu biển Phà Rừng do Phần Lan giúp ta xây dựng, có âu đà hiện đại. Biết bao nhiêu con tàu viễn dương đã vào đây để được trẻ lại với đại dương.

Hồi niệm về những chiến công oanh liệt Tràng Kênh – Bạch Đằng càng thấy trân trọng: nước trời một sắc, phong cảnh ba thu, bờ lau kiếm nát, càng đồng cảm với cách nói đầy tự hào của Phạm Sư Mạnh ở thế kỷ 13:

Non sông vượng khí Bạch Đằng thu! Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Theo các nhà nghiên cứu, Tràng Kênh là một di chỉ khảo cổ học, một công xưởng chế tác đồ trang sức bằng đá lớn nhất vùng Đông bắc Tổ quốc, có niên đại cách ngày nay gần 4000 năm, thuộc sơ kỳ thời đại kim khí. Từ buổi khai sơn, phá thạch, tạo dựng cuộc sống, người Tràng Kênh với bàn tay khéo léo đã chế tác ra những đồ trang sức bằng đá tinh xảo, với những vòng tay, hoa tai, chuỗi hạt đa dạng, phong phú, đầy màu sắc. Thông qua các cuộc khai quật và nghiên cứu, các nàh khảo cổ học đã kết luận rằng: Tràng Kênh cách đây gần 4000 năm đã thực sự là một công xưởng chế tác đồ đá có quy mô lớn, sản phẩm của nó không chỉ được trao đổi ở nội địa, mà còn vượt biển tới các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vùng đất này được coi là một phên dậu chống giặc ngoại xâm.

Dấu ấn lịch sử để lại đến nay cho biết, Tràng Kênh là một trận địa quan trong trận thủy chiến Bạch Đằng năm 1288 do Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo chỉ huy, đánh tan đội quân xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ XIII. Với các địa danh đã đi vào sử sách dân tộc như núi U Bò, Hoàng Tôn, Phượng Hoàng hay cửa Bạch Đằng, nơi hợp lưu của 3 con sông đổ về, cùng các dấu tích về những trận địa cọc hay những địa danh như Áng Hồ, Áng Lác cho biết vùng đất này đã ghi dấu về một chiến trường do quân và dân triều Trần bày trận đón đánh quân thù. Ngày nay dưới chân núi Hoàng Tôn trong hệ thống núi đồi ở Tràng Kênh còn ngôi đền thờ một vị tướng của vương triều Trần. Đó là đền thờ Trần Quốc Bảo. Ông thuộc tôn thất nhà Trần có công trong trận Bạch Đằng năm 1288, khi mất được nhân dân địa phương lập đền thờ. Theo nội dung tấm bia dựng vào niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8 (1626) đời vua Lê Thần Tông, ngôi đền được xây dựng ở nơi có thắng cảnh đẹp vào hạng thứ nhất của xứ Hải Dương.

Tràng Kênh – Bạch Đằng, một địa danh lịch sử từ lâu đã đi vào tiềm thức của người dân thành phố Hải Phòng như một ký ức không thể nào quên về một chiến công vĩ đại chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cách đây trên 7 thế kỷ. Cùng với nhiều di sản mang những nội dung lịch sử văn hóa có giá trị, Tràng Kênh – vùng đất thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã được nhà nước xếp hạn di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh năm 1962…[10], [12].

2.2.3- Các lễ hội Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

2.2.3.1- Hội hát Đúm Thuỷ Nguyên

Hình thành và phát triển trên vùng đất có lịch sử lâu đời, nơi sinh tụ của những nền văn hóa thuần Việt như văn hóa đồ gốm Tràng Kênh, đồ đồng Việt Khê (2)…, hát đúm đã có một thời gắn bó với những buồn vui của cư dân Thủy Nguyên và là một sinh hoạt văn hóa phổ biến trên vùng đất ven biển này.

Lâu nay, khi nói tới hát đúm, nhiều người thường nhắc tới khái niệm đàn đúm hoặc là “lối hát dân gian dịp hội hè đầu xuân ở miền Bắc, Việt Nam do nhiều thanh niên trai gái cùng tham gia, thường ở dạng đối đáp” và tên gọi hát đúm thường gắn với địa danh Thủy Nguyên – Hải Phòng. Tuy nhiên, chúng tôi muốn nói thêm rằng, hình thức ca hát mang tính cộng đồng, cộng cảm như vậy còn thấy ở nhiều loại hình dân ca. Riêng với hát đúm, ngoài khái niệm nghiêng về tính hình thức, còn là đặc trưng của một loại hình, làn điệu thuộc thể loại dân ca đối đáp của người Việt. Hơn nữa, ở Thủy Nguyên chỉ có ba địa danh: xã Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ thuộc tổng Phục Lễ xưa, được coi là cái nôi của hát đúm người Việt ở vùng ven biển Bắc Bộ.

