Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc cho các bạn đang chuẩn bị làm bài tiểu luận cùng nhau tham khảo nhé. Tiểu luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài tiểu luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dư như đề tài: Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc các bạn cùng tham khảo đề tài tiểu luận dưới đây nhé.
Nội dung chính
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa tộc người là một trong những tài nguyên du lịch quí giá của quốc gia. Vùng văn hóa Tây Bắc là một trong những nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Nơi đây còn lưu giữ, bảo tồn được nhiều nét văn hóa truyền thống tộc người rất đa dạng và độc đáo, một trong những nét văn hóa đặc sắc đó là văn hóa Chợ tình.
Hai chữ “Chợ tình” đã đi vào cách hiểu của người dưới xuôi như một phạm trù xã hội về tình yêu, hôn nhân của nhiều dân tộc thiểu số sống ở vùng Tây Bắc và Việt Bắc – Việt Nam. Đối với đồng bào vùng cao, chợ là đầu mối, là điểm nút của hầu hết những sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Chính vì vậy, đó không chỉ là nơi gặp gỡ để kinh doanh buôn bán hay trao đổi hàng hóa thương phẩm mà còn trở thành nơi để họp mặt hò hẹn, nơi trao gửi tình cảm của những đôi lứa yêu nhau nhưng vì một hoàn cảnh nào đó không thể đến được với nhau, qua những buổi chợ mà trở nên người tri âm tri kỷ. Chợ cũng là nơi để các đôi trai gái trẻ gặp nhau mà nên vợ nên chồng. Trong số các Chợ tình vùng cao ở nước ta, Chợ tình Tây Bắc được biết đến nhiều nhất. Có thể nói, Chợ tình Tây Bắc đã kết tinh trong đó quan niệm sống cùng những tinh hoa văn hóa và những phong tục tập quán đặc sắc của đồng bào thiểu số các dân tộc như Dao, Mông, Nùng… Đó là một nét văn hóa đặc sắc của Tây Bắc cần được bảo tồn và khai thác hiệu quả trong du lịch nhằm giới thiệu cho du khách gần xa, tránh tình trạng bị phai mờ hoặc bị biến tướng như hiện nay.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Tiểu Luận Giữa Kỳ
2. Mục đích của đề tài Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Mục đích đầu tiên của đề tài là đi sâu tìm hiểu nguồn gốc, lịch sử phát triển và đặc trưng văn hóa của một số Chợ tình tiêu biểu ở Tây Bắc. Mục đích thứ hai của đề tài là đánh giá thực trạng khai thác tài nguyên này trong hoạt động du lịch những năm gần đây ở Tây Bắc. Trên cơ sở đó, tiến tới đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác Chợ tình Tây Bắc trong kinh doanh du lịch.
3. Ý nghĩa của đề tài
Trước đây, khi nói đến khu vực Tay Bắc, người ta thường chỉ biết đến một Chợ tình, đó là Chợ tình Sa Pa thuộc tỉnh Lào Cai. Nhận thức được giá trị của tài nguyên văn hóa này, những năm gần đây ngành du lịch Sa Pa, Lào Cai đã tìm cách đưa Chợ tình vào khai thác trong hoạt động du lịch, nhưng việc khai thác không hiệu quả dẫn đến du khách có một cái nhìn hoàn toàn sai lệch về Chợ tình, gây lãng phí rất lớn về nguồn tài nguyên. Bên cạnh đó, một số Chợ tình đặc sắc khác cũng là tài nguyên du lịch của vùng Tây Bắc thì lại chưa được quảng bá và biết đến. Vì vậy, giới thiệu về Chợ tình Tây Bắc trong một cái nhìn hệ thống, nêu lên được những giá trị văn hóa đặc trưng, làm tiền đề cho việc khai thác hiệu quả trong du lịch là một trong những việc làm cần thiết và có ý nghĩa, đóng góp vào sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam.
