Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu ở doanh nghiệp

Rate this post

Đề tài Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp cho các bạn đọc giả hiểu thêm về vấn đề làm thế nào để vừa mở rộng hoạt động kinh doanh XNK của các doanh nghiệp Việt Nam, vừa đảm bảo an toàn, hiệu quả, ít rủi ro, đáp ứng tốt nhất nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Thông qua Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu ở doanh nghiệp góp phần xứng đáng trong công cuộc đổi mới của đất nước, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nào, mời các bạn cùng tham khảo ngay nhé!

Nội dung chính

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

Theo dự báo của các nhà phân tích kinh tế, thế kỷ 21 là một kỷ nguyên giao lưu và phát triển kinh tế vững mạnh của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Việt Nam cũng như tất cả các nước trong khu vực đang cùng đứng trước những cơ hội, những thách thức lớn, cùng nỗ lực cố gắng hoà mình vào xu hướng phát triển chung của khu vực và của kinh tế quốc tế.

Thành tựu nổi bật nhất là tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong nhiều năm liên tục (đứng thứ hai châu Á). Trong vòng 10 năm từ 1991 đến 2000, GDP của Việt Nam đã tăng gấp đôi, với tỷ lệ tăng bình quân hàng năm là 7,5%. Từ năm 2001 đến nay, GDP tăng trưởng trung bình trên 7%/năm 15 .

Môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng thông thoáng. Đặc biệt, kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành 4 năm trước đây, đã có hơn 75 nghìn doanh nghiệp tư nhân ra đời, đóng góp khoảng 10 tỷ USD, chiếm 27% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội, giải quyết việc làm cho gần 6 triệu lao động. Nhà nước đặc biệt quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội, dành hơn 1/3 tổng vốn đầu tư của toàn xã hội cho các nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục – đào tạo, khoa học-công nghệ, y tế, văn hoá …

Chính sách đối ngoại của Việt Nam “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước” đã đem lại những kết quả rất tích cực. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 168 nước trên thế giới và quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ.

Thành công về kinh tế của Việt Nam trong những năm qua là kết quả của một loạt chương trình điều chỉnh và cải cách theo chiều rộng là chính, dựa trên sức mạnh nội lực. Như ông trưởng đại diện UNDP tại Việt Nam, ông Jordan Ryan, với tư cách là một trong những nhà điều phối viện trợ quốc tế lớn cho Việt Nam, cho rằng, những thành tựu phát triển những năm qua là của chính Việt Nam, nhờ những chính sách ổn định vĩ mô, những chủ trương cải cách kinh tế phù hợp. Hay như ý kiến của các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: “Cơ cấu tăng trưởng kinh tế của Việt nam đang thay đổi với sự gia tăng mạnh mẽ của khu vực dịch vụ. Việt nam đang thực hiện tốt công việc của mình, nền kinh tế đang đi đúng hướng”.

Như vậy có thể khẳng định nền kinh tế Việt Nam đang rất khởi sắc, tạo một môi trường ổn định, đồng bộ và thuận lợi cho hoạt động XNK.

Vấn đề đặt ra là trong bối cảnh thuận lợi như vậy, hoạt động kinh doanh XNK của các DNVN đã phát triển như thế nào, có khẳng định được vị thế trong thương mại quốc tế hay không?

2.1 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Thị trường XNK được mở rộng. Đến nay, Việt Nam đã có mối quan hệ thương mại thực tế với hơn 100 nước trên thế giới. Theo số liệu của Bộ Thương mại, đến cuối năm 2005 đã có 35.717 doanh nghiệp hoạt động XK, NK trực tiếp 17 . Hoạt động kinh doanh XNK ngày càng phát triển, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ngày càng cao và góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế

2.1.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam

Trong những năm gần đây, hoạt động NK đã thay đổi với chiều hướng tích cực: “từ xuất một, nhập hai,   nhập ba”, khoảng cách giữa xuất – nhập ngày càng thu hẹp. Tổng kim ngạch nhập siêu bình quân trong thập niên 90 của thế kỷ XX ở mức trên 60% thì trong 5 năm vừa qua chỉ còn dưới 30%. Đồng thời, kim ngạch nhập khẩu từ hơn 1,8 tỷ USD/năm 1986 lên 37 tỷ USD/năm 2005, tăng 17 lần. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 1991-2000 đạt trung bình khoảng 29% năm 15 . Cơ cấu mặt hàng NK sự chuyển biến tích cực, tăng tỷ trọng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất, giảm dần tỷ trọng hàng tiêu dùng.

Tuy nhiên, có thể nói tăng trưởng thực chất của NK là không nhiều, do bị chi phối bởi yếu tố giá cả. Chẳng hạn, tính chung cho cả năm 2005, giá cả tăng làm cho kim ngạch NK chung tăng trên 1,1 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2004 28 . Hơn nữa, theo số liệu thống kê 10 năm qua, nếu như tỷ lệ NK hàng hoá so với GDP năm 1996 là 45,22% và giảm mạnh trong thời gian khủng hoảng kinh tế khu vực, thì đến năm 2005, tỷ lệ này lại tăng đột ngột lên đến 69,50%  28   Rõ ràng, khi nền kinh tế Việt nam càng mở cửa, việc “nhập khẩu sốt nóng giá cả thế giới” vào thị trường trong nước” cũng lớn tương ứng. Nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn (năm 1996 chiếm 59,99%; năm 2004 chiếm khoảng 68%) mà đây lại chính là những mặt hàng giá cả thế giới sốt nóng mạnh nhất trong hai năm qua. Trong tổng kim ngạch NK xấp xỉ 37 tỷ USD trong năm 2005 vừa qua, với ước khoảng 25,1 tỷ USD nguyên, nhiên, vật liệu, nếu quy về giá năm 1995 thì khoảng 13,3 tỷ USD, tức là đã có khoảng 186 nghìn tỷ đồng lạm phát được NK vào thị trường trong nước so với năm 1995 15

Một vấn đề nữa cũng đáng chú ý, đó là thuế NK cao, một trong những yếu tố làm “khuyếch đại” việc gia tăng giá trị NK. Tuy nhiên, đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, thuế đánh vào hàng NK phục vụ các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước vẫn là một khoản thu lớn của NSN

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

2.1.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam

Việc Việt Nam mở rộng quan hệ ngoại thương với các nước trong khu vực và trên thế giới là cơ sở cho hoạt động XK phát triển, cán cân thanh toán từng bước được cải thiện, nguồn thu NSNN được tăng thêm, góp phần xây dựng xã hội ổn định và bền vững.

Kim ngạch XK không ngừng tăng và trang trải được phần lớn nhu cầu NK nguyên liệu, hàng tiêu dùng. Bình quân kim ngạch XK tăng trên 20% từ năm 1991-2004, tổng kim ngạch XK từ chỗ xấp xỉ 1 tỷ USD năm 1991 lên đến 26 tỷ USD năm 2004, đặc biệt năm 2005 là 32 tỷ USD, tăng   40 lần so với năm 1986, đưa tổng kim ngạch XK 5 năm (2001-2005) lên 111 tỷ USD, chiếm 64,5% tổng kim ngạch XK của 20 năm (1986-2005) cộng lại 15 .

Cơ cấu XK cũng có những chuyển dịch quan trọng. Nhiều ngành sản xuất tạo ra những mặt hàng chủ lực, có khối lượng XK lớn như: dầu thô, gạo, cà phê, hải sản, may mặc, giày da…. Nếu như năm 1986, Việt nam không có mặt hàng nào có kim ngạch XK trên 100 triệu USD, thì đến nay, đã có 18 mặt hàng XK có kim ngạch trên 100 triệu USD, trong đó có 7 mặt hàng (dầu thô, may mặc, giày dép, thuỷ sản, đồ gỗ, hàng điện tử máy tính, gạo) đạt kim ngạch XK trên 1 tỷ USD. Nhập siêu từ chỗ chiếm 176,3% kim ngạch XK trong 5 năm (1986-1990), đã giảm xuống còn 18.7 – 18.8% trong 10 năm (1996-2005) 15 .

Lãnh đạo Bộ Thương Mại đã khẳng định, thành tích XK cao là kết quả của những chính sách phát triển kinh tế, phát triển thị trường và những nỗ lực không ngừng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua. Cụ thể là:

Thứ nhất, về nhân tố chủ quan,

  •   Quan hệ quốc tế mở rộng, các cam kết quốc tế được triển khai tốt, nhiều hiệp định song phương và đa phương được ký kết.
  •   Việc cải thiện môi trường SXKD đã huy động được nguồn lực phát triển trong dân cho phát triển kinh tế xã hội.
  •   Sự năng động, sáng tạo của các ngành, các cấp, nhất là khu vực DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)- nơi chiếm trên 60% tổng kim ngạch XK cả nước.

Thứ hai, về nhân tố khách quan,

Sự thuận lợi về giá cả trên thị trường nước ngoài cũng tác động rất lớn đến việc tăng kim ngạch XK. Chẳng hạn, so với cùng thời điểm cuối năm 2004, giá hàng hoá XK đã tăng 11,3%. Mặc dù so với cùng kỳ, năm 2005, tổng số lượng dầu thô XK giảm 7,6% nhưng kim ngạch XK dầu thô vẫn tăng 30% so với mức ước đạt 6,77 tỷ USD trong 11 tháng 2005. XK thuỷ sản cũng về đích trước thời hạn với 2,5 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2004. XK gạo cũng rất ấn tượng, đạt kỷ lục cả về lượng XK, giá và kim ngạch. Ngoài ra, còn có một số mặt hàng khác như than đá tăng 29,5% về giá… 28 .

Ngoài ra, sự tăng trưởng của XK còn phải nói đến chính sách đa dạng hoá thị trường, nhờ vậy mà các doanh nghiệp đã vượt qua được những khó khăn bởi những rào cản thương mại từ các thị trường XK, nhất là đối với mặt hàng dệt may và giày dép.

Xuất khẩu đạt được nhiều kỷ lục mới cũng gián tiếp nhắc nhở các doanh nghiệp cần chú ý hơn khi XK. Đặc biệt, khi mà các ngành XK của Việt nam liên tục bị Mỹ kiện bán phá giá cá ba sa, đưa ra hạn ngạch hàng dệt may, rồi lại đến kiện bán phá giá tôm. Sau đó, EU lại kiện về bán phá giá xe đạp và sắp tới là hàng giầy da.Tuy nhiên, trong cơ cấu XK hiện nay, XK nguyên liệu vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Theo thông tin từ Bộ Thương mại, dầu thô và than đá là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt được mức tăng trưởng cao và tiếp tục giữ tỷ trọng lớn trong những năm gần đây, vượt cả chỉ tiêu quy hoạch XK. Nhằm thực hiện mục tiêu cắt giảm XK nguyên liệu, mới đây, Bộ Kế hoạch đầu tư vừa trình Thủ tướng kế hoạch cắt giảm XK một số nguyên, nhiên liệu quan trọng, nhất là dầu thô và than đá nhằm đảm bảo nguyên, nhiên liệu trong nước và giảm nhập siêu giai đoạn 2006-2010.

2.2 THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Thực trạng hoạt động XNK của các DNVN cho thấy, các doanh nghiệp chưa thực sự phát huy được thế mạnh của tiềm năng XNK, chưa thực sự tạo được vị thế bình đẳng trên sân chơi “kinh tế quốc tế”. Một phần vì những lý do khách quan về chính sách, môi trường. Nhưng phần khác là do bản thân các doanh nghiệp cũng chưa hạn chế được rủi ro trước khi rủi ro đó phát sinh và khả năng xử lý khi rủi ro xảy ra cũng chưa thực sự hợp lý. Trong phần này, tác giả xin trình bày một số rủi ro chủ yếu, thường gặp trong hoạt động XNK của các DNVN.

2.2.1. Các rủi ro thường gặp trong cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu

* Rủi ro về hợp đồng

Hợp đồng mua bán ngoại thương bị vô hiệu.

Hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thoả thuận bằng văn bản giữa người mua và người bán có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng.

