Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước

Rate this post

Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước là một bài luận văn được giáo viên chấm điểm cao được triển khai thực hiện dưới sự tác động có tổ chức, có định hướng của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người bằng quyền lực nhà nước, làm cho các hoạt động của nhà nước và các lĩnh vực của đời sống xã hội vận động, phát triển theo một trật tự nhất định, nhằm thực hiện mục đích quản lý nhà nước. Nhận định được sự quan trọng của vấn đề, tác giả đã lựa chọn Đề tài Luận văn: Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính Nhà nước dưới đây.

Nội dung chính

I. Thực tiến áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính ở Việt nam.

Văn phòng Chính phủ đã được Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng giao nhiệm vụ nghiên cứu và thực hiện Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước từ năm 1990.

Thực hiện nhiệm vụ đó, trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1997, Văn phòng Chính phủ đã triển khai 4 Đề án, trong đó có 2 Đề án do Chính phủ Pháp tài trợ (giai đoạn 1991 – 1993 và giai đoạn 1994 – 1996); một Đề án do ngân sách nhà nước đầu tư theo chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (giai đoạn 1996 – 1998); một Đề án mạng tin học diện rộng của Chính phủ theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 280/TTg ngày 29 tháng 4 năm 1997.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật do 4 Đề án nói trên tạo lập được trong thời gian qua đã đặt nền móng cho công tác tin học hóa quản lý và điều hành trong các cơ quan hành chính nhà nước trên phạm vi cả nước; thúc đẩy việc hình thành các hệ thống thông tin, các kho dữ liệu điện tử, phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền các cấp.

Theo Quy chế làm việc của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 11/CP ngày 24 tháng 1 năm 1998 của Chính phủ, từ năm 1998, Chính phủ giao cho Văn phòng Chính phủ thống nhất quản lý mạng tin học diện rộng của Chính phủ; nói cách khác là thống nhất chỉ đạo công tác tin học hóa quản lý hành chính nhà nước trong phạm vi Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp.

Để đồng bộ với Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010, Thủ tướng Chính phủ quyết định Đề án tổng thể tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 với những nội dung chủ yếu sau đây và giao Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp triển khai thực hiện.

1. Cơ sở của đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 dựa trên các cơ sở sau đây:

  • Nghị quyết của Chính phủ số 49/CP ngày 04 tháng 8 năm 1993 về phát triển công nghệ thông tin ở nước ta trong những năm 90 và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 211/TTg ngày 07 tháng 4 năm 1995 đã xác định quản lý nhà nước là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin theo đó, chương trình tin học hóa quản lý nhà nước đã được Chính phủ quyết định đầu tư bước đầu trong khuôn khổ chương trình quốc gia về công nghệ thông tin giai đoạn 1996 – 1998, trong đó có cả dự án đầu tư mạng tin học diện rộng của Chính phủ (kết quả đầu tư sẽ thể hiện ở phần sau).
  • Chỉ thị số 58/CT-TW ngày 17 tháng 10 năm 2000 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Khóa 8 đã nêu nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin đối với các cơ quan Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2001 – 2005 như sau: “các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội đi đầu trong việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động theo phương châm bảo đảm tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả lâu dài. Tin học hóa hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước là bộ phận hữu cơ quan trọng của cải cách nền hành chính quốc gia, là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan nhằm tăng cường năng lực quản lý, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Các cấp ủy, tổ chức Đảng chỉ đạo khẩn trương xây dựng các hệ thống thông tin cần thiết phục vụ lợi ích công cộng của nhân dân, phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Sớm hoàn thiện, thường xuyên nâng cấp và sử dụng có hiệu quả mạng thông tin diện rộng của Đảng và Chính phủ. Bảo đảm đến năm 2005, về cơ bản xây dựng và đưa vào hoạt động hệ thống thông tin điện tử của Đảng và Chính phủ”.
  • Quyết định của Chính phủ về việc ký kết Hiệp định khung E-ASEAN (ASEAN điện tử) tại Hội nghị cấp cao không chính thức lần thứ 4 tại Singapore ngày 24 tháng 4 năm 2000, trong đó, theo Điều 3 và Điều 9, Việt Nam cam kết thực hiện mục tiêu xây dựng Chính phủ điện tử.
  • Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 đã đề ra mục tiêu hiện đại hóa nền hành chính nhà nước, theo đó, đến năm 2010, xây dựng và đưa vào vận hành mạng điện tử – tin học thống nhất của Chính phủ với hai giai đoạn 2001 – 2005; 2006 –

2. Một số đánh giá tổng quát tình hình tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước trong thời gian qua ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Năm 1990, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng đã phê duyệt dự án ứng dụng tin học và kỹ thuật thông tin tại Văn phòng Chính phủ (Công văn số 1265/TH ngày 24 tháng 4 năm 1990 của Văn phòng Chính phủ thông báo Quyết định của Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng).

Nhiệm vụ của dự án là tin học hóa hệ thống thông tin quản lý tại Văn phòng Chính phủ, đồng thời hỗ trợ một phắn thiết bị, công nghệ, đào tạo cán bộ cho 10 Bộ, 10 tỉnh trọng điểm, chuẩn bị điều kiện để xây dựng mạng tin học cục bộ ở các Bộ, địa phương, tiến tới hình thành mạng thông tin diện rộng kết nối đến tất cả các Bộ, ngành và địa phương.

Đến cuối năm 1993, Văn phòng Chính phủ đã xây dựng được mạng tin học cục bộ (LAN) và bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào công tác chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ, nối kết thông tin với một số Bộ và ủy ban nhân dân các tỉnh trọng điểm.

Mặc dù việc ứng dụng tin học tại Văn phòng Chính phủ giai đoạn đầu còn sơ khai, công nghệ ứng dụng mới, nhưng được sự quan tâm chỉ đáo của

Thủ tướng Chính phủ, công tác tin học hóa quản lý hành chính nhà nước tại Văn phòng Chính phủ đã đặt nền móng cho công tác tin học hóa quản lý và điều hành trong các cơ quan hành chính nhà nước trên phạm vi toàn quốc.

Sau khi ban hành Nghị quyết số 49/CP về phát triển công nghệ thông tin (tháng 8 năm 1993), Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch 5 năm (1995 – 2000) triển khai Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin. Trong giai đoạn 1996 – 1998, Chương trình đã tập trung khoảng 50% kinh phí (160 tỷ đồng) cho mục tiêu tin học hóa hệ thống thông tin quản lý nhà nước. Bước đầu xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho việc tin học hóa quản lý nhà nước và ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý chuyên ngành.

Trên cơ sở hạ tầng kỹ thuật này, các cơ quan hành chính nhà nước đã từng bước triển khai các hệ thống thông tin, các kho dữ liệu điện tử phục vụ cho công tác quản lý, điều hành của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và các cơ quan chính quyền các cấp.

Đến nay, hệ thống mạng tin học cục bộ tại 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và ở hầu hết các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đã được thiết lập. Hệ thống này bao gồm cả các hệ thông tin tác nghiệp, quản lý hồ sơ công việc và các kho dữ liệu phục vụ nghiên cứu, trợ giúp quá trình ra quyết định điều hành.

Mạng tin học diện rộng của Chính phủ được thiết lập để liên kết mạng tin học trung tâm của 61 tỉnh, thành phố và gần 40 cơ quan chủ chốt của Chính phủ với quy mô 2.500 máy trạm, 180 máy chủ trên phạm vi toàn quốc và 50 chương trình ứng dụng khác nhau. Với mạng tin học diện rộng của Chính phủ, các cơ quan hành chính nhà nước đã thực hiện việc truyền, nhận thông tin đa chiều, bao gồm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống báo cáo định kỳ, đột xuất và thư tín điện tử…, bảo đảm nhanh chóng, an toàn, phục vụ có hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước.

Cùng với việc xây dựng mạng tin học diện rộng của Chính phủ, 6 cơ sở dữ liệu quốc gia đã được triển khai, bao gồm: Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính, thống kê kinh tế – xã hội, pháp luật, tài nguyên đất và dân cư. Đến cuối năm 1999, các Đề án cơ sở dữ liệu quốc gia này đã hoàn thành luận chứng khả thi. Trong đó, hai cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính, thống kê đã có số liệu phục vụ tốt cho công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.

Công tác đào tạo tin học đã được tiến hành đồng bộ với việc xây dựng hệ thống tin học trong các cơ quan hành chính nhà nước. Hàng vạn lượt chuyên viên, cán bộ đã được đào tạo qua các lớp tin học cơ bản và trên thực tế đã sử dụng được máy tính ở các mức độ khác nhau vào công việc chuyên môn của mình; đặc biệt trong số đó, một tỷ lệ tương đối lớn đã sử dụng có hiệu quả công cụ tin học để truy nhập, trao đổi thông tin trên mạng, phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Cuối năm 1997, Việt Nam đã tham gia mạng INTERNET. Nhiều thông tin khai thác được trên mạng INTERNET đã góp phần đáng kể về thông tin, tư liệu, giúp cho công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác trong việc hoạch định chính sách.

Tuy nhiên, so với mục tiêu tin học hóa hệ thống thông tin điều hành đã đề ra trong Nghị quyết số 49/CP ngày 05 tháng 8 năm 1993 của Chính phủ, kết quả đạt được trên thực tế còn rất khiêm tốn. ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này là các cấp, các ngành, địa phương chưa nhận rõ vai trò của công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo, điều hành; chưa kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin với quá trình cải cách hành chính, đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý; biểu hiện cụ thể như sau:

Về điều hành vĩ mô: Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin được đầu tư từ năm 1996 và kết thúc vào đầu năm 1998 với kinh phí 280 tỷ đồng; trong đó có nhiệm vụ tin học hóa tại các cơ quan hành chính nhà nước với kinh phí khoảng 160 tỷ đồng. Trong bối cảnh đó, nhiều hạng mục lớn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong kế hoạch tổng thể chưa triển khai thực hiện được.

Các dự án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước của các Bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng mới chỉ thực hiện được một phần. Vốn đầu tư cho tin học hóa 160 tỷ đồng trong 3 năm 1996 – 1998 mới chỉ đáp ứng 20 – 25% nhu cầu kinh phí của các Đề án đã được duyệt của 100 cơ quan hành chính cấp Bộ, cấp tỉnh.

Theo điều tra của Văn phòng Chính phủ, đa số các Đề án tin học hóa bị ngừng lại; một số cơ quan có khả năng tiếp tục đầu tư cho các mục tiêu tin học hóa quản lý nhà nước, nhưng phát triển theo hướng công nghệ riêng; một số cơ quan khác thì chờ chủ trương phát triển thống nhất chung của Chính phủ. Các cơ sở dữ liệu quốc gia mới chỉ được đáp ứng khoảng 10% nhu cầu vốn đầu tư (30 tỷ đồng). Do vậy các cơ sở dữ liệu quốc gia chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành luận chứng khả thi và triển khai thử nghiệm, tang chờ vốn để tiếp tục triển khai Đề án.