Bên cạnh đó, do được xây dựng trên cơ sở vận dụng từ lý thuyết đến thực tế và sử dụng thực tế để kiểm chứng lý thuyết, do vậy kết quả của đề tài có thể được ứng dụng trong công tác quản lý, là cơ sở cho việc xây dựng các tour du lịch, là nguồn tư tiệu cho những ai có nhu cầu tìm hiểu về nét văn hóa Chợ tình ở Tây Bắc.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Đã có một số tài liệu viết và giới thiệu về Chợ tình ở Tây Bắc song việc thống kê, hệ thống một cách đầy đủ còn rất ít. Đồng thời phần lớn những tài liệu đó mới dừng lại ở chỗ cung cấp thông tin, ít tài liệu đề cập đến việc định hướng khai thác nguồn tài nguyên này cho hoạt động du lịch. Có thể kể tên một số công trình viết về Tây Bắc và văn hóa tộc người ở Tây Bắc nói chung như:
- Văn hóa các dân tộc Tây Bắc: Thực trạng và những vấn đề đặt ra, tác giả Trần Văn Bính, NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
- Văn hóa bản làng truyền thống các dân tộc Thái, Mông vùng Tây Bắc Việt Nam, tác giả Ngô Ngọc Thắng NXB Văn hóa Dân tộc, 2002.
- Các tộc người ở Tây Bắc Việt Nam, tác giả Bùi Văn Tinh, Ban dân tộc Tây Bắc, 1975.
Trên các trang báo mạng cũng có nhiều bài viết sơ lược, giới thiệu về Chợ tình Sa Pa hay Chợ tình Châu Mộc ở Tây Bắc như “Chợ tình ở vùng cao: Cái tình không bán” của Đỗ Anh Tuấn, báo VietNamNet; “Chợ tình Sa Pa” của Tuấn Anh, Vietbao; phóng sự ảnh “Chợ tình Châu Mộc” của Lê Anh Dũng…
Vì thế, với đề tài này, người thực hiện mong muốn đưa ra một cái nhìn hệ thống về các Chợ tình có ở Tây Bắc cũng như những bất cập trong hiện trạng khai thác hiện nay, từ đó đề xuất những định hướng cho việc khai thác phục vụ phát triển du lịch trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu:
Là phương pháp chính được sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, người viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, có được tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp thực địa:
Quá trình thực địa giúp sưu tầm thu thập tài liệu, nhằm nhận được thông tin xác thực cần thiết để thành lập ngân hàng số liệu cho việc hoàn thiện đề tài .
Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp.
Phương pháp này giúp định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hưởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các chương trình phát triển, các định hướng, các chiến lược và giải pháp phát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Bố cục của khóa luận:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, kết cấu của khóa luận gồm có 3 chương:
- Chương 1: Khái quát chung về vùng văn hóa Tây Bắc
- Chương 2: Nét văn hóa Chợ tình Tây Bắc
- Chương 3: Đề xuất một số giải pháp khai thác hiệu quả Chợ tình phục vụ phát triển du lịch Tây Bắc.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG VĂN HÓA TÂY BẮC Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
1.1. Điều kiện địa lí – tự nhiên
Vùng văn hóa Tây Bắc là tên gọi một khu vực rộng lớn nằm về phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội , của vùng du lịch Bắc Bộ, ), với diện tích gần 51.000 km²; có vị trí quan trọng đối với chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, là một trong ba tiểu.
Tây Bắc là một miền núi cao hiểm trở, các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, trong đó có dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180 km, rộng 30 km, cao từ 1500m trở lên, các đỉnh cao nhất như Phanxipăng cao 3.142m, Yam Phình cao 3096m, Pu Luông cao 2.983m.