Liên quan đến việc ký kết hợp đồng, có rất nhiều DNVN gặp rủi ro như: ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

  • Doanh nghiệp giao kết một HĐNT ngoài phạm vi đã đăng ký

kinh doanh thì hợp đồng đó bị coi là vô hiệu. Chẳng hạn, trong đăng ký KD của doanh nghiệp chỉ được quy định KD về lĩnh vực máy móc công nghiệp nhưng doanh nghiệp lại ký một hợp đồng NK thức ăn gia súc. Khi đó, doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro vì không được nhận hàng tại cảng và thậm chí còn bị xử phạt theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, trong trường hợp doanh nghiệp đã phải thanh toán trả trước cho lô hàng đó thì rủi ro càng lớn hơn.

  • Hợp đồng vô hiệu do đại diện tham gia ký kết không đủ tư cách. Một bằng chứng điển hình là, trong HĐNT, các DNVN rất hay để phó giám đốc phụ trách kinh doanh là người đại diện doanh nghiệp ký kết. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, ông phó giám đốc đó lại không phải là người đại diện trước pháp luật của công ty và cũng không được uỷ quyền trước khi ký. Do vậy, khi tranh chấp xảy ra, hai bên kiện nhau ra toà theo quy định trong hợp đồng thì mới biết hợp đồng đã vô hiệu trước khi được thực hiện.

Điều khoản hợp đồng bất lợi

  • Điều khoản trọng tài khuyết tật.

Một số DNVN thường an tâm khi ký được một điều khoản trọng tài như sau: “ Mọi tranh chấp phát sinh hoặc liên quan đến hợp đồng này trước hết sẽ được hai bên giải quyết bằng thương lượng. Nếu thương lượng không thành, tranh chấp sẽ được chuyển đến Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam xét xử theo Quy tắc về hoà giải và Trọng tài của Phòng Thương mại quốc tế ICC”. Tuy nhiên, đây là hai nội dung mâu thuẫn nhau. Có một số quy định cơ bản trong quy tắc của ICC không giống quy định trong quy tắc của VIAC. Điều 6 Điều lệ Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (TTTTQTVN) quy định các bên đương sự chỉ được phép chỉ định trọng tài viên có tên trong Danh sách của TTTTQTVN. Điều 8 và Điều 9 Quy tắc tố tụng cũng quy định tương tự. Các bên không được quyền chỉ định người không có tên trong danh sách của TTTTQTVN. Trong khi đó, nếu áp dụng Quy tắc của ICC, các bên có quyền chỉ định bất kỳ ai thuộc bất kỳ quốc tịch nào mà họ cho là thích hợp. Và nếu Uỷ ban trọng tài gồm 3 người thành lập theo quy tắc của ICC, rất có thể không có ai là trọng tài viên của TTTTQTVN mặc dù phần đầu điều khoản trọng tài quy định là chọn trung tâm để giải quyết tranh chấp.

Năm 2004, một doanh nghiệp lớn ở T.P Hồ Chí Minh ký hợp đồng cho thuê tàu chở hàng rời với doanh nghiệp nước ngoài đã ghi ở phần đầu điều khoản trọng tài là “Nếu có tranh chấp, giải quyết bằng trọng tài ở Singapore và áp dụng Luật Anh”. Thế nhưng, tại phần 2 của hợp đồng lại để nguyên vẹn câu “mọi tranh chấp sẽ giải quyết bằng trọng tài London theo Luật trọng tài 1950 và 1970 của Anh”. Vụ việc phát sinh tranh chấp mới biết là chủ tầu Việt nam đề nghị đưa ra giải quyết ở trọng tài Singapore, còn phía nước ngoài lại đòi đưa ra trọng tài London. Kết quả là chủ doanh nghiệp Việt Nam đành chịu thua thiệt. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

  • Mô tả hàng hoá không đầy đủ.

Hiện nay, có hiện tượng khi mở L/C nhập khẩu, do không tạo được thế chủ động trong đàm phán cũng như không lường trước được những rủi ro có thể phát sinh liên quan đến việc mô tả hàng hoá, nên nhiều doanh nghiệp trong đơn xin mở thư tín dụng chỉ quy định về hàng hoá rất sơ sài. Chẳng hạn như: “ Medical equipment. Details as per contract No…. “ và trong đó, cũng không hề ghi chú thêm về xuất xứ, nhà sản xuất,… Kết quả là khi người bán xuất trình chứng từ, tất cả các chứng từ đều ghi đầy đủ giống như quy định trong thư tín dụng. Bộ chứng từ hoàn hảo và người mua buộc phải thanh toán trong khi hàng chưa về đến cảng Việt Nam. Sau đó một thời gian, khi nhận hàng, người NK mới phát hiện ra rằng hàng hoá được giao là một loại hàng hoá chất lượng khác, giấy chứng nhận xuất xứ cũng của một nước khác cấp. Lúc này tiền đã thanh toán đầy đủ theo thư tín dụng trả ngay rồi và doanh nghiệp chỉ còn cách đi kiện theo hợp đồng.

  • Điều kiện giao hàng không đúng

Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp, do ký hợp đồng thông qua giao dịch thương mại điện tử, tận dụng thời gian tối đa nên đã sơ suất trong nhiều điều khoản của hợp đồng, trong đó có cả điều khoản về điều kiện giao hàng, thậm chí quy định không phù hợp theo tập quán quốc tế.

Một doanh nghiệp có kinh nghiệm NK rất nhiều hàng hoá bằng đường biển. Khi chuyển sang mua hàng giao bằng đường hàng không, do thói quen nên đã chấp nhận quy định điều kiện giao hàng CFR Noi Bai Airport, Incoterms 2000. Thực tế, theo quy định của Incoterms 2000, điều kiện giao hàng CFR chỉ áp dụng cho giao hàng bằng đường biển. Khi được ngân hàng tư vấn, doanh nghiệp lại khăng khăng là đã trót ký như vậy, nếu sửa lại người bán không giao hàng nữa thì mất đi cơ hội kinh doanh. Đến khi tranh chấp xảy ra, xét theo Incoterms thì CFR lại không điều chỉnh việc giao hàng bằng đường hàng không. Lúc đó, doanh nghiệp vỡ lẽ ra thì đã muộn. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

* Rủi ro vì bị kiện bán phá giá

Theo nghĩa chung, bán phá giá được hiểu là hành vi bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường nhằm làm ảnh hưởng đến các mặt hàng tương tự trên cùng sthị trường.

Theo thống kê của Bộ Thương mại, tính đến cuối tháng 12/2005, Việt Nam đã phải đối phó với tổng cộng 24 vụ kiện Trade Remedies, trong đó có 20 vụ kiện chống bán phá giá của các nước đối với hàng hoá NK từ Việt Nam, và 4 vụ kiện tự vệ đối với sản phẩm XK của Việt nam 15 . Các vụ kiện xuất hiện ngày càng nhiều sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến kế hoạch tăng trưởng XK và khả năng cạnh tranh của DNVN trên bình diện quốc tế. Nếu như giai đoạn 1994-2001, Việt nam chỉ phải đối phó với 1-2 vụ kiện/năm thì đến các năm 2002, 2003, 2004, số các vụ kiện tăng lên gấp nhiều lần. Đặc biệt là trong năm 2004, các DNVN đã phải đối phó với 7 vụ kiện liên tiếp liên quan đến nhiều mặt hàng khác nhau, từ sản phẩm vòng khuyên kim loại, sản phẩm xe đạp, chốt, then cửa bằng inox và các phụ tùng, đèn huỳnh quang, tôm, ván lướt sóng, săm lốp xe đạp, xe máy. Trong số 18 vụ điều tra đã có kết quả, chỉ có 6 vụ có quyết định không áp dụng thuế do hàng XK Việt Nam không gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước NK, hoặc chiếm thị phần nhỏ hoặc do bên khởi kiện rút đơn kiện 15 .

Ở giai đoạn trước, các mặt hàng của Việt Nam bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá chưa phải là những mặt hàng XK chiến lược, kim ngạch XK không cao. Tuy nhiên, sau vụ cá tra-basa năm 2002, vụ tôm năm 2003, vụ kiện chống bán phá giá giày có mũ da của EC 2005 cho thấy các mặt hàng XK chủ lực của ta bắt đầu bị lọt vào “tầm ngắm” của các đối thủ cạnh tranh là các ngành sản xuất những mặt hàng tương tự tại một số thị trường XK. Kết quả là sau mỗi lần bị kiện phá giá, các doanh nghiệp XK Việt Nam lại phải lâm vào hoàn cảnh khó khăn do bị thu hẹp thị trường, bị áp thuế cao hơn và chi phí cho việc mở rộng quy mô sản xuất trước đó ngày càng tăng do thời gian hoàn vốn bị kéo dài hơn rất nhiều.

Đến đầu năm 2006, số doanh nghiệp sản xuất giày có đơn hàng nhập khẩu mới chỉ đạt hơn 50% so với cùng kỳ năm ngoái. Và như vậy, cũng đồng nghĩa với việc quyền lợi của 500.000 công nhân làm việc trong ngành da giầy đang bị ảnh hưởng trực tiếp. Ngoài ra, cũng có thông tin cho rằng, nhiều doanh nghiệp nước ngoài sợ tác động của vụ kiện đã chuyển hướng đầu tư sang các thị trường khác. Khi đó, mục tiêu kim ngạch XK 3,6 tỷ USD năm 2006 và 24 tỷ USD trong 5 năm tới khó mà đạt được.

Hay như đối với vụ kiện phá giá tôm. 54 doanh nghiệp Việt nam nằm trong danh sách bị đơn cuối năm 2004 đã bị Bộ Thương mại Mỹ (DOC) áp mức thuế phá giá thấp nhất là 4,3%, cao nhất là 25,76%. Thuế áp cao khiến các doanh nghiệp phải chịu mức ký quỹ (bond) khổng lồ nếu muốn xuất hàng vào Mỹ, hậu quả là thị trường này gần như đóng cửa đối với tôm Việt Nam.

* Rủi ro về thương hiệu

Mất thương hiệu ở nước ngoài không chỉ đơn thuần là doanh nghiệp mất đi tài sản vô hình mà cả nền kinh tế quốc gia cũng bị mất đi giá trị thương mại, giá trị XK. Những cái tên như bánh phồng tôm Sa Giang, kẹo dừa Bến Tre, cà phê Trung Nguyên, Petro Vietnam hay Vinataba… bị chiếm dụng ở nước ngoài không chỉ là nỗi lo lắng, thiệt hại của những người sở hữu chúng mà còn là bài học cảnh báo cho các doanh nghiệp khác khi chuẩn bị xâm nhập thị trường nước ngoài.

Giám đốc cơ sở kẹo dừa Bến Tre đã phải sang tận Trung Quốc đòi thương hiệu từ một đối tác. Trung Nguyên, thương hiệu cà phê mới nổi tiếng vài năm gần đây cũng bị đối tác Mỹ “chơi xấu” và những nhà lãnh đạo Trung Nguyên mất mấy năm đi kiện ở Mỹ. Vinataba, thương hiệu thuốc lá có tiếng của Việt Nam, bị 12 nước chiếm dụng và chỉ mới có một nước chịu trả lại cho Vinataba.

Theo Cục sở hữu trí tuệ, hiện mới chỉ có khoảng 1.000 thương hiệu Việt nam được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài so với hàng trăm ngàn thương hiệu được sinh ra ở Việt Nam.

2.2.2 Rủi ro kinh tế ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

* Rủi ro do giá cả biến động

Đối với hoạt động XNK, rủi ro giá cả có thể được tính bằng độ lệch chuẩn của giá cả trong một thời kỳ nào đấy. Nếu độ lệch chuẩn càng lớn thì mức độ rủi ro càng cao và ngược lại, nếu độ lệch chuẩn càng nhỏ thì mức độ rủi ro thấp, bởi lúc này giá cả biến động với biên độ thấp hơn. Rủi ro giá cả thường gắn liền với rủi ro trong nông nghiệp, rủi ro của hàng nông lâm sản và những sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp.