Cát cứ thông tin xuất hiện : Nhiều Bộ, ngành coi thông tin quản lý của mình là thông tin riêng của ngành, không coi đó là tài sản quốc gia hoặc cung cấp dữ liệu tổng hợp không đầy đủ để các cơ quan khác có đủ thông tin phục vụ cho việc hoạch định chính sách và ra quyết định. Nhiều cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước ở cấp Trung ương và địa phương có thói quen tích lũy thông tin riêng, nên khi có thông tin thuộc phạm vi mình phụ trách đã không cập nhật vào mạng tin học để sử dụng

Dữ liệu trên mạng tin học: Hệ thống kỹ thuật hạ tầng công nghệ thông tin đã được xây dựng ở một trình độ nhất định, cho phép thực hiện việc truyền, nhận thông tin đa chiều. Thông tin phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý hành chính có nhiều, nhưng việc tích lũy thông tin dưới dạng điện tử chỉ mới dừng ở mức thấp; đến nay mới tích lũy trên mạng ở một số loại thông tin cơ bản. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là các cấp, các ngành chưa kiên quyết gắn việc ứng dụng công nghệ tin học với xử lý công việc hàng ngày, chưa thực hiện tốt kỷ cương hành chính trong việc cập nhật thông tin điện tử, chưa cải cách hành chính đủ mạnh để đưa hệ thống ứng dụng tin học vào guồng máy hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.

Về tổ chức bộ máy : Cho đến nay vẫn chưa có quy định chung về vị trí, chức năng, nhiệm vụ đối với các đơn vị chủ trì các Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước; thậm chí không có ngạch công chức, không có chức danh cho cán bộ làm công tác tin học. Vì lý do này, các cơ quan hành chính nhà nước đã không thu hút được chuyên gia kỹ thuật giỏi, do đó, việc tiếp thu chuyển giao công nghệ, chỉ đạo triển khai các dự án ứng dụng rất bị hạn chế; các nguyên tắc của hệ thống mở, các chuẩn chung về công nghệ và thông tin không được giám sát chặt chẽ.

Về cơ chế tài chính: Từ năm 1998, kinh phí cho tin học hóa quản lý hành chính nhà nước chuyển sang nguồn ngân sách chi thường xuyên, do vậy các Bộ, ngành, địa phương không đủ kinh phí đầu tư để hoàn thành các Đề án tin học hóa, không thể tiếp tục triển khai các ứng dụng cơ bản trong quản lý, điều hành. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật tin học của nhiều cơ quan hành chính nhà nước, về cơ bản, đến nay vẫn như tình trạng của năm

Do cước phí truyền tin quá cao, những Bộ, ngành truy cập nhiều trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ đã phải chi đến hàng chục triệu đồng/tháng cho đường trục truyền thông Bắc – Nam. Văn phòng ủy ban nhân dân các địa phương cũng phải chi phí hàng triệu đồng/tháng cho việc vận hành mạng diện rộng. Trong khi đó nguồn ngân sách chi thường xuyên của các cơ quan hành chính còn hạn hẹp, dẫn đến việc nhiều Bộ, ngành, ủy ban nhân dân địa phương phải hạn chế sử dụng mạng vì chi phí cao của đường truyền. Điều này đã hạn chế hiệu quả sử dụng mạng tin học và hạn chế hiệu quả quản lý, điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước.

Về kỹ năng sử dụng mạng tin học trong công việc thường xuyên của đội ngũ công chức: Mặc dù đã được đào tạo, song cán bộ, công chức chưa thực sự quen với cách làm việc trên mạng máy tính (cập nhật, phối hợp xử lý…), mà chủ yếu là xử lý văn bản và khai thác số liệu có sẵn trên mạng.

Từ thực tiễn triển khai Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin trong các năm 1996 -1998, trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại, yếu kém, có thể rút ra một số bài học sau đây:

Một là, Tin học hóa quản lý hành chính nhà nước là công việc phức tạp vì dựa trên cơ sở công nghệ cao và liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước, đến quá trình cải cách hành chính, đòi hỏi tính thống nhất cao trong toàn hệ thống hành chính nhà nước. Do đó, phải có bộ phận tin học chuyên trách chịu trách nhiệm điều phối thống nhất công việc tin học hóa.

Hai là, Không thể coi tin học hóa hệ thống thông tin quản lý nhà nước là công việc dịch vụ đơn thuần, mà đó chính là quá trình tạo dữ liệu thông tin điện tử nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác điều hành, là chìa khóa để cải cách hành chính. Quá trình tin học hóa đến nay mới chỉ bắt đầu và còn kéo dài trong nhiều năm, vì vậy, không thể xếp nó vào loại hình công việc sự vụ thường xuyên và theo đó, áp dụng quy chế bảo đảm kinh phí như đối với loại công việc sự vụ thường xuyên.

Ba là, Đầu tư cho công tác tin học hóa quản lý nhà nước còn quá ít so với đầu tư cho các hệ thống tin học hóa nghiệp vụ của các ngành ngân hàng, tài chính, hàng không…. Vì vậy phải đầu tư ở mức độ đủ để bảo đảm cho hệ thống hoạt động đồng bộ.

Bốn là, Coi trọng công tác đào tạo tin học cho đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước. Hệ thống dù có xây dựng tốt đến đâu về công nghệ vẫn không thể vận hành tốt nếu chính cán bộ, công chức, người làm việc trong hệ thống hành chính chưa biết vận hành máy tính và chưa có kỷ luật vận hành máy tính.

Năm là, Coi trọng việc xây dựng kho dữ liệu, đặc biệt là các kho dữ liệu quốc gia và các kho dữ liệu chuyên ngành, lãnh thổ; có cơ chế quản lý tin học hóa để tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tin học hóa với tư cách là một bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

Sáu là, Phải có biện pháp về tổ chức, về cán bộ đối với các đơn vị làm công tác tin học trong các cơ quan hành chính theo một quy chế thống nhất, vì không có tổ chức thống nhất thì không thể xây dựng được hệ thống thống nhất.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

3. Nội dung tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

  • Mục tiêu

Đề án được xây dựng theo mục tiêu chung đã được nêu trong Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17 tháng 10 năm 2000 của Bộ Chính trị là: “đến năm 2005, về cơ bản phải xây dựng và đưa vào hoạt động hệ thống thông tin điện tử của Đảng và Chính phủ…” nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp.

Trong khuôn khổ của Đề án này, mục tiêu chung đó được thể hiện trên các mặt:

Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước; đến cuối răm 2005, đưa hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ vào hoạt động.

Bám sát các mục tiêu của Chương trình cải cách hành chính nhà nước, thúc đẩy mạnh mẽ việc hiện đại hóa công nghệ hành chính, thực hiện tin học hóa các quy trình phục vụ nhân dân trong các lĩnh vực dịch vụ công, nâng cao năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân và doanh nghiệp được thuận tiện, nhanh gọn và chất lượng cao.

Đào tạo tin học cho cán bộ, công chức nhà nước, tạo khả năng tiếp cận, sử dụng công nghệ mới trong công việc thường xuyên, nhằm đáp ứng yêu cầu cao về hiệu quả và chất lượng công việc.

  • Mục tiêu cụ thể.

Xây dựng các hệ thống tin học hóa quản lý hành chính nhà nước, phục vụ trực tiếp công tác chỉ đạo điều hành trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Hoàn thiện và thống nhất áp dụng các chương trình ứng dụng phục vụ quản lý, điều hành (thư tín điện tử, gửi nhận văn bản điện tử, quản lý hồ sơ công việc, quản lý cán bộ,…).

Tổ chức xây dựng và tích hợp các cơ sở dữ liệu quốc gia, trước hết là ở những Bộ, ngành trọng điểm (kể cả 6 cơ sở dữ liệu quốc gia đã có Đề án): Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng, Thương mại, Hải quan, Lao động, Tư pháp, Giáo dục, Y tế để sử dụng

Tin học hóa các dịch vụ công nhằm nâng cao năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc phục vụ nhân dân và doanh nghiệp thuận tiện, nhanh gọn và bảo đảm chất lượng.

Đào tạo tin học: phổ cập công nghệ thông tin cho cán bộ lãnh đạo, chuyên viên và cán bộ nghiệp vụ của các cơ quan hành chính cấp huyện trở lên để có đủ khả năng sử dụng máy tính và mạng máy tính trong xử lý công việc thường xuyên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.

Thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, cải cách bộ máy tổ chức và lề lối làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước thuộc phạm vi thẩm quyền của Chính phủ trên cơ sở gắn mục tiêu tin học hóa quản lý hành chính nhà nước với chương trình cải cách hành chính của Chính phủ. ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước)

  • Phạm vi, đối tượng tin học hóa của Đề án bao gồm:

Hệ thống thông tin phục vụ quản lý, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương.

Công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo các cấp ở Trung ương và địa phương.

Hoạt động cung cấp dịch vụ công của các cơ quan hành chính nhà nước đối với nhân dân và doanh nghiệp.

  • Các nhóm Đề án mục tiêu.

Nhóm Đề án 1. Tin học hóa quản lý hành chính nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ:

Mỗi Bộ, ngành cần xây dựng hệ thống thông tin tin học hóa thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cơ quan để phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.

Trong năm 2001, tiếp tục phát triển kết quả tin học hóa trong giai đoạn 1996 – 2000, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật mạng, đưa chương trình quản lý hồ sơ công việc, thư tín điện tử vào hoạt động, bảo đảm mọi cán bộ, chuyên viên có thể trao đổi thông tin trên mạng và truy nhập vào trang thông tin điện từ của Chính phủ.

Thực hiện chuẩn hóa thông tin thuộc lĩnh vực mình quản lý, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Tổng cục Thống kê và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành các chuẩn thông tin và công nghệ trong tin học hóa quản lý hành chính nhà nước.

Năm 2002 – 2003, xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu của Bộ; trên cơ sở mạng diện rộng của Chính phủ, mở rộng mạng tin học của Bộ đến ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhằm phục vụ sự chỉ đạo nghiệp vụ của Bộ đối với các Sở, Ban, ngành; xây dựng trang thông tin điện tử của Bộ phục vụ quá trình ra quyết định; đồng thời chia sẻ thông tin chung với các cơ quan hành chính nhà nước khác.

Năm 2004 – 2005, tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các kho thông tin dữ liệu chuyên ngành, đưa các công cụ hỗ trợ ra quyết định vào các kho dữ liệu điện tử.

Đối với Bộ, ngành được giao nhiệm vụ thực hiện các loại dịch vụ công như: đăng ký, quản lý, cấp giấy phép… cần lập các đề án riêng để tin học hóa dịch vụ công nhằm nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân và doanh nghiệp.

Nhóm Đề án 2. Tin học hóa quản lý hành chính nhà nước của ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần xây dựng hệ thống thông tin tin học hóa phục vụ sự chỉ đạo điều hành của Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Trong năm 2001, tiếp tục phát triển kết quả tin học hóa trong giai đoạn 1996 – 2000, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật mạng, đưa chương trình quản lý hồ sơ công việc, thư tín điện tử vào hoạt động, bảo đảm mọi cán bộ, chuyên viên có thể trao đổi thông tin trên mạng tin học của tỉnh và truy nhập vào trang thông tin điện tử của Chính phủ.

Năm 2002 ‘- 2008, xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, kết nối các đơn vị cấp Sở, quận huyện với trung tâm mạng tin học quản lý hành chính của tỉnh; tùy theo khả năng và điều kiện, có thể mở rộng dần đến các đơn vị chính quyền cấp cơ sở. Cuối năm 2003, phải hình thành trung tâm dữ liệu kinh tế – xã hội của tỉnh, thành phố.

