Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học

Rate this post

Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học nhằm nghiên cứu thực trạng các nguồn lực và việc sử dụng các nguồn lực tài chính Việt Nam. Giáo dục đại học ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới của đất nước, đồng thời tạo tiền đề cần thiết để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, nhà nước đã quan tâm, đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục, tỷ trọng ngân sách chi cho giáo dục đào tạo tăng lên hàng năm, trong đó có GDĐH. Thực hiện đổi mới nền giáo dục Việt Nam, trong đó có đổi mới cơ chế tài chính GDĐH theo hướng trao cho các trường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động. Dưới đây là Đề tài “ Hoàn thiện quản lý tài chính tại các trường đại học công lập tự chủ tài chính trên địa bàn TP. HCM mời các bạn đọc giả tham khảo.

Nội dung chính

2.1 Khái quát về bộ máy tổ chức của các trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay

Mô hình tổ chức của các trường ĐHCL gồm 3 cấp hành chính, ngoại trừ 2 trường đại học Quốc gia (Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP. HCM) đóng vai trò đơn vị cấp 1, còn lại đơn vị cấp 1 của các trường là Bộ chủ quản.

2.1.1 Mô hình tổ chức gồm 3 cấp hành chính

Mô hình tổ chức gồm 3 cấp hành chính của các trường ĐHCL được cơ cấu như sau :

  • Cấp 1

Các Bộ, Đại học Quốc gia là đơn vị cấp 1, là nơi lập kế hoạch chiến lược, ra các quyết định và ban hành các văn bản, hướng dẫn và tổ chức thực hiện, là nơi thực hiện quản lý ở tầm vĩ mô, quyết định các kế hoạch về đào tạo và nghiên cứu khoa học, về nhân lực, về phân bổ tài chính, quản lý văn bằng; thực hiện những nhiệm vụ chung hoặc nhiệm vụ cần có sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều trường.

Đặc điểm hành chính : là cấp có con dấu (quốc huy) và tài khoản tại kho bạc nhà nước, là đầu mối NSNN và đầu mối về đào tạo, nghiên cứu khoa học và các lĩnh vực khác; có quyền tự chủ rất cao về nhân sự, đào tạo và tài chính.

  • Cấp 2

Đơn vị cấp 2 của các Bộ là các trường đại học trực thuộc. Đơn vị cấp 2 của Đại học Quốc gia gồm các đơn vị thành viên (các trường đại học, Viện nghiên cứu) và các đơn vị trực thuộc (các ban, khoa; trung tâm nghiên cứu, đào tạo; Trung tâm phục vụ, dịch vụ….). Đơn vị cấp 2 là nơi xây dựng kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ được giao, điều phối, kiểm tra, đôn đốc, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cụ thể thuộc phạm vi, chức năng của mình.

Đặc điểm hành chính : Có con dấu và tài khoản tại ngân hàng, kho bạc.

  • Cấp 3

Đơn vị cấp 3 gồm các đơn vị trực thuộc cấp 2, gồm : các khoa, phòng chức năng, trung tâm và bộ phận phục vụ trực thuộc trường. Đơn vị cấp 3 là nơi thi hành và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cụ thể.

Đặc điểm hành chính : các đơn vị trực thuộc không có con dấu và tài khoản

2.1.2 Bộ máy tổ chức của các trường đại học công lập

Bộ máy tổ chức của các trường đại học thành viên trực thuộc Đại học Quốc gia và các trường đại học trực thuộc các Bộ chủ quản giống nhau :

 Theo cơ cấu tổ chức các trường ĐHCL được quy định trong Luật Giáo dục, Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý tất cả các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn và thủ tục bổ nhiệm, công nhận Hiệu trưởng được thực hiện theo quy định của nhà nước. Các phó Hiệu trưởng là thành viên trong Ban Giám hiệu và là người giúp việc cho Hiệu trưởng, cũng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận.

Hội đồng Khoa học và Đào tạo đóng vai trò là hội đồng tư vấn trong nhà trường do Hiệu trưởng thành lập để tư vấn cho Hiệu trưởng các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học theo quy định.

Các phòng chức năng là các đơn vị trực thuộc trường, thực hiện nhiệm vụ phục vụ đào tạo, triển khai thực hiện các kế họach và đóng vai trò tham mưu cho Hiệu trưởng trong việc hoạch định kế hoạch, chiến lược phát triển cũng như thực hiện các nghiệp vụ trong lĩnh vực chuyên môn.

Các khoa là đơn vị trực thuộc trường, là cấp quản lý và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đứng đầu là khoa là Trưởng khoa do Hiệu trưởng bổ nhiệm. Giúp việc cho Trưởng khoa có các Phó khoa. Trong một khoa có nhiều bộ môn. Bộ môn thuộc khoa là nơi quản lý và thực hiện các hoạt động chuyên môn về học thuật, không phải là cấp hành chính. Tuy nhiên, vai trò của Bộ môn luôn được coi trọng, đặc biệt là trong các hoạt động đào tạo liên quan đến lĩnh vực chuyên môn ngành và chuyên ngành.

Viện, trung tâm nghiên cứu là cấp quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động nghiên cứu, dịch vụ và tham gia đào tạo. Các đơn vị này thực hiện hoạt động và chịu sự chỉ đạo của nhà trường.

Trường trung học, dạy nghề là cơ sở giáo dục trung học trực thuộc trường đại học, được phân cấp quản lý theo quy định.

2.1.3 Các trường đại học công lập trên địa bàn TP. HCM ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Trong những năm qua, hệ thống GDĐH ở nước ta phát triển cả về quy mô và đa dạng về loại hình, hình thức đào tạo cung cấp nguồn lao động chủ yếu có trình độ cao cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục, trong thời gian qua số lượng các trường đại học, số lượng sinh viên và đội ngũ giảng viên trong các trường đại học tăng dần qua các năm cụ thể như sau :

Bảng 2.1 cho thấy sự phát triển các trường ĐHCL trong 5 năm cụ thể từ năm học 2004- 2005 đến năm học 2008-2009 số lượng sinh viên trường ĐHCL tăng 17% và số trường ĐHCL tăng 12%, như vậy sự phát triển số lượng sinh viên và số lượng trường ĐHCL trong 5 năm qua cũng không phải là quá nhanh. Ngoài ra, số lượng giảng viên trong 5 năm qua đã tăng 35% điều này cho thấy chất lượng đào tạo các trường ĐHCL đã có cải thiện, tuy nhiên số lượng sinh viên/1 giảng viên ở các trường ĐHCL vẫn còn ở mức cao cụ thể bình quân năm học 2004-2005 là 34 sinh viên/1 giảng viên và năm học 2008- 2009 là 29 sinh viên/1 giảng viên. Như vậy, số lượng giảng viên tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu học tập ngày càng tăng của sinh viên.

Hiện nay, trên địa bàn TP. HCM gồm nhiều trường ĐHCL đào tạo nhiều ngành, nhiều lĩnh vực bao gồm đào tạo các khối ngành như : khoa học cơ bản, kỹ thuật & công nghệ, nông lâm thuỷ sản, kinh tế, sư phạm, y dược, thể thao, văn hoá nghệ thuật…. Mỗi trường đại học tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ nhà nước giao có thể đào tạo một hay nhiều ngành.

Về bộ máy tổ chức, các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM gồm các trường thành viên trực thuộc Đại học Quốc gia TP. HCM và các trường đại học trực thuộc bộ chủ quản. Hầu như, các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM là đơn vị sự nghiệp công lập có thu tự bảo đảm một phần hay toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên.

Trên địa bàn TP. HCM bao gồm nhiều trường ĐHCL đào tạo nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau vì vậy để thuận lợi cho việc nghiên cứu, tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu một số trường ĐHCL điển hình trên địa bàn TP. HCM thực hiện tự chủ tài chính một phần hay toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên cụ thể bao gồm các trường sau:

Các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM là nơi đào tạo, nghiên cứu và tư vấn các vấn đề liên quan đến mọi lĩnh vực từ khoa học tự nhiên, xã hội đến lĩnh vực khoa học kinh tế ở khu vực phía nam; đồng thời là nơi chuyển giao những kết quả nghiên cứu khoa học áp dụng vào thực tiễn; góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các trường đại học còn là nơi đảm nhận nhiều đề tài quan trọng về nghiên cứu khoa học cấp thành phố, cấp Bộ và cấp nhà nước. Các trường đại học còn thực hiện liên kết và hợp tác đào tạo với nhiều trường đại học lớn của nhiều nước trên thế giới. Ngoài ra, còn thực hiện hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho một số nước láng giềng trong khu vực như Lào, Cam-pu-chia…

2.2 Thực trạng quản lý tài chính tại các trường đại học công lập trên địa bàn TP. HCM

2.2.1 Quản lý các nguồn lực tài chính ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế của đất nước còn gập nhiều khó khăn, đầu tư NSNN cho giáo dục còn hạn chế. Do đó để tăng cường nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục, ngoài nguồn đầu tư từ NSNN thì chính phủ có chủ trương thực hiện xã hội hóa giáo dục như tăng các khoản đóng góp từ người học bao gồm học phí, lệ phí và khuyến khích các khoản đóng góp từ cộng đồng để phát triển giáo dục. Ngoài ra, nhà nước khuyến khích các trường ĐHCL tăng cường nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ của trường như tăng thu từ dự án liên kết đào tạo, hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, khai thác cơ sở vật chất, các hợp đồng nghiên cứu khoa học và công nghệ.

Qua số liệu tại bảng 2.3 cho thấy nguồn thu của các trường ĐHCL trên địa bàn TP.HCM đều tăng qua 3 năm, các trường đều có nguồn thu năm sau cao hơn năm trước.

Trong đó, các trường ĐHCL tự chủ một phần kinh phí hoạt động thường xuyên thì nguồn thu chiếm tỷ lệ cao trong tổng thu chủ yếu từ NSNN cấp dao động khoảng từ 24% đến 56% và thu từ học phí, lệ phí từ người học dao động từ 40% đến 66% tuỳ trường, còn các trường ĐHCL tự chủ toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên thì nguồn thu NSNN rất ít chủ yếu thu học phí và lệ phí từ người học chiếm trên 84% trong tổng thu. Như vậy, trong cơ cấu nguồn thu, ta thấy thu NSNN cấp có sự bất bình đẳng giữa hai nhóm trường tự chủ một phần và tự chủ hoàn toàn. Ngoài ra, ta thấy kinh phí NSNN cấp cho các trường đặc biệt các trường tự chủ một phần qua 3 năm có xu hướng không đổi, một vài trường còn có xu hướng giảm.