Sự tăng trưởng XNK của Việt Nam còn nhờ vào yếu tố giá nên chưa bền vững. Các mặt hàng XK chủ lực như dầu thô, cao su, hồ tiêu, cà phê… chủ yếu là dưới dạng thô, còn lại các mặt hàng khác như may mặc, giày da… giá trị gia tăng rất thấp (chủ yếu gia công).

Trường hợp thứ nhất là cà phê xuất khẩu. Với diện tích trồng cà phê 500.000 ha, Việt nam đang được coi là nhà sản xuất và XK cà phê lớn thứ hai thế giới. Tuy nhiên, theo ông Đoàn Triệu Nhạn, Chủ tịch Hiệp hội cà phê Cacao (Vicofa), thị trường này đang tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi cho các doanh nghiệp XK. Rủi ro ở chỗ hoạt động XK cà phê phụ thuộc vào một vài cường quốc và chỉ một vài động thái nhỏ từ phía các cường quốc này cũng làm thị trường cà phê chao đảo. Hơn nữa, các doanh nghiệp tuy tham gia vào thị trường cà phê nhưng đã bắt đầu hình thành một thói quen không tốt – đó là găm hàng chờ giá. Khi có dự đoán giá cà phê tăng do tin đồn phía Brazil có thể bị giảm sản lượng do mất mùa, nhiều DNVN đã hạn chế lượng bán ra để chờ giá. Mặt khác, các DNVN lại thiếu những công cụ tài chính phòng ngừa rủi ro. Ví dụ như thị trường kỳ hạn đối với cà phê. Khi chưa giao dịch trực tiếp tại thị trường kỳ hạn London, chênh lệch giữa giá chào bán cà phê Việt Nam với giá giao dịch trên thị trường kỳ hạn London khá lớn, luôn ở mức trên 100 USD/tấn. Hồi đầu tháng 9/2004, giá cà phê chào bán trung bình của các công ty Việt Nam là 550USD/tấn (khách mua cũng chỉ trả 520 USD/tấn) thì giá giao dịch trên thị trường kỳ hạn tháng 11/2004 là 660USD/tấn, chưa kể nhiều thời điểm, giá còn lên đến trên 700USD/tấn.

Một minh hoạ nữa cho rủi ro giá cả là mặt hàng gạo xuất khẩu. Trong khi giá gạo XK của các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan vẫn tăng thì giá gạo của Việt Nam thấp hơn mức dự đoán. Rủi ro này một phần do chính các DNVN tự tạo ra cuộc cạnh tranh về giá. Theo ông Trương Thanh Phong, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), một số nhà XK tranh nhau ký hợp đồng bán gạo với giá thấp, bán gạo ngon 5% tấm dưới giá thành, thậm chí thấp hơn cả giá gạo cấp thấp (25%) vừa được ký hợp đồng bán trước đó. Chỉ trong một thời gian ngắn, từ mức giá hơn 260USD/tấn, loại gạo 5% tấm liên tục rớt giá và hiện được doanh nghiệp ký bán với giá chỉ hơn 242-245 USD/tấn, trong khi giá thành của loại gạo này lên đến 248 USD/tấn. Do giá gạo trong nước tăng mạnh, không ít doanh nghiệp XK đã bị thua lỗ do buộc phải thu mua với giá cao để thực hiện những hợp đồng đã trót ký giá thấp.

* Rủi ro hối đoái ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Trong hoạt động XNK, luôn có một đồng tiền được coi là ngoại tệ đối với ít nhất một trong hai bên đối tác, do đó, rủi ro hối đoái là một rủi ro tiềm ẩn và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh. Rủi ro hối đoái xảy ra khi tỷ giá hối đoái vào kỳ đáo hạn tăng hoặc giảm so với tỷ giá lúc ký kết hợp đồng ngoại thương.

Hiện nay, trong quan hệ mua bán hàng hoá quốc tế, các DNVN thường lựa chọn đồng đô la Mỹ làm đồng tiền thanh toán và tính toán. Số lượng các doanh nghiệp chủ động được nguồn ngoại là không nhiều, do đó, việc kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nhiều từ biến động của tỷ giá hối đoái là không thể tránh khỏi. Từ năm 2000 đến nay, tỷ giá USD/VND đã thay đổi theo hướng không có lợi cho hoạt động NK. Tỷ giá trung bình năm 2000 là xấp xỉ 14.280 đ/USD, đến năm 2005 là hơn 15.800 đ/USD, như vậy là tăng trên 1000 đ/USD tương đương 6.3%. Mặc dù mức độ biến động tỷ giá hàng năm không nhiều nhưng đối với hoạt động NK và XK, tỷ giá biến động hàng ngày, hàng tháng, hàng quý đều có ảnh hưởng trực tiếp tới sự thành công hay thua lỗ của mỗi giao dịch.

Đối với hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi vào thời điểm nhận tiền thanh toán, giá trị đồng Việt Nam tăng lên so với giá trị đồng đô la Mỹ hoặc các ngoại tệ khác. Điều này được thể hiện rõ qua ví dụ sau:

  • Tháng 9/2005, Công ty lương thực X ký hợp đồng xuất khẩu gạo sang Đông Trị giá hợp đồng là 1000 tấn gạo 5% tấm, tương đương 252.000,00 USD (Hai trăm năm mươi hai nghìn đô la Mỹ). Giá xuất khẩu là 255 USD/tấn. Thời hạn giao hàng: giữa tháng 11/2005.
  • Đầu tháng 10/2005, Công ty vay 000,00 USD tại Ngân hàng TMCP Quân Đội (NHQĐ) để thu gom hàng XK. Do có nguồn USD thu từ XK, công ty đề nghị được vay ngoại tệ (USD) rồi quy đổi ra VND để thanh toán tiền hàng trong nước. Giá thu mua trong nước là 235 USD/tấn. Lãi suất vay 5.5% năm, công ty dự tính vay tối đa 2 tháng, như vậy, lãi vay 2 tháng sẽ là 1.925 USD (trả tại thời điểm tất toán khế ước vay). Quy đổi theo tỷ giá mua chuyển khoản là 15.815 VND/USD của NHQĐ, công ty nhận 3.321.115.000,00 VND. Công ty đã dùng số tiền này trả cho các nhà cung cấp gạo trong nước. Theo tính toán của công ty, tại thời điểm thu tiền hàng XK, tỷ giá sẽ khoảng 15.900 VND/USD. Sau khi trừ đi chi phí lãi vay, giá vốn, chi phí đóng gói, thanh toán…, công ty sẽ lãi khoảng 10.000,00 USD cho thương vụ này, tương đương 159 triệu đồng.
  • Đầu tháng 11/2005, công ty xuất hàng sang Đông Timor, thanh toán bằng L/C trả ngay. Giữa tháng 11, nhà nhập khẩu trả tiền. Tỷ giá tại thời điểm công ty nhận tiền thanh toán tụt xuống còn có 780,00 VND/USD.

Như vậy, không những mất đi khoản lãi dự tính do VND mất giá, với mỗi USD xuất khẩu, công ty còn lỗ thêm 85 VND/USD và cho cả giao dịch này là 21.675.000 VND.

Đối với hoạt động nhập khẩu, các DNVN sẽ gặp rủi ro khi tại thời điểm phải chuyển trả tiền thanh toán, giá trị VND giảm đi so với ngoại tệ. Khi đó, các doanh nghiệp sẽ phải bỏ một lượng tiền lớn hơn để mua ngoại tệ thanh toán, đặc biệt trong trường hợp thực hiện các dự án với thời gian kéo dài. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Ví dụ: Công ty TNHH Thiết bị công nghiệp nặng M. thực hiện dự án cung cấp máy xúc lật, cần cẩu cho một dự án đường bộ, nguồn vốn thanh toán từ ngân sách dự án, thanh toán theo tiến độ nghiệm thu thiết bị. Công ty đã vay 150.000,00 USD tại NHNT để trả cho nhà cung cấp nước ngoài. Tại thời điểm vay, tỷ giá là 15.815 VND/USD. Đến thời điểm công ty nhận tiền VND từ dự án, tỷ giá đã là 15.920 VND/USD. Như vậy, công ty đã phải chi thêm 105 VND cho mỗi USD mua để trả nợ ngân hàng, chưa kể lãi vay.

Không chỉ thiệt hại do dự đoán sai tỷ giá khi vay USD, công ty cũng sẽ gặp rủi ro hối đoái kể cả trong trường hợp vay VND. Dự án bằng nguồn vốn JIBIG nên công ty sẽ được thanh toán bằng USD. Do dự kiến giá USD sẽ tăng, công ty quyết định vay tiền VND sau đó mua ngoại tệ để thanh toán. Lúc đó, tỷ giá là 15.910 VND/USD. Đến thời điểm được thanh toán tiền từ JIBIG, tỷ giá mua chuyển khoản biến động xuống mức 15.840 VND/USD. Như vậy, công ty đã mất đi 70 VND cho mỗi một USD bán ra để trả nợ vay ngân hàng.

Không chỉ bị ảnh hưởng bởi biến động tỷ giá USD/VND. Đối với các loại ngoại tệ khác, các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với nguy cơ bị giảm sút nguồn thu nhập. Đặc biệt, khi mà hiện nay, trong đàm phán hợp đồng ngoại thương, chúng ta không tạo được thế chủ động trong việc lựa chọn đồng tiền tính giá và thanh toán, rủi ro này càng dễ xảy ra hơn.

Rủi ro hối đoái là một rủi ro thường trực đối với cả doanh nghiệp XK và NK. Nếu không tính toán chính xác bài toán này, doanh nghiệp không những mất đi phần lãi dự tính mà còn phải chịu lỗ. Hiện nay, trên thị trường đã xuất hiện một số công cụ tài chính hạn chế rủi ro hối đoái như SWAP, hợp đồng kỳ hạn, Option Quyền chọn mua ngoại tệ… nhưng số lượng các doanh nghiệp sử dụng những công cụ này còn rất khiêm tốn, dè dặt.

Tuy nhiên, một tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, do chính sách điều tiết và quản lý tỷ giá hối đoái của Việt Nam khá ổn định, chúng ta đã thu hút được một lượng lớn kiều hối từ nước ngoài chuyển về nên các ngân hàng cũng đã từng bước hỗ trợ doanh nghiệp giải bài toán về tỷ giá.

2.2.3 Rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

* Rủi ro về tàu và hợp đồng thuê tầu

Loại rủi ro này xảy ra cả với nghiệp vụ xuất khẩu và nhập khẩu.

Theo Incoterms 2000 có tất cả 13 điều kiện mua bán hàng hoá quốc tế bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động TMQT. Các DNVN, trong mua bán hàng hoá đường biển, thường lựa chọn điều kiện FOB khi XK và điều kiện CIF khi NK. Như vậy, quyền thuê tàu luôn thuộc về đối tác nước ngoài. Đây là một tập quán cũ, cần thay đổi.

Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định, với phương thức giao hàng như trên, phía Việt Nam sẽ tránh được nghĩa vụ thuê tàu và mua bảo hiểm, đôi khi công việc này khó thực trong bối cảnh năng lực của các công ty bảo hiểm và đội tàu biển Việt Nam còn hạn chế. Hiện cả nước có 1.000 tàu vận tải biển, xếp vị trí 60/152 quốc gia có tàu mang quốc tịch trên thế giới và xếp thứ tư trong khu vực ASEAN, nhưng trong đó tàu viễn dương chỉ chiếm khoảng 20%, còn lại chủ yếu vận chuyển nội địa. Hầu hết các tàu Việt Nam đều già, chạy chậm và phải đóng phí bảo hiểm cao nên các chủ hàng nước ngoài rất e ngại nếu thuê tàu Việt nam.