Theo người dân vùng ven biển Thủy Nguyên – Hải Phòng thì hát đúm đã có ở đây cách ngày nay khoảng bảy, tám trăm năm (khoảng TK XIII – thời nhà Trần), nhưng có lẽ phải tới TK XVI (thời nhà Mạc), sau khi chùa Kiến Linh được tạo dựng ở Phục Lễ thì nó thực sự mới được hát trong lễ hội chùa. “Chùa Kiến Linh có bia tạo năm Thuần Phúc 2 (1563) và Bính Dần (1566) thời Mạc, nội dung nói đất Phục Lễ địa linh nhân kiệt, Lê Thái Tổ (Lê Lợi) từng đến thăm”.

Là loại hình dân ca hình thành trong môi trường lao động, sau đó trở thành dân ca trong lễ hội, hát đúm vùng tổng Phục – Thủy Nguyên đã gắn với những sắc thái văn hóa độc đáo của cư dân ven biển. Trong xã hội xưa, một trong những tục lệ phổ biến có liên quan đến hát đúm ở đây là tục bịt khăn che mặt của phụ nữ. Đến những năm 60 của TK XX, nếu ai có dịp về vùng tổng Phục -Thủy Nguyên thì vẫn được chứng kiến cảnh các cô thôn nữ thường che kín mặt bằng chiếc khăn đen mỏ quạ, chỉ để hở hai con mắt trong lúc làm việc cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Các cụ kể lại rằng, xưa ở tổng Phục, đặc biệt là Phục lễ, Phả Lễ, Lập Lễ khi khách đến chơi nhà, nếu gặp các cô gái mà muốn hỏi thăm thì rất khó, vì bình thường họ đã bịt khăn che kín mặt, nhưng thấy khách lạ, họ càng kín đáo hơn, thậm chí e thẹn trốn xuống nhà dưới không trả lời khách, càng gọi càng không thấy mặt. Thói quen bịt khăn còn được duy trì đến khi các cô gái ra tham gia hội hát đúm đầu xuân ở chùa làng. Trong hội, khi bắt đầu hát, không cô gái nào bỏ khăn mà còn che kín mặt hơn. Họ thường đi thành tốp năm, sáu người, khi vào cuộc hát với bên nam, các chàng trai chỉ thấy nghe tiếng hát phát ra trong tốp nữ mà không nhìn thấy mặt ai. Chàng trai nào diễm phúc được xem mặt một cô nào đó thì chắc chắn phải chiếm được cảm tình của đối tượng, sau khi đã hát đối đáp với nhau khá nhiều bài. Nếu trường hợp hai bên hát với nhau một số bài mà cô gái vẫn không “mở mặt”, nghĩa là không “tâm đầu ý hợp”, chàng trai phải chọn người khác để làm quen và mời hát. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Xưa, trong xã hội cổ truyền, nếu hát đúm vùng tổng Phục hấp dẫn và lôi cuốn mọi người bởi những câu hát tình tứ, thơ mộng, thì tục bịt khăn che mặt của phụ nữ lại tạo ra sự tò mò, cuốn hút khách thập phương. Rồi trải qua năm tháng, tục cổ này đã trở thành nét văn hóa độc đáo. Bịt mặt ắt phải có… mở mặt, đây chính là chi tiết hấp dẫn đối với du khách xa gần, thậm chí với cả những người dân ở các làng bạn. Khi các cô gái mở mặt để hát đối đáp với các chàng trai, mọi người không khỏi trầm trồ, vì cô nào mặt cũng đẹp, da trắng, môi đỏ, mắt đen láy như hạt na…

Như nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian khác, hát đúm ở tổng Phục cũng trải qua những biến cố, thăng trầm. Có lúc, sinh hoạt hát đúm còn bị cấm đoán bởi quan niệm sai lệch, vì có người cho rằng hát hò, cầm tay nhau là “không lành mạnh” . Dẫu vậy, sinh hoạt hát đúm ở tổng Phục vẫn được duy trì, được người dân địa phương yêu thích.

