Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường ở VN, dưới đây hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình làm bài luận của mình. Bên cạnh nhiều thành tựu về lý luận, thì lý luận về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những thành tựu to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó ở Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, mời các bạn tham khảo!
Nội dung chính
3.1. Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về kinh tế thị trường vào Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
3.1.1. Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển kinh tế thị trường là tất yếu khách quan.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta lại có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ 1 nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta tỏ ra phù hợp, nó tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế – xã hội. Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước ta huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sau ngày giải phóng miền Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế – xã hội đa thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng tồn tại cả 3 loại hình kinh tế tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
Đó là một thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 ở nước ta, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế chỉ huy như ở miền Bắc trước đây. Các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vao điều kiện nền kinh tế đã thay đổi nên đã xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó đã gây nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi kèm với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
- Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày càng một gia tăng.
- Thực hiện phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
- Việc quản lý kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến đã không phù hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng nên đã không kích thích được sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng, viện trợ của nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại Đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN: “Quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hoá,… việc sử dụng đầy đủ quan hệ hàng hoá – tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan,… việc sử dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường” (1)
Thế nhưng điều đáng lưu ý là tại Đại hội VI, mặc dù đã sử dụng thuật ngữ “thị trường” song trong các văn kiện, Đảng ta vẫn chưa sử dụng khái niệm “kinh tế thị trường” và “cơ chế thị trường” như hiện nay chúng ta đang sử dụng mà phải đến Hội nghị TW 6 (khoá VI, 3/1989) và đến Đại hội VII (6/1991), trên cơ sở nhận thức sâu hơn về tình hình đất nước, Đảng ta mới có điều kiện nói rõ và nhấn mạnh: “Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất của xã hội” (1)
Đến Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII, 1/1994) đã tiếp tục phát triển, cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng của Đảng về phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những giải pháp thiết thực mà Hội nghị chỉ ra đã đẩy nhanh việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh và có hiệu quả, góp phần xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
Đến Đại hội lần thứ VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ trương đúng đắn về việc sử dụng kinh tế thị trường do các Đại hội trước đề ra, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế thị trường: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN” (2)
Như vậy, phải trải qua một quá trình đổi mới nhất định, những quan điểm về vai trò của cơ chế thị trường mới có cơ sở thực tiễn để được khẳng định. Kinh tế thị trường không đồng nhất với kinh tế tư bản chủ nghĩa, không phải là thành quả riêng của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường đã từng xuất hiện khá sớm trước khi có chủ nghĩa tư bản và là thành quả văn minh chung của loài người. Việc chuyển đất nước ta sang vận hành theo cơ chế thị trường không đơn thuần chỉ là quá trình cấu trúc lại nền sản xuất xã hội với sự đổi mới cơ cấu sở hữu tư liệu sản xuất, cơ cấu sử dụng nhân lực, lao động,… mà còn là sự đổi mới nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế – xã hội như cơ chế quản lý kinh tế xã hội, hệ thống giáo dục và đào tạo cán bộ, các thiết chế và chính sách xã hội,…
Đây là bước tiến hết sức quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta. Quan điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế – xã hội ở nước ta, từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mô hình của Lênin về một chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế hàng hoá.
Xem xét dưới góc độ khoa học chúng ta thấy rằng việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn.
3.2.2. Các quy luật kinh tế và với xu thế của thời đại. ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
Thứ nhất, nếu chúng ta không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mươi đã chỉ rõ việc thực hiện cơ chế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế cũ, nhưng hiệu quả của nền kinh tế xã hội đạt mức rất thấp, sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu như không có, đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị trường vẫn còn. Vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng nhiều ý kiến cho là thị trường ở nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và còn là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn, và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của Nhà nước còn rất thấp.
Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta còn tồn tại kinh tế đối ngoại, còn tham gia vào sự phân công hiệp tác quốc tế. Mặt khác nếu nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài sẽ làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới, tương quan giá cả các loại hàng hoá trong nước sẽ tương quan gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền.
3.2. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
3.2.1. Tiềm năng và hạn chế. ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
- Tiềm năng:
Nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế hàng hoá:
Thứ nhất: Chúng ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vị trí địa lý thuận lợi.
Thứ hai: Ta có sức lao động dồi dào, trình độ văn hoá, trình độ về chuyên môn so với nhiều nước đang phát triển thì nước ta ở mức trung bình.
Thứ ba: Chúng ta có đường lối đổi mới đúng đắn. Tuy nhiên cũng có những hạn chế.
- Những hạn chế:
Tuy nước ta là nước nông nghiệp nhưng bình quân ruộng đất canh tác theo đầu người thấp
Nền kinh tế kém phát triển, còn mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên, còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, thị trường chưa phát triển và chưa đồng bộ, thu nhập quốc dân theo đầu người thấp, sức mua còn hạn chế,… Kết cấu hạ tầng cơ sở còn kém phát triển.