Trong khi các DNVN ngại không muốn bán CIF và mua FOB với những lý do kể trên, thì nhiều khi họ lại rất đơn giản trong việc quy định ràng buộc trách nhiệm người bán khi thuê tàu chuyên chở. Thậm chí, khi đã thường xuyên có giao dịch, nhiều hợp đồng thậm chí còn bỏ qua điều kiện về tàu. Rủi ro tiềm ẩn trong thuê tàu là rất lớn. Do người bán là người chủ động trong việc thương thảo hợp đồng thuê tàu với người chuyên chở, nên nếu không ràng buộc chặt chẽ về tuổi tàu, điều kiện tàu phải được bảo hiểm trong hợp đồng ngoại thương, người bán sẽ tìm cách thuê tàu với chi phí rẻ nhất. Khi xảy ra tổn thất, có thể những rủi ro tổn thất đó sẽ không được bảo hiểm do tàu đã quá già, vượt quá những quy định về rủi ro được bảo hiểm.

Hơn nữa, hiện nay, theo tập quán, có một số mặt hàng có trọng lượng lớn như sắt thép, phân bón, gỗ… thường áp dụng vận đơn theo hợp đồng thuê tàu. Khi đó, hợp đồng thuê tầu mới chính là chứng cứ pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các bên. Nhưng đa số, các doanh nghiệp khi NK chỉ yêu cầu người bán xuất trình vận đơn theo hợp đồng thuê tàu chứ không yêu cầu kèm thêm hợp đồng thuê tàu và cũng không ràng buộc nội dung thuê tàu chi tiết trong hợp đồng ngoại thương. Rủi ro liên quan sẽ bao gồm:

  • Tàu thực sự gặp bão, bất khả kháng, buộc phải kéo dài thời gian vận chuyển hoặc ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá, đặc biệt là hàng nông sản, dẫn đến người nhập khẩu bị chậm tiến độ nhận hàng và trong trường hợp đã ký hợp đồng bán hàng trong nước, có thể bị phạt vì chậm giao hàng. Trong trường hợp có tổn thất, để đòi được bảo hiểm cũng kéo dài rất lâu, ảnh hưởng đến hoạt động.
  • Người bán câu kết với chủ tầu, ký hợp đồng quy định rất ít trách nhiệm của cả người thuê tầu và chủ tầu, thậm chí làm chứng từ giả để đòi tiền thanh toán. Doanh nghiệp thanh toán xong đợi mãi không thấy hàng về.
  • Chủ tầu lừa đảo, bán hàng rồi biến mất.

Ví dụ. Công ty kinh doanh gỗ TLC bán cho các nhà máy sản xuất ở miền Bắc ký một hợp đồng nhập khẩu gỗ theo giá CFR, thanh toán trả chậm 90 ngày kể từ ngày vận đơn, thư tín dụng cho phép chiết khấu. Người bán là công ty thương mại BKC. Chấp nhận vận đơn theo hợp đồng thuê tàu. Để giảm thiểu chi phí, công ty TLC chỉ mua bảo hiểm loại C + mất nguyên thanh. Sau khi thông báo cho TLC về ETD, ETA, tên người chuyên chở, trọng lượng hàng thực giao… KBC xuất trình bộ chứng từ ra ngân hàng mở L/C yêu cầu thanh toán. Do tin cậy người bán, TLC chấp nhận bộ chứng từ có một vài sai sót khác biệt, vận đơn theo hợp đồng thuê tàu ghi sơ sài với câu: Chi tiết theo như hợp đồng thuê tàu số ….

Sau khi ngân hàng mở L/C gửi chấp nhận thanh toán, KBC đã lấy được tiền chiết khấu bộ chứng từ từ Ngân hàng NCSB tại Malaysia và tất toán tài khoản, chỉ để lại một số dư tối thiểu. Sau hơn một tháng kể từ ngày có thông báo về việc giao hàng của KBC mà vẫn chưa thấy tàu đến cảng, TLC điện hỏi thì KBC trả lời là do gặp bão nên tàu phải quay về cảng xuất phát và sửa chữa. Việc thông báo trì hoãn tàu kéo dài rất nhiều lần và khi TLC buộc phải sang tận nơi kiểm tra thì mới phát hiện ra rằng người bán câu kết với hãng chuyên chở đang trên bờ vực phá sản, lập vận đơn khống rồi sau đó bán tàu, giải thể, chia nhau tiền hàng thu được từ TLC.

Bản báo cáo điều tra về Tội phạm kinh tế quốc tế năm 2003 của Pricewaterhouse Coopers (PWC) dựa trên 3.600 cuộc phỏng vấn tiến hành tại 50 quốc gia trên thế giới cho thấy, tội phạm kinh tế đang tăng mạnh, đặc biệt là tội phạm kinh tế theo hợp đồng TMQT 11 . Việt Nam không là ngoại lệ. Hiện nay, ở Việt Nam cũng đang xuất hiện hiện tượng tàu ma: Sau khi ăn cắp tầu vận chuyển hàng hoá khối lượng lớn, bọn tội phạm ở Đông Nam Á đã treo cờ nước khác với một lý lịch giả, thậm chí có khi sửa tầu và đến Việt Nam, tiếp tục lừa các công ty Việt Nam với hình thức vận chuyển hàng hoá của Việt Nam ra nước ngoài. Sau khi ra khỏi Việt Nam, chúng đã lấy hàng Việt Nam và bán tại các nước khác.

2.2.4 Rủi ro về thanh toán ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Rủi ro về chứng từ là một loại rủi ro phổ biến và có tác hại rất lớn đến uy tín, lợi ích của doanh nghiệp. Tuỳ vào nghiệp vụ XK hay NK mà loại hình rủi ro chứng từ có liên quan cũng khác nhau.

Rủi ro trong việc lựa chọn phương thức thanh toán Đối với nhập khẩu, có thể gặp rủi ro như:

  • Thanh toán bằng thư tín dụng và phải xác nhận tại chính ngân hàng của người hưởng lợi. Rủi ro sẽ xảy ra nếu phải chuyển 100% tiền ký quỹ ngay khi mở L/C hoặc phải thanh toán khi chưa có thông tin gì về bộ chứng từ. Thậm chí, nhà NK còn phải chịu rủi ro do nhà XK không cung cấp hàng hoá mà trong hợp đồng lại không quy định điều khoản phạt.
  • Thanh toán theo hình thức chuyển tiền, trong đó tỷ lệ phải đặt cọc trước là lớn, thậm chí lên tới 100% trị giá hàng hoá, sau đó mới được nhận hàng và trong trường hợp người bán không giao hàng nữa thì việc đòi lại tiền là rất phức tạp…

Đối với xuất khẩu, có thể gặp rủi ro như:

  • Thanh toán bằng L/C với các quy định về chứng từ không rõ ràng hoặc quá phức tạp dẫn đến việc hàng đã chuyển sang nước người mua rồi nhưng do lỗi chứng từ nên không được thanh toán.

Ví dụ: Công ty XNK Thái Bình đã nhận được L/C từ Ngân hàng Belgian (Hồng Kông) mở với trị giá: USD712.000,00. Trong bộ chứng từ xuất trình phải có giấy xác nhận được ký bởi người nhận hàng được Công ty Sam Yich uỷ nhiệm là Trần Chấn nhưng không cung cấp bút tích chữ của người nhận hàng. Hàng hoá đã được giao cho người NK với một chữ ký nhận hàng “rởm”. Ngân hàng phát hành chính thức thông báo từ chối thanh toán tiền hàng với lý do chữ ký trên giấy xác nhận của đại diện công ty Sam Yich (Trần Chấn) không phù hợp với chữ ký mẫu tại Ngân hàng. Như thế, công ty XNK Thái Bình đã bị lừa mất 712.000,00 USD

  • Thanh toán bằng hình thức nhờ thu, việc nhận hàng phụ thuộc vào thiện chí của người
  • Thanh toán bằng hình thức chuyển tiền trả sau khi nhận hàng, nếu người mua lừa đảo, nhận hàng nhưng không chuyển trả tiền hoặc trả chậm so với quy định trong hợp đồng…

Rủi ro về chứng từ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C)

Trong TMQT, việc thanh toán bằng L/C là một hình thức rất phổ biến. Điều 4 của UCP 500 quy định “Trong giao dịch tín dụng chứng từ, tất cả các bên liên quan chỉ căn cứ vào hàng hóa, các dịch vụ và công việc khác mà các chứng từ đó có thể liên quan”.

Đối với nhập khẩu, rủi ro về chứng từ là việc:

  • Bọn lừa đảo thường làm giả các hoá đơn thương mại, vận đơn cùng các chứng từ khác để lấy tiền mà trên thực tế không xuất hàng.
  • Quy định chứng từ, hàng hoá quá sơ sài trong HĐNT, tạo điều kiện cho người bán giao hàng khác với hợp đồng nhưng vẫn có thể lập được một bộ chứng từ hoàn hảo theo L/C và lấy được tiền thanh toán. Đây là một thói quen phổ biến của rất nhiều DNVN. Có những doanh nghiệp ra ngân hàng xin mở L/C, trong phần mô tả hàng hoá chỉ yêu cầu ghi “Commodities, unit prices, detail description as per sales contract No…” Khi ngân hàng tư vấn nên quy định chi tiết về hàng hoá ngay trong L/C thì doanh nghiệp từ chối, với lý do để cả hai bên chủ động trong việc giao nhận hàng khi giá cả và cung cầu biến động. Và trên thực tế, đã có một doanh nghiệp Hà Nội đã gặp rủi ro do người bán giao hàng hoá là bàn là Philips có kiểu dáng, mẫu mã khác hẳn hợp đồng nhưng đến lúc phát hiện ra thì đã thanh toán đủ theo L/C.
  • Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ không phát hiện ra lỗi chứng từ về hàng hoá, thông báo bộ chứng từ hoàn hảo và người NK đã thanh toán, nhưng sau đó lại không được người uỷ thác NK trong nước thanh toán. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Đối với xuất khẩu, các doanh nghiệp của Việt Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro không được thanh toán hoặc bị giảm số tiền đòi thanh toán:

  • Hàng đã giao theo đúng hợp đồng nhưng do chứng từ xuất trình có bất hợp lệ nên bị từ chối thanh toán, dù những bất hợp lệ đó không ảnh hưởng đến hàng hoá và việc nhận hàng. Hàng hoá để lưu kho, bãi tại cảng đến với chi phí lớn. Để giảm thiểu tổn thất, doanh nghiệp đành chấp nhận ký thoả thuận giảm giá hoặc bán hàng với giá rẻ.
  • L/C giả mạo.
  • Người mua đã nhận hàng đầy đủ nhưng vẫn từ chối thanh toán bộ chứng từ do việc nhận hàng là tách biệt khỏi thư tín dụng và chứng từ xuất trình theo thư tín dụng đó. Lý do là để bán được hàng, doanh nghiệp XK Việt Nam đã đồng ý để người bán (thường xuyên mua hàng) sở hữu một phần bộ vận đơn gốc, theo lệnh người bán. Khi đó, chỉ cần bộ chứng từ có một lỗi rất nhỏ thì người bán vẫn có thể từ chối thanh toán dù hàng đã nhận trước đó.
  • Rủi ro không được thanh toán do điều kiện về chứng từ quá phức tạp
  • Quy trình, thủ tục tại các cơ quan có liên quan đến việc cấp vận đơn, bảo hiểm phức tạp, kéo dài, dẫn đến doanh nghiệp không thể xuất trình chứng từ trong thời hạn hiệu lực của L/C.

Kinh nghiệm của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Kẻ xấu đã giả chữ ký của trường phòng, phó tổng giám đốc NHNT Việt Nam , và cả con dấu để làm ra một L/C dự phòng số UREA/46/ISS/2M/01 trị giá đến 14 triệu USD do Sở giao dịch NHNT Việt Nam phát hành theo yêu cầu của một công ty TNHH ở Hải Phòng với người thụ hưởng là một công ty TNHH ở trong nước. Khi đơn vị đem L/C đi giao dịch vay vốn tại Ngân hàng Công thương Việt Nam và NH này đi xác minh tại NHNT mới phát hiện là giả mạo.

* Rủi ro trong việc mua bảo hiểm

Bảo hiểm hàng hoá XNK có vai trò quan trọng, không chỉ trong việc bù đắp những thiệt hại, mất mát cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế – xã hội, các cá nhân và Nhà nước do việc hàng hoá bị tổn thất mà còn là nguồn thu lớn và tập trung để đầu tư sang những lĩnh vực khác, tạo lập quỹ đầu tư.