Năm 2004 – 2005, tiếp tục hoàn thiện, mở rộng hạ tầng thông tin và công nghệ của giai đoạn trước, từng bước thực hiện tin học hóa các quy trình phục vụ nhân dân trong các lĩnh vực quản lý nhà, đất, xây dựng, đăng ký kinh doanh…. tạo cho người dân tham gia trao đổi thông tin, nhận thông tin trực tiếp hơn với hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Đến cuối năm 2004, phải tin học hóa được một số dịch vụ công: cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở: giấy phép xây dựng, đăng ký kinh doanh, quản lý dân cư, giao dịch bảo đảm…

Nhóm Đề án 3. Xây dựng hệ thống các cơ sở dữ liệu quốc gia và các hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ tin học hóa quản lý, điều hành. ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Cơ sở dữ liệu quốc gia là các kho thông tin phục vụ quản lý, điều hành của Chính phủ, bảo đảm cung cấp nhanh chóng, kịp thời các thông tin cần thiết về kinh tế, văn hóa, xã hội, hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nước ban hành các quyết định quản lý, điều hành. Giai đoạn 1996 – 1998, Nhà nước đã đầu tư cho 6 cơ sở dữ liệu quốc gia và giao cho 6 cơ quan chủ trì. Giai đoạn 2001 – 2005, cần tiếp tục thực hiện dự án khả thi của các cơ sở dữ liệu quốc gia đã được phê duyệt và một số cơ sở dữ liệu quốc gia mới, bao gồm:

  • Cơ sở dữ liệu quốc gia về kinh tế – xã hội,
  • Cơ sở dữ liệu quốc gia về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật,
  • Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức,
  • Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư,
  • Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên đất,
  • Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính,
  • Cơ sở dữ liệu về thông tin xuất nhập khẩu,
  • Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm.

Các cơ sở dữ liệu quốc gia nêu trên, ngoài chức năng phục vụ các hoạt động quản lý, điều hành của nhà nước, cần được tận dụng khai thác (theo các quy định cần thiết và giao thức thuận tiện) cho các đối tượng doanh nghiệp và nhân dân nhằm phục vụ hoạt động sản xuất, nghiên cứu, phát triển văn hóa, xã hội.

Các Bộ, ngành khác căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình xây dựng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành và tích hợp trên mạng diện rộng của Chính phủ, tạo thành nguồn tài nguyên thông tin quốc gia.

Trong năm 2001, những Bộ, ngành chủ trì các Dự án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia đã triển khai trước đây cần hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật, tập trung xây dựng thông tin dữ liệu, nhằm phục vụ nhu cầu khai thác thông tin của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước.

Năm 2002 – 2005, tập trung vào nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu và tích hợp cơ sở dữ liệu trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ.

Nhóm Đề án 4. Đào tạo cán bộ, công chức hành chính nhà nước.

Từ 2001 đến 2005, các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân các địa phương phải bảo đảm đại bộ phận cán bộ, công chức được đào tạo về tin học, nắm được kỹ năng làm việc trên mạng máy tính; ưu tiên cho các cán bộ, chuyên viên làm việc trực tiếp tạo nguồn thông tin dữ liệu trên mạng máy tính.

Văn phòng Chính phủ xây dựng chương trình đào tạo cán bộ công chức làm việc trong môi trường tin học hóa; đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ sư tin học trong cơ quan hành chính nhà nước, bảo đảm trình độ cập nhật kịp với tốc độ phát triển công nghệ cao, có khả năng phân tích hệ thống, quản lý triển khai có hiệu quả hệ thống thông tin quản lý.

Nhóm Đề án 5. Nâng cấp mạng tin học diện rộng của Chính phủ (CPNET), bảo đảm cho mạng này đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống tin học của các cơ quan hành chính nhà nước.

Mạng tin học diện rộng của Chính phủ đóng vai trò như là trục truyền thông của các cơ quan hành chính nhà nước, kết nối mạng tin học của các Bộ, ngành, địa phương, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Năm 2001 – 2002, tiến hành mở rộng mạng tin học diện rộng của Chính phủ, nâng cấp các đường truyền số liệu kết nối với các Bộ, ngành, Văn phòng Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thiết lập hệ thống thư tín điện tử phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành và nhu cầu trao đổi thông tin cho cơ quan hành chính các cấp tham gia mạng tin học diện rộng của Chính phủ.

Năm 2002 – 2003, xây dựng trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu của Chính phủ; bảo đảm cho trung tâm này có khả năng tích hợp được các trung tâm tích hợp dữ liệu của các Bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thử nghiệm mô hình hoạt động giao ban, hội họp có hình qua mạng (Video Conference).

Năm 2004 – 2005, hoàn thiện mạng tin học diện rộng của Chính phủ, tích hợp với mạng tin học diện rộng của Đảng; bảo đảm khả năng phục vụ truyền thông của các cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan Đảng truy nhập mạng với số lượng lớn. Văn phòng Chính phủ chủ trì xây dựng và phát triển mạng diện rộng của Chính phủ.

Nhóm Đề án 6. Xây dựng hệ thống bảo đảm an toàn, bảo mật cho mạng tin học quản lý nhà nước rong các cơ quan hành chính nhà nước.

Năm 2001 – 2002, xây dựng đề án bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin cho mạng tin học của các cơ quan hành chính nhà nước, bảo đảm tính xác thực trong việc trao đổi văn bản điện tử, chữ ký điện tử.

Năm 2003 – 2005, triển khai hệ thống bảo mật thông tin, chuẩn bị đủ điều kiện để đưa hệ thống thông tin điện tử của Đảng và Chính phủ vào hoạt động với độ tin cậy cao. Ban Cơ yếu Chính phủ phối hợp với Văn phòng Chính phủ xây dựng và thực hiện Đề án bảo đảm an toàn, bảo mật cho hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ.

4. Đầu tư (giai đoạn 2001 – 2005) ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

  • Yêu cầu kiến trúc hệ thống tin học hóa quản lý hành chính nhà nước:

Hệ thống gồm các thành phần là các hệ dữ liệu thông tin tương đối độc lập của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi tắt là Bộ) và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là tỉnh). Các thành phần của hệ thống có quan hệ ngang và quan hệ dọc.

Quan hệ ngang là quan hệ trao đổi, chia sẻ thông tin có tính chất chuyên môn của mỗi ngành.

Quan hệ dọc là quan hệ chủ yếu dựa theo cấu trúc phân cấp thẩm quyền, chức năng quản lý nhà nước trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Theo yêu cầu thông tin để thực hiện nhiệm vụ quản lý trong mỗi hệ thống tổ chức, việc tin học hóa phải được thực hiện ngay từ ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Tại cấp trên cùng của từng hệ thống (Bộ, tỉnh) sẽ hình thành một trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu thuộc phạm vi mình phụ trách. Trung tâm này không phải là nơi cập nhật, lưu trữ các dữ liệu điều hành, mà là nơi liên kết các cơ sở dữ liệu tác nghiệp của các đơn vị trong từng hệ thống. Trung tâm có chức năng cung cấp, chia sẻ thông tin chung, truyền các mệnh lệnh quản lý thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, công văn hành chính của các cấp hành chính có thẩm quyền.

Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu của mỗi hệ thống quan hệ với trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu của hệ thống khác theo kiểu quan hệ ngang thông qua trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu của Chính phủ. Như vậy, Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu sẽ hình thành tại các cấp sau:

  • Cấp Chính phủ: Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu đặt tại trung tâm mạng tin học diện rộng của Chính phủ (Văn phòng Chính phủ);
  • Cấp Bộ: Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu đặt tại Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
  • Cấp tỉnh: Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu đặt tại Văn phòng Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh.

Trung tâm tích hợp dữ liệu của Chính phủ có chức năng, nhiệm vụ liên kết cơ sở dữ liệu của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chia sẻ thông tin chung giữa các đơn vị này, nhằm phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước cấp Bộ, tỉnh.

Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu cấp Chính phủ cũng cung cấp hạ tầng truyền thông chung giữa các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh thông qua mạng tin học diện rộng của Chính phủ.

Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu cấp Bộ liên kết các cơ sở dữ liệu điều hành của Bộ, kể cả các đơn vị chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ theo ngành dọc thuộc ủy ban nhân dân các địa phương; cung cấp, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị trong Bộ và cung cấp, chia sẻ thông tin với các Bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh qua trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu cấp Chính phủ.

Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu cấp tỉnh có chức năng liên kết cơ sở dữ liệu tác nghiệp của các Sở, Ban, ngành, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, xã, phường trong tỉnh, chia sẻ thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các đơn vị trong tỉnh. Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu của tỉnh cũng cung cấp hạ tầng truyền thông chung giữa các Sở, Ban, ngành, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, xã, phường thông qua mạng tin học diện rộng của tỉnh.

Trên cơ sở phân tích hệ thống tin học hóa quản lý hành chính nhà nước trên đây sẽ ưu tiên đầu tư vào các Trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu, trục truyền thông hỗ trợ liên kết ngang giữa các Bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh. ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

  • Mạng tin học diện rộng của Chính phủ.

Mạng tin học diện rộng của Chính phủ được xây dựng theo Quyết định số 280/TTG ngày 29 tháng 4 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ, được thiết kế và xây dựng theo kiến trúc phân cấp của các cơ quan hành chính nhà nước và được chia theo các mức :

  • Mức A: Cấp Chính phủ,
  • Mức B: Cấp Bộ, tỉnh,
  • Mức C: Cấp Sở, Ban, ngành, huyện, thị hoặc cục, đơn vị trực thuộc Bộ,
  • Mức D: Cấp xã, phường.

Tại mức A và mức B sẽ hình thành các trung tâm tích hợp cơ sở dữ liệu.

Các đơn vị hành chính cấp Bộ, cấp tỉnh sẽ liên kết với nhau qua mạng tin học diện rộng của Chính phủ thông qua trung tâm mạng đặt tại Văn phòng Chính phủ.

Các đơn vị hành chính cấp tỉnh sẽ liên hệ với nhau qua trung tâm mạng tin học diện rộng của tỉnh đặt tại Văn phòng Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh.

Các đơn vị trực thuộc Bộ; Sở, Ban, ngành trực thuộc tỉnh liên hệ với Bộ thông qua mạng diện rộng của tỉnh và của Chính phủ (minh họa bằng sơ đồ dưới đây).

Các đơn vị hành chính cấp Bộ, cấp tỉnh sẽ liên kết với nhau qua mạng tin học

diện rộng của Chính phủ thông qua trung tâm mạng đặt tại Văn phòng Chính phủ.

Các đơn vị hành chính cấp tỉnh sẽ liên hệ với nhau qua trung tâm mạng tin học diện rộng của tỉnh đặt tại Văn phòng Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh.

Các đơn vị trực thuộc Bộ; Sở, Ban, ngành trực thuộc tỉnh liên hệ với Bộ thông qua mạng diện rộng của tỉnh và của Chính phủ (minh họa bằng sơ đồ dưới đây).

Mạng tin học diện rộng của Chính phủ (gọi là trạng CPNET) đã được thiết kế theo kiến trúc hung của hệ thống tin học hóa quản lý nhà nước, bao gồm:

  • Một trục truyền thông Bắc – Nam tốc độ 64 KB kiểu X25,
  • 35 đường ISDN nối 35 cơ quan Bộ với Văn phòng Chính phủ,
  • Kết nối 61 Văn phòng Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh với mạng CPNET; nhiều ủy ban nhân dân tỉnh đã mở rộng mạng của Chính phủ xuống đến các cơ quan cấp Sở, Ban, huyện, thị, xã, phường.

Như vậy, mạng CPNET đã là cơ sở hạ tầng kỹ thuật của hệ thống tin học hóa quản lý nhà nước trong giai đoạn đầu tư mới.

Dự toán đầu tư. ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

  • Yêu cầu đầu tư :

Việc đầu tư xây dựng hệ thống tin học hóa quản lý hành chính nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc lấy mục tiêu xây dựng thông tin dữ liệu là chính; công cụ tin học là phương tiện quan trọng để thực hiện mục tiêu. Trước khi quyết định đầu tư, cần xác định rõ: dữ liệu thông tin là gì, khối lượng thông tin sẽ phải quản lý là bao nhiêu, ai quản lý và quản lý như thế nào, mục đích phục vụ và mức độ sẵn sàng của các cơ quan hành chính tham gia hệ thống; mức độ gắn kết của hệ thông tin được tin học hóa với tiến trình cải cách hành chính của đơn vị; chỉ mua sắm hệ thống thiết bị đồng bộ sau khi đã xác định rõ mục tiêu công việc, khối lượng thông tin cần xây dựng.