Tiềm năng của chúng ta vẫn là những yếu tố cơ bản.
Có thể bạn quan tâm:
3.2.2. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
Xuất phát từ những điều kiện trong nước và thế giới, từ những tiềm năng và những mặt hạn chế Đảng ta đã đưa ra mô hình của sự phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam là: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của nhân dân, xã hội không còn chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở “Nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” (1). Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Định hướng XHCN nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lý tưởng của Đảng ta, Nhà nước và nhân dân ta, mà còn phản ánh xu thế phát triển khách quan của thời đại cũng như quy luật tiến hoá của lịch sử.
Hiện nay tình hình thế giới đã và đang biến đổi phức tạp trong nhiều thập kỷ vừa qua, các nước tư bản chủ nghĩa đã lợi dụng những thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ, tranh thủ sự mở rộng và phát triển kinh tế của mình. Họ ra sức điều chỉnh để thích nghi, nên đã đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao và có sự cải thiện nhất định về mặt xã hội. Song điều đó cũng cho thấy những tiền đề về kinh tế và xã hội cho một xã hội tương lai đang được chuẩn bị sẵn trong lòng CNTB.
Lịch sử phát triển của CNTB đã cho thấy khi hình thành những yếu tố khẳng định quan hệ sản xuất TBCN thì cũng đồng thời xuất hiện những yếu tố tự phủ định nó. Sự tác động này không có tính nhất thời, mà là cả một quá trình. CNTB không phải là hình thái kinh tế – xã hội vĩnh viễn. Theo quy luật tiến hoá và lý luận về hình thái kinh tế – xã hội của C.Mác thì sớm hay muộn CNTB cũng phải nhường chỗ cho một xã hội văn minh hơn, đó là CNXH. Đúng như văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH. Đó là quy luật tiến hoá của lịch sử” (1). Do đó định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và khách quan.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cũng có tính chất chung của nền kinh tế: nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh; có chủ thể kinh tế có tính độc lập, tự chủ để có quyền ra những quyết định phi tập trung hoá, thị trường có vai trò quyết định phân phối các nguồn lực kinh tế; giá cả do thị trường quyết định, Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô để giảm bớt những “thất bại của thị trường”.
Nhưng như ta đã nói ở trên, bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng hoạt động trong những điều kiện lịch sử – xã hội của một nước nhất định, nên nó bị chi phối bởi điều kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó, và do đó có những đặc điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường của các nước khác.
3.2.3. Đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
Thứ nhất, nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế thị trường nước ta tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ 3 loại hình sở hữu đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào thị trường với tư cách là 1 chủ thể thị trường bình đẳng.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác định kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường các nước khác. Mặt khác, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế Nhà nước, nói đúng ra là kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới – XHCN.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta không coi bất bình đẳng xã hội như là một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế, mà thực hiện mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
Như đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội, đến chính trị. Dưới CNTB, phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với người lao động theo giá trị sức lao động, còn đối với nhà tư bản theo giá trị của tư bản. Như vậy thu nhập của người lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu, do đó chế độ phân phối cũng có những đặc trưng riêng của CNXH.
Thu nhập của người lao động không phải chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà nó còn phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy, cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng của cơ chế kinh tế nhiều thành phần, huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế.
Thứ ba, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vận động theo những quy luật kinh tế nội tại của thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Sự quản lý của Nhà nước nhằm hạn chế những “thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không làm được. Vì vậy nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải kinh tế thị trường tự do, thả nổi mà là nền kinh tế có định hướng mục tiêu XHCN. Sự phát triển kinh tế thị trường được xem là phương thức, con đường thực hiện mục tiêu của CNXH: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng có hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực ra, đây không phải là đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà là xu hướng chung của nền kinh tế thế giới hiện nay. Trong điều kiện hiện nay chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật – công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa kinh tế theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá hình thức kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước sản xuất có hiệu quả. ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
3.3. Điều kiện và giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Để thực hiện thành công phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN chúng ta cần có các điều kiện và giải pháp sau:
Một là, đa dạng hoá các loại hình sở hữu: nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường. Vì vậy ta phải đa dạng hoá các loại hình sở hữu. Đối với sở hữu Nhà nước ta phải tiến hành cổ phần hoá, thực chất của cổ phần hoá là nhằm giải quyết vấn đề sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối kết quả của cổ phần hoá sẽ hình thành nên các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế vốn 100% của Nhà nước hoặc có doanh nghiệp Nhà nước nắm cổ phiếu khống chế (51%), có doanh nghiệp Nhà nước chỉ là cổ đông,… Như vậy, chúng ta đã củng cố và phát triển khu vực kinh tế Nhà nước, ngoài ra chúng ta còn phải đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý để khu vực kinh tế Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo, thực hiện đa dạng hoá các hình thức của kinh tế hợp tác, phát triển kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, phát triển kinh tế tư bản tư nhân, phát triển kinh tế tư bản Nhà nước. Như vậy sẽ hình thành ra sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp và sở hữu cá thể phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển. Phân công lao động xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá, đến lượt nó kinh tế hàng hoá phát triển lại gián tiếp thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển. Muốn thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển thì phải tiến hành công nghiệp hoá – hiện đại hoá để một mặt trang bị kỹ thuật và công nghệ mới thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ba là, phát triển đồng bộ các loại thị trường. Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hoá, có sản xuất hàng hoá là phải có thị trường. Do nước ta đi từ 1 nền sản xuất nhỏ, ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nên thị trường ở nước ta còn kém phát triển và chưa đồng bộ. Vì vậy đòi hỏi chúng ta phải phát triển đồng bộ các loại thị trường như: thị trường sức lao động, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường vốn – tiền tệ – tài chính – chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ,… không những phát triển thị trường trong nước mà còn cả với thị trường nước ngoài, và các loại thị trường trên phải cân đối với nhau.