Tuy nhiên, do không nghiên cứu kỹ những quy tắc, quy định về bảo hiểm cũng như quyền lợi, trách nhiệm khi tham gia bảo hiểm, nhiều doanh nghiệp XNK đã gặp phải rủi ro không được đền bù bảo hiểm hoặc bảo hiểm không đủ bù đắp tổn thất.

Tổng công ty V nhập phân bón, điều kiện cơ sở giao hàng: giá CNF cảng Hồ Chí Minh, Việt nam, bảo hiểm do người mua chịu, nhà XK đã fax thông báo giao hàng để Tổng công ty V thực hiện mua bảo hiểm với chi tiết như sau: Tên tầu: Steamer nhưng hàng giao cho Tổng công ty V trên một con tầu Water Power với một vận đơn hoàn toàn khác. Như vậy, hàng hoá chưa được bảo hiểm.

Ngoài những nguyên nhân thường gặp ở trên, trong quá trình thực hiện hoạt động XNK, doanh nghiệp Việt Nam còn gặp những rủi ro khác như rủi ro về nguồn cung, rủi ro về môi trường chính trị, văn hoá-xã hội, rủi ro về thiên tai…

2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

  • Môi trường kinh tế–chính trị–xã hội còn bất cập, chưa ổn định

Vị thế, uy tín của Việt Nam trên thị trường kinh doanh quốc tế chưa thực sự được khẳng định

Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế đang từng bước vận hành theo cơ chế thị trường, các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế – xã hội còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Sau nhiều năm “bế quan toả cảng” do chiến tranh, Việt Nam đã bước đầu thành công trong việc mở rộng và phát triển Thương mại quốc tế. Nhưng phải thừa nhận một thực tế là cái tên “Việt Nam” chưa thực sự tạo lập được một vị thế và tiềm lực mạnh mẽ trong mắt các “đối tác nước ngoài” khi quan hệ giao dịch với các DNVN. Nhiều doanh nhân nước ngoài biết đến Việt Nam như một người hùng trong chiến tranh hơn là một “con rồng Châu Á”.

Đây thực sự là một nguyên nhân khách quan góp phần làm các DNVN mất điểm, mất tính chủ động trong đàm phán và sự “nể vì” của đối tác nước ngoài. Trong đàm phán, ký kết HĐNT, nhiều đối tác nước ngoài có tâm lý “coi thường” , cho rằng các DNVN rất “non trẻ” về kinh nghiệm thương trường nên luôn tìm cách chèn ép, giành những điều kiện có lợi hơn về phía mình.

Tuy nhiên, cùng với công cuộc Đổi mới, HĐH – CNH đất nước, những bất lợi này cũng đang dần được khắc phục. Đối tác nước ngoài đã dần thay đổi cách nhìn, cách nghĩ về Việt Nam và DNVN. Thực tiễn giao dịch, kinh doanh đã chứng minh và từng bước khẳng định năng lực và trình độ của rất nhiều DNVN.

Môi trường chính trị còn nhiều thách thức, phức tạp

Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế thuộc nhóm các nước hàng đầu châu Á và thế giới, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt về mọi mặt. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với không ít thách thức, trong đó có vấn đề “Việc làm trong sạch bộ máy và thực hiện dân chủ chưa đáp ứng yêu cầu của dân, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang rất phổ biến và nghiêm trọng chưa bị đẩy lùi

Môi trường kinh tế còn nhiều bất cập

Sự vận hành và tính đồng bộ của môi trường kinh tế có tác dụng quan trọng đối với hoạt động XNK. Môi trường kinh tế của Việt Nam được đánh giá cao cũng đồng nghĩa với việc các DNVN sẽ dành được thế chủ động trên thị trường, đồng thời các doanh nghiệp sẽ nhận được sự hỗ trợ công bằng, kịp thời và tích cực hơn từ các cấp vĩ mô.

Một trong những minh chứng cho nhận định về môi trường kinh tế của Việt Nam còn nhiều bất cập là việc Việt nam tụt hạng trong Báo cáo thường niên về chỉ số tự do kinh tế (IEF) năm 2006 do Wall Street Journal và Heritage Foundation vừa công bố. Theo đó, Việt Nam đứng thứ 142 trong số 161 nền kinh tế, tụt 5 hạng so với năm 2005 với 3,89 điểm 31 . Tiêu chí để xếp hạng dựa trên: chính sách thương mại, gánh nặng ngân sách của chính phủ, sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, chính sách tiền tệ, lưu chuyển vốn và đầu tư nước ngoài, ngân hàng và tài chính, tiền công và giá cả, quyền sở hữu tài sản, quy định quản lý và hoạt động thị trường chợ đen.

Cộng đồng quốc tế đang đòi hỏi và trông đợi Việt Nam có những cải cách mạnh mẽ hơn để tự do hoá nền kinh tế. Theo các chuyên gia nước ngoài phân tích, Việt Nam hiện vẫn đang có sự can thiệp mạnh của Chính phủ vào nền kinh tế, thể hiện ở con số đầu tư Nhà nước cao, Chính phủ dành toàn bộ số vốn vay 750 triệu USD trái phiếu Chính phủ cho một tổng công ty Nhà nước, rồi các động thái khoanh nợ, giãn nợ của ngân hàng đối với doanh nghiệp

2.2.1.2. Môi trường pháp lý chưa đồng bộ, nhất quán ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Hệ thống văn bản pháp lý còn chồng chéo, bất cập

Theo điều tra về Cảm nhận của Doanh nghiệp năm 2004 do Diễn đàn doanh nghiệp Việt nam thực hiện, các doanh nghiệp được phỏng vấn vẫn chưa hài lòng với môi trường pháp lý và chính sách hiện tại, với điểm trung bình là 2,09 trên thang điểm tối đa là 4. Các đạo luật và quy chế hiện hành về doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã được soạn thảo bởi nhiều cơ quan khác nhau, trong những thời kỳ khác nhau, và mang tính tình thế như Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2003.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Uông Chu Lưu nhận định, trong quá trình tập hợp văn bản pháp quy để luật hoá, cho thấy có nhiều văn bản trong lĩnh vực kinh tế có dấu hiệu trái pháp luật . Trong đó, văn bản có nội dung trái với văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, sai thẩm quyền cần phải huỷ bỏ, bãi bỏ chiếm tỷ lệ từ 4-5%; không bảo đảm về căn cứ pháp lý trên 20%…

Hơn nữa, đối với một số mặt hàng, cơ quan chủ quản vẫn có thói quen quản lý bằng văn bản. Chẳng hạn như ngành dệt may. Con số 1000 văn bản được nêu ra tại hội nghị dệt may cuối năm 2005 là số lượng văn bản mà Ban điều hành dệt may đã ban hành để trả lời các doanh nghiệp trong năm.

Một ví dụ khác, trong Nghị định 12-2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/1/2006 về hoạt động XNK, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập…, có một vấn đề mà rất nhiều doanh nghiệp đề cập đến là thời gian quy định cho việc tạm nhập tái xuất hàng hoá là cứng nhắc. Theo quy định, hàng hoá tạm nhập, tái xuất được lưu tại Việt Nam không quá 120 ngày kể từ ngày hoàn thành thủ tục hải quan. Trường hợp cần gia hạn phải có văn bản đề nghị hải quan nơi làm thủ tục, mỗi lần gia hạn không quá 30 ngày và không quá hai lần cho mỗi lô hàng tạm nhập tái xuất.

Việc quy định thời gian quá cụ thể làm cho doanh nghiệp không có đủ sự linh hoạt cần thiết để tiến hành kinh doanh phù hợp với mục đích của mình đề ra. Trong khi đó, theo ý kiến của Công ty XNK thiết bị toàn bộ, có nhiều loại hàng hoá, máy móc nhập khẩu phục vụ các công trình kéo dài đến hơn 6 tháng, 1 năm hoặc lâu hơn thì những quy định trên là không hợp lý. Vì vậy, nên quy định là căn cứ trên thời gian hai bên ký hợp đồng. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Hay như ý kiến của ông Tổng giám đốc Tổng Công ty xăng dầu, đối với hoạt động tạm nhập tái xuất và quá cảnh cần có thời hạn phù hợp với từng loại hàng hoá. Có thể nghiên cứu mở rộng biên độ thời gian chính thức, sau đó gia hạn nhưng thời gian gia hạn chỉ bằng 1/2 thời gian chính thức.

Việc vận dụng các văn bản luật và dưới luật vào hoạt động kinh doanh XNK còn hạn chế, tuỳ tiện

Việc thực thi pháp luật là một khâu yếu nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Cũng trong điều tra nói trên của Diễn đàn DNVN, các doanh nghiệp đã bày tỏ mức độ hài lòng với việc thực thi luật pháp chỉ ở mức điểm trung bình là 1,85 trên thang điểm 4. Ví dụ, chế tài thực thi các quy định đảm bảo hiệu lực hợp đồng của Việt Nam là một chế tài được coi là kém hiệu quả nhất trong khu vực.

Ngoài những nguyên nhân khách quan do hệ thống văn bản pháp luật về doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh còn nhiều bất cập, bản thân các doanh nghiệp cũng còn rất nhiều hạn chế trong việc hiểu và áp dụng luật có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp mình (bao gồm cả hệ thống pháp luật trong nước và tại nước của đối tác kinh doanh, để xảy ra những rủi ro không đáng có. Nguyên nhân của nhưng sai sót về mặt luật pháp này là do:

  • Có quá nhiều văn bản điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp và việc phổ biến các văn bản, quy định mới cũng như hướng dẫn thi hành chưa đầy đủ, cập nhật.
  • Nhiều DNVVN còn xem nhẹ việc tuân thủ pháp luật, tuy thời gian hoạt động ngắn nhưng đã tham gia rất nhiều lĩnh vực kinh doanh đồng thời lại không có bộ phận quản lý rủi ro luật pháp, không sử dụng dịch vụ tư vấn luật pháp. Do đó, đã xảy ra những rủi ro, thiệt hại không đáng có như hợp đồng vô hiệu ngay khi ký, hợp đồng không có điều khoản trọng tài, chọn điều khoản về trọng tài mâu thuẫn…
  • Khi tham gia vào thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc tìm hiểu luật pháp và tập quán kinh doanh nước sở tại. Nhiều khi có những ứng xử, hành động doanh nghiệp nghĩ là đúng nhưng trên thực tế lại khác xa với phong tục tập quán và quy định của nước sở tại.

Mời bạn tham khảo thêm:

Tổng hợp bài mẫu Luận văn Thạc Sĩ

2.2.1.3. Năng lực của các doanh nghiệp XNK còn nhiều hạn chế, thiếu và yếu

Hạn chế về quy mô, công nghệ và vốn.

Theo số liệu của Bộ Thương mại, đến cuối năm 2005 đã có 35.717 doanh nghiệp hoạt động XK, NK trực tiếp. Xét riêng từng doanh nghiệp, vốn là rất nhỏ. Trong đó, số doanh nghiệp có quy mô dưới 0.5 đến 1 tỷ đồng là 26,09%; từ 5-10 tỷ đồng là 7.63%; từ 10-50 tỷ đồng là 9.23%.. từ 200-500 tỷ đồng là 0.81% còn số vốn trên 500 tỷ đồng chỉ có 0.48% tổng số. Xét về tổng thể thì 90% các DNVN có quy mô nhỏ 17 . Như vậy, có thể thấy phần đông các doanh nghiệp hoạt động trong tình trạng không đủ vốn cần thiết, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả KD cũng như năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN chủ yếu dựa vào vốn tự có. Do đó, tình trạng phổ biến là chiếm dụng vốn lẫn nhau, làm lây nhiễm rủi ro giữa các doanh nghiệp.