Hành trình này sẽ đưa du khách về với không gian của lễ hội hát Đúm.

Hát đúm ở đây rất giàu làn điệu: trống quân, cò lả, sa mạc, lý giao duyên.

Vào hội, một khi bên nữ – vốn hay đột ngột chuyển làn điệu trong khi hát mà phía bên nam không kịp đối là thua. Hát đúm ở Phục Lễ gắn với Hội mở mặt. Con gái Phục Lễ quanh năm dùng khăn chít che mặt chỉ để hở hai đôi mắt đen như hạt nhãn. Ngày hội mở mặt còn được coi là ngày các cô gái thi sắc đẹp, làm quân cờ người. Chiếc khăn tung ra để lộ những khuôn mặt trắng mịn, môi hồng như hoa lựu, làm cho Hội thi hát đúm thêm say mê, hào hứng. Thể lệ hát được quy định khá chặt chẽ, tốp hát cùng giới (nam hoặc nữ) thường là những người cùng lứa tuổi, không hát với người trong gia đình, họ tộc (anh em ruột, chồng, anh em chồng, chị dâu, em dâu…). Mọi người cho rằng thú vị nhất là hát với người làng bên (hát đúm là của cả tổng Phục). Đã ra đến hội và đi hát, tất cả các ông chồng hay bà vợ không được ghen khi thấy vợ (hay chồng) mình cầm tay người khác để hát (vì có tục khi hát thường nắm cổ tay nhau).

Khi hát, bạn hát (đặc biệt là nam) không được chọn các từ nghĩa khó hiểu cho bạn hát của mình. Khi ứng đối không được, bạn hát có thể nhờ bạn hát trong tốp hát của mình ứng đối hộ, sau đó họ lại có thể tiếp tục cuộc hát, người hát không được dừng hát giữa bài (khổ thơ đối) bởi như vậy sẽ bị phạt: phải mời những người đi hát uống rượu, ăn quà…. Cuộc hát được tuân thủ theo các bước (hát) sau: Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

  • Hát chào mừng (lời chào và làm quen).
  • Hát thăm hỏi – mời (hỏi gia cảnh, tình ý cha mẹ và mời đến chơi nhà).
  • Hát đố – giảng (thường đố với các hiện tượng thiên nhiên cảnh vật, nghề nghiệp…).
  • Hát hoạ (ví – lấy môi trường thiên nhiên, tích truyện để ứng ví với tình cảm).
  • Hát huê tình (lời hát bày tỏ tình cảm kết nghĩa bạn bè hoặc kết tình chồng vợ, cuối còn có hát thách cưới).
  • Hát ra về (hát chia tay).

Hãy nghe bên nữ hát đố:

  • Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền
  • Chàng mà giải được, em liền theo không?

Bên trai hát giải:

  • Tam sơn là núi, tứ hải là sông
  • Nhất phần điền là ruộng, theo không là nàng.
  • Và bên trái tách ra, một chàng cầm tay cô gái hát giao duyên:
  • Thấy em vừa đẹp, vừa xinh
  • Anh thuận nhân tình, anh nắm cổ tay
  • Nắm rồi, anh hỏi cổ tay
  • Ai nặn nên trắng, ai day nên tròn?

Rồi chàng kể nỗi gian truân:

  • Vì nàng anh phải đi đêm
  • Ngã năm ba cái, đất mềm không đau
  • Vì nàng anh phải đi thăm
  • Ngã sứt đầu gối, ngã thâm bánh chè!

Bên gái cũng bộc lộ tình cảm:

  • Yêu nhau quá đỗi quá chừng
  • Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay.

Không ít các chàng trai, cô gái vì cảm mến nhau qua lời ca, điệu múa mà rồi nên vợ nên chồng. Và vì thế, hát đúm luôn là lễ hội hấp dẫn, trẻ trung, trở thành nét đặc trưng trong kho tàng văn hoá truyền thống của vùng đất này.