Triển khai việc tin học hóa tại các cơ quan hành chính nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc thống nhất về công nghệ mạng (theo các chuẩn của mạng diện rộng của Chính phủ) và của những ứng dụng dùng chung trong các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng dẫn chuyên môn của Văn phòng Chính phủ. Cần thực hiện thí điểm triển khai thác tại một số Bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh để cung cấp giải pháp công nghệ và chương trình dùng chung cho toàn hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Việc xây dựng hệ thống thông tin phải bảo đảm tính chia sẻ và tích hợp thống nhất của nguồn tài nguyên thông tin trên mạng của Bộ, tỉnh và mạng tin học diện rộng của Chính phủ, tránh cát cứ thông tin cục bộ.

Việc đầu tư mở rộng mạng đến đâu phải tùy thuộc vào điều kiện nơi đó có cán bộ vận hành máy tỉnh, có nhu cầu khai thác và tạo nguồn thông tin phục vụ quản lý, điều hành.

Việc đầu tư phải thực hiện trên tinh thần tiết kiệm, sử dụng tối đa các thiết bị, kỹ thuật, tài nguyên thông tin đã được đầu tư xây dựng trong giai đoạn trước.

  • Phân cấp đầu tư.

+ Cấp Chính phủ. Chính phủ đầu tư ở các hạng mục chính như :

  • Trung tâm tích hợp dữ liệu của Chính phủ, các cơ sở dữ liệu quốc gia, trục truyền thông, các đường truyền số liệu từ Trung tâm tích hợp dữ liệu của Chính phủ đến Trung tâm tích hợp dữ liệu của Bộ và tỉnh.

Đầu tư một số hạng mục cơ bản thuộc Đề án tin học hóa của các Bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh để thống nhất công nghệ và các chương trình ứng dụng.

+ Cấp Bộ, tỉnh:

Các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân địa phương đầu tư mở rộng Trung tâm mạng và các cơ sở dữ liệu khác tùy theo khả năng kinh phí, cán bộ và độ lớn của hệ thông tin của mỗi cơ quan.

Đầu tư mở rộng tin học hóa các dịch vụ hành chính công trên cơ sở đầu tư ban đầu của Chính phủ.

  • Kinh phí.

Tổng kinh phí của Đề án sẽ được tổng hợp từ kinh phí của các đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Riêng phần kinh phí từ ngân sách trung ương đầu tư cho các hạng mục chính của hệ thống, gồm các trung tâm tích hợp dữ liệu ở cấp. Chính phủ, cấp Bộ, cấp tỉnh; các cơ sở dữ liệu quốc gia; trục truyền thông chính mạng tin học diện rộng của Chính phủ và một số thành phần cơ bản khác được dự tính không dưới 1.000 tỷ đồng cho cả giai đoạn 2001 – 2005.

5. Tổ chức thực hiện ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Tin học hóa quản lý hành chính nhà nước phải được tổ chức đồng bộ trong các cơ quan hành chính nhà nước; dựa vào bộ máy hành chính hiện có của Bộ, tỉnh để tổ chức thực hiện đề án. Việc tổ chức được phân ra các cấp như sau:

a) Chỉ đạo chung:

Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với một số cơ quan liên quan:

Tổ chức việc điều phối, hướng dẫn xây dựng và triển khai các Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước tại các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Điều phối các dự án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước có tính liên Bộ và liên tỉnh.

Xác định chuẩn thông tin hành chính cấp quốc gia.

  • Xây dựng hệ thống bảo vệ an toàn cho mạng tin học thuộc hệ thống hành chính nhà nước.
  • Tích hợp các cơ sở dữ liệu quốc gia, kể cả các cơ sở dữ liệu thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ để cung cấp thông tin cho các cơ quan hành chính nhà nước, các đối tượng nghiên cứu khác.

Chủ trì soạn thảo, trình, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm căn cứ pháp lý cho việc trao đổi, khai thác thông tin điện tử trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ.

b) Cấp Bộ:

  • Phân tích nhu cầu tin học hóa của Bộ, xây dựng Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước của Bộ. Đôn đốc, kiểm tra việc triển khai các Đề án tin học hóa trong phạm vi của Bộ.
  • Xây dựng và lưu trữ thông tin điện tử thuộc phạm vi thẩm quyền.
  • Áp dụng chuẩn thông tin và bảo vệ thông

 c) Cấp tỉnh: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan chủ quản đầu tư ; Văn phòng Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh là chủ đầu tư, chịu trách nhiệm :

  • Phân tích nhu cầu tin học hóa của tỉnh, xây dựng Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước của tỉnh;
  • Đôn đốc, kiểm tra việc triển khai các Đề án tin học hóa trên địa bàn tỉnh;
  • Xây dựng và lưu trữ thông tin điện tử thuộc phạm vi thẩm quyền;
  • Áp dụng chuẩn thông tin và bảo vệ thông tin;
  • Chủ động phối hợp với các chương trình mục tiêu quốc gia trên cùng địa bàn nhằm thực hiện Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước của tỉnh tiết kiệm và có hiệu quả. ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Về tổ chức bộ máy:

Kiện toàn tổ chức các đơn vị tin học trong các cơ quan hành chính nhà nước :

  • Các Bộ, ngành phải thành lập trung tâm tin học trực thuộc Bộ để chủ trì xây dựng và triển khai Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước, phục vụ quản lý, điều hành của Bộ trưởng.
  • Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương thành lập trung tâm tin học trực thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh để chủ trì xây dựng và thực hiện Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước, phục vụ quản lý và điều hành của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Thành lập Ban điều hành Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 do Văn phòng Chính phủ chủ trì với sự tham gia của đại diện các cơ quan :

  • Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ,
  • Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
  • Bộ Tài chính,
  • Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.

Ban Điều hành chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức thực hiện Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

  • Các chính sách và biện pháp thực hiện:

Tạo nguồn thông tin và chuẩn hóa thông

Văn phòng Chính phủ chủ trì, cùng Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành các quy định về chuẩn thông tin cho các hoạt động điều hành. Các Bộ, ngành công bố các chuẩn thông tin chuyên ngành.

Có chính sách khuyến khích tạo nguồn thông tin, xây dựng các kho cơ sở dữ liệu điện tử.

Trao đổi thông tin và bảo mật.

Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp trình, ban hành các văn bản pháp quy cho việc khai thác, trao đổi thông tin điện tử giữa các cơ quan hành chính nhà nước, giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân, với quốc tế; đồng thời bảo đảm được quyền sở hữu và bí mật thông tin của Nhà nước, các tổ chức kinh tế – xã hội và của cá nhân.

Chính sách hỗ trợ và huy động nguồn vốn cho phát triển mở rộng hệ thống thông tin quản lý.

Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng và mở rộng hệ thống tin học hóa của Nhà nước. Thực hiện thu phí đối với các dịch vụ hành chính công để đầu tư lại cho hệ thống.

Khuyến khích việc đầu tư tin học hóa để cung cấp, phổ biến thông tin luật pháp, kinh tế, xã hội và thông tin về hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cho công chúng.

  • Chính sách về sử dụng mạng viễn thông truyền dữ liệu.

Nhà nước có chính sách cước phí viễn thông ưu đãi cho các hoạt động quản lý và điều hành trong các cơ quan hành chính nhà nước và các hoạt động phổ biến thông tin pháp luật đến công chúng và doanh nghiệp.

  • Chính sách mua sắm sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông

Tất cả các kế hoạch mua sắm cho tin học hóa quản lý hành chính nhà nước phải thông qua đấu thầu và hợp đồng theo hướng dẫn của Bộ Tài chính và Văn phòng Chính phủ. Việc tổ chức đấu thầu mua sắm có thể tổ chức thực hiện tập trung nhằm giảm bớt chi phí và giá mua sắm sản phẩm, dịch vụ; đồng thời bảo đảm lựa chọn đúng công nghệ và chất lượng. ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

  • Tiến độ thực hiện:

Giai đoạn chuẩn bị (năm 2001):

Từ tháng 8 năm 2001 đến tháng 12 năm 2001, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước của đơn vị mình theo hướng dẫn của Văn phòng Chính phủ để trình cấp có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt Đề án trước tháng 12 năm 2001.

Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính cần hướng dẫn cụ thể về công nghệ, tài chính để các Bộ, ngành, địa phương xây dựng Đề án có tính khả thi cao.

Giai đoạn triển khai thực hiện:

Từ tháng 1 năm 2002, bắt đầu triển khai Đề án tin học hóa quản lý nhà nước. Các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ Đề án được phê duyệt triển khai công việc tin học hóa của mình.

  • Trách nhiệm của cán Bộ, ngành:

Việc triển khai Đề án, theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn và kiểm tra triển khai các Đề án được phân công như sau:

Văn phòng Chính phủ:

  • Quản lý thống nhất lĩnh vực tin học hóa quản lý hành chính nhà nước trong phạm vi toàn quốc; tổ chức hướng dẫn, kiểm tra các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các địa phương thực hiện Đề án tin học hóa;
  • Phối hợp với Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định chuẩn hóa các loại thông tin cho các hoạt động quản lý điều hành quan trọng nhất của Nhà nước;
  • Tổng hợp tình hình thực hiện Đề án tin học hóa của các Bộ, ngành, địa phương để thực hiện báo cáo định kỳ hàng quý lên Thủ tướng Chính phủ;
  • Phối hợp với Văn phòng Trung ương Đảng tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả mạng tin học diện rộng của Đảng, Chính phủ.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư :

  • Chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính đưa Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 vào kế hoạch nhà nước hàng năm để bảo đảm cơ sở thực hiện Đề án.

Bộ Tài chính:

-Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ cân đối mức ngân sách nhà nước dành cho Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước trong tổng dự toán ngân sách nhà nước để trình Chính phủ xem xét, quyết định;

Cấp phát kinh phí hàng năm cho từng Đề án đã được xét duyệt; hướng dẫn, kiểm tra tài chính trong việc thực hiện Đề án; tổng hợp tình hình cấp phát kinh phí hàng năm cho từng Đề án và duyệt quyết toán kinh phí các Đề án đã kết thúc, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ:

-Ban hành Quy chế về tổ chức các đơn vị tin học chuyên trách phục vụ công tác tin học hóa quản lý hành chính nhà nước; quy định tiêu chuẩn, chức danh cán bộ tin họe làm việc trong cán cơ quan hành chính nhà nước.

Phối hợp chung để gắn việc triển khai thực hiện Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước với chương trình cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2001 – 2010.

Mời bạn tham khảo thêm:

Tổng hợp bài mẫu Luận văn Thạc Sĩ

6. Tình hình triển khai tin học hóa quản lý hành chính nhà nước tại Bộ Công nghiệp ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Chương trình tin học hóa quản lý hành chính nhà nước tại Bộ công nghiệp dựa trên đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 của Bộ được Bộ truởng phê duyệt tháng 7/2002.