Như vậy, có thể thấy các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM ngày càng dựa vào nguồn thu học phí và lệ phí là chủ yếu để đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên. Mặc khác, trong bối cảnh nhà nước khống chế chỉ tiêu đào tạo và mức trần thu học phí đối với các trường ĐHCL thì việc dựa vào nguồn thu học phí để đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên ngày càng khó khăn, điều này đặc biệt khó khăn đối với các trường tự chủ hoàn toàn về kinh phí hoạt động.

2.2.1.1 Quản lý nguồn thu từ ngân sách nhà nước cấp

Nguồn kinh phí NSNN cấp là nguồn tài chính quan trọng và chủ yếu để phát triển giáo dục ở nước ta. Cùng với sự phát triển kinh tế, chiến lược phát triển giáo dục trong thời gian tới cũng đặt ra mục tiêu tăng cường nguồn tài chính cho giáo dục nhằm tăng tốc độ phát triển, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực.

Từ năm 1998 đến năm 2010, trong điều kiện kinh tế đất nước còn gập nhiều khó khăn, nguồn tài chính còn hạn hẹp nhưng nhà nước vẫn quyết định tăng dần đầu tư NSNN cho giáo dục và đào tạo từ mức hơn 13% năm 1998 lên 20% tổng chi NSNN năm 2010 (năm 1998 : 13,7%; 2000 : 15%; 2006 : 18,6%; 2010 : 20%).  Ngân sách nhà nước cấp cho các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM bao gồm các khoản mục sau :

  • Kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các trường ĐHCL tự bảo đảm một phần kinh phí. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )
  • Vốn đối ứng các dự án do cấp có thẩm quyền phê duyệt.
  • Kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học : Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp Bộ, cấp Thành phố, cấp trường, …
  • Kinh phí thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được cấp có thẩm quyền
  • Kinh phí nhà nước thanh toán cho các trường ĐHCL theo chế độ đặt hàng để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước giao, theo giá hoặc khung giá do nhà nước quy định (điều tra, quy hoạch, khảo sát, ….)
  • Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học theo dự án và kế hoạch hàng năm.

Nguồn kinh phí NSNN cấp chi thường xuyên cho các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM chủ yếu dựa vào chỉ tiêu sinh viên của các trường. Việc tổ chức quản lý và sử dụng nguồn kinh phí NSNN cấp được thực hiện theo quy định của nhà nước : Lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán ngân sách.

Nguồn NSNN cấp chi hàng năm gồm chi hoạt động thường xuyên phục vụ đào tạo, chi nghiên cứu khoa học, chi chương trình mục tiêu quốc gia, chi mua sắm trang thiết bị, chi sữa chửa thường xuyên ….hiện vẫn đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu của các trường đại học. Tất cả các khoản NSNN cấp chi hàng năm được thực hiện theo chỉ tiêu đào tạo được giao hàng năm và dựa trên dự toán của trường đại học.

Qua biểu đồ 2.1 cho thấy các trường ĐHCL tự chủ một phần trên địa bàn TP. HCM có nguồn thu NSNN khá cao còn các trường ĐHCL tự chủ hoàn toàn có nguồn thu NSNN rất thấp.

Qua số liệu tại bảng 2.4 về nguồn NSNN cấp cho các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM cho thấy :

  • Có hai nguồn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng NSNN cấp cho các trường. Đó là NSNN cấp chi thường xuyên cho đào tạo và NSNN cấp chi cho nghiên cứu khoa học. Tổng cộng hai nguồn này chiếm hơn 90% NSNN cấp cho các trường. Ngoài ra ở một số trường NSNN còn cấp chi chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục nhưng thường chiếm tỷ trọng thấp trong tổng NSNN cấp.
  • Ở các trường ĐHCL tự chủ một phần kinh phí hoạt động thì NSNN cấp chi thường xuyên cho đào tạo qua 3 năm có khuynh hướng không đổi, một số trường có xu hướng giảm, tuy nhiên NSNN cấp chi thường xuyên vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn NSNN cấp và chiếm tỷ lệ hơn 70%. Còn NSNN cấp cho nghiên cứu khoa học cũng chiếm tỷ lệ cao sau NSNN cấp chi thường xuyên và có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.Cụ thể, tỷ lệ NSNN cấp nghiên cứu khoa học Trường Đại học Bách khoa năm 2008 chiếm tỷ lệ 19% thì đến năm 2009 tăng lên 20%; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên từ 18% năm 2007 tăng lên 22% năm 2009; Đại học KHXH và Nhân văn từ 11% năm 2008 tăng lên 13% năm 2009 và Đại học Kiến Trúc TP. HCM tăng từ 5% năm 2007 lên 7% năm 2009.
  • Ở các trường ĐHCL tự chủ hoàn toàn kinh phí hoạt động thì NSNN cấp chi thường xuyên cho đào tạo rất thấp, không ổn định và có xu hướng giảm xuống. Cụ thể, NSNN cấp chi thường xuyên đào tạo Trường Đại học Mở TP. HCM năm 2007 : 0 đồng, năm 2008 : 3.541 triệu đồng và năm 2009 : 516 triệu đồng; Trường Đại học Quốc tế năm 2007 cấp 3.650 triệu đồng, năm 2008 giảm xuống còn 16 triệu đồng và đến năm 2009 tăng lên 650 triệu đồng. Còn NSNN cấp chi nghiên cứu khoa học cũng rất thấp và có xu hướng tăng lên. Cụ thể, Trường Đại học Mở TP. HCM tăng từ 7% năm 2008 lên 53% năm 2009; Trường Đại học Quốc tế tăng từ 15% năm 2007 lên 30% năm 2009.
  • Đối với NSNN cấp chi chương trình mục tiêu quốc gia thì chỉ có một số trường ĐHCL nhận kinh phí và kinh phí cấp thường không ổn định, chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng NSNN cấp.
  • NSNN cấp chi đầu tư xây dựng cơ bản cho các trường ta thấy hầu như không có, điều này được giải thích đối với các trường thành viên trực thuộc Đại học Quốc gia TP. HCM thì NSNN cấp trực tiếp đầu tư xây dựng cơ bản cho ban quản lý dự án xây dựng cơ bản của Đại học Quốc gia TP. HCM mà không cấp cho các trường thành viên trực thuộc. Còn đối với các trường thuộc Bộ quản lý thì Bộ sẽ cấp ngân sách chi đầu tư xây dựng cho các trường trực thuộc. Như vậy, các trường như Đại học Mở TP. HCM và Đại học Kiến trúc TP. HCM không được NSNN cấp kinh phí đầu tư xây dựng trong những năm gần đây điều này gây khó khăn cho các trường trong việc cải thiện cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Như vậy, qua phân tích nguồn kinh phí NSNN cấp cho các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM qua 3 năm ta thấy trong cơ cấu kinh phí NSNN cấp, thì kinh phí NSNN cấp chi thường xuyên và chi nghiên cứu khoa học chiếm tỷ trọng chủ yếu. Ngoài ra, đối với các trường tự chủ một phần, kinh phí NSNN cấp chi thường xuyên qua các năm có khuynh hướng không đổi, một số trường có xu hướng giảm, điều này cho thấy xu hướng nhà nước giảm dần bao cấp trao cho các trường thực hiện tự chủ tài chính, như vậy các trường sẽ gập khó khăn trong việc cân đối thu chi. Mặc khác, kinh phí NSNN cấp chi thường xuyên có sự bất bình đẳng giữa hai loại hình trường tự chủ hoàn toàn và tự chủ một phần về tài chính, điều này đặc biệt khó khăn cho các trường tự chủ hoàn toàn về tài chính trong việc đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên trong khi các trường này bị khống chế chỉ tiêu đào tạo và vẫn phải thu học phí theo mức trần nhà nước quy định. Ngoài ra, việc cấp ngân sách chi thường xuyên cho các trường tự chủ một phần kinh phí hoạt động thường xuyên trong thời gian qua chủ yếu dựa trên chỉ tiêu đào tạo do đó mang tính cào bằng mà chưa tính đến lĩnh vực đào tạo, khối ngành đào tạo điều này gây khó khăn rất lớn cho các trường khối kỹ thuật khi mà việc đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, phòng thí nghiệm, mua hóa chất mẫu vật thí nghiệm đòi hỏi một nguồn kinh phí hàng năm rất lớn. Như vậy, nhà nước cần phải thay đổi chính sách phân bổ ngân sách để đảm bảo sự công bằng về đầu tư của nhà nước cho các trường.

2.2.1.2 Quản lý nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp

Trong điều kiện nguồn NSNN đầu tư cho giáo dục còn hạn chế, để phát triển giáo dục nhà nước cho phép huy động mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục nhằm chia sẻ bớt gánh nặng với NSNN. Việc nhà nước cho phép thu học phí, lệ phí, mở rộng các loại hình đào tạo, liên kết đào tạo, thực hiện một số hoạt động ngoài đào tạo như các dự án sản xuất thử nghiệm, cung ứng dịch vụ, góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để tổ chức các hoạt động dịch vụ đã tạo điều kiện cho các trường đại học tăng nguồn thu ngoài NSNN. Nguồn thu sự nghiệp ngoài NSNN ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững về tài chính của các trường ĐHCL.

Các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM hiện thực hiện thu, sử dụng và quản lý học phí theo quyết định số 70/QĐ-TTg ngày 31/03/1998 của Chính phủ đối với học phí chính quy, Thông tư 46/2001/TTLT/BTC-BGD&ĐT ngày 20/6/2001 đối với học phí không chính quy và các quy định về thu lệ phí của nhà nước. Kể từ năm học 2009-2010 nhà nước có quyết định điều chỉnh khung học phí chính quy đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐHCL theo quyết định số 1310/QĐ-TTg ngày 21/08/2009, theo đó mức trần học phí chính quy của sinh viên đại học 240.000đ/tháng. Với khung học phí mới, mức trần học phí chính quy đại học đã cao hơn so với mức trần cũ (tồn tại hơn 10 năm) 60.000đ/tháng. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục và thực hiện chia sẽ chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học, ngày 14/5/2010 nhà nước quyết định thông qua lộ trình tăng học phí bằng cách ban hành Nghị định 49/2010/NĐ-CP quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015. Như vậy, việc cho phép tăng thu học phí theo lộ trình của nhà nước cùng với việc khuyến khích mở rộng nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp khác của trường đã tạo điều kiện tăng nguồn thu, giúp nhà trường chủ động trong việc cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập cũng như nâng cao thu nhập cho cán bộ viên chức của trường.