Theo truyền thống, ngày bắt đầu của hội hát đúm đồng thời cũng là ngày những cô gái của Tổng Phục bỏ chiếc khăn mỏ quạ bịt mặt trong suốt cả năm. Vì thế, hội hát đúm ngày xuân cũng còn là ngày hội mở mặt. Trong những ngày này, các chàng trai, cô gái Tổng Phục (trước đây, ba xã Phục Lễ, Phả Lễ và Lập Lễ thuộc Tổng Phục) thường tập trung để hát đúm tại đình Phục Lễ, một trong những ngôi đình lớn. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Hát đúm cũng có thể diễn ra ở trên đường đi, ngoài cánh đồng khi các tốp trai thanh, gái lịch trong những bộ quần áo truyền thống ngày hội gặp nhau. Họ nắm tay nhau say sưa hát đối những làn điệu giao duyên thể hiện khát vọng về tình yêu đôi lứa thông qua nhiều câu hát ví von mang đậm chất dân gian của vùng quê.

Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn không thể khẳng định hát đúm có từ bao giờ. Các cụ già ngoài 80 tuổi ở Phả Lễ và Phục Lễ cho chúng tôi biết, từ khi còn nhỏ tuổi các cụ đã theo người lớn tuổi đi nghe hát đúm. Những canh hát đúm có khi kéo dài nhiều ngày mà vẫn đầy sức quyến rũ các chàng trai, cô gái Tổng Phục.Bài bản của hát đúm rất phong phú. Đầu tiên, khi mới gặp nhau là những câu hát chào, những câu hát mừng. Tiếp sau đó có thể là hát hỏi, hát đố, hát họa, hát huê tình, hát cưới… và cuối cùng là hát ra về.

Trong góc tiếp cận về phương diện âm nhạc học thuần túy, hát đúm không phức tạp và ở cấp độ cao như hát quan họ Bắc Ninh. Thậm chí, các làn điệu âm nhạc mới chỉ ở cấp độ đầu trong tương quan của các hình thái sinh hoạt âm nhạc dân gian Việt Nam. Nhưng nếu nhìn nhận hát đúm trong cách tiếp cận tổng thể một hiện tượng văn hóa dân gian lại là vấn đề không đơn giản, đòi hỏi nhiều trí tuệ của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian. Hát đúm sinh ra từ chính nhu cầu của người dân lao động, được bao thế hệ nghệ nhân sáng tạo không ngừng qua năm tháng, và đến hôm nay vẫn là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian được nhiều người yêu thích nhất ở miền quê này. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Về quê hương hát đúm, du khách gặp cảnh nô nức đi nghe hát đúm của già trẻ, gái trai nơi đây. Khi nghe hát, nếu trên gương mặt người già dường như bừng lên, ánh lên những kỷ niệm của một thời tuổi trẻ cùng những canh hát đúm say sưa, đằm thắm, mà không ít cặp hát sau đó đã nên vợ, nên chồng. Nếu như các anh chị trung niên đến đây không chỉ thưởng thức những làn điệu dân gian vốn là tài sản vô giá của cha ông để lại, mà còn tâm chí hướng về trách nhiệm bảo tồn cho thế hệ mai sau loại hình văn hóa độc đáo này, thì trên gương mặt của những cô bé, cậu bé là sự đắm chìm trong những làn điệu dân ca, gợi cho chúng ta cảm giác hình như dòng máu đang chảy trong huyết quản của chúng ngoài nhu cầu tiếp nhận ô-xy trong không khí, còn có cả nhu cầu tiếp nhận những âm hưởng dân ca vốn đã vang vọng từ bao đời.

Kỳ diệu thay sức sống của văn hóa dân gian. Nó không chỉ làm giàu thêm thế giới tâm cảm của con người, mà còn làm cho cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn. Và đó cũng chính là cơ sở cho niềm tin về sức sống trong tương lai của loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian hát đúm độc đáo này ở huyện Thủy Nguyên, TP Hải Phòng. Đã từ lâu hàng năm cứ vào ngày mùng 4 đến ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch, tổng Phục lại mở Hội làng. Hội làng đầu xuân có rất nhiều cuộc thi: Thi cỗ bánh, thi dệt cửi, thi đánh đu, đánh vật, đánh cờ…nhưng cuốn hút nhất vẫn là thi hát Đúm. Ngày Hội trên sân chùa có nhiều cặp hát, cặp hát nào giọng hát trong và cao, lời hát phong phú hấp dẫn đông người xúm quanh nghe hát. Trên sân chùa rộng kê nhiều bàn hát, khách phương xa muốn thưởng thức nghệ thuật hát Đúm thì ngồi vào hai tràng kỷ của bàn hát, sẽ có người tới hát cho nghe. Hát Đúm còn diễn ra trên bãi, trên đường. Đâu đâu từ mờ sáng cho đến tận khuya vẫn còn nghe tiếng hát véo von của các cặp trai gái đang say hát. Ngày Hội làng, có cặp hát với nhau từ mờ sáng tới lúc trăng lên, cá biệt còn có cặp hát với nhau được hai ngày liền.