Bốn là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường về pháp lý. Đối với nước ta do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ. Vì vậy chúng ta phải xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, có như vậy mới tạo ra hành lang pháp lý. Hệ thống pháp luật của nước ta phải phù hợp với phong tục và tập quán của pháp luật quốc tế. ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
Năm là, phát triển kết cấu hạ tầng về kinh tế – xã hội theo hướng hiện đại. Đối với nước ta do đi từ sản xuất nhỏ lại bị chiến tranh kéo dài cho nên kết cấu hạ tầng thấp kém. Vì vậy chúng ta phải phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng về kinh tế – xã hội theo hướng hiện đại mà trước hết là về giao thông vận tải, về thông tin liên lạc, năng lượng và nhân lực,…
Sáu là, đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, cải cách thủ tục hành chính quốc gia. Xây dựng cơ chế và chính sách kinh tế trên cơ sở đổi mới về kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị cho phù hợp cho nên chúng ta phải đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước. Bởi vì bản chất của Nhà nước sẽ định hướng nền kinh tế hàng hoá theo CNXH ở nước ta, nhưng phải bảo đảm giữ vững và tăng cường bản chất Nhà nước XHCN ở nước ta: Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của phát triển thị trường theo định hướng XHCN.
Đổi mới công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, đặc biệt là thông qua chính sách phân phối thu nhập để đạt được sự tiến bộ và công bằng xã hội, chuyển dịch cơ chế nhanh sang cơ chế thị trường và đổi mới chính sách kinh tế cho thích hợp.
Kết luận
Như vậy, trong đề án này em đã trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó vào phát triển kinh tế theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
Qua đó chúng ta thấy rằng kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà nó là một phương tiện để chúng ta đạt tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội nhanh hơn. Thật ra, kinh tế thị trường nó là thể chế vận hành, nó có thể thực hiện dưới chủ nghĩa tư bản cũng như dưới chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, mà kinh tế hàng hoá đã từng tồn tại trước CNTB, những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá, và cả trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá là do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Còn bản chất của CNTB là bóc lột lao động làm thuê và bần cùng họ. Kinh tế hàng hoá không phải là do CNTB tạo ra mà là thành tựu văn minh chung mà loai người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình. Hơn nữa, thực tiễn lịch sử thế giới đã thấy, ở các nước có điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, nền kinh tế thị trường cũng có những mô hình cụ thể khác nhau, tức là không có mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi nước và theo C.Mác sản xuất và trao đổi hàng hoá là “1 nét chung cho những hình thái kinh tế – xã hội hết sức khác nhau” (1), tức là kinh tế hàng hoá tồn trại trong nhiều hình thái kinh tế – xã hội, chứ không phải riêng của CNTB. Vì vậy không thể cho là xây dựng kinh tế thị trường là đồng nghĩa với việc phát triển CNTB. ( Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường )
Như vậy từ sự hiểu biết đúng đắn về lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về kinh tế thị trường để vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam chúng ta càng thấy rõ sự đúng đắn đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Việc Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là 1 chủ trương hoàn toàn đúng đắn, một sự lựa chọn có căn cứ khoa học phù hợp với thực trạng nền kinh tế nước ta. Mặt khác chúng ta cũng biết rằng kinh tế thị trường cũng có những mặt hạn chế của nó nên cần có sự quản lý của Nhà nước và kinh tế thị trường cũng không phải là mục tiêu của chúng ta mà nó là phương tiện để chúng ta tiến lên CNXH.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin xây dựng kinh tế XHCN

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả kinh tế thị trường ở VN […]