Nguồn thu sự nghiệp ngoài NSNN của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM bao gồm các nguồn :

  • Thu học phí, lệ phí :

Học phí bao gồm :

  • Thu học phí của sinh viên, học viên thuộc các hệ đào tạo chính quy theo khung học phí do nhà nước quy định.
  • Thu học phí của sinh viên thuộc các loại hình đào tạo không chính quy (như đào tạo tại chức, đào tạo bằng hai, hoàn chỉnh kiến thức, đào tạo từ xa ….) theo khung học phí do nhà nước quy định.

Lệ phí bao gồm : Lệ phí tuyển sinh, các loại lệ phí khác theo quy định của nhà nước. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

  • Thu sự nghiệp khác :

Thu từ dự án liên kết đào tạo với các tổ chức trong và ngoài nước.

Thu hoạt động sản xuất, bán sản phẩm thực hành, sản phẩm dự án sản xuất thử nghiệm, chuyển giao công nghệ ,…từ các hoạt động cung ứng dịch vụ, khai thác cơ sở vật chất.

Thu các hợp đồng khoa học và công nghệ với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

Thu do cán bộ, giảng viên của đơn vị tham gia các hoạt động dịch vụ với bên ngoài hoặc theo cơ chế khoán nộp về đơn vị.

Các khoản thu hợp pháp khác được để lại sử dụng theo quy định của nhà nước : lãi tiền gửi ngân hàng, thu bán giáo trình, thu thanh lý tài sản, thu cho thuê mặt bằng, các dịch vụ giữ xe, căntin, nhà ăn, … Từ số liệu bảng 2.5 ta có nhận xét về cơ cấu nguồn thu sự nghiệp tại các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM cụ thể như sau :

Thu học phí :

  • Nhìn chung tình hình thu học phí chính quy và không chính quy của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM có xu hướng tăng qua các năm và tỷ lệ thu học phí chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu sự nghiệp của các trường, theo số liệu bảng 2.5 thì tỷ lệ thu học phí bình quân trong tổng thu sự nghiệp các trường là hơn 84%
  • Đối với các trường tự chủ một phần kinh phí hoạt động thường xuyên thì tỷ lệ nguồn thu học phí chính quy và không chính quy trong tổng thu sự nghiệp chiếm tỷ cao và chiếm tỷ lệ bình quân là 80% trong tổng thu sự nghiệp. Cụ thể, tỷ lệ thu học phí bình quân từ năm 2007 đến năm 2009 của Trường Đại học Bách khoa là 74%, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên là 88%, Trường Đại học Kiến trúc là 76%, Trường Đại học KHXH và Nhân văn là 82%. Đối với các trường tự chủ hoàn toàn kinh phí hoạt động thường xuyên thì tỷ lệ nguồn thu học phí chính quy và không chính quy trong tổng thu sự nghiệp chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng thu và chiếm tỷ lệ bình quân là 93% trong tổng thu sự nghiệp. Cụ thể, tỷ lệ thu học phí chính quy và không chính quy trong tổng thu sự nghiệp của Trường Đại học Mở TP. HCM dao động trong khoảng từ 85% đến 90%, của Trường Đại học Quốc tế dao động từ 98% đến 99%.
  • Theo số liệu bảng 5 cho thấy Trường Đại học Mở TP. HCM có nguồn thu học phí khá cao và tăng nhanh qua 3 năm, điều này thể hiện nhà trường không ngừng mở rộng quy mô đào tạo, đặc biệt là hệ đào tạo từ xa, thực tế cho thấy với nguồn thu chủ yếu từ hệ đào tạo từ xa nhà trường có thể phần nào bù đắp sự thiếu hụt nguồn thu từ hệ chính quy do bị khống chế mức trần thu học phí và với nguồn thu học phí khá cao giúp cho trường chủ động trong việc đảm bảo toàn bộ kinh phí chi thường xuyên. Tuy nhiên, do nguồn thu học phí chủ yếu của trường từ nguồn đào tạo không chính quy (đào tạo từ xa, tại chức) do đó trong những năm tới khi có sự cạnh tranh giữa các trường về hệ đào tạo không chính quy hay khi nhà nước chủ trương giảm chỉ tiêu đào tạo từ xa, tại chức thì đây là điều thực sự khó khăn cho trường trong việc tự cân đối thu chi. Ngoài ra, cũng là đơn vị tự chủ hoàn toàn về tài chính nhưng Trường Đại học Quốc Tế được thực hiện tự chủ về mức thu học phí để đảm bảo chi thường xuyên (mức thu học phí của trường các năm qua khoảng 1.500usd/năm học) điều này cho thấy có sự bất bình đẳng giữa các trường tự chủ tài chính hoàn toàn về mức thu học phí.
  • Hàng năm, căn cứ vào khung thu học phí chính quy và không chính quy do nhà nước quy định, Hiệu trưởng các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM quy định mức thu học phí cụ thể áp dụng đối với từng loại đối tượng phù hợp với đặc điểm, yêu cầu phát triển của ngành đào tạo, hình thức đào tạo, hoàn cảnh của từng sinh viên, học viên và chi phí hợp lý để đảm bảo duy trì, phát triển hoạt động đào tạo. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )
  • Thực tế cho thấy việc thu học phí tại các trường đại học được thu qua ngân hàng, sau đó phòng Tài chính-Kế toán thực hiện cấp đổi biên lai thu tiền học phí cho sinh viên (biên lai thu học phí do cơ quan tài chính phát hành). Cuối mỗi tháng hay mỗi quý nhà trường tổng kết và chuyển tiền thu học phí về tài khoản quỹ học phí của trường mở tại kho bạc nhà nước.
  • Hàng năm, cùng với việc lập dự toán thu, chi từ nguồn NSNN, các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM thực hiện lập dự toán thu, chi quỹ học phí. Báo cáo cho cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp tổng hợp để gửi cơ quan tài chính đồng cấp. Sau đó chuyển kho bạc nhà nước làm căn cứ cấp kinh phí và kiểm soát chi tiêu.

Các trường tổ chức hạch toán kế toán, mở sổ sách theo dõi riêng các khoản thu, chi học phí và quản lý theo quy định. Các khoa, phòng, Trung tâm trong trường không phải đơn vị dự toán thì toàn bộ số thu, chi học phí quản lý thống nhất tại phòng Tài chính-Kế toán của trường.

Thu lệ phí :

  • Qua số liệu thu lệ phí tại bảng 2.5 cho thấy nguồn thu từ lệ phí chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn thu sự nghiệp tại các trường ĐHCL trên địa bàn HCM, tỷ lệ thu lệ phí bình quân trong tổng thu sự nghiệp của các trường là 3%.
  • Trường Đại học Bách khoa có kinh phí thu từ lệ phí là khá lớn và có xu hướng tăng qua các năm, cụ thể năm 2007 thu lệ phí của trường là 3.071 triệu đồng chiếm tỷ lệ 3% trong tổng thu, năm 2008 thu lệ phí là 4.263 triệu đồng tăng 39% so với năm 2007 và chiếm tỷ lệ 4% trong tổng thu, năm 2009 thu lệ phí của trường là 4.736 triệu đồng tăng 11% so với năm 2008 và chiếm tỷ lệ 4% trong tổng thu. Trường Đại học Quốc tế có kinh phí thu từ lệ phí là thấp nhất và có xu hướng giảm qua các năm, cụ thể năm 2007 thu lệ phí của trường là 285 triệu đồng chiếm tỷ lệ 1% trong tổng thu, năm 2009 thu lệ phí là 254 triệu đồng giảm 12% so với năm 2007 và chiếm tỷ lệ 1% trong tổng
  • Hàng năm, các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM phải lập dự toán thu, chi các khoản lệ phí dự thi, dự tuyển đồng thời với dự toán tài chính và thực hiện thu chi theo chế độ tài chính hiện hành. Các trường tự cân đối nguồn thu từ lệ phí để chi phí cho công tác tổ chức tuyển sinh, nếu nguồn thu từ lệ phí không đủ chi thì các trường được sử dụng nguồn kinh phí hiện có của đơn vị để
  • Các trường thực hiện công khai mức thu lệ phí, khi thu các trường sẽ cấp cho người nộp tiền biên lai thu lệ phí theo quy định của Bộ Tài chính, các trường định kỳ nộp số tiền thu lệ phí vào tài khoản tạm giữ “tiền phí, lệ phí” mở tại kho bạc và thực hiện chi tiêu theo quy định.

Thu sự nghiệp khác :

Ngoài hai nguồn thu chính trên, các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM còn thực hiện mở rộng các hoạt động nhằm tăng nguồn thu khác của trường như : Thu từ liên kết đào tạo với các tổ chức trong và ngoài nước, từ hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, các khoản thu sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, thu bán giáo trình, thanh lý tài sản, cho thuê mặt bằng, thu lãi tiền gửi ngân hàng, dịch vụ giữ xe, căntin, nhà ăn …Các nguồn thu sự nghiệp khác này sẽ tạo điều kiện cho các trường mở rộng đầu tư trang thiết bị, nâng cấp cơ sở vật chất và cải thiện thu nhập của cán bộ viên chức trong trường.Các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM xem việc mở rộng tăng cường khai thác nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp là một trong những chiến lược đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tính tự chủ về tài chính và đảm bảo sự bền vững về nguồn tài chính của nhà trường.