Rủi ro về uy tín, lợi nhuận trong hoạt động XK gạo cũng có một phần bắt nguồn từ thiếu vốn. Giám đốc Công ty thương mại Kiên Giang (Kigitraco)

– 1 trong 10 công ty XK gạo có lượng lớn trên 200.000 tấn/năm, ông Liễu Văn Lô cho biết, để thực hiện một hợp đồng đã ký với khách hàng có số lượng 1.000 tấn, doanh nghiệp phải cần 4 tỷ đồng tiền vốn. Và để gom đủ hàng cho một tàu vận chuyển có tải trọng 15.000 tấn thì doanh nghiệp cần 60 tỷ đồng. Trong khi hiện nay hiếm có doanh nghiệp nào của Việt Nam đủ lực để xuất 1 tàu gạo. Đây là nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp phải chào bán gạo giá thấp nhằm có hợp đồng và mở L/C, khi đó mới tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Công nghệ yếu kém cũng là một nguyên nhân cần phải chú ý. Phần lớn các doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2-3 thế hệ, 80-90% là công nghệ ngoại nhập. Theo đánh giá của Bộ Khoa học & Công nghệ thì năng lực đổi mới công nghệ thuộc loại năng lực yếu nhất của các DNVN. Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng giao dịch, sản phẩm thấp và không ổn định làm cho doanh nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng KD, hạn chế khả năng cạnh tranh về giá…

Năng lực về đàm phán, ký kết hợp đồng yếu, thiếu tính chủ động

Thực tế hiện nay là cả doanh nghiệp XK và NK của Việt Nam đều không tạo được thế chủ động trong đàm phán. Nguyên nhân là:

  • Trình độ, kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ hạn chế. Nhiều khi bản thân các cán bộ tham gia đàm phán chưa thực sự nắm vững trình tự, quy trình giao dịch đối với ngành hàng, mặt hàng đang tham gia đàm phán và phụ thuộc vào bản mẫu do đối tác nước ngoài đưa Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp do chỉ quan tâm đến yếu tố giá cả và thời hạn giao hàng mà bỏ qua các quy định khác về chứng từ, điều kiện thanh toán.
  • Trước khi đàm phán, không đầu tư tìm hiểu về đối tác và tập quán kinh doanh của nước đối tác. Trong đàm phán, không đưa ra được những phương án dự phòng và khả năng quyết định tình huống chậm. Nguyên nhân một phần cũng do việc phân quyền, giao quyền chủ động của các DNVN còn rất hạn chế. Nhiều cán bộ đàm phán không dám chủ động đưa ra phương án quyết định ngay tại bàn đàm phán nên đôi khi mất đi cơ hội kinh

Năng lực thực hiện hợp đồng yếu, thiếu và chưa được coi trọng

Như chương 1 đã nêu, quá trình thực hiện hợp đồng sau khi ký kết bao gồm rất nhiều khâu như thanh toán, làm thủ tục XNK, chuẩn bị hàng, thuê phương tiện vận tải, giao nhận hàng hoá, mua bảo hiểm… Ngoài những rủi ro khách quan trong quá trình này, năng lực nội tại của doanh nghiệp XNK cũng là một nguyên nhân lớn.

Qua điều tra của VCCI cho thấy, có khoảng 11% tổng số doanh nghiệp không thoả mãn với năng lực và trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác XNK của mình 28 . Nhiều cán bộ chưa thực sự cảm nhận và đánh giá được những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK. Nhiều trường hợp còn làm theo thói quen, lối mòn đã có sẵn như chỉ mua bảo hiểm điều kiện C, 100% giá FOB để giảm bớt phí bảo hiểm, C/O đối với hàng NK vẫn cho phép viết tay về nội dung trong khi Bộ Tài chính đã có văn bản quy định C/O không được phép viết tay, trừ chữ ký…

Năng lực thực hiện hợp đồng “yếu và thiếu” thể hiện ở:

  • Chuyên môn yếu. Nếu người cán bộ ngoại thương không được trang bị đầy đủ kiến thức chuyên môn về ngoại thương thì sẽ gây rủi ro, tổn thất lớn. Ví dụ: Tại công ty L. vào năm 1994, cán bộ đàm phán do không nắm vững Incoterms nên khi đàm phán hợp đồng NK phân bón đã chấp nhận điều kiện: đơn giá: USD…/MT CIF Indonesia Port (Incoterms 1990) thay cho: USD…/MT CIF Vietnamese Port (Incoterms 1990). Do đó, hợp đồng đã không được Bộ Thương Mại cấp giấy phép NK, phải chờ ký lại hợp đồng. Khi nhận được hàng thì khách hàng nội không chấp nhận lấy hàng nữa do đã giao hàng quá muộn.
  • Không chủ động tìm hiểu các quy định liên quan đến hoạt động
  • Số lượng nhân viên biết và giỏi nghiệp vụ trong từng doanh nghiệp là không nhiều, do đó, khi tập trung phần lớn nghiệp vụ XNK vào một vài người sẽ dẫn đến hiện tượng giảm sút chất lượng, quá tải và sai sót là không tránh khỏi.
  • Yếu tố đạo đức nghề nghiệp nhiều khi bị xem nhẹ. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Khả năng phân tích thị trường, phân tích ngành hàng và đối thủ cạnh tranh chậm, thiếu chính xác

Việc đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp nhiều lúc chưa hiệu quả, doanh nghiệp phải gánh chịu những rủi ro cả về tài chính và uy tín do thiếu thông tin về thị trường, thông tin về chính sách và quy định của Nhà nước. Trên thực tế, những đòi hỏi cơ bản nhất định như tính chiến lược và kế hoạch kinh doanh dài hạn… nhiều doanh nghiệp còn thiếu. Và một trong bằng chứng về rủi ro do không có khả năng phân tích hoạt động kinh doanh chính là tâm lý thụ động, sợ rủi ro của các doanh nghiệp XNK.

Hoạt động XK cà phê là một ví dụ. Dù sản lượng nhiều nhưng cà phê Việt Nam vẫn luôn bị các doanh nghiệp nước ngoài ép giá với mức chênh lệch từ 50-100 USD/tấn so với thị trường London. Một phần là do chất lượng và nhất là do doanh nghiệp chưa thể hạn chế rủi ro vì đứng ngoài “chợ” giao dịch quốc tế. Hơn 10 năm qua doanh nghiệp vẫn định giá cà phê bằng việc dựa vào thông tin bán lại của hãng Reuters, trừ đi chi phí, quy ra tiền Việt theo tỷ giá hối đoái rồi đưa ra mức giá mua bán tại địa phương trong khi doanh nghiệp cà phê thế giới chỉ giao dịch qua thị trường kỳ hạn lớn như LIFFE (London), NYMEX (New York)”.

Ngoài ra, theo các cuộc điều tra gần đây của Công ty nghiên cứu thị trường Taylor Nelson Softres (TNS)- Việt Nam, mức chi phí nghiên cứu thị trường của các DNVN rất thấp; không chỉ so sánh với các nước kinh tế phát triển mà còn thua nhiều nước trong khu vực. Cụ thể tổng chi nghiên cứu thị trường của Việt Nam vào khoảng 10 triệu USD năm 2003 và 14,3 triệu USD năm 2005, tính trên đầu người chỉ đạt 0.12 USD, đây là mức thấp nhất trong 60 quốc gia được điều tra 30 .

Như đã biết, từ trước đến nay, các DNVN đã thành công nhờ các yếu tố giá nhân công rẻ, sự hỗ trợ của chính phủ, thị trường còn chưa mở hết…nhưng đến nay, những lợi thế này đang mất dần. Trong khi đó, không nhiều doanh nghiệp có thói quen thu thập thông tin và xử lý thông tin trước khi ra quyết định. Việc thu thập thông tin về phía nước ngoài và đối tác là doanh nghiệp nước ngoài thường rất khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi đó, các hệ thống thông tin do các cơ quan nhà nước thiết lập thường không tới được và không đáp ứng đủ nhu cầu của các doanh nghiệp.

Công tác kiểm soát, phòng ngừa và xử lý rủi ro đã phát sinh chưa được coi trọng và xây dựng thành chiến lược của mỗi doanh nghiệp.

Trên thực tế, phần lớn các doanh nghiệp chưa phân tách bộ phận kiểm soát rủi ro, có những doanh nghiệp chỉ quản lý rủi ro theo kinh nghiệm của Ban lãnh đạo.

Hơn nữa, doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến quản lý rủi ro trước khi tác nghiệp, chưa đầu tư đầy đủ cho công tác kiểm soát rủi ro trong và sau tác nghiệp. Do đó, đến khi rủi ro phát sinh rồi, doanh nghiệp sẽ mất rất nhiều thời gian trong việc tìm biện pháp nào hữu hiệu để đối phó, thậm chí, nhiều doanh nghiệp nhỏ còn không biết phải giảm thiểu rủi ro như thế nào. Điển hình như trong trường hợp các doanh nghiệp bị kiện phá giá giầy, khi nghe tin bị EU kiện, nhiều doanh nghiệp hoang mang không biết tiếp tục hoạt động như thế nào, có nên chào hàng XK tiếp tục không và chào với giá nào, và nếu phải theo kiện thì cần những trình tự, thủ tục gì.

2.3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

2.3.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động quản lý rủi ro ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

  • Cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động XNK

Hoạt động XNK đều được thống nhất quản lý ở Chính phủ. Tuy nhiên, để kiểm soát một cách rộng rãi, đa dạng và toàn diện, Chính phủ phải phân công cho các bộ và các cơ quan ngang bộ thực hiện. Đó là các cơ quan:

  •   Bộ Thương mại
  •   Bộ Kế hoạch Đầu tư  Bộ ngoại giao
  •   Bộ Tài chính
  •   Các bộ và các cơ quan ngang bộ khác như Bộ văn hóa thông tin, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Bộ Y tế…
  •   Hải quan có chức năng giám sát và quản lý hàng hoá, công cụ vận tải và hành lý di chuyển qua biên giới quốc gia.. và thu thuế quan.
  •   Kiểm toán là cơ quan góp phần quản lý nhà nước về XNK.

Ngoài ra ở nước ngoài, còn có những cơ quan như Tham tán thương mại, lãnh sự thương mại… tham gia vào hoạt động quản lý XNK.

Những cơ quan này không những quản lý bằng các nghị định, quyết định, thông tư, công văn … mà còn trực tư vấn, hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp đạt lợi nhuận tối đa, hạn chế rủi ro và thực hiện nghĩa vụ với đất nước.

2.3.1.2. Hệ thống pháp luật quản lý hoạt động XNK

*Hệ thống văn bản quản lý XNK của Việt Nam bao gồm:

  • Các văn bản của chính phủ, bao gồm các nghị định, quyết định, quy định… áp dụng chung cho hoạt động XNK hoặc quy định chi tiết cho một số mặt hàng, ngành hàng trong từng thời kỳ như Luật thương mại, Nghị định của Chính phủ quy định về việc phân loại hàng hoá XNK, Quy chế về cấp phép nhập khẩu hàng hoá, Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về kiểm tra sau thông quan đối với hàng hoá XNK, quyết định về việc thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử …
  • Các văn bản của Bộ Kế hoạch đầu tư, bao gồm các quyết định, thông tư, hướng dẫn như hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 109/2004/NĐ-CP của chính phủ về đăng ký kinh doanh, Thông tư Liên tịch hướng dẫn việc nhập khẩu linh kiện ô tô dạng CKD1…
  • Các văn bản của Bộ Thương mại, bao gồm các quyết định, thông tư, hướng dẫn chi tiết hoạt động XNK đối với từng ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh… như Sửa đổi bổ sung thông tư số 04/2005/thị trường-BTC ngày 24/03/2005 của Bộ thương mại về việc điều chỉnh danh mục hàng nhập khẩu áp dụng hạn ngạch thuế quan năm 2005, chương trình ưu đãi Hội nhập ASEAN (AISP), gia công của các doanh nghiệp FDI…
  • Các văn bản của Bộ tài chính, bao gồm các Quyết định, thông tư, hướng dẫn về mặt tài chính, thuế, lệ phí, hạch toán kế toán trong XK, NK nói chung hoặc chi tiết cho từng ngành hàng, mặt hàng…
  • Các văn bản của Tổng cục hải quan hướng dẫn thực hiện thông quan XK, NK cho hàng hoá, dịch vụ… ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Ngoài ra, đối với từng ngành hàng còn có các quy định của các cơ quan chủ quản như của Bộ Y tế, Bộ văn hoá thông tin, Bộ Công nghiệp …

* Pháp luật và tập quán thương mại Quốc tế, bao gồm:

  • Các công ước quốc tế
  • Tập quán thương mại quốc tế như Incoterms, UCP 500 (ICC 1983), URC 522, URR 525, URDG 458, ISBP…
  • Hiệp định song phương và đa phương

2.3.2. Thực trạng các biện pháp đã áp dụng trong quản lý rủi ro của các doanh nghiệp XNK Việt Nam

Cùng với sự phát triển của TMQT, thương mại điện tử, rủi ro cũng ngày càng nhiều và xuất hiện ở khắp nơi, là nỗi lo thường trực của tất cả các doanh nghiệp tham gia vào thị trường XNK.