Từ cuối năm 2002 Bộ trưởng Bộ công nghiệp đã quyết định thành lập Trung tâm Tin học thuộc Bộ và chỉ đạo sử dụng tối ưu các nguồn lực công nghệ thông tin (CNTT) để thiết lập hệ thống CNTT đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa công tác quản lý hành chính nhà nước. Đến nay, công tác triển khai tin học hóa của Bộ CN đã có những tiến bộ đáng kể và thu được những kết quả quan trọng:

  • Về cơ sở hạ tầng

Trung tâm Tin học được trang bị hệ thống tích hợp dữ liệu tại cơ quan Bộ với đầy đủ các dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý hành chính Nhà nước;

-Hầu hết CBCCVC trong cơ quan Bộ đã được trang bị máy tính (với tổng số trên 300 máy);

-Bộ CN đã có kết nối Internet tốc độ cao bằng 2 đường ADSL, đáp ứng cho người dùng truy nhập tìm kiếm thông tin trên Internet phục vụ giải quyết các công việc;

-Mỗi cán bộ, công chức, viên chức đều được cấp một hộp thư điện tử và hầu hết các CBCCVC đã sử dụng thành thạo thư điện tử. Đây đang là phương tiện rất hiệu quả trong việc trao đổi, thông tin nội bộ cũng như với các đơn vị ngoài Bộ để xử lý công việc.

  • Triển khai các ứng dụng CNTT

Song song với việc phát triển và hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần cứng về CNTT, Bộ CN đã từng bước triển khai ứng dụng CNTT trong công tác quản lý hành chính Nhà nước. Các ứng dụng đã được thực hiện bao gồm:

Hệ thống chương trình quản lý văn bản đi – đến. Hệ thống này được triển khai từ 8/2003 đến nay, đã có hầu hết CBCCVC của Bộ tham gia giải quyết văn bản trên máy tính. Mỗi tháng có hơn 3000 văn bản đến và hơn 1000 văn bản đi được cập nhật và xử lý. Chương trình quản lý văn bản đến đi đã giúp cho Lãnh đạo Bộ, lãnh đạo các Cục, Vụ theo dõi được quá trình xử lý giải quyết văn bản, hồ sơ, khắc phục hiện tượng quên, bỏ sót hoặc giải quyết chậm;

-Hệ thống quản lý đơn thư khiếu nại tố cáo. Đây là hệ thống thông tin hỗ trợ cho Lãnh đạo Bộ và Thanh tra Bộ quản lý, đôn đốc giải quyết các đơn thư gửi tới Bộ. Hệ thống đã trở thành công cụ thường ngày của mọi người trong Thanh tra Bộ;

-Hệ thống tra cứu văn bản pháp luật, được hình thành từ hệ thống quản lý các văn bản do Bộ phát hành và các văn bản trong cơ sở dữ liệu luật của Quốc hội. Hệ thống này giúp ích rất nhiều cho chuyên viên trong Bộ trong quá trình giải quyết công việc đúng với đường lối, chính sách của Nhà nước và các quy định của pháp luật;

-Hệ thống phân tích số liệu thống kê trực tuyến, thu thập toàn bộ số liệu thống kê ngành công nghiệp của Bộ CN từ năm 2000 tới nay, giúp cho các chuyên viên có thể truy cập, phân tích đưa ra những ý kiến tham mưu cho các cấp lãnh đạo của Bộ trong các quyết sách phát triển ngành công nghiệp;

-Hệ thống thông tin Quốc hội, là hệ thống cập nhật các thông tin chất vấn và trả lời chất vấn của cử tri, đại biểu Quốc hội về những vấn đề liên quan tới ngành công nghiệp. Hệ thống này giúp cho Bộ trưởng nắm bắt được các vấn đề cử tri quan tâm để điều hành chỉ đạo các hoạt động của Bộ CN phát triển đúng với mong mỏi của người dân, hiểu rõ hơn tâm tư nguyên vọng của cử tri và đại biểu Quốc hội để có những câu trả lời sát thực với các câu hỏi chất vấn;

-Hệ thống thông tin khoa học công nghệ – đây là hệ thống tổng hợp các thông tin về nhiệm vụ khoa học công nghệ của các đơn vị trong Bộ. Hệ thống tập hợp hơn 3000 nhiệm vụ KHCN của trên 100 đơn vị từ năm 1991 đến nay và hàng năm được bổ sung, cập nhật thêm hàng trăm nhiệm vụ KHCN. Hệ thống này giúp Bộ CN quản lý các hoạt động KHCN tốt hơn. Giúp cho những nhà quản lý KHCN của Bộ tìm ra những lĩnh vực KHCN cần đầu tư nghiên cứu, phổ biến những kết quả đạt được để áp dụng kịp thời vào sản xuất, kinh doanh nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị trong Bộ nói riêng và của toàn ngành công nghiệp trong cả nước nói chung.

  • Quảng bá các hoạt động của ngành công nghiệp và phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp:

Để phổ biến các chủ trương chính sách và tuyên truyền các hoạt động của ngành công nghiệp đến toàn dân, Bộ Công nghiệp đã phát hành WEB Site Công nghiệp Việt Nam trên Internet. WEB Site này được cập nhật thông tin hàng ngày và đón nhận hơn 10.000 lượt người đọc mỗi tháng. Đây cũng l phương tiện để Bộ Công nghiệp chuẩn bị đưa ra những dịch vụ công điện tử như cấp phép hoạt động các ngành nghề công nghiệp và trưng cầu ý kiến về các văn bản quy phạm pháp luật ban hành theo thẩm quyền của Bộ.

  • Ứng dụng CNTT ở các đơn vị trong Bộ CN

Thực hiện chỉ thị 58 của Ban chấp hành Trung ương, được sự động viên khuyến khích của Lãnh đạo Bộ Công nghiệp các đơn vị trực thuộc Bộ đã và đang tích cực ứng dụng CNTT trong các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, sản xuất và kinh doanh. Công tác này đã tạo ra những động lực mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị. Nhiều công việc trong mối quan hệ quản lý hành chính Nhà nước đã được sự trợ giúp đắc lực của CNTT. Các thông tin, tài liệu trao đổi để giải quyết công việc đã được truyền qua phương thức điện tử giảm được nhiều chi phí đi lại, giấy tờ và tiết kiệm thời gian.

Nhiều đơn vị trong Bộ Công nghiệp do áp dụng CNTT đã nâng cao được hiệu quả công việc của mình. Những đơn vị điển hình có thể kể tới như: Tổng Công ty Điện lực Việt Nam với việc áp dụng CNTT trong hầu hết các nghiệp vụ sản xuất, kinh doanh cũng như trong quản lý và chỉ đạo điều hành; Tổng Công ty Dầu Khí Việt Nam; Tổng Công ty Dệt May Việt Nam Các tổ chức KHCN cũng khắc phục khó khăn về tài chính trang bị những hệ thống CNTT tiên tiến tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu, tiếp cận với công nghệ mới; Viện Máy và Dụng cụ Công nghiệp là đơn vị đi đầu trong việc áp dụng CNTT trong thiết kế, sản xuất và áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật cho các sản phẩm của Viện. Các trường đào tạo, dạy nghề đều đào tạo cho sinh viên về CNTT; một số trường còn đào tạo chuyên ngành về CNTT ở các bậc cao đẳng và trung học như trường Cao đẳng công nghiệp Hà nội, Trường cao đẳng CN 1, Trường Cao đẳng CN4, Trường Cao đẳng Điện…

a. Lãnh đạo – yếu tố quan trọng trong công cuộc tin học hóa ở Bộ CN ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Là một cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước, mọi chi tiêu đều do ngân sách nhà nước cấp, Bộ CN cũng như các Bộ ngành khác đều rất hạn chế về nguồn kinh phí dành cho phát triển ứng dụng CNTT. Với quyết tâm cao của Lãnh đạo Bộ Công nghiệp, trong những năm qua việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý hành chính nhà nước đã được áp dụng rộng rãi, đặc biệt trong hai năm trở lại đây, thực hiện nghiêm túc chủ trương của Chính phủ trong việc cải cách hành chính và triển khai đề án Tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 – 2005, việc ứng dụng CNTT ở Bộ CN đã có những chuyển biến rõ rệt. Đạt được kết quả trên là nhờ sự cố gắng nỗ lực của toàn thể CBCCVC trong cơ quan Bộ, đặc biệt là sự quán triệt về mặt chủ trương của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo các Vụ, Cục, Thanh tra và Văn phòng Bộ. Để có được văn hóa sử dụng CNTT trong giải quyết công việc như hiện nay ở Bộ CN yếu tố quan trọng nhất chính là vai trò của các đồng chí lãnh đạo.

Quyết tâm tin học hóa cao như vậy của Lãnh đạo Bộ đã ảnh hưởng rất tích cực đến công tác ứng dụng CNTT ở Bộ CN. Từ năm 2002 đến nay các thông tin, tài liệu về họp giao ban của Bộ CN đã thành nề nếp được truyền đi trên mạng tới mọi người. Nhiều loại văn bản khác như thông báo, bản tin, các văn bản mới,… cũng được chuyển lên mạng nội bộ nhằm giảm thời gian xử lý, photo, chuyển tài liệu và nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính Nhà nước.

Các đồng chí lãnh đạo cấp Vụ, Cục, Thanh tra, Văn phòng cũng là một động lực mạnh mẽ, đóng góp phần quyết định vào công tác tin học hóa ở Bộ CN. Đến nay tại Bộ CN 100% các đồng chí lãnh đạo các cấp Vụ, Cục, Thanh tra, Văn phòng đều sử dụng thành thạo máy tính, truy nhập Internet và sử dụng thư điện tử hàng ngày để chỉ đạo và giải quyết công việc.

Đối chiếu với mục tiêu của Ban điều hành đề án 112 đưa ra đến hết năm 2004 các Bộ, Ngành, Tỉnh có 30% số công chức sử dụng thư điện tử, thì đến nay Bộ CN có đến 90% công chức đang sử dụng thư điện tử thường xuyên trong công tác quản lý hành chính Nhà nước.

b. Định hướng phát triển ứng dụng CNTT trong quản lý nhà nước ở Bộ CN

Bộ CN xác định công tác Tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước là một công việc lâu dài và đồng hành cùng với sự nghiệp cải cách hành chính. Lãnh đạo Bộ CN đang chỉ đạo áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000 tại cơ quan Bộ và phấn đấu được cấp chứng chỉ vào cuối năm 2004. Cùng với việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, việc ứng dụng CNTT sẽ được phát triển ở mức cao hơn.

-Đến hết năm 2004 Bộ Công nghiệp sẽ hoàn thành dự án xây dựng Trung tâm tích hợp dữ liệu theo đúng yêu cầu của Ban điều hành 112, đảm bảo sẵn sàng kết nối CPNET, cùng các giải pháp an ninh mạng và nâng cao độ tin cậy của các hệ thống thông tin.

-Tiếp tục triển khai các dự án cơ sở dữ liệu và phần mềm để đến tháng 6/2005 căn bản hoàn thành đề án 112 áp dụng tại Bộ CN.

-Triển khai một số dịch vụ công trên mạng Internet

-Phát hành trang WEB phổ biến các hoạt động KHCN và phổ biến các kết quả nghiên cứu của các tổ chức KHCN thuộc Bộ nhằm áp dụng những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Xây dựng và phát hành sàn giao dịch KHCN làm cầu nối trao đổi, cung cấp dịch vụ, chuyển giao công nghệ giữa các đơn vị trong ngành công nghiệp.

-Xây dựng mạng diện rộng của Bộ Công nghiệp kết nối với các Tổng Công ty 91, 90 và một số đơn vị khác; Kết nối với các Sở công nghiệp và các tổ chức KHCN thuộc Bộ.

II Những thành công và thất bại từ thực tiễn áp dụng mô hình này vào Việt Nam.