Người hát phải hát được nhiều làn điệu như: Cò lả, trống quân, quan họ, sa mạc…Giai điệu gần với hát ví của đồng bằng Bắc Bộ nhưng khác ở chỗ luyến láy, nhấn giọng. Nội dung nói về tình yêu đôi lứa là chính, nên thường dành cho thanh niên. Nét đặc sắc của hát Đúm tổng Phục là ứng khẩu, tùy hứng từ những hoàn cảnh cụ thể nên đòi hỏi người hát phải thông minh, nhanh trí. Trình tự của cuộc hát đúm thường là gặp gỡ, hát chào, hát mừng. hát hỏi, hát mời trầu, hát cưới, kết thúc là hát tiễn, hát ra về. Trong hoàn cảnh cụ thể có thể hát họa, hát mời đến chơi nhà, hát khuyên nhau đi học, hát đi lính, hát gửi thư… Ngày xưa “miếng trầu là đầu câu chuyện” trai gái đến hội gặp nhau mời hát phải mời trầu. Nếu không có trầu mời hát, các cô gái sẽ hát hỏi trầu.

Hát Đúm gắn liền với hội mở mặt, ở tổng Phục ( Thủy Nguyên ) các cô gái bắt đầu vào tuổi dậy thì, tục lệ là phải bịt mặt bằng khăn vuông đen, chỉ để hở đôi mắt. Họ mong đợi ngày hội mở mặt, trai gái hy vọng tìm hiểu nhau để sau đó nên vợ, nên chồng. Do đó, hát Đúm Thủy Nguyên không đặt ra chuyện thắng thua. Nếu như cuối buổi hát, bên nam thua phải trao ô, bên nữ thua phải trao khăn thì cũng chỉ là vật kỷ niệm của tình yêu. Hát Đúm tổng Phục Thủy Nguyên là loại hình nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm phong phú văn hóa dân gian Hải Phòng. Di sản văn hóa ấy cần được kế thừa và phát huy [9], [13].

2.2.3.3- Hội Đu xuân Thủy Nguyên Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Khách du lịch biêt đến Thủy Nguyên – với những di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh đẹp bậc nhất của Hải Phòng như: đình Kiền Bái, đền Lê Ích Mộc, chùa Hoàng Pha, đình chùa Trịnh Xá, hang Vua…hẳn sẽ thấy thích thú hơn nếu được hòa mình trong không khí lễ hội với nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật dân gian đặc sắc diễn ra trong những ngày Tết cố truyền của dân tộc.

Hàng năm vào dịp Tết nhiều nơi ở huyện Thủy Nguyên như: xã Thiên Hương, Thủy Sơn, Thủy Đường, An Lư, Hòa Bình, Thủy Triều, Tam Hưng, Liên Khê, Lưu Kiếm… thường tổ chức vui xuân bằng cách trồng cây đu quen thuộc

Theo truyền ngôn của các già làng địa phương huyện Thuỷ Nguyên thì Đu xuân ở đây đã có từ lâu. Đây là một trong những trò chơi của ngày hội xuân khá hấp dẫn, là trò chơi thể thao dân tộc và được tuổi trẻ rất thích, là dịp để trai, gái gặp gỡ nhau.

Trước ngày hội, khoảng 28 đến 29 tháng Chạp âm lịch tại các bãi đất khô ráo, rộng rãi mỗi địa phương đều trồng từ một đến nhiều cây đu trên nhiều địa điểm khác nhau. Họ chọn cây tre to, dài, để trồng đu. Một cây đu có thể được trồng bởi 4-6 cây tre to. Cần đu cũng là những cây tre dài nhưng thon nhỏ, thường phải là tre đực để lúc người đu nắm vào cho gọn và chắc tránh xảy ra trượt hay tuột tay lúc đu nhanh, mạnh.

Chơi đu cũng giống như một cuộc đua tài đòi hỏi ở bạn sự nhanh nhẹn, tháo vát, dẻo dai và cả sự dũng cảm. Khi một người lên cần đu có thể nhờ một người khác đẩy cho mình có đà. Sau đó là tự người đu nhún tùy ý. Muốn đu được cao, đu đẹp, đu lâu phải có sức khỏe dồi dào và luyện tập công phu. Bắt đu cũng cần phải biết cách và có sức khỏe, nếu không đu văng sẽ bị ngã, người nào mà bắt được đu thì không ai tranh nữa. Đó là quy định chung của hội, khi đu lúc muốn xuống phải báo hiệu cho mọi người biết bằng cách khép tay đu lại vòng qua ngực.