Qua số liệu cho thấy tỷ lệ thu sự nghiệp khác trong tổng thu sự nghiệp của các trường chiếm tỷ lệ bình quân khoảng 13%. Nhìn chung nguồn thu sự nghiệp khác của các trường có xu hướng tăng qua các năm, cụ thể Trường Đại học Bách Khoa năm 2007 thu 20.385 triệu đồng đến năm 2009 thu 30.209 triệu đồng tăng 48% so với năm 2007. Trường Đại học Khoa học Tự nhiên năm 2007 thu 4.110 triệu đồng đến năm 2009 thu 4.420 triệu đồng tăng 8% so với năm 2007. Tương tự, Trường Đại học Kiến trúc thu sự nghiệp khác năm 2009 tăng so với năm 2007 là 34% và trường có tỷ lệ tăng cao nhất là trường Đại học Mở TP. HCM năm 2009 tăng so với năm 2007 là 166%. Thực tế cho thấy nguồn thu sự nghiệp khác của trường chủ yếu là thu liên kết đào tạo, cung ứng dịch vụ, thu từ trích nộp của các trung tâm trực thuộc trường, thu lãi tiền gửi ngân hàng, thu lệ phí kiến túc xá, dịch vụ giữ xe, căntin còn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ thì rất hạn chế.

Như vậy, nguồn thu học phí là nguồn thu quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu sự nghiệp của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM. Điều này cho thấy các trường ngày càng phải dựa vào nguồn thu học phí là chủ yếu để đảm bảo nhu cầu chi hoạt động thường xuyên. Tuy nhiên mức thu học phí trong những năm qua vẫn không đổi và gần đây nhà nước có tăng nhưng vẫn chưa theo kịp mức tăng lạm phát điều này gây khó khăn cho các trường ĐHCL đặc biệt các trường tự chủ hoàn toàn về tài chính khi không thể tăng nguồn thu do bị khống chế chỉ tiêu đào tạo và mức trần thu học phí.

2.2.1.3 Các nguồn thu khác ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Đây là nguồn thu từ các khoản tài trợ, viện trợ của các hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, tài trợ học bổng sinh viên, quà biếu tặng, khen thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học và các khoản tín dụng như dự án GDĐH của ngân hàng thế giới được nhà nước ưu tiên dành cho giáo dục. Nguồn thu này do các trường làm việc trực tiếp với các tổ chức trong và ngoài nước, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ …nhận được. Cụ thể qua 3 năm qua Trường Đại học Mở TP. HCM nhận được nguồn tài trợ của các tổ chức nước ngoài như quỹ Ford Foundation tài trợ các dự án như hỗ trợ học bổng sinh viên, tài trợ thực hiện các dự án hỗ trợ người khuyết tật cho khoa Xã Hội học của trường…Hiện nay, nguồn thu này rất hạn chế chiếm tỷ trọng dao động trong khoảng 1%-5% trong tổng nguồn thu.

Như vậy, qua phân tích nguồn lực tài chính của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM cho thấy NSNN cấp chi thường xuyên cho GDĐH có xu hướng giảm xuống nhằm để trao quyền tự chủ tài chính cho các trường do đó các trường ngày càng dựa vào nguồn thu học phí, lệ phí là chủ yếu để đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Tuy nhiên mức thu học phí trong những năm qua không đổi và gần đây có tăng nhưng vẫn còn rất thấp điều này gây khó khăn cho các trường đại học, đặc biệt các trường tự chủ hoàn toàn về tài chính. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM phải thực hiện công tác quản lý hiệu quả các nguồn lực tài chính bao gồm nguồn thu từ NSNN, nguồn thu sự nghiệp và thu khác nhằm đảm bảo nguồn tài chính các trường được duy trì và phát triển theo hướng bền vững.

2.2.2 Thực trạng quản lý sử dụng các nguồn lực tài chính

Việc quản lý sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực tài chính đối với các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM rất quan trọng, với nguồn thu thì hạn hẹp nhưng nhu cầu chi tiêu thì rất lớn. Nguồn thu từ NSNN cấp chi thường xuyên có xu hướng giảm và thu từ phí, lệ phí có tăng nhưng không đáng kể trong khi các khoản chi như tiền lương, bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng, chi nghiệp vụ chuyên môn và các khoản chi phí khác đều tăng đáng kể cho nên việc cân đối thu chi theo đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ là việc rất quan trọng và cần thiết. Đặc biệt đối với các trường ĐHCL tự chủ hoàn toàn tài chính khi mà nguồn thu chủ yếu dựa vào học phí, lệ phí thì việc quản lý sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính là yêu cầu thường xuyên và cấp bách của nhà trường.

Nhìn vào cơ cấu chi của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM ta thấy tổng chi các trường đều tăng qua 3 năm trong đó chi thường xuyên tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi. Các khoản chi khác như chi tài trợ, viện trợ, quà biếu tăng của các tổ chức trong và ngoài nước chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng chi và có trường hầu như không phát sinh.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

2.2.2.1 Quản lý chi thường xuyên

Kinh phí chi các hoạt động thường xuyên của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM bao gồm : Nguồn NSNN cấp chi thường xuyên, nguồn thu học phí, lệ phí và nguồn thu hoạt động sự nghiệp khác của đơn vị.

Chi hoạt động thường xuyên chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng chi của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM. Đối với các trường đại học tự chủ một phần kinh phí hoạt động thì nguồn kinh phí chi thường xuyên chủ yếu từ nguồn NSNN cấp chi thường xuyên và nguồn thu học phí, lệ phí để lại còn đối với các trường đại học tự chủ hoàn toàn thì nguồn kinh phí chủ yếu chi hoạt động thường xuyên từ nguồn thu hoạt động sự nghiệp như học phí, lệ phí của người học.

  • Chi cho con người

Gồm tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể, thu nhập tăng thêm và các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội. Khoản chi này nhằm bù đắp hao phí lao động, đảm bảo quá trình tái sản xuất sức lao động cho giảng viên, cán bộ viên chức của trường. Theo kế hoạch khoản chi trên chiếm khoảng 30%-40% tổng chi của các trường và thực tế mức chi các trường qua các năm thường cao hơn kế hoạch, tuy nhiên vẫn chưa đảm bảo cải thiện được cuộc sống cho cán bộ viên chức. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Khoản chi trên chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi thường xuyên , đối với các trường tự chủ một phần kinh phí hoạt động chi thanh toán cá nhân chiếm tỷ lệ bình quân 45% trong tổng chi thường xuyên, còn các trường tự chủ hoàn toàn thì tỷ lệ này là 42%. Khoản chi thanh toán cá nhân có xu hướng tăng do nhà nước thực hiện điều chỉnh tăng lương và yêu cầu nâng cao thu nhập nhằm cải thiện cuộc sống của cán bộ viên chức. Trong những năm qua các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM cũng đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao thu nhập cho cán bộ viên chức, tuy nhiên do nguồn thu hạn chế các trường đã cố gắng nhưng mới chỉ đảm bảo mức lương tăng thêm theo quy định tăng lương tối thiểu của nhà nước. Như vậy, tiền lương của cán bộ viên chức, đặc biệt là giảng viên các trường hiện vẫn còn rất thấp do đó yêu cầu cấp bách đòi hỏi các trường phải có kế hoạch, chính sách trả lương hợp lý để khuyến khích cán bộ viên chức đặc biệt là giảng viên cơ hữu yên tâm công tác có như thế mới đảm bảo được chất lượng đào tạo.

  • Chi nghiệp vụ chuyên môn

Các khoản chi thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng, thông tin tuyên truyền, liên lạc, chi hội nghị đây là khoản chi thường xuyên, đòi hỏi cần phải quản lý tiết kiệm, hiệu quả. Ngoài ra, các khoản chi mua giáo trình, tài liệu, dụng cụ học tập, vật liệu, hoá chất phục vụ thí nghiệm, thù lao hướng dẫn thực tập, thí nghiệm…tuỳ theo nhu cầu thực tế của các trường. Khoản chi này nhằm đáp ứng các phương tiện phục vụ việc giảng dạy, giúp cho giảng viên truyền đạt kiến thức một cách có hiệu quả. Đây là khoản chi có vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Vì vậy việc tăng chi cho giảng dạy là một trong những điều kiện giúp các trường nâng cao chất lượng đào tạo. Theo kế hoạch khoản chi nghiệp vụ chuyên môn chiếm khoảng 35%-45% trong tổng chi.

Tại các trường chi cho nghiệp vụ chuyên môn chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi thường xuyên và có xu hướng tăng lên. Cụ thể, tỷ lệ chi nghiệp vụ chuyên môn chiếm trong tổng chi thường xuyên của trường Đại học Bách khoa từ 33% năm 2007 tăng lên 35% năm 2009; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên từ 37% năm 2007 tăng nhẹ lên 39% năm 2009; Trường Đại học KHXH và Nhân Văn từ 43% năm 2007 tăng lên 49% năm 2009 và Trường Đại học Mở TP. HCM từ 49% năm 2007 tăng mạnh lên 54% năm 2009.

Chi cho nghiệp vụ chuyên môn tuy có tăng nhưng chưa có những chuyển biến đáng kể. Thực tế kinh phí chi cho giáo trình, tài liệu, dụng cụ học tập, vật liệu, hoá chất phục vụ thí nghiệm và các trang thiết bị phục vụ giảng dạy còn hạn hẹp. Vì vậy, tình trạng chung là học chay, dạy chay vẫn diễn ra dẫn đến chất lượng đào tạo không được cải thiện. Việc chi trả thù lao vượt giờ, chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ…cũng còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với công sức của giảng viên, do đó không tạo động lực để họ dành thời gian nâng cao trình độ và nâng cao chất lượng giảng dạy.

  • Chi mua sắm, sửa chữa

Chi mua sắm, sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định, nâng cấp trường lớp, bàn ghế, trang thiết bị trong lớp học thay thế các trang thiết bị cũ và trang bị thêm các phòng học, phòng thí nghiệm, phòng máy vi tính, thư viện …nhằm đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy và học tập. Theo kế hoạch khoảng chi mua sắm sữa chữa chiếm khoảng 10% trong tổng chi.

Theo số liệu tại bảng 2.7 cho thấy chi mua sắm sửa chữa của các trường chiếm tỷ lệ bình quân 9% trong tổng chi thường xuyên và chi mua sắm sửa chữa có xu hướng giảm trong những năm gần đây do các trường sử dụng quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp để chi cho hoạt động mua sắm nên không quyết toán vào kinh phí chi thường xuyên.

Các khoản chi mua sắm, sữa chữa cơ sở vật chất tuy đã được các trường quan tâm, chú trọng nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự gia tăng về quy mô đào tạo, đặc biệt là hệ đào tạo không chính quy.