1. Những thành công đạt được: ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Đà Nẵng là một trong những địa phương sớm tham gia thực hiện Chương trình Quốc gia về CNTT. Từ những năm 1997, công tác tin học hóa quản lý hành chính đã được thực hiện tại Văn phòng UBND và một số sở, ban, ngành thành phố; nhiều cơ quan đã được trang bị máy tính, thiết bị ngoại vi và các phần mềm quản lý chuyên ngành; công tác đào tạo kiến thức tin học cho cán bộ, công chức được chú trọng hơn; thói quen sử dụng máy tính hỗ trợ cho công tác nghiệp vụ ở công sở bắt đầu được hình thành. Tuy nhiên, ứng dụng CNTT tại các cơ quan Đảng, Nhà nước chỉ thực sự có những bước phát triển đột phá khi Đà Nẵng triển khai “Đề án Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2005” và đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.

2. Kết quả đạt được

Hạ tầng CNTT-TT được đầu tư phát triển khá mạnh mẽ, trong đó hạ tầng viễn thông đã phát triển rất mạnh cả về quy mô mạng lẫn chất lượng dịch vụ (Bảng 1); số lượng máy tính trên địa bàn tăng đáng kể (Biểu đồ 1), các sở, ban, ngành và UBND quận, huyện đều được trang bị hạ tầng kỹ thuật CNTT khá đầy đủ, bao gồm máy tính, thiết bị ngoại vi, mạng cục bộ (LAN). Tính đến cuối tháng 12/2005, đã xây dựng 35 mạng LAN tại 35 sở, ban, ngành, quận, huyện, với 1275 máy tính, phục vụ cho khoảng 1.400 cán bộ, công chức; gần đạt mức mỗi người một máy tính. Song song với việc đầu tư này, quá trình thử nghiệm mạng trục thông qua hạ tầng của Bưu điện thành phố bằng công nghệ SHDSL cũng được tiến hành; đã bảo đảm cho việc trao đổi thông tin cũng như triển khai các ứng dụng trên mạng giữa các sở, ban, ngành, quận, huyện và kết nối với Trung tâm Tích hợp dữ liệu thành phố để khai thác thông tin phục vụ tốt công tác quản lý, điều hành.

Như vậy, thành phố đã xây dựng được một hệ thống hạ tầng kỹ thuật CNTT tương đối đồng bộ trong tất cả 35 cơ quan quản lý hành chính nhà nước, kết nối với mạng thông tin của Chính phủ (CPNet), góp phần hình thành mạng thông tin hành chính của cả nước như mục đích mà Chính phủ đã đề ra cho giai đoạn 2001 – 2005. Việc hình thành hệ thống mạng máy tính của thành phố đã hỗ trợ rất nhiều trong công tác chỉ đạo, điều hành hành tác nghiệp của lãnh đạo thành phố và các sở, ban, ngành, quận, huyện; góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công ở các đơn vị.

Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CNTT cho các cơ quan hành chính: Thành phố đã tập trung đào taọ CNTT cho tất cá lực lượng công chức, viên chức; đồng thời, tuyển dụng và bổ sung các kỹ sư CNTT cho các sở, ban, ngành. Tính đến cuối năm 2006, sau 04 năm đào tạo, đã có hơn 2000 cán bộ, công chức tốt nghiệp các khóa học CNTT từ 3 đến 9 tháng và về cơ bản, các đơn vị đều đã có nguồn nhân lực CNTT đủ sức đảm đương công tác tin học hóa tại đơn vị mình. (Biểu đồ 2).

Công tác ứng dụng CNTT được triển khai đều khắp tại các sở, ban, ngành và UBND các quận, huyện, phục vụ trực tiếp cho công tác điều hành, tác nghiệp, bao gồm:

Trang Thông tin điện tử thành phố (www.Danang.gov.vn) đã hoàn thành và đưa vào sử dụng rất có hiệu quả trong gần 3 năm qua với 3 thứ tiếng Việt, Anh, Nhật và đã kết nối với các trang thông tin điện tử chuyên ngành của các, sở, ban, ngành trong thành phố.

Các cơ sở dữ liệu chuyên ngành đã được triển khai tại nhiều đơn vị và việc sử dụng các phần mềm chuyên dụng phục vụ công tác chuyên môn tại các cơ quan là khá phổ biến.

Website điều hành, các phần mềm dùng chung và Website chuyên ngành đã được sử dụng tại hầu hết các đơn vị (Biểu đồ 3), phục vụ trực tiếp cho tác nghiệp hàng ngày của cán bộ, công chức.

Dịch vụ hành chính công đang được triển khai, ở cấp độ thử nghiệm, nhưng đã đem lại lợi ích thiết thực cho công dân; chẳng hạn như: đăng ký kinh doanh qua mạng, cấp phép xây dựng, trả lời chất vấn của công dân qua mạng, hỗ trợ kỹ thuật về CNTT, v.v…Cổng giao dịch thương mại điện tử (TMĐT) của Thành phố cũng đã được xây dựng và đưa vào hoạt động, phục vụ cho hàng trăm doanh nghiệp nắm bắt các thông tin thị trường, xúc tiến thương mại. Đặc biệt, với trang Web “Xúc tiến TMĐT” của Softech, các doanh nghiệp có thể tự xây dựng, cập nhật và giới thiệu các thông tin về sản phẩm và dịch vụ của mình một cách rất tiện lợi và miễn phí. Đào tạo CNTT qua mạng cũng đã được triển khai, trước hết dành cho đối tượng cán bộ công chức nâng cao trình độ và cập nhật kiến thức CNTT, phục vụ trực tiếp cho công cuộc tin học hóa quản lý hành chính nhà nước của Thành phố. Ngoài ra, Đà Nẵng cũng đang khẩn trương xây dựng và chuẩn bị đưa vào vào hoạt động các hệ thống hỗ trợ dịch vụ trong lĩnh vực khá nhạy cảm như đấu thầu qua mạng, mua sắm qua mạng,…

3. Kinh nghiệm và giải pháp ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Qua thực tế triển khai ứng dụng CNTT trong quản lý hành chính nhà nước tại TP. Đà Nẵng, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:

  1. Quyết tâm của lãnh đạo và sự đồng thuận của các cấp, các ngành là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của tin học hóa quản lý hành chính nhà nước: Thành phố đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích và tạo động lực phát triển CNTT-TT; các cơ quan, đơn vị có lãnh đạo quan tâm, tình hình ứng dụng CNTT nơi đó rất tốt.
  2. Ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho Đây là tiền đề quan trọng để triển khai ứng dụng CNTT. Không giải quyết được bài toán đầu tư hạ tầng thì không xây dựng được hệ thống thông tin và do đó sẽ không thể đẩy mạnh được tin học hóa một cách mạnh mẽ và đồng bộ.
  3. Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CNTT phải đi trước một bước – xem đây là ưu tiên hàng đầu trong đầu tư cho Nên thực hiện xã hội hóa công tác đào tạo nguồn nhân lực CNTT cho thành phố với nhiều hình thức: kết hợp giữa đào tạo tập trung với đào tạo ngắn hạn; đào tạo tại chỗ, đào tạo từ xa, gửi đi đào tạo ở nước ngoài, ….
  4. Quán triệt quan điểm đầu tư cho CNTT là đầu tư cho phát triển. Do đó, tất cả các cấp, các ngành phải xây dựng và duy trì cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình triển khai ứng dụng CNTT – đặt biệt là các cơ quan kế hoạch, tài chính,.. Trong bối cảnh còn nhiều hạn chế về nguồn lực, cần huy động mọi nguồn lực có thể để đầu tư cho ứng dụng

Sự thành công bền vững của một chủ trương, đó chính là sự cam kết của lãnh đạo, xác định mục tiêu và kiểm soát việc thực hiện chúng trong sự hợp tác chặt chẽ của các thành phần để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Đó chính là các yếu tố quyết định, hướng tới xây dựng chính phủ điện tử cho TP. Đà Nẵng trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu đó, thành phố vừa ban hành “Kế hoạch phát triển CNTT giai đoạn 2006-2010” với 11 chương trình: CNTT trong Quản lý Nhà nước; CNTT trong các cơ quan Đảng; CNTT trong kinh tế; xây dựng và phát triển ngành công nghiệp phần cứng; xây dựng và phát triển ngành công nghiệp phần mềm; xây dựng và phát triển ngành công nghiệp dịch vụ CNTT; xây dựng Trung tâm CNTT-TT TP. Đà Nẵng; ứng dụng CNTT trong giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội; phát triển nguồn nhân lực CNTT; xây dựng và phát triển hạ tầng truyền thông thành phố; ứng dụng công nghệ GIS phục vụ quản lý. Để thực hiện 11 chương trình, TP. Đà Nẵng có các giải pháp cụ thể:

  • Nâng cao nhận thức về vai trò của CNTT-TT;
  • Đẩy mạnh triển khai liên tục công tác ứng dụng CNTT gắn liền với thực tiễn quản lý hành chính;
  • Thường xuyên đào tạo, đào tạo lại và phát triển nguồn nhân lực CNTT –TT;
  • Tập trung đầu tư xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng CNTT-TT;
  • Hoàn thiện môi trường hỗ trợ cho ứng dụng và phát triển CNTT-TT;
  • Phát triển thị trường CNTT-TT;
  • Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về CNTT;

4. Kết quả ở một số tỉnh và thành phố khác: ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Từ tháng 12-1999, quận Phú Nhuận đã được chọn là một trong những quận đầu tiên của TPHCM thực hiện Đề án Tin học hóa trong công tác cải cách hành chính của Chính phủ (gọi tắt là Đề án 112). Để chủ trương đi vào cuộc sống, quận Phú Nhuận đã đầu tư hơn 500 triệu đồng trang bị hệ thống vi tính từ quận xuống phường và phân công chị Dương Thị Hoa, Phó chánh Văn phòng UBND quận Phú Nhuận, làm Phó Trưởng ban Thường trực Đề án 112 của quận Phú Nhuận do chị Thái Thị Ngọc Dung, Phó Chủ tịch UBND quận làm Trưởng ban. Công việc này đã đạt được kết quả đáng khích lệ.

Từ tháng 1-2000 đến nay, quận Phú Nhuận đã nối kết được 53 điểm trong hệ thống mạng CNTT liên thông từ phường tới quận, UBND TPHCM và Chính phủ. Khi điều hành công việc và cập nhật thông tin cũng như tiếp nhận chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước chỉ cần click là cập nhật được các thông tin cần thiết. Trong dịp bầu cử HĐND 3 cấp vừa qua, quận Phú Nhuận là một trong những đơn vị ứng dụng CNTT trong công tác bầu cử nên đã đạt kết quả cao, được UBND TPHCM và Trung ương đánh giá cao.

Trong quá trình ứng dụng CNTT, chị Hoa làm việc với tất cả lòng nhiệt tình và niềm đam mê khoa học. Với chị, trong thời kỳ CNH, HĐH hiện nay, phải ứng dụng CNTT để mang lại hiệu quả cao nhất. Mỗi người giỏi CNTT sẽ vừa giảm bớt gánh nặng công việc, vừa nâng cao năng suất làm việc gấp nhiều lần. Ý thức rõ điều đó, chị đã động viên khuyến khích anh chị em học tập nâng cao kiến thức vi tính, nhờ vậy, đội ngũ cán bộ ứng dụng CNTT của quận Phú Nhuận đã sử dụng vi tính khá thành thạo.