Trong những năm qua, các DNVN cũng đã tìm mọi cách để hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro có thể phát sinh cũng như giảm thiểu tổn thất. Cụ thể là:

2.3.2.1.  Biện pháp về chiến lược, kế hoạch hoạt động

Các doanh nghiệp đã từng bước xây dựng được chương trình hoạt động, chiến lược kinh doanh đi đôi với kiểm soát rủi ro, bao gồm:

  • Xây dựng và vận hành mô hình tổ chức doanh nghiệp có bộ phận thực hiện kinh doanh và bộ phận kiểm soát rủi ro độc lập Quy trình nghiệp vụ được thống nhất trong toàn doanh nghiệp.
  • Đối với chiến lược kinh doanh dài hạn, doanh nghiệp đã tính đến yếu tố rủi ro thị trường, ngành hàng, mặt hàng và xây dựng mục tiêu doanh thu, lợi nhuận trên cơ sở có dự phòng rủi
  • Đối với từng phương án kinh doanh cụ thể, ngoài việc phân tích doanh thu – chi phí- lãi dự tính, doanh nghiệp còn chủ động đo lường, dự báo rủi ro và các biện pháp dự kiến. Tất cả các đều được lượng hoá

2.3.2.2. Biện pháp liên quan đến kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương

Các doanh nghiệp đã chú trọng và nâng cao chất lượng nghiệp vụ ngoại thương, thực hiện nghiệp vụ XNK theo quy chuẩn, thể hiện ở:

* Mua bảo hiểm cho hàng hoá.

Hiện nay, tham gia XK và NK, các doanh nghiệp đã chủ động mua bảo hiểm hoặc yêu cầu đối tác mua bảo hiểm. Đây được coi là biện pháp san sẻ rủi ro hữu hiệu với chi phí thấp. Thậm chí, trong những năm gần đây, DNVN đã thoát dần khỏi tập quán mua CIF, bán FOB, chủ động giành được quyền mua bảo hiểm.

Tuy nhiên, một thực tế đặt ra là các doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng việc mua bảo hiểm và cũng chưa lường hết được các rủi ro có thể phát sinh. Qua khảo sát tại một vài ngân hàng thương mại, đa phần các doanh nghiệp khi NK theo điều kiện CFR, FOB, thường chỉ xin mua bảo hiểm 100% trị giá hàng hóa và có cả những doanh nghiệp chỉ đăng ký mua điều kiện C, đặc biệt đối với mặt hàng thép. Đến khi ngân hàng yêu cầu mua điều kiện A hoặc tăng trị giá lên thành 110% CIF thì các doanh nghiệp lại không muốn và tranh luận là điều kiện như thế là không cần thiết, rủi ro đó rất ít khi phát sinh. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

* Chủ động đàm phán, ký kết hợp đồng theo hướng có lợi cho doanh nghiệp:

  • Lựa chọn những cán bộ có kỹ thuật nghiệp vụ giỏi, ngoại ngữ tốt tham gia đàm phán, giành được những điều kiện tốt nhất và ít rủi ro nhất.
  • Tham khảo sự tư vấn của các luật sư kinh tế có kinh nghiệm về nội dung hợp đồng, điều khoản trọng tài…
  • Nghiên cứu kỹ đối tác, tình hình thị trường, mặt hàng trước khi đàm phán, xây dựng nhiều phương án khác nhau cho những diễn biến đàm phán khác

* Tổ chức thực hiện hoạt động XNK an toàn, hiệu quả

  • Thực hiện các công đoạn XK, NK hàng hoá theo hướng chuyên môn hoá. Thậm chí với những đoạn việc doanh nghiệp không có đủ nhân lực hay năng lực để làm thì chấp nhận phải thuê ngoài. Chẳng hạn, nhiều doanh nghiệp đã thuê công ty chuyên giao nhận hàng hoá, thuê những công ty giám định độc lập có uy tín kiểm tra hàng hoá hay đề nghị ngân hàng tư vấn, hỗ trợ lập bộ chứng từ XK… Việc thuê ngoài như vậy có thể khiến doanh nghiệp phải chi thêm một số chi phí nhưng bù lại, doanh nghiệp lại tiết kiệm được thời gian, nâng cao được uy tín với đối tác và hạn chế được những rủi ro tác nghiệp do năng lực không đáp ứng yêu cầu công việc.
  • Lựa chọn phương thức thanh toán đảm bảo.

Khi xuất khẩu: Hiện nay, đa phần các doanh nghiệp thường chọn thanh toán bằng L/C và xuất trình bộ chứng từ qua một ngân hàng có uy tín để tăng khả năng được thanh toán. Nhiều doanh nghiệp còn yêu cầu người mua cung cấp bảo lãnh thực hiện hợp đồng do một ngân hàng uy tín phát hành, hoặc L/C cho phép đòi tiền bằng điện. Tuy nhiên, hình thức thanh toán này cũng tạo là một trong những rủi ro mà các doanh nghiệp thường gặp, đó là bị từ chối thanh toán do bộ chứng từ xuất trình có lỗi.

Khi nhập khẩu: Nhiều doanh nghiệp đàm phán được theo phương thức chuyển tiền sau khi nhận hàng hoặc nhờ thu.

Trong quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng, các doanh nghiệp đã thường xuyên kiểm tra, kiểm soát tính tuân thủ quy chế hoạt động chung của nhân viên, diễn biến của giao dịch và kịp thời đưa ra những điều chỉnh hợp lý. Chẳng hạn, khi thấy có rủi ro do giá biến động, doanh nghiệp chủ động đàm phán lại với đối tác; khi thấy người bán có dấu hiệu lừa đảo, nhiều doanh nghiệp đã xin lệnh sai áp của toà án để tạm dừng việc thanh toán. Hay khi có thông tin về tổn thất hàng hoá, doanh nghiệp chủ động và khẩn trương liên hệ với đại lý bảo hiểm đề nghị giám định tổn thất và khiếu nại đòi bồi thường…

2.3.2.3 Các biện pháp về nhân lực,

Các doanh nghiệp đã quan tâm và đầu tư cho vấn đề phát triển nguồn nhân lực, thông qua việc:

  • Đãi ngộ người có trình độ và đạo đức nghề nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp đã áp dụng chế độ khen thưởng, trả lương dựa trên thành tích, do đó, góp phần tạo nên một sự “ganh đua” lành mạnh, khuyến khích nhân viên sáng tạo, tăng chất lượng hoạt động và giảm thiểu rủi ro về trình độ.
  • Chú trọng công tác tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, thường xuyên cử cán bộ tham gia các khoá bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ, luật pháp trong và ngoài nước, kiên quyết đào thải cán bộ kém năng lực và khuyến khích “cạnh tranh” công khai, lành mạnh về công việc, cơ hội thăng tiến.

2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh XNK của các doanh nghiệp Việt Nam ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

  • Những kết quả đạt được

* Thứ nhất, công tác quản lý rủi ro kinh doanh XNK đã nhận được sự chỉ đạo, hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước và các cơ quan quản lý vĩ mô.

Nhà nước và các cơ quan bộ ngành đã luôn quan tâm và đánh giá đúng thực trạng, tiềm năng và vị thế của hoạt động XNK trong giai đoạn hiện nay. Điều này thể hiện rõ trong phát biểu của Thủ tướng tại các kỳ đại hội Đảng và các phiên họp Quốc hội, các báo cáo tổng kết hoạt động ngành thương mại Việt nam của Bộ Thương mại cũng như các Bộ ngành chủ quản. Công tác chỉ đạo, định hướng đã ngày càng sâu sát và thực tế hơn, thực sự phát huy tác dụng hỗ trợ doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động đúng hướng và năm sau phát triển hơn năm trước.

Đồng thời, trong công tác quản lý rủi ro KD XNK, các cơ quan quản lý đã tăng cường, đề cao việc giám sát, tuyên truyền cũng như cảnh báo về nguy cơ rủi ro có thể phát sinh cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN. Điều đó thể hiện thông qua hàng loạt những hành động cụ thể như:

  • Chính phủ thường xuyên chỉ đạo Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Tổng cục hải quan rà soát các văn bản, quy định hiện hành, kịp thời chỉnh sửa, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp XNK, nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
  • Các Bộ chủ quản như bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Y tế… đã giúp các doanh nghiệp định hướng ngành nghề, thị trường, thống nhất hoá hoạt động của các doanh nghiệp, góp phần hạn chế cạnh tranh nội bộ lẫn nhau và giảm thiểu rủi ro do hoạt động tự phát, manh mún.
  • Thông qua các cơ quan xúc tiến thương mại, kịp thời thông tin, tư vấn cho các doanh nghiệp về tình hình thị trường, giá cả, mặt hàng. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp lần đầu tiên tham gia kinh doanh XNK, sẽ được tư vấn và hướng dẫn về quy trình nghiệp vụ, phân tích và kiểm soát rủi ro…
  • Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), phối hợp với các cơ quan hành pháp, TTTTQT Việt Nam (VIAC) và các trường đào tạo khối kinh tế, thường xuyên tổ chức các hội thảo, nói chuyện chuyên đề, các khoá bồi dưỡng về kinh doanh XNK, rủi ro và cách phòng tránh.

* Thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp đã có ý thức tiếp cận và chủ động tiến hành hoạt động quản lý rủi ro XNK, dù mức độ quan tâm khác nhau.

Trong những năm gần đây, do đã đánh giá đúng tác động của rủi ro đến hoạt động kinh doanh XNK nên hầu như doanh nghiệp nào cũng tính đến việc quản lý rủi ro. Có thể cách thức quản lý rủi ro của mỗi doanh nghiệp là khác nhau nhưng nhìn chung, các doanh nghiệp đã tìm mọi cách trong khả năng có thể của mình để đề phòng, hạn chế và kiểm soát rủi ro. Phương pháp tiếp cận và quản lý rủi ro của rất nhiều doanh nghiệp đã thay đổi theo hướng tích cực, thay vì xác định rủi ro theo cảm nhận chủ quan, thì nay, họ đã từng bước xây dựng những cách thức phân tích, kiểm soát mới mang tính khoa học và logic. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn thường xuyên NK hàng hoá với khối lượng lớn từ những thị trường cố định, đã xây dựng hẳn những phần mềm quản trị trong đó có tính đến yếu tố rủi ro nào thường xuyên phát sinh với mỗi mặt hàng, chi phí liên quan đến việc giảm thiểu, hạn chế rủi ro, tổn thất biến động theo chu kỳ như thế nào…

* Thứ ba, việc tăng cường quản lý rủi ro XNK đã từng bước đem lại kết quả tích cực, góp phần giảm bớt những thiệt hại, tổn thất trong hoạt động XNK và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNVN.

Thực tiễn cho thấy, hoạt động XNK của các DNVN đã tăng trưởng, phát triển rất nhanh cả về quy mô và chất lượng. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động và mạnh dạn hơn trong kinh doanh quốc tế, nghiên cứu kỹ thị trường, mặt hàng, đối tác và “cẩn thận” hơn trong thực hiện hợp đồng.