  • Chi thường xuyên khác

Các khoản chi hoạt động thường xuyên không hạch toán vào các khoản chi trên được hạch toán vào khoản chi khác, khoản chi thường xuyên khác chiếm tỷ lệ bình quân khoảng 5% trong tổng chi. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Ta thấy quy mô sinh viên bình quân của các trường đại học qua 3 năm đều tăng, trường có chi phí đào tạo bình quân cho một sinh viên cao nhất là Trường Đại học Quốc tế. Đây là trường đại học quốc tế công lập đầu tiên của Việt Nam, là đại học nghiên cứu chất lượng cao với tiêu chuẩn giảng dạy quốc tế, đội ngũ giảng viên giỏi chuyên môn, có cơ sở vật chất hiện đại, đồng bộ phục vụ nghiên cứu và giảng dạy. Sinh viên của trường sau khi tốt nghiệp trở thành những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, ngoại ngữ thành thạo, có khả năng làm việc ở các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Việc nhà nước cho phép trường đại học Quốc tế được thu mức học phí cao khoảng 1500usd/năm học do đó chi phí đào tạo bình quân cho một sinh viên của nhà trường cũng rất cao cụ thể năm 2007 chi phí đào tạo bình quân 30,8 triệu đồng/sinh viên, năm 2008 là 28,1 triệu đồng/sinh viên, năm 2009 là 26,1 triệu đồng/sinh viên, với mức thu học phí khá cao nhà trường có điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo, có khả năng tích lũy để mở rộng phát triển và hướng đến thực hiện mục tiêu sản phẩm đào tạo của nhà trường có khả năng cạnh tranh với khu vực và quốc tế.

Trường Đại học Mở TP. HCM có chi phí đào tạo bình quân cho một sinh viên chính quy khá thấp cụ thể năm 2007, 2008 chi phí đào tạo bình quân 4,2 triệu đồng/sinh viên, năm 2009 là 4,4 triệu đồng/sinh viên nguyên nhân chi phí đào tạo bình quân cho một sinh viên thấp do trường được trao quyền tự chủ hoàn toàn về tài chính vào năm 2007 nên không được nhà nước cấp kinh phí chi hoạt động thường xuyên cùng với việc không được thu học phí cao do nhà nước quy định mức trần thu học phí điều này gây khó khăn rất lớn cho nhà trường trong việc đảm bảo nguồn kinh phí để nâng cao chất lượng đào tạo. Hầu như, hoạt động đào tạo chính quy của nhà trường qua các năm được hỗ trợ về tài chính một phần bởi hoạt động đào tạo không chính quy, cụ thể là hoạt động đào tạo từ xa của trường trong tương lai khi mà nhà nước giảm chỉ tiêu đào tạo từ xa cũng như nhiều trường đại học khác mở rộng hoạt động đào tạo hệ không chính quy thì đây là một khó khăn rất lớn cho nhà trường trong việc duy trì hoạt động cũng như mở rộng phát triển.

Đối với các Trường đã có quá trình phát triển lâu dài như Trường Đại học Bách Khoa, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, và Đại học Kiến trúc TP. HCM quy mô sinh viên bình quân đã ổn định và tăng hàng năm, chi phí đào tạo bình quân cho sinh viên của các trường tương đối ổn định. Tuy nhiên, chi phí đào tạo bình quân cho một sinh viên của các trường vẫn còn khá thấp do đó các trường gập khó khăn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo theo như yêu cầu của xã hội, với mức đầu tư của NSNN và thu học phí của người học khá thấp thì đòi hỏi của xã hội về chất lượng đào tạo ở tầm khu vực và quốc tế là điều khó có thể thực hiện.

Như vậy, với mức chi bình quân cho một sinh viên của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM khá thấp trừ trường Đại học Quốc Tế, câu hỏi đặt ra nhà nước cần quy định mức học phí tối thiểu bao nhiêu để các trường có đủ nguồn tài chính để đảm bảo chất lượng đào tạo.

2.2.2.2 Quản lý chi không thường xuyên ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

  • Chi nghiên cứu khoa học và công nghệ

Nghiên cứu khoa học là hoạt động hết sức quan trọng và là hoạt động không thể thiếu đối với các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học sẽ tạo điều kiện cho các trường khẳng định được thương hiệu và uy tín đối với xã hội.

Thực tế cho thấy khoản chi cho nghiên cứu khoa học ở các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM chưa nhiều, nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học được sử dụng chưa hiệu quả, thậm chí có trường các đề tài nghiên cứu khoa học đến hạn nhưng vẫn chưa hoàn thành xong và một số trường không sử dụng hết kinh phí NSNN phân bổ cho nghiên cứu khoa học.

Tại bảng 2.9 cho thấy chi tiết cơ cấu tỷ lệ chi NSNN cho nghiên cứu khoa học và công nghệ tại các trường. Ta thấy chi nghiên cứu khoa học và công nghệ chiếm tỷ lệ khá thấp trong tổng chi của các trường. Điều này cho thấy hoạt động nghiên cứu khoa học hiện nay ở các trường còn yếu.

Tại bảng 2.10 đánh giá hiệu quả sử dụng NSNN cấp chi cho nghiên cứu khoa học và công nghệ cho thấy hiệu quả sử dụng kinh phí không cao, một số trường vẫn chưa sử dụng hết nguồn kinh phí NSNN cấp cho hoạt động nghiên cứu khoa học.

  • Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia

Đây là khoản chi từ nguồn NSNN cấp nhằm thực hiện chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong từng giai đoạn của nhà nước. Chi chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục đào tạo cho các trường đại học bao gồm các khoản chi : Chi xây dựng chương trình khung, giáo trình giảng dạy cho các môn học dùng chung, chi đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường, chi đào tạo bồi dưỡng giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục, chi tăng cường cơ sở vật chất các trường học… Hiện nay, kinh phí NSNN cấp chi chương trình mục tiêu quốc gia được các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM sử dụng hiệu quả, tuy nhiên nguồn kinh phí NSNN cấp cho các trường còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động của các trường.

Tại bảng 2.11 cho thấy nguồn NSNN cấp chi cho chương trình mục tiêu quốc gia tại các trường rất thấp, thậm chí có trường không được cấp kinh phí cụ thể Trường Đại học Bách khoa và Trường Đại học Quốc tế không được cấp kinh phí NSNN chi cho chương trình mục tiêu trong 3 năm, Đại học Kiến trúc được cấp kinh phí dao động trong khoảng 2%-3% trong tổng chi, còn lại các trường như Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học KHXH & Nhân văn và Trường Đại học Mở TP. HCM thì kinh phí NSNN cấp chi chương trình mục tiêu quốc gia rất thấp và có năm hầu như không cấp kinh phí.

  • Chi không thường xuyên khác

Các khoản chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp thẩm quyền giao và các khoản chi không thường xuyên khác, các khoản chi này rất ít phát sinh nếu có sẽ thực hiện quản lý chi theo đúng quy định của nhà nước.

2.2.2.3 Quản lý chi khác

Các nguồn chi khác như : Tài trợ, viện trợ của các hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, tài trợ học bổng sinh viên, quà biếu tặng và các khoản vay nợ như dự án GDĐH của ngân hàng thế giới…được quản lý chi theo nội dung chi tiết đã thoả thuận với các tổ chức tài trợ. Đối với nguồn tài trợ từ nước ngoài cấp thì các đơn vị được tài trợ sau khi thực hiện xong các nội dung chi theo thoả thuận tài trợ tiến hành lập báo cáo theo quy định của bên tài trợ, đồng thời đưa vào quyết toán theo biểu mẫu báo cáo quyết toán của nhà nước ở nguồn kinh phí tài trợ theo năm tài chính. Các khoản quyết toán chi kinh phí tài trợ của các trường qua 3 năm không đáng kể, chiếm tỷ trọng 1%-2% trong tổng chi NSNN và chi sự nghiệp các trường.

2.2.2.4 Quản lý việc trích lập và sử dụng các quỹ ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Hàng năm, căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính, sau khi trang trải các khoản chi phí, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với NSNN theo quy định (thuế và các khoản phải nộp), số chênh lệch thu lớn hơn chi (thu, chi hoạt động thường xuyên và nhiệm vụ nhà nước đặt hàng) Hiệu trưởng các trường ĐHCL sẽ chủ động quyết định việc trích lập quỹ theo quy chế chi tiêu nội bộ sau khi thống nhất với tổ chức công đoàn của đơn vị. Cụ thể mức trích lập các quỹ của các trường đại học thể hiện qua bảng sau :

Qua số liệu tại bảng 2.12 cho thấy các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đã thực hiện việc trích lập các quỹ theo quy định và việc trích lập các quỹ nhằm để đảm bảo thu nhập cho cán bộ viên chức trong đơn vị cũng như dùng để phát triển hoạt động sự nghiệp. Việc nhà nước trao quyền tự chủ tài chính cho các trường đã khuyến khích các trường chủ động hơn trong việc khai thác nguồn thu và các trường ngày càng chú trọng hơn trong công tác kiểm soát chi tiêu ngày càng chặc chẽ và hiệu quả

  • Quỹ hoạt động sự nghiệp : Dùng để đầu tư, phát triển nâng cao hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, chi áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, trợ giúp thêm đào tạo, góp vốn liên doanh liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để tổ chức hoạt động dịch vụ…Quỹ này được trích lập đầu tiên và mức trích lập tối thiểu 25%. Thực tế cho thấy, đối với các trường tự chủ một phần kinh phí hoạt động do chênh lệch thu chi của một số trường còn thấp nên chưa chú trọng đến trích lập quỹ hoạt động sự nghiệp mà thường trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi để chi cho cán bộ viên chức. Còn đối với các trường đại học tự chủ hoàn toàn kinh phí hoạt động do không được NSNN cấp kinh phí chi thường xuyên nên các trường có xu hướng tăng trích lập quỹ hoạt động sự nghiệp để đảm bảo phát triển hoạt động sự nghiệp của đơn vị. Việc quản lý chi từ quỹ này hết sức chặc chẽ, có tài khoản riêng và được kiểm soát chi thông qua kho bạc nhà nước.
  • Quỹ dự phòng ổn định thu nhập : Quỹ này dùng để đảm bảo thu nhập cho cán bộ viên chức khi nguồn thu bị giảm sút hay khi thực hiện lộ trình tăng lương của chính phủ. Qua bảng số liệu cho thấy các trường chưa chú trọng đến việc trích lập quỹ này do đó trong thời gian tới khi chênh lệch thu chi lớn các trường cần quan tâm đến việc trích lập quỹ để đảm bảo ổn định thu nhập cho cán bộ viên chức.
  • Quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi : Hai quỹ này được các trường quan tâm trích lập và mức trích tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm. Việc quản lý sử dụng hai quỹ trên thực hiện theo quy chế chi tiêu nội bộ và có ý kiến thống nhất công đoàn của đơn vị.