Tùy theo sở thích bạn có thể chọn đu một người, hoặc đu đôi nam nữ, một trai một gái. Nhưng đẹp nhất vẫn là đu đôi, các đôi trai gái ưng ý lựa chọn nhau lên đu, người nhún người đẩy.Tài năng và lòng dũng cảm của các chàng trai cô gái được phô bày ở đây như dịp tự thể hiện bản thân. Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương đã miêu tả trò chơi đu rằng:

“Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới

Đôi hàng chân ngọc duỗi song song”

Không khí ngày tết xung quanh gốc đu hết sức đông vui, người dân nơi đây thường có tục chơi đu, tết mà không có đu thì không phải là tết. Các thanh niên trai tráng trổ tài, các cụ già cũng góp vui vài kiểu nhúm lão luyện và đẹp mắt, mọi người xung quanh quây quần bên dưới chiêm ngưỡng và reo hò khi có những đường du đẹp mắt. Bên cạnh đó là những trò tập thể như đá bóng hay cờ người.

Chơi đu xuân là một trò chơi thể thao dân tộc có từ lâu đời được tuổi trẻ rất thích, là dịp trai gái gặp gỡ nhau thi tài tìm hiểu và cũng là một nét văn hóa đậm sắc dân gian của người dân nơi đây [9], [13].

2.2.4- Làng nghề truyền thống Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

Một trong những tài sản văn hoá quý báu của huyện là các làng nghề truyền thống. Căn cứ vào kết quả khảo sát trong toàn thành phố, Hải Phòng hiện có 12 làng nghề được công nhận đủ tiêu chuẩn để tập trung đầu tư phục vụ phát triển du lịch. Trong số đó huyện Thuỷ Nguyên đứng đầu thành phố kể cả về số lượng và đặc thù nghề. Cụ thể cả 5 làng nghề của huyện đều có quy mô cấp toàn xã gồm: nghề đúc Mỹ Đồng, trồng cau Cao Nhân, mây tre đan Chính Mỹ, vận tải An Lư và khai thác đánh bắt thuỷ sản Lập Lễ. Mỗi một làng nghề đều chứa đựng những nét văn hoá riêng mang tính, đa dạng, phong phú và đặc sắc. Trong xu thế hội nhập, du khảo văn hoá qua các làng nghề hiện nay cũng là một khuynh hướng được nhiều du khách quan tâm. Do vậy các làng nghề truyền thống đang là tiềm năng du lịch quan trọng có khả năng đóng góp những sản phẩm hữu ích trong việc phát triển du lịch ở Thuỷ Nguyên.

2.2.5- Các tài nguyên khác

Hiện nay Thuỷ Nguyên có các dự án sẽ đưa vào hoạt động du lịch trong tương lai như: khu sân golf Sông Gía, khu trung tâm thương mại, du lịch, nghỉ dưỡng VISP (2 dự án này đễu nằm ven hồ sông Gía, thuộc địa phận xã Lưu Kiếm), khu thể thao nước ở Minh Tân. Đây là các dự án du lịch trọng điểm của Hải Phòng, vì vậy Thuỷ Nguyên trong tương lai không xa có khả năng trở thành một điểm đến lý tưởng của du khách

TIỂU KẾT CHƯƠNG II:

Thuỷ Nguyên là một huyện có lịch sử lâu đời, là một trong những cái nôi của nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc của nước ta. Lịch sử ngàn năm bồi đắp và hội tụ đã để lại cho vùng đất này nhiều di tích lịch sử – văn hoá quý báu. Thuỷ Nguyên còn là quê hương của nhiều lễ hội hấp dẫn và làng nghề truyền thống nổi tiếng.

Như vậy, tài nguyên du lịch nhân văn của Thuỷ Nguyên khá phong phú và có giá trị cao. Nếu được đầu tư và khai thác tốt có thể mang lại sức hút lớn chẳng những đối với khách du lịch trong nước, mà cả khách quốc tế. Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Thực trạng xây dựng tuyến điểm du lịch văn hoá

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Tiềm năng xây dựng tuyến – điểm du lịch văn hoá […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993