Có được những thành công to lớn đó, một phần không nhỏ là nhờ công tác tăng cường quản lý rủi ro kinh doanh XNK, thể hiện ở chính cách thức các doanh nghiệp xây dựng chiến lược KD có tính đến yếu tố rủi ro, cách thức doanh nghiệp tổ chức thực hiện hoạt động XK, NK và kiểm soát chất lượng hoạt động. Mặc dù không có số liệu thống kê đầy đủ nhưng qua tổng kết trong những năm gần đây, có thể thấy số lượng những vụ rủi ro, thiệt hại, tổn thất do nguyên nhân chủ quan mang lại trong hoạt động XNK đã giảm đáng kể. Các doanh nghiệp đã cảnh giác hơn với nạn lừa đảo bằng bộ chứng từ giả, tàu “ma” hay các hợp đồng mua bán “giá hời”. Ý thức phải “sống chung với rủi ro” đã giúp các doanh nghiệp “hạn chế rủi ro, gia tăng lợi nhuận”.

2.3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực trong công tác quản lý rủi ro kinh doanh XNK, nhưng, xét trên phương diện toàn xã hội thì hiệu quả của công tác này là chưa cao. Nếu có doanh nghiệp thành công trong việc kiểm soát rủi ro thì vẫn còn nhiều doanh nghiệp, dù ý thức về vấn đề này, nhưng vì lý do khách quan, chủ quan, đã chưa thể ngăn chặn được rủi ro. Thậm chí, rất nhiều doanh nghiệp còn có quan niệm “đề phòng rủi ro là chính, chứ rủi ro chắc gì đã xảy ra với doanh nghiệp mình”.

Những hạn chế này thể hiện ở:

* Thứ nhất, môi trường pháp lý của hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh XNK còn nhiều bất cập.

Có thể nói, cơ sở pháp lý để quản lý và điều hành hoạt động XNK của các DNVN là khá đầy đủ và chi tiết. Đồng thời, khi tham gia vào thương mại quốc tế, các DNVN còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật và tập quán TMQT.

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp vẫn còn bị chia cắt, tách bạch áp dụng riêng cho từng thành phần kinh tế. Do đó, doanh nghiệp có cùng loại hình pháp lý nhưng khác nhau về thành phần kinh tế thì được quy định khác nhau về thủ tục, điều kiện gia nhập và rút khỏi thị trường, cơ chế “xin- cho”, “phê duyệt”… Những khiếm khuyết của từng luật đã làm hạn chế khả năng cạnh tranh của môi trường KD ở nước ta, không đáp ứng được các yêu cầu của phát triển kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

Giới doanh nghiệp than phiền về tình trạng nội dung một số văn bản đã tỏ ra “hụt hơi” so với tốc độ phát triển của một lĩnh vực kinh tế nào đó. Có không ít những chính sách chưa theo kịp yêu cầu quản lý và tốc độ phát triển của các mối quan hệ kinh tế, nội dung hướng dẫn lại chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Đặc biệt, các thủ tục hải quan, thuế, các chuẩn mực về kế toán… dù có cải thiện nhưng tốc độ và mức độ cải thiện chậm hơn các nước chung quanh nên vẫn hạn chế sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Sự đa dạng trong hệ thống pháp luật quản lý sẽ là một điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp phát huy tốt năng lực nội tại, hạn chế rủi ro nếu doanh nghiệp hiểu và áp dụng đúng các quy định có liên quan đến hoạt động của mình. Song, đây cũng là “con dao hai lưỡi” nếu doanh nghiệp hiểu sai hoặc không biết Luật, áp dụng sai, bừa bãi, tuỳ tiện vào hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp mình.

* Thứ hai, phần lớn các doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng và tuân thủ triệt để bốn nguyên tắc về quản lý rủi ro kinh doanh XNK.

Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có những biện pháp kiểm soát và quản lý rủi ro khác nhau sao cho phù hợp nhất với tính chất, đặc thù của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, về cơ bản họ vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc trong kinh doanh XNK như đã nêu ở phần 1.2.2 của chương 1.

Trên thực tế, việc thực hiện các nguyên tắc này ở các doanh nghiệp XNK còn rất nhiều bất cập và mang tính hình thức, thể hiện ở chỗ:

Đối với nguyên tắc: Không có rủi ro thì không có lợi nhuận

Hầu hết đội ngũ lãnh đạo của các doanh nghiệp đều nắm rõ vấn đề này nhưng khoảng cách từ việc biết, hiểu đến vận dụng đúng vẫn còn khá lớn.

  • Nhiều doanh nghiệp muốn thâm nhập vào một thị trường mới, một lĩnh vực mới nhưng lại sợ rủi ro, không mạnh dạn đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh. Chính điều này lại gián tiếp dẫn tới một rủi ro khác, đó là rủi ro về mất cơ hội KD, thị phần, thị trường và giảm sút lợi nhuận cũng như kinh nghiệm thương trường. Thực tế này thường xuất hiện ở các doanh nghiệp XNK trực thuộc nhà nước quy mô nhỏ.
  • Nhiều doanh nghiệp chưa có định hướng đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa rủi ro- lợi nhuận. Những doanh nghiệp mới tham gia lĩnh vực XNK, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, thường chưa có nhiều kinh nghiệm thương trường quốc tế nên quan niệm về lợi nhuận – rủi ro còn đơn giản, chưa có tâm lý “đề phòng rủi ro”. Hoạt động XK, NK càng mở rộng và phát triển, doanh nghiệp càng cần phải định dạng được rủi ro để phòng tránh và hạn chế. Với quy mô nhỏ, uy tín chưa được khẳng định, rủi ro kéo dài và phức tạp sẽ khiến doanh nghiệp mất chỗ đứng trên thị trường. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Đối với nguyên tắc: Phân tách người chấp nhận rủi ro và người kiểm soát rủi ro.

Đây là một trong những yếu điểm của các DNVN.

  • Nhiều doanh nghiệp khi xây dựng kế hoạch XNK dài hạn, ngắn hạn, chủ yếu chỉ dựa vào kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp hoặc người quản lý. Thậm chí nhiều khi rủi ro của các hợp đồng lại xuất phát từ chính nhận định chủ quan của lãnh đạo doanh nghiệp và quyết định của đội ngũ lãnh đạo.
  • Chưa có nhiều doanh nghiệp hình thành bộ phận kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro trong KD. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp coi việc đàm phán, thương thảo được một hợp đồng với giá rẻ hay hàng hoá đã có sẵn, kịp thời vụ là quan trọng hơn cả. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng không có một bộ phận kiểm soát độc lập, phân tích mọi tình huống rủi ro có thể phát sinh. Thậm chí, định kỳ hàng quý, hàng tháng, cũng không có bộ phận kiểm soát tính tuân thủ về hạn chế rủi ro. Do đó, nhiều khi rủi ro xảy ra rồi, doanh nghiệp mới giật mình vì đã không tính đến những rủi ro như vậy. Đặc biệt, nhiều công ty kinh doanh XNK còn khoán doanh thu, lợi nhuận cho từng phòng ban trực thuộc với những chức năng như nhau. Dựa vào đó, từng phòng, từng bộ phận lại lên kế hoạch và chiến lược kinh doanh riêng. Kết quả là, đôi khi sự cạnh tranh sẽ dẫn đến thực tế là lợi nhuận từng bộ phận hưởng nhưng rủi ro sẽ do công ty gánh chịu.

Đối với nguyên tắc: Công khai về rủi ro có thể phát sinh

Tỷ lệ và mức độ các doanh nghiệp XNK ở Việt Nam công khai về rủi ro trong hoạt động KD đến từng cán bộ, nhân viên là rất thấp. Công khai hoá rủi ro sẽ giúp cho những người khác, những bộ phận khác trong cùng một doanh nghiệp rút được kinh nghiệm trong những giao dịch sau đó. Nguyên nhân của việc các doanh nghiệp chưa công khai được rủi ro trong hoạt động là:

  • Ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân của người gây ra rủi ro
  • Đội ngũ lãnh đạo chưa đủ bản lĩnh để công khai rủi ro
  • Chính sách của công ty chưa cho phép việc công khai rủi ro
  • Không có bộ phận đảm nhiệm việc thông tin nội bộ về rủi ro…

Đối với nguyên tắc: Tuyệt đối tuân thủ

Các doanh nghiệp KD XNK ở Việt Nam cũng chưa thực sự coi trọng nguyên tắc này. Phần lớn doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, DNVVN chưa xây dựng được bản mô tả chính xác về công việc những như yêu cầu, trách nhiệm đối với từng thành viên. Do đó, họ cũng không thể có được cơ sở để kiểm tra tính tuân thủ của từng nhân viên so với quy định của doanh nghiệp và khi rủi ro xảy ra, cũng không thể áp dụng các biện pháp, chế tài hợp lý và có sức thuyết phục.

* Thứ ba, công tác quản lý rủi ro chưa được thực hiện đồng đều và rộng khắp tại các doanh nghiệp kinh doanh XNK, chủ yếu tập trung tại các doanh nghiệp lớn.

Thực tế khảo sát tại các doanh nghiệp KD XNK cho thấy, công tác quản lý rủi ro XNK vẫn mang tính tự phát, chưa thực sự trở thành một yêu cầu mang tính bắt buộc và cũng không có quy chuẩn. Tuỳ thuộc vào mức độ đánh giá của từng doanh nghiệp mà công tác quản lý rủi ro có thể rất chi tiết, quan trọng ở doanh nghiệp này nhưng lại rất hời hợt ở doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực KD, đặc biệt, tại các DNVVN.

Lý do một phần vì các doanh nghiệp chưa được định hướng rõ ràng về tính cấp thiết của việc quản lý rủi ro, mặt khác, tâm lý “không sợ rủi ro vì giao dịch trị giá nhỏ” vẫn còn khá phổ biến. Tuy nhiên, lý do lớn hơn vẫn xuất phát từ thực tế là các doanh nghiệp không có được một chuẩn mực về quản lý rủi ro, quản lý rủi ro không được thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ quá trình hoạt động, giai đoạn nào, giao dịch này cảm thấy rủi ro thì mới tiến hành phân tích và tìm biện pháp đối phó. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

* Thứ tư, kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng cho công tác quản lý rủi ro chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Kiến trúc thượng tầng bao gồm các cơ chế chính sách, quy trình, quy chế, hướng dẫn… từ các cấp quản lý vĩ mô nhằm mục đích định hướng cho doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống công nghệ, thông tin, tư vấn pháp lý, nghiệp vụ…

Trên thực tế, các doanh nghiệp chủ yếu mới chỉ tiếp cận được với các văn bản luật và dưới luật về quản lý hoạt động KD XNK, trong khi đó, các quy trình, cơ chế định hướng, hỗ trợ công tác quản lý rủi ro KD XNK tại các doanh nghiệp chưa có nhiều và không đồng bộ.

Hơn nữa, tốc độ phát triển của hệ thống công nghệ, thông tin tuyên truyền, tư vấn chưa theo kịp tốc độ phát triển của hoạt động kinh doanh, và chi phí cũng khá đắt. Mong muốn của tất cả các doanh nghiệp là có thể tận dụng, tranh thủ được cơ sở vật chất chung về công nghệ thông tin hiện đại để tìm hiểu thông tin, tiếp cận thị trường thay vì phải đầu tư quá nhiều từ nguồn vốn tự có hạn hẹp. Có những doanh nghiệp, dù xác định là cần phải đầu tư cho việc tìm hiểu về đối tác, thị trường trước khi quyết định ký kết hợp đồng nhưng do chi phí quá tốn kém và không biết hạch toán dự chi như thế nào nên đã không tiến hành nữa.

Như vậy phải chăng công tác quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh XNK của các doanh nghiệp Việt Nam là quá phức tạp và các doanh nghiệp Việt Nam không thể đưa ra được những giải pháp hữu hiệu để kiểm soát rủi ro một cách tuyệt đối và triệt để?

Chương III của luận văn xin phép được đưa ra một số gợi ý về giải pháp cho vấn đề này. ( Luận văn Thực trạng quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu )

Mời bạn tham khảo thêm:

 Luận văn giải pháp quản lý rủi ro kinh doanh xuất nhập khẩu ở doanh nghiệp

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993