2.2.3 Điều kiện đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động giảng dạy và học tập

Theo quyết định 47/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 của Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001-2010 quy định điều kiện cơ sở vật chất phấn đấu đến năm 2010 các trường phải đạt chỉ tiêu bình quân 6m2/ diện tích chỗ học tập cho 1 sinh viên.

Ta thấy, hầu hết các trường ĐHCL trên địa bàn TP.HCM có cơ sở vật chất như diện tích giảng đường, phòng học, phòng thí nghiệm, thư viện…phục vụ cho việc giảng dạy và học tập thấp hơn nhiều lần so với mức yêu cầu phải đảm bảo của nhà nước, điều này cho thấy khả năng tích lũy của các trường để đầu tư cơ sở vật chất rất hạn chế, hầu như hiện nay nguồn thu từ NSNN cấp và thu học phí, lệ phí từ người học chỉ dùng để chi cho các hoạt động thường xuyên mà chưa có tích lũy để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Do đó, về lâu dài nhà nước nên tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường để các trường có điều kiện tập trung nâng cao chất lượng công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

2.3 Thực trạng sử dụng các công cụ quản lý tài chính tại các trường đại học công lập trên địa bàn TP. HCM

2.3.1 Hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Thực hiện nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính phủ và thông tư hướng dẫn số 71/2006/TT-BTC ngày 09/08/2006 của Bộ Tài chính qui định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đã thực hiện xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, sắp xếp bộ máy, tuyển dụng cán bộ, chi trả thu nhập trong năm cho người lao động và trích lập sử dụng các quỹ (đặc biệt là quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp) để phát triển nhà trường. Cụ thể trong các hoạt động các trường được chủ động thực hiện :

Về thực hiện nhiệm vụ các trường đã thể chế hóa tất các các hoạt động dưới hình thức văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn, quan hệ và lề lối làm việc trong nhà trường.

Về tổ chức bộ máy các trường chủ động thành lập mới, sáp nhập hay giải thể các tổ chức sự nghiệp trực thuộc trường.

Về biên chế các trường tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên tự quyết định số biên chế trong đơn vị. Hiệu trưởng các trường được quyền quyết định ký hợp đồng thuê khoán đối với các công việc không cần thiết bố trí biên chế.

Về tài chính các trường có thể góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để tổ chức hoạt động dịch vụ, được vay vốn của các tổ chức tín dụng cũng như được phép huy động vốn của cán bộ viên chức trong đơn vị để đầu tư mở rộng, nâng cao hoạt động sự nghiệp. Hiệu trưởng các trường được quyền quyết định một số mức chi quản lý và chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan có thẩm quyền quy định, được quyết định khoán chi phí cho từng bộ phận đơn vị trực thuộc. Đặc biệt các trường ĐHCL tự chủ hoàn toàn về tài chính được toàn quyền quyết định mức thu nhập tăng thêm cho cán bộ viên chức trong năm sau khi thực hiện trích lập quỹ theo quy định.

2.3.2 Công tác kế hoạch

Các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM thực hiện lập kế hoạch thu chi tài chính hàng năm nhằm bảo đảm cho các khoản thu chi tài chính của nhà trường được đảm bảo. Căn cứ vào quy mô đào tạo, số lượng học sinh sinh viên, cơ sở vật chất và các hoạt động dịch vụ năm báo cáo các trường dự kiến nguồn thu năm kế hoạch. Dựa vào kế hoạch chi tiêu của các đơn vị trực thuộc trường và số liệu chi cho con người, chi quản lý hành chính, chi nghiệp vụ chuyên môn và chi mua sắm, sửa chữa, xây dựng cơ bản của năm báo cáo các trường dự kiến các khoản chi năm kế hoạch. Hiện nay, các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đã thực hiện xây dựng kế hoạch hàng năm sát với thực tế nhằm đảm bảo hoạt động thường xuyên và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

2.3.3 Qui chế chi tiêu nội bộ ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Hiện nay, các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đều đã thực hiện xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ để huy động nguồn thu và kiểm soát chi tiêu sao cho hiệu quả. Nội dung của quy chế quy định định mức, tiêu chuẩn các khoản chi về tiền lương, phụ cấp cho người lao động, định mức chi cho công tác quản lý, chi nghiệp vụ chuyên môn, chi mua sắm sửa chữa và trích lập các quỹ. Các trường ĐHCL tự chủ tài chính trên địa bàn TP. HCM đã thực hiện xây dựng định mức chi tiêu cao hơn hoặc thấp hơn qui định của nhà nước ở một số nội dung chi về quản lý và chuyên môn, xây dựng qui định về phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận và đơn vị trực thuộc, qui định về góp vốn liên doanh liên kết, vay vốn của các tổ chức tín dụng để đầu tư mở rộng nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp. Ngoài ra, các trường đã xây dựng rất nhiều nội dung chi tiêu cụ thể khác trong quy chế chi tiêu nội bộ theo quy định hiện hành của nhà nước. Tuy nhiên, một số trường vẫn còn chậm trễ và gập khó khăn trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, một số trường xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ rất chi tiết nhưng một số nội dung chi và mức chi không phù hợp. Ngoài ra, quy chế chi tiêu nội bộ ở một số trường chưa phân cấp quản lý tài chính cho các đơn vị trực thuộc chính điều này hạn chế tính chủ động sáng tạo của các đơn vị trực thuộc trong việc huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách để tăng nguồn thu.

2.3.4 Công cụ hạch toán, kế toán, kiểm toán

Công tác hạch toán kế toán trong các trường ĐHCL trước đây được thực hiện theo chế độ kế toán hành chính sự nghiệp ban hành kèm theo quyết định 999/TC/QĐ/CĐKT ngày 2 tháng 11 năm 1996 của Bộ tài chính. Bắt đầu từ năm 2006 công tác hạch toán kế toán được thực hiện theo Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC về việc ban hành Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp thay thế Quyết định 999/TC/QĐ/CĐKT.

Hiện nay việc thực hiện công tác kiểm toán nội bộ tại các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đã từng bước đi vào nề nếp, ổn định và bước đầu đã tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các trường. Lãnh đạo các trường đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiểm toán nội bộ nên đã tổ chức triển khai hoạt động kiểm toán nội bộ tại đơn vị. Tại các trường đã thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện kiểm toán định kỳ hàng năm. Việc kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo các hoạt động thu chi của trường thực hiện theo đúng chế độ tài chính của nhà nước, hạn chế rủi ro thất thoát tài sản và nhằm làm lành mạnh hoá hoạt động tài chính của nhà trường. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong thời gian qua hoạt động kiểm toán nội bộ cũng tồn tại một số hạn chế như một số trường còn xem nhẹ công tác kiểm toán nội bộ, có trường hầu như không tổ chức công tác kiểm toán nội bộ, hầu hết cán bộ làm công tác kiểm toán nội bộ đều là giảng viên hay cán bộ quản lý làm công tác kiêm nhiệm nên không có chuyên môn, nghiệp vụ dẫn đến công tác kiểm toán chỉ mang nặng về hình thức.

2.3.5 Kiểm tra, thanh tra

Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra tại các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM được thực hiện thường xuyên và đột xuất cụ thể như sau :

  • Kiểm tra, thanh tra thường xuyên :

Tại các trường ĐHCL đều có thành lập ban thanh tra nhân dân có nhiệm vụ thanh tra kiểm tra tất cả các mảng hoạt động của nhà trường trong đó có thanh tra kiểm tra nội bộ định kỳ về tài chính.

Hàng ngày, kho bạc nhà nước là nơi kiểm soát tất cả các hoạt động thu chi tài chính có nguồn gốc NSNN của các trường thông qua quy chế chi tiêu nội bộ của các trường.

Định kỳ hàng năm các bộ, ngành và đại học Quốc gia TP. HCM trực tiếp kiểm tra và thẩm định phê duyệt quyết toán hàng năm cho các trường. Đặc biệt, nhà nước đã quy định thực hiện công khai tài chính, công khai phân bổ và sử dụng NSNN hàng năm theo quyết định 192/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng. Điều này không chỉ giúp các trường tự kiểm tra, thanh tra mà còn thực hiện tốt quy chế công khai dân chủ trong trường học, giúp cho người học kiểm tra và đánh giá về hoạt động thu chi tài chính của nhà trường.

Kiểm tra, thanh tra đột xuất : Ngoài các hoạt động kiểm tra, thanh tra thường xuyên được thực hiện như trên, công tác kiểm tra, thanh tra đối với quản lý tài chính các trường còn có các đoàn thanh tra đột xuất như : Kiểm toán Nhà nước, thanh tra Bộ Tài chính và thanh tra của các đơn vị quản lý trực tiếp. Cụ thể, các trường thành viên Đại học Quốc gia TP. HCM năm 2003 có đoàn kiểm toán Nhà nước, 2005 có đoàn thanh tra Bộ Tài chính, năm 2006, 2007, 2009 có đoàn kiểm toán Nhà nước; Đại học Kiến trúc năm 2009 có đoàn kiểm toán Nhà nước; Đại học Mở TP. HCM năm 2007 có đoàn kiểm toán Nhà nước, năm 2009 có đoàn thanh tra Bộ Giáo dục.

Nhìn chung công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động tài chính của các trường được nhà nước quan tâm và thực hiện thường xuyên nhằm hướng các hoạt động tài chính của nhà trường thực hiện theo quy định và làm lành mạnh hoá hoạt động tài chính của các trường.