Sau thời gian ngắn thực hiện Đề án 112, đến nay quận Phú Nhuận đã có những bước đi vững chắc trong việc khai thác mạng trên hệ thống Loutusnot, thực hiện chuyển văn bản và lập chương trình công tác; tiếp nhận báo cáo nhanh từ cơ sở; nhận sự chỉ đạo nhanh từ quận xuống phường…

Việc ứng dụng CNTT tại quận Phú Nhuận đã đem lại tiện ích ban đầu trong công tác cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa, một dấu” từng bước đã hình thành hệ thống tiếp nhận, giải quyết và hoàn trả hồ sơ thủ tục hành chính cho dân nhanh chóng, đúng hẹn, không để dân phải đi lại nhiều lần như trước. Những hồ sơ có vướng mắc về kỹ thuật cũng như chậm hoàn trả khiến dân thắc mắc, cán bộ có trách nhiệm chỉ cần truy cập vào mạng là tìm ra nguyên nhân chậm trễ xuất phát từ khâu nào, tại phòng ban nào, lý do vì sao… để chấn chỉnh kịp thời. Hiện nay, UBND quận Phú Nhuận đang vươn tới thực hiện phục vụ hành chính công, nhằm từng bước hoàn thiện công tác CCHC tại địa bàn

5. Những thành tựu nổi bật sau 5 năm (2001- 2005) thực hiện đề án 112:

Hệ thống tổ chức chỉ đạo và quản lý nhà nước đối với lĩnh vực CNTT đã được đổi mới và tăng cường.

Đã có nhiều Bộ, ngành, cơ quan Đảng và địa phương thành lập Ban chỉ đạo CNTT của mình. Đặc biệt, trong năm 2002 Bộ Bưu chính Viễn thông được thành lập và được giao thống nhất quản lý nhà nước về viễn thông và CNTT. Đã có 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có sở Bưu chính Viễn thông chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về bưu chính viễn thông và CNTT tại địa phương.

Môi trường pháp lý cho ứng dụng và phát triển CNTT được cải thiện.

Chỉ thị 58 đã là nền tảng cho sự ra đời của nhiều cơ chế, chính sách thuận lợi, thúc đẩy việc ứng dụng và phát triển CNTT của nước ta. Hơn 30 văn bản quy phạm pháp luật về CNTT và truyền thông đã được phê duyệt nổi bật như Luật Giao dịch điện tử; Luật CNTT, Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông…

Ứng dụng CNTT trong các cơ quan Đảng và Nhà nước có bước thay đổi lớn.

Hệ thống tổ chức chỉ đạo và quản lý Nhà nước đối với CNTT được tăng cường. Trước năm 2000, số bộ, ngành có trang tin điện tử rất ít. Hiện nay, có 22/26 bộ, 56/64 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã có website chính thức, góp phần hiện đại hoá nền hành chính và tạo tiền đề cho việc phát triển Chính phủ điện tử.

Ứng dụng CNTT đã trở thành yếu tố quan trọng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đó chính là yếu tố sống còn đối với các ngành đòi hỏi hội nhập quốc tế và cạnh tranh cao như ngân hàng, viễn thông, hàng không,… Các ứng dụng CNTT phục vụ giáo dục, y tế, thể thao,văn hoá, xã hội, nông nghiệp và phát triển nông thôn bước đầu phục vụ nhu cầu thiết thực của cộng đồng.

Trong lĩnh vực CNTT, công nghiệp phần cứng phát triển ổn định với tốc độ khá.

Công nghiệp phần mềm trên đà phát triển tốt theo xu hướng xuất khẩu phần mềm. Việt Nam được tổ chức Kearney (Mỹ) đánh giá là một trong 25 quốc gia có sức hấp dẫn nhất về sản xuất phần mềm. Ứng dụng CNTT đã trở thành yếu tố quan trọng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, và là yếu tố sống còn đối với các ngành đòi hỏi hội nhập quốc tế cao như ngân hàng, viễn thông, hàng không…

Nguồn nhân lực CNTT phát triển nhanh với các hình thức đào tạo đa dạng.

Số lượng các cơ sở đào tạo chính quy đại học và cao đẳng về CNTT tăng lên đáng kể so với năm 2000, trong đó đào tạo đại học từ 42 lên 62, cao đẳng từ 36 lên 71. Hiện cả nước có 27 khoa CNTT. Số lượng tuyển sinh đào tạo đại học và cao đẳng về CNTT tăng nhanh (năm 2000: 4.000, năm 2001: 6.000, các năm 2002 và 2003 mỗi năm 9.000; các năm 2004 và 2005 mỗi năm 10.000); tổng số chỉ tiêu tuyển sinh CNTT cho cả giai đoạn 2001 – 2005 là 44.000.

Đáng ghi nhận là việc mạng thông tin quốc gia phát triển nhanh với nhiều loại hình dịch vụ, chất lượng ngày một tốt hơn.

Giá cước giảm mạnh trên cơ sở xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp. Giá cước viễn thông Việt Nam đã giảm rất nhiều và hiện ở mức trung bình thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Cước ADSL thấp hơn Singapore Thái Lan, Phillipine, Malaysia, ngang bằng với Indonesia…Cước di động trả trước của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, Singapore…Thị trường viễn thông Việt Nam trong vài năm gần đây tăng trưởng trung bình với tốc độ thuộc hàng cao nhất thế giới, tới 25% mỗi năm. Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam đã vượt qua một số nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc về mức độ sử dụng dịch vụ.

Huy động vốn đầu tư cho các đề án và dự án

Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị 58, việc ứng dụng và phát triển CNTT – VT ở Việt Nam đã có những tiến bộ rõ rệt, đóng góp bước đầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

6. Những vấn đề vướng mắc cần khắc phục ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Tuy đã có những thành công tích cực ở một số địa bàn trên khắp cá nước, cũng như ở một số cơ quan nhà nước song Đề án 112 đã gặp phải một số vướng mắc nghiêm trọng, từ đó dẫn đến sự kém hiệu quả và thất bại của cả dự án.Dưới đây là một số vướng mắc gặp phải khi thực hiện dự án.

  • Dàn trải, manh mún.

Ngay từ đầu ĐA112 đã bộc lộ sự chuẩn bị chưa chu đáo. Với giai đoạn thực hiện được hoạch định trong 5 năm (2001 – 2005), nhưng phải đến hết năm 2002 ĐA112 mới thực sự hoàn thành. Chính vì thế, phải mất hơn 1 năm sau nữa ĐA112 mới được bắt tay vào triển khai. Điều này phản ánh sự chậm trễ và không sát với thực tế của tiến độ.

Tiếp theo bước hụt của thời gian triển khai, ĐA112 lại vấp phải bước hụt về tài chính. Theo quyết định của Chính phủ phê duyệt, ĐA112 có nguồn vốn giai đoạn 1 là 1.000 tỉ đồng. Thế nhưng, con số thực giải ngân cho đến nay chỉ có 510 tỉ đồng. Điều này khiến cho BĐH ĐA112 Trung ương lúng túng và tại các tỉnh cũng không thể triển khai các dự án, đề án đã được xây dựng.

Từ những lý do trên, BĐH ĐA112 Trung ương lại vấp một lần nữa về định hướng khi triển khai dàn trải mà không tính đến các yếu tố khó khăn về địa hình địa bàn; con người hành chính; và cơ sở hạ tầng. Với nguồn vốn hữu hạn, cộng với những khó khăn này nên việc triển khai đại trà ở tất cả các tỉnh, thành phố, bộ ngành khiến cho ĐA112 thiếu trọng tâm. Có những tỉnh như Hải Phòng, Bình Định, Thanh Hóa… đã làm khá tốt việc xây dựng Trung tâm tích hợp dữ liệu (THDL); triển khai PMDC. Tuy nhiên, có những tỉnh triển khai chỉ mang tính hình thức, chứ chưa thể đưa vào phục vụ công việc một cách hiệu quả. Vì thế, tính đến nay, trong số 43 PMDC cần triển khai thì mới chỉ có rất ít số tỉnh triển khai 3 PMDC thành công, còn lại đa số vẫn trong giai đoạn thử nghiệm. Mới có 6 vạn trong số 24 vạn cán bộ được đào tạo tin học ứng dụng. Đặc biệt, mạng lưới xuống các quận, huyện thì gần như chỉ ở cấp độ “mạnh ai người ấy làm”.

  • Chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng.

Trong những kết quả của ĐA 112 mà công văn số 4294 ngày 3/8/2007 của VPCP (v/v chuyển giao các kết quả của ĐA 112) nhắc tới, ngoài phần cứng, phần mềm còn có những “sản phẩm phục vụ hình thành cơ sở pháp lý về tin học hóa quản lý hành chính nhà nước”. Điều đó có nghĩa là ĐA 112 được thực hiện khi cơ sở pháp lý cho những hoạt động của nó còn rất thiếu, hoặc là những cơ sở hoàn toàn không thuận lợi cho việc làm tin học. Chính vì thế, ban điều hành (BĐH) ĐA phải tự lo hình thành lấy cơ sở pháp lý đó. Đây là việc vượt ra ngoài chức năng của BĐH một ĐA. Nhưng nếu không làm thì ĐA không triển khai được, cho nên họ phải xoay xở để “sáng chế” ra những quy định, quy trình cần thiết và tìm cách nhờ cơ quan này, cơ quan khác thông qua. Như thế, BĐH ĐA 112 đã gánh lấy trách nhiệm khó khăn của kẻ đi trước – kẻ khai hoang. Mặt khác, nhờ có thể tự tạo ra những “sản phẩm phục vụ hình thành cơ sở pháp lý”, họ cũng dễ lồng vào đó những yếu tố có lợi cho riêng mình.

Khó khăn lớn hơn đối với BĐH ĐA 112, nằm ngay trong ý đồ của ĐA, phần nào thể hiện qua cái tên “tin học hóa quản lý hành chính nhà nước”, có thể hiểu là đưa tin học   vào   làm   biến   đổi   hệ   thống   hành   chính. Công bằng mà nói, việc đưa tin học vào các CQNN không phải không tạo ra thay đổi. Nhiều người nhờ đó đã làm quen với máy tính, biết đến Internet và hình thành ý thức về một phương tiện làm việc mới. Thế nhưng, nếu đơn phương tin học hóa, thì chỉ có thể đạt được đến mức ấy thôi, vì một khi tin học can thiệp sâu vào cơ chế hành chính nhạy cảm, bắt những con người đang làm theo guồng quay cũ phải thay đổi quy trình, phải chia sẻ thông tin, công khai thời hạn giải quyết công việc… thì sẽ gặp lực cản. Tin học đã “chạy” trước, nhưng sức ỳ của bộ máy hành chính là rất lớn, và điều đó làm cho chương trình tin học hóa bị lạc bước, trở thành một “dị thể” trong khối hành chính đó. Những trung tâm tích hợp dữ liệu hiện đại nằm đắp chiếu hoặc chỉ được sử dụng rất ít là một hình ảnh tiêu biểu.

Thậm chí, có tỉnh (không làm theo ĐA 112), đã đưa dữ liệu đất đai chi tiết lên mạng, tuyên bố người dân có thể truy cập xem đất đai của cán bộ tỉnh, của nhà hàng xóm. Nhưng sau đó, người ta không còn thấy những dữ liệu chi tiết như thế trên mạng nữa. Đấy là sự trì níu của hệ thống hành chính lạc hậu, khó thay đổi, với rất nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp liên quan đến những lợi ích riêng tư.

Nên khi ĐA 112 tham gia vào hệ thống hành chính, nó đơn phương bởi không thể bắt nhịp được với cả cơ cấu hiện hữu; và khi can thiệp tạo ra sự thay đổi sâu trong nền hành chính, nó vô phương bởi không thể làm được những việc quá khả năng! Không có sự cộng tác của chủ thể hành chính, khả năng hiện đại hóa của tin học chỉ là ảo tưởng. Cái khó của BĐH ĐA 112 lúc này là thi hành một lệnh vượt quá khả năng và tầm vóc của mình: cải tạo hệ thống hành chính.