2.3.6 Tổ chức bộ máy quản lý tài chính ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Hiện nay các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM thực hiện tổ chức bộ máy quản lý tài chính theo hướng gọn nhẹ và hoạt động hiệu quả. Các trường thực hiện ban hành hướng dẫn về quy trình, thủ tục, thời hạn thanh toán cho cán bộ viên chức trong đơn vị thực hiện và thường xuyên điều chỉnh quy chế chi tiêu nội bộ khi có sự thay đổi về chính sách cũng như khi định mức chế độ chi tiêu không còn phù hợp.

Các trường thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ làm công tác quản lý tài chính không những giỏi về chuyên môn mà còn thành thạo về tin học để khai thác có hiệu quả hệ thống máy móc thiết bị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính. Tại các trường đại học đã tiến hành đầu tư nâng cấp hệ thống máy tính cho bộ máy kế toán và đầu tư xây dựng phần mềm kế toán áp dụng thống nhất trong toàn trường.

2.4 Đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại các trường đại học công lập trên địa bàn TP. HCM

2.4.1 Những kết quả đạt được

2.4.1.1 Nguồn thu của các trường có xu hướng tăng lên

Các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đã thực hiện quản lý tài chính đạt hiệu quả cao đối với nguồn thu từ NSNN cấp và nguồn thu sự nghiệp. Việc quản lý hiệu quả nguồn lực tài chính góp phần tích cực trong việc đảm bảo hoạt động cho các đơn vị. Qua phân tích thực trạng nguồn lực tài chính tại các trường cho thấy nguồn thu qua các năm có xu hướng tăng lên, đặc biệt nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp. Chính sách trao quyền tự chủ đã giúp cho các trường đại học chủ động và tích cực trong việc khai thác nguồn thu nhất là mở rộng các loại hình đào tạo không chính quy, liên kết đào tạo, mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ nên kết quả thu năm sau tăng cao hơn năm trước, nguồn thu sự nghiệp không ngừng tăng lên điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các trường trong việc đảm bảo nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng.

2.4.1.2 Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm

Trong thời gian qua, công tác quản lý tài chính của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện tăng thu và tiết kiệm chi tiêu khi nhà nước thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính phủ. Việc trao quyền tự chủ giúp các trường đại học từng bước mở rộng hoạt động, chủ động khai thác nguồn lực tài chính đặc biệt là nguồn tài chính ngoài NSNN để chi cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu và nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động nội bộ của các trường.

2.4.1.3 Góp phần đa dạng hoá lĩnh vực đào tạo và nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đã sử dụng các nguồn lực sẵn có của đơn vị như điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ thầy cô giáo, trang thiết bị phương tiện hiện có để thực hiện mở rộng, đa dạng hoá loại hình đào tạo, tổ chức nhiều hình thức đào tạo chính quy, vừa làm vừa học, đào tạo từ xa…Nhiều trường thực hiện liên kết đào tạo với nước ngoài, mời chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy. Nhờ đó chất lượng đào tạo được nâng lên và quy mô sinh viên đại học, cao đẳng, học viên sau đại học của các trường cũng không ngừng tăng lên.

Các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đã tham gia và hoàn thành nhiều đề tài nghiên cứu khoa học từ cấp Nhà nước, cấp Bộ, đến cấp thành phố góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố cũng như cả nước. Các chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu đã cung cấp cho các nhà quản lý nhiều luận cứ khoa học về chính sách phát triển kinh tế xã hội, phát triển khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp….

2.4.1.4 Từng bước cải thiện cơ sở vật chất và nâng cao thu nhập của cán bộ viên chức

Qua phân tích thực trạng sử dụng nguồn lực tài chính tại các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM cho thấy, việc các trường sử dụng nguồn tài chính ngày càng hợp lý hơn theo hướng tăng tỷ trọng chi cho công tác chuyên môn giảng dạy và học tập cũng như tăng cường đầu tư cho mua sắm sửa chữa trang thiết bị phục vụ đào tạo, nhờ đó từng bước cải thiện cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và học tập ngày càng tăng.

Thực hiện quản lý tài chính hiệu quả ngoài việc đảm bảo tiền lương cơ bản theo cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định các trường còn từng bước nâng cao thu nhập cho cán bộ viên chức thông qua việc chi trả thu nhập tăng thêm từ chênh lệch thu chi tài chính hàng năm, việc chi trả thu nhập cho cán bộ viên chức trong trường thực hiện theo nguyên tắc đơn vị, cá nhân có thành tích cao, đóng góp nhiều cho việc tăng thu tiết kiệm chi thì được chi trả thu nhập tăng thêm cao hơn. Cụ thể, khi thực hiện tự chủ tài chính mức thu nhập của cán bộ viên chức các trường đều tăng lên. Trường Đại học Mở TP. HCM năm 2009 thu nhập bình quân của giảng viên khoảng 8.500.000đ người/tháng, thu nhập bình quân của cán bộ quản lý 9.300.000đ/tháng, thu nhập bình quân của nhân viên 5.200.000đ người/tháng. Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn như sau thu nhập bình quân của cán bộ quản lý và nhân viên 5.200.000đ người/tháng, mức thu nhập bình quân của giảng viên 6.200.000đ/tháng. Trường Đại học Quốc Tế năm 2009 thu nhập bình quân của giảng viên 17.000.000đ người/tháng, thu nhập bình quân của cán bộ quản lý 8.700.000đ người/tháng, thu nhập bình quân của nhân viên 3.700.000đ người/tháng.( Theo thông báo công khai thu chi tài chính của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM năm 2009)

2.4.1.5 Tổ chức bộ máy, biên chế theo hướng gọn nhẹ và hoạt động hiệu quả

Các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM đã thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, biên chế và thực hiện hợp đồng lao động theo hướng tinh gọn và hiệu quả. Các trường thực hiện xây dựng chức năng nhiệm vụ từng phòng ban, chủ động thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính cho từng phòng ban. Thực hiện ký kết hợp đồng lao động phù hợp với khối lượng công việc và khả năng nguồn tài chính nhằm giảm số lượng biên chế và nâng cao hiệu quả công việc.

2.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

2.4.2.1 Hạn chế

– Nguồn thu các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM còn thấp, chưa đa dạng và nhỏ về quy mô. Qua phân tích thực trạng về các nguồn lực tài chính của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM cho thấy, nguồn thu của các trường có tăng lên nhưng vẫn còn thấp, chưa đa dạng chủ yếu thu từ NSNN cấp và thu sự nghiệp (học phí và lệ phí) các khoản thu khác từ nghiên cứu khoa học, hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ và hỗ trợ, tài trợ của doanh nghiệp, đóng góp của nhà hảo tâm là rất thấp. Thực hiện chính sách tự chủ tài chính với việc nhà nước sẽ từng bước trao quyền tự chủ từng phần tiến tới trao quyền tự chủ hoàn toàn về tài chính cho các trường điều này đồng nghĩa với việc nhà nước sẽ giảm NSNN cấp chi thường xuyên cho các trường để các trường tự tìm nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên việc này gây nên khó khăn cho các trường trong việc đảm bảo nguồn tài chính để duy trì hoạt động và phát triển đào tạo. Việc ban hành nghị định 49/2010/NĐ-CP quy định miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân mặc dù học phí có tăng nhưng tỷ lệ lạm phát cùng với lương tối thiểu đã tăng nhiều lần mà học phí không tăng tương ứng còn bị không chế bởi mức trần do đó gây khó khăn cho các trường trong việc chi cho hoạt động thường xuyên và nâng cao chất lượng đào tạo. Đặc biệt không công bằng đối với các trường tự chủ hoàn toàn về tài chính khi mà nguồn thu chủ yếu của trường từ học phí, lệ phí từ người học thì việc quy định mức trần học phí của nhà nước gây khó khăn rất lớn cho các trường trong việc đảm bảo duy trì hoạt động và các trường tự chủ hoàn toàn khó lòng phát triển đào tạo cũng như cạnh tranh về chất lượng với các trường đại học trong và ngoài nước trong điều kiện bị khống chế bởi mức trần thu học phí.

Thu nhập của cán bộ viên chức các trường còn thấp và chưa ổn định

Qua phân tích thực trạng cho thấy, mặc dù các trường đã có nhiều cố gắng trong việc cải thiện thu nhập của cán bộ viên chức nhưng thực tế chế độ tiền lương cho cán bộ viên chức đa số các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM nhìn chung vẫn còn thấp và còn nhiều bất cập đặc biệt đối với giảng viên làm công tác giảng dạy. Đội ngũ giảng viên là người được đào tạo nhiều nhất trong xã hội, phải tham gia giảng dạy với khối lượng giờ giảng lớn nhưng thu nhập họ nhận được tương đối thấp so với thu nhập của cán bộ có cùng trình độ làm việc trong khu vực doanh nghiệp hay khu vực có liên doanh với nước ngoài. Chính điều này làm chảy máu chất xám từ các trường đại học sang các khu vực kinh tế có thu nhập cao hơn. Hiện nay, ở các trường đại học hiện tượng sinh viên tốt nghiệp loại khá giỏi nhưng không muốn ở lại trường tham gia công tác giảng dạy do thu nhập thấp điều này gây ra khó khăn cho các trường trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học của trường cho tương lai.

Chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học còn ở mức thấp và hiệu quả chưa cao

Qua phân tích thực trạng cho thấy chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM chiếm tỷ lệ thấp. Do hạn chế nguồn kinh phí nên hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học hiện nay chưa được đẩy mạnh. Mặc khác, nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học được sử dụng chưa hiệu quả, một số đề tài nghiên cứu khoa học đến hạn vẫn chưa hoàn thành xong.

Công tác quản lý tài sản chưa hiệu quả, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên chưa đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu.

Trong thời gian qua, một số trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM chưa tận dụng tốt lợi thế về đội ngũ giảng viên, tài sản và cơ sở vật chất hiện có để khai thác tăng nguồn thu. Công tác quản lý tài sản cố định ở một số trường chưa được thực hiện tốt chỉ mới dừng lại ở việc theo dõi và lập báo cáo, việc thực hiện kiểm kê thực tế hàng năm chỉ mang tính hình thức và chưa theo dõi tài sản cố định ở các bộ phận đang sử dụng. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo của các trường đã được cải thiện nhưng thực tế vẫn chưa đảm bảo cho các trường đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu. Phân tích thực trạng cho thấy, các trường có tỷ lệ diện tích bình quân về giảng đường, phòng học, phòng thí nghiệm tính trên đầu sinh viên thấp hơn nhiều so với quy định của nhà nước. Đa số các trường đều phải thuê cơ sở học tập. Những năm gần đây, nhà nước đã quan tâm đầu tư cho giáo dục đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang thiết bị,…cho các trường đại học. Nhiều trường nhận được nguồn đầu tư từ các dự án do nước ngoài tài trợ do đó các trường được trang bị thêm cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, phòng học ngoại ngữ, hệ thống máy vi tính…Tuy nhiên, do nhu cầu học tập của xã hội ngày càng gia tăng và nguồn thu các trường còn hạn chế do đó tình trạng thiếu giảng đường, phòng học cho sinh viên, thiếu phòng làm việc của giáo viên, thiếu giáo trình, tài liệu, thiếu phương tiện học tập vẫn thường diễn ra điều này ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo trong nhà trường.

Hầu hết các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM có số lượng sinh viên trên 1 giảng viên với tỷ lệ cao, như vậy bình quân một giảng viên phải tham gia giảng dạy và hướng dẫn học tập cho rất nhiều sinh viên điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Ngoài ra, khi quy mô đào tạo không ngừng tăng lên trong khi số lượng giảng viên thì hạn chế cho nên khối lượng giờ lên lớp tăng lên gấp nhiều lần điều này làm cho giảng viên bị quá tải không có thời gian cập nhật kiến thức mới hay nghiên cứu khoa học do đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo.

Bộ máy quản lý tài chính chậm cải tiến và hoạt động kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên, hiệu quả thấp

Hiện nay, hệ thống hạch toán kế toán của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM trên cơ sở thực thu thực chi, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của nguồn kinh phí học phí được hạch toán vào sổ sách kế toán theo thời điểm thu học phí hay chi trả, những khoản học phí do sinh viên còn nợ và thù lao giảng dạy của giảng viên chưa trả trong học kỳ đã thu tiền thì không được phản ánh, việc mua sắm tài sản cố định, sửa chữa cải tạo cơ sở vật chất để sử dụng trong nhiều kỳ nhưng phải hạch toán vào thời điểm mua sắm hay thanh toán tiền cải tạo. Từ đó dẫn đến đánh giá kết quả hoạt động theo báo cáo sự nghiệp của các trường không chính xác để đưa ra quyết định điều hành kịp thời phù hợp với thực tế.

Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ quản lý tài chính kế toán còn chưa đáp ứng được xu hướng mới về quản lý tài chính theo hướng xã hội hóa giáo dục và tự chủ tài chính. Do hạn chế về năng lực, trình độ của cán bộ làm công tác quản lý tài chính nên việc cải tiến công tác quản lý trong lĩnh vực tài chính kế toán thực hiện chậm và việc tin học hóa các hoạt động quản lý tài chính trong trường chưa phát huy hiệu quả.

Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ các trường chưa được tiến hành thường xuyên, các thành viên làm công tác kiểm tra, kiểm toán thường là cán bộ quản lý và giảng viên làm công tác kiêm nhiệm nên hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ do đó việc kiểm tra quá trình thu chi, phân phối chênh lệch hàng năm cũng như quản lý tài sản các trường chủ yếu mang nặng tính hình thức và hiệu quả thấp.

2.4.2.2 Nguyên nhân hạn chế ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Quyền tự chủ của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM còn hạn chế

Hiện nay, các trường được trao quyền tự chủ rất lớn về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính tuy nhiên quyền tự chủ về chuyên môn của các trường vẫn còn hạn chế. Cụ thể, về hoạt động đào tạo các trường đại học được tự chủ trong xác định các ngành, chuyên ngành đào tạo, hình thức tổ chức đào tạo, phương pháp giảng dạy, xử lý vấn đề lưu ban, thôi học, vấn đề khen thưởng, kỷ luật… nhưng các trường chưa được tự chủ về quy mô tuyển sinh, số lần tuyển sinh trong năm, quản lý phôi bằng và cấp bằng; Về tài chính các trường được tự chủ về mức chi, có thể xây dựng định mức chi tiêu cao hơn hoạt thấp hơn định mức chi do nhà nước quy định nhưng chưa được tự chủ về nguồn thu, mức thu như việc xác định mức học phí, học phí các trường thấp và bị khống chế bởi mức trần đây là yếu tố gây khó khăn cho các trường trong việc đảm bảo nhu cầu chi tiêu và nâng cao chất lượng đào tạo.

Mức đầu tư tài chính toàn xã hội cho giáo dục đào tạo còn thấp

Những năm gần đây, sự phát triển kinh tế xã hội đã làm tăng mức GDP bình quân đầu người. Thêm vào đó, giá cả sinh hoạt cũng như xăng, dầu, điện nước đều tăng lên nhưng khung học phí vẫn giữ cố định trong thời gian dài và gần đây có thay đổi theo hướng tăng lên nhưng mức tăng vẫn rất thấp, điều này làm cho việc đảm bảo chi thường xuyên của các trường gập khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động của nhà trường.

Qua phân tích thực trạng cho thấy, mức đầu tư kinh phí để đào tạo cho một sinh viên của các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM khá thấp. Nhìn chung, mức đầu tư kinh phí để đào tạo một sinh viên ở nước ta hiện nay còn rất thấp. Mức đầu tư kinh phí cho đào tạo được tính từ hai nguồn. Một là từ kinh phí NSNN cấp chi thường xuyên để đào tạo, hai là từ nguồn thu học phí, lệ phí từ người học. Mức chi NSNN hỗ trợ bình quân cho 1 học sinh, sinh viên các trường trực thuộc Bộ GD & ĐT năm 2010 như sau :

Cùng với mức hỗ trợ từ NSNN cấp và mức thu học phí chính quy theo quy định thì chi phí đào tạo bình quân năm 2010 cho 1 HSSV vẫn còn rất thấp (Theo báo cáo kế hoạch ngân sách năm 2011 của Vụ Kế hoạch Tài chính -Bộ GD & ĐT):

  • Đào tạo tiến sỹ : khoảng từ 7,09-7,59 triệu đồng/học viên/năm
  • Đào tạo thạc sỹ : khoảng từ 5,57-5,87 triệu đồng/học viên/năm
  • Đào tạo đại học : khoảng từ 5,07-5,27 triệu đồng/học viên/năm
  • Đào tạo cao đẳng : khoảng từ 4,60-4,76 triệu đồng/học viên/năm
  • Đào tạo TCCN : khoảng từ 2,73-2,87 triệu đồng/học viên/năm

Với mức đầu tư tài chính toàn xã hội cho giáo dục đào tạo khá thấp dẫn đến hệ quả : Thứ nhất, xuất hiện phong trào du học tự túc sang các trường đại học tại nước ngoài, hiện có trên 50.000 sinh viên du học tự túc và chi phí xã hội hàng năm có thể lên đến hơn 800 triệu USD (Phạm phụ 2010). Thứ hai, Đại học Việt Nam bị đối xử bất bình đẳng, nghĩa là thị trường dịch vụ đào tạo với chi phí cao dành ưu tiên cho các trường đại học nước ngoài tại Việt Nam. Thứ ba, có hiện tượng chảy máu chất xám, đó là các thầy cô giáo ở ĐHCL chuyển sang các trường đại học nước ngoài tại Việt Nam hay khu vực kinh tế có thu nhập cao hơn. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Như vậy, với mức chi phí đào tạo bình quân cho một sinh viên khá thấp như hiện nay thì yêu cầu xã hội về nâng cao chất lượng đào tạo gập nhiều khó khăn, để hướng tới chất lượng sản phẩm đào tạo có tầm khu vực và quốc tế thì chi phí đào tạo bình quân của 1 sinh viên cũng phải đạt mức khu vực và quốc tế.

Hệ thống các văn bản pháp lý về quản lý tài chính bất cập, thiếu đồng bộ

Hiện nay, mặc dù đã có văn bản hướng dẫn quản lý tài chính chung đối với các đơn vị sự nghiệp có thu nhưng chưa có văn bản cụ thể hướng dẫn về quản lý tài chính riêng đối với các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, đặc biệt các văn bản tài chính về hoạt động của các chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài, cơ chế hoạt động của các trung tâm trực thuộc, nhiều văn bản quy định trong ngành giáo dục đào tạo đã nhiều năm nhưng chưa được sửa đổi như quy định về giờ giảng nghĩa vụ. Việc phân công, phân cấp và cơ chế phối hợp giữa ngành chủ quản và các ngành, các cấp chưa thể chế hóa một cách cụ thể.

Bộ máy quản lý tại các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM còn cồng kềnh và hoạt động không hiệu quả

Bộ máy quản lý trong các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM hiện nay vẫn khá cồng kềnh và nhiều bộ phận, đơn vị trực thuộc hoạt động không hiệu quả. Nhiều trường chưa định biên được số lượng biên chế của từng phòng ban nên có hiện tượng một số phòng ban thiếu biên chế trong khi một số phòng ban khác lại thừa nên dẫn đến tình trạng một số bộ phận công việc làm không hết trong khi một số đơn vị khác không có việc làm. Hoạt động ở một số bộ phận, đơn vị giúp việc chưa đáp ứng kịp thời theo yêu cầu của Ban Giám hiệu và hiệu quả làm việc còn hạn chế. Một số quy định về thủ tục hành chính còn nặng nề và phức tạp chậm thay đổi gây khó khăn cho người học cũng như cho công tác quản lý.

Kết luận chương 2

Từ các số liệu phân tích trong Chương 2 cho thấy thực trạng công tác quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính tại các trường ĐHCL tự chủ tài chính trên địa bàn TP. HCM, từ đó đánh giá những mặt thuận lợi, khó khăn, hạn chế trong quản lý tài chính tại các đơn vị. Qua phân tích thực trạng tại chương 2 cũng chỉ ra những khó khăn, bất cập của các trường tự chủ tài chính một phần và các trường tự chủ toàn bộ về tài chính hiện nay. Tuy vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng nhìn chung công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL trên địa bàn TP. HCM được quản lý chặc chẽ, hiệu quả đảm bảo thực hiện theo qui định của nhà nước. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học )

Mời bạn tham khảo thêm:

Luận văn: Giải pháp nâng cao quản lý tài chính tại Trường Đại học

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Trường Đại học […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993