Nhiều người cho rằng ĐA 112 không có mối liên hệ mật thiết với đề án cải cách hành chính (CCHC) và đó là nguyên nhân khiến nó thất bại. Điều đó chỉ đúng một phần. “Nói chuyện” được với bộ phận CCHC chỉ tạo thêm thuận lợi chứ không làm thay đổi cục diện. Chừng nào bộ máy hành chính còn trì trệ, còn chưa thật sự có những thay đổi lớn, chừng đó tin học còn đứng ngoài lề.

Ngược lại, khi bản thân bộ phận CCHC thật sự làm tốt, muốn thay đổi quy trình, muốn công khai minh bạch, quyết tâm xây dựng một nền hành chính hiện đại, vượt hẳn lên trên mặt bằng cũ kỹ hiện thời…, chắc chắn bộ phận CCHC sẽ có nhu cầu “nói chuyện” với “bên” tin học, chủ động chấp nhận đưa tin học vào ứng dụng cũng như những công nghệ khác làm phương tiện để đạt mục đích. ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Những cảnh báo trong quá trình thực hiện đề án.

  • 730 tỉ đồng và hơn thế cho đề án thất bại: Theo báo cáo của UB KHCN & Môi trường Quốc hội thì đến tháng 9.2003, ĐA112 đã ngốn 3.730 tỉ đồng (vốn T.Ư và địa phương). Từ đó đến năm 2006 (năm chấm dứt thực hiện) số tiền là bao nhiêu thì ngay cả Ban điều hành (BĐH) ĐA112 cũng không biết.
  • Chương trình “Phát triển nguồn nhân lực về CNTT”: Chưa triển khai được vì không có cơ chế huy động tài chính; xây dựng chương trình quá muộn.
  • Đề án tin học hoá hoạt động các cơ quan Đảng (360 tỉ đồng): Công tác nâng cao nhận thức của đề án đến lãnh đạo các cấp còn chậm; hiệu quả điều hành tác nghiệp thấp; đội ngũ nhân lực yếu kém về số và chất lượng.
  • Dự án Hiện đại hoá hệ thống ngân hàng (49.755 tỉ đồng): Trình độ ứng dụng CNTT trong ngân hàng còn cách xa và có nguy cơ tụt hậu; tốc độ phát triển và ứng dụng chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Chưa có kiến trúc CNTT thống nhất cho ngành; môi trường pháp lý không theo kịp; hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu.
  • Dự án Hoàn thiện hệ thống thông tin tài chính và Hiện đại hoá hệ thống thông tin ngành hải quan (đầu tư trong ngành là 530 tỉ đồng): Ứng dụng CNTT ở mức thấp, thay thế một phần lao động thủ công. Khả năng tích hợp yếu, chưa dồng độ; hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu; đội ngũ nhân lực yếu kém.
  • Dự án Tổ chức triển khai phát triển thương mại điện tử (dải ngân 10 tỉ đồng): Các công trình sàn giao dịch thương mại điện tử tại Hà Nội, TPHCM và Đà Nẵng chưa hoàn thành như dự kiến; quy định đầu tư chưa phù hợp.
  • Dự án Ứng dụng CNTT phục vụ CNH – HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn (19,7 tỉ đồng): Triển khai chậm, kinh phí không đủ, khó khăn về thủ tục.
  • Dự án Ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ an ninh công cộng (383 tỉ đồng): Thiếu phối hợp, đầu tư trùng lặp; thiết kế xây dựng hệ thống thông tin nặng tính cục bộ, khó trao đổi kết nối thông tin trên diện rộng; công tác chuẩn hoá thông tin và dữ liệu còn bất cập nên hiệu quả hạn chế.
  • Dự án Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở 2004 – 2008 (2,3 tỉ): Hầu như chưa triển khai được.

7. Nguyên nhân

  • Một số nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của đề án.

Thứ nhất, mục tiêu của Ðề án 112 đã không nhất quán ngay từ khi mới triển khai, là đề án trong khuôn khổ Chương trình cải cách hành chính nhưng được thể hiện với “mầu sắc” và hình thức khoa học công nghệ (tin học), không xác định rõ ràng tin học hóa hay là cải cách hành chính và các quan hệ tương hỗ với nhau.

Thứ hai, năng lực tổ chức và trình độ quản lý thiếu chuyên nghiệp. Ban điều hành không có chức năng quản lý nhà nước về CNTT nhưng vẫn kiêm luôn các nhiệm vụ từ chủ đầu tư, thiết kế, thẩm định tạo nên tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” gây ra lãng phí và sai về nguyên tắc quản lý. Ngay từ đầu đề án đã tiềm ẩn các yếu tố dẫn đến thất bại: không có sự kế thừa từ chương trình quốc gia về CNTT giai đoạn trước. Ban thư ký đề án, các tổ chuyên môn và ngay cả ban điều hành bao gồm các cán bộ kiêm nhiệm với vai trò tham mưu nên không có ai chịu trách nhiệm cụ thể. Phương pháp và phương thức triển khai đề án cũng là nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện Ðề án 112 không thành công. Ðề án thuộc Chương trình cải cách tất cả các mục tiêu. Khi chưa một tỉnh, thành phố, bộ nào thí điểm thành công việc tin học hóa quản lý hành chính mà đã triển khai đề án đồng loạt trong cả nước, tất yếu sẽ dẫn đến những bất cập, hạn chế và thất thoát, lãng phí. Quy trình của hệ thống hành chính cũng chưa được xem xét và rà soát thấu đáo, hệ thống “tin học hóa” cũng không được nghiên cứu, thẩm định phù hợp. Ðề án có quy mô lớn, diện triển khai rộng độ phức tạp phối hợp đa ngành từ trung ương đến địa phương, phức tạp về quy trình ứng dụng, nhưng mô hình tổ chức và quản lý của đề án đã vượt qua giới hạn pháp luật quy định dẫn đến thất bại.

Thứ ba, chưa coi trọng công tác tư vấn, phản biện, giám sát thường xuyên. Công tác tư vấn, phản biện, giám sát thường xuyên đóng vai trò rất quan trọng với thành công hay thất bại của các chương trình dự án, nhất là các đề án liên quan các lĩnh vực khoa học và công nghệ có tốc độ phát triển và xu thế thay đổi nhanh. Công tác giám định từ thiết kế, triển khai cũng không được thực thi nghiêm túc và đầy đủ theo luật định.

Thứ tư, chưa xác định thực sự rõ ràng cơ quan cụ thể nào chịu trách nhiệm chủ đạo việc triển khai Chính phủ điện tử. Trên thực tế, cả Văn phòng Chính phủ, Bộ Bưu chính Viễn thông (*), một số cơ quan khác nữa… cùng đều tham gia triển khai Chính phủ điện tử. ( Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước )

Đôi khi, việc có quá nhiều đơn vị tham gia triển khai Chính phủ điện tử sẽ làm mọi thứ trở nên phức tạp và rối tung lên hơn, và đó có thể là một trong những lý do vì sao việc triển khai không thể nhanh chóng. Nếu nhìn vào các nước khác như Singapore, Hong Kong,… thậm chí Hàn Quốc, luôn có thể thấy rất rõ một cơ quan duy nhất, hoặc hai cơ quan kết hợp lại thành một hệ thống hợp nhất để triển khai mọi hoạt động liên quan tới Chính phủ điện tử, và chịu trách nhiệm về sự thành công hoặc thất bại của quá trình triển khai đó.

  • Trách nhiệm của Chính phủ2

– Thứ nhất: Đề án 112 là đề án lớn, có lượng dự toán là khoảng 3.800 tỷ đồng. Đây là lĩnh vực mới, Chính phủ chưa có kinh nghiệm nhưng đã lựa chọn cơ quan thực hiện xây dựng và tiến hành đề án này là Văn phòng Chính phủ. Có thể nói việc giao nhiệm vụ này là không cho Văn phòng Chính phủ là không phù hợp. Văn phòng Chính phủ là cơ quan tham mưu tổng hợp giúp việc, không phải là cơ quan chức năng, hơn nữa lại không hiểu sâu về lĩnh vực tin học hóa, nhất là vấn đề tin học hóa trong quản lý hành chính nhà nước.

Thứ hai: Cách chỉ đạo quản lý đề án này không ổn. Ban điều hành dự án được lập do một đồng chí chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ làm trưởng ban. Ban điều hành này hoạt động theo hình thức kiêm nhiệm, gồm một số đồng chí thứ trưởng của các bộ ngành tham gia: Bộ kế hoạch, Bộ tài chính, Nội vụ, KHCN và Môi trường, một đồng chí PGĐ tin học của Văn phòng Chính phủ là tổng thư ký điều phối. Trong quá trình thực hiện, các đồng chí thứ trưởng tham gia đề án về cơ bản đã chuyển công tác và nghỉ hưu nhưng ban điều hành vẫn không báo cáo thủ tướng Chính phủ, không được tổ chức lại để thay thế nên Ban điều hành này không có quản trị, không thưòng xuyên hoạt động.

Cho đến cuối năm 2005 đầu năm 2006, cả 5 mục tiêu mà đề án đặt ra đều chưa được hòan thành hoàn chỉnh.

– Thứ 3: Ngay khi Bộ Bưu chính Viễn thông thực hiện năm 2002 đã được thành lập nhưng vẫn chưa kịp chuyển giao nhiệm vụ này. Cơ quan Bộ Bưu chính Viễn thông thành lập vẫn chưa tham gia vào công tác quản lý nhà nước đối với dự án này.

Theo Phó thủ tướng, sai lầm trong công tác chỉ đạo của thường trực Chính phủ đối với dự án này là: Trong quá trình quản lý dự án đã buông lỏng quản lý, thiếu cơ chế kiểm tra, thiếu giám sát thích hợp một cách có hiệu quả. Bộ trưởng chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ là cơ quan được Chính phủ giao chủ trì đề án đã không thực hiện tốt trách nhiệm quản lý, kiểm tra giám sát mà lại phó thác tòan bộ cho đồng chí phó chủ nhiệm, trưởng ban điều hành dự án này.

Chính sự sơ sót buông lỏng trong quản lý đã tạo kẽ hở cho Trưởng ban điều hành dự án và ủy viên thư ký lộng quyền, tiêu cực, tham nhũng và gây lãng phí, thất thoát.

Mặc dù Thủ Tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã quyết định ngừng triển khai Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước (Đề án 112). Nhưng Thủ tướng luôn coi ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước là yêu cầu đúng đắn và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Vì vậy, tin học hóa quản lý hành chính nhà nước phải được tiếp tục triển khai mạnh mẽ, nhưng thực hiện theo đúng Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ mà Thủ tướng vừa ký ban hành trong tháng 4 này.

Được biết, trong nghị định 64/2007/NĐ–CP qui định như sau: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng kế hoạch 5 năm về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan mình, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc đề nghị Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Người đứng đầu cơ quan nhà nước phải trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực, địa phương và tổ chức, cơ quan của mình; quyết định các biện pháp nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin.

Chính phủ khuyến khích các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh triển khai các sáng kiến, chương trình, dự án ứng dụng công nghệ thông tin có sự phối hợp với nhau, tạo cơ sở hạ tầng thông tin chung và tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch điện tử giữa các cơ quan nhà nước và giữa cơ quan nhà nước với tổ chức, cá nhân…

Mời bạn tham khảo thêm:

Luận văn: Nâng cao hiệu quả công nghệ thông tin quản lý Nhà nước

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Luận văn: Thực trạng sử dụng công nghệ để quản lý Nhà nước […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993