Đất Tây Bắc còn được đồng bào gọi là đất “ba con sông”, tạo nên ba “dải nước màu: trắng, xanh, đỏ”, bởi vì sông Mã lắm thác ghềnh nên nhiều sóng bạc đầu, dòng Nặm Tè (sông Đà) chảy giữa các triền núi đá grannít, sâu thẳm xanh đen một màu, còn dòng Nặm Tao mang nặng phù sa thì còn được gọi là sông Hồng. Ba con sông tự nhiên nhưng trở thành biểu tượng riêng của vùng đất. Chúng lại có ba màu của nắng, của cây và của đất.
Dẫu rằng cũng nằm trong vòng đai nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở độ cao từ 800-3000m nên khí hậu Tây Bắc ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Bên cạnh đó do địa hình bị chia cắt bởi các dãy núi, các dòng sông, khe suối đã tạo nên những thung lũng, có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên. Vì thế, Tây Bắc được coi là nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau, tạo nên sắc thái đa dạng cho điều kiện tự nhiên cũng như bản sắc văn hóa nơi đây.
Về mặt hành chính, vùng Tây Bắc gồm 6 tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái. Trong đó:
Hòa Bình là một tỉnh miền núi phía tây bắc, nằm ở tọa độ 200°19′-210°08′ Vĩ độ Bắc, 104048′ – 105040′ kinh độ đông, tiếp giáp với phía Tây đồng bằng sông Hồng, Hòa Bình có địa hình núi trung bình, chia cắt phức tạp, độ dốc lớn và theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Điện Biên là một tỉnh mới thành lập, tách ra từ tỉnh Lai Châu trước đây, cách thủ đô Hà Nội gần 500km về phía Tây, giáp với các tỉnh Lai Châu và Sơn La.
- Lai Châu là một tỉnh biên giới thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam, phía Bắc tỉnh Lai Châu giáp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, phía Đông giáp tỉnh
Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, phía Tây và phía Nam giáp tỉnh Điện Biên.
- Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi, mùa đông lạnh khô, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Khí hậu Sơn La chia làm 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Sơn La nóng ẩm vào mùa xuân, nắng nóng vào lúc giao mùa giữa mùa xuân và mùa hạ, se se lạnh vào mùa thu và lạnh buốt vào mùa đông.
- Lào Cai là một vùng đất cổ, diện mạo địa hình được hình thành cách nay 50-60 triệu năm, trong đợt tạo sơn cuối cùng, vỏ trái đất vặn mình, đứt gẫy. Hơn vạn năm trước, con người đã có mặt tại địa bàn tại đây.
Ngoài ra còn có tỉnh Yên Bái nằm ở hữu ngạn sông Hồng.
Về mặt lịch sử, tại vùng Tây Bắc, thời Pháp thuộc đã lập ra xứ Thái tự trị. Năm 1955 Khu tự trị Thái-Mèo được thành lập, gồm 3 tỉnh Lai Châu, Sơn La và Nghĩa Lộ, và đến năm 1962 gọi là Khu tự trị Tây Bắc. Khu tự trị này giải thể năm 1975.
Vùng Tây Bắc có vị trí chiến lược trong an ninh-quốc phòng. Hiện nay, vùng Tây Bắc do Quân khu 2 bảo vệ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nơi đây đã diễn ra nhiều trận đánh và chiến dịch quân sự ác liệt mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngoài ra còn có trận Nà Sản cũng trong thời kì Chiến tranh Đông Duơng
Về cơ bản, vùng Tây Bắc là không gian văn hóa của dân tộc Thái, nổi tiếng với điệu múa xòe, tiêu biểu là điệu múa xòe hoa được rất nhiều người biết đến. Thái là dân tộc có dân số lớn nhất vùng. Ngoài ra, còn khoảng 20 dân tộc khác như Mèo, Nùng… Ai đã từng qua Tây Bắc không thể quên được hình ảnh những cô gái Thái với những bộ váy áo thật rực rỡ đặc trưng cho Tây Bắc.
Chiếm gần 1/3 diện tích cả nước với trên 9,8 triệu dân, Tây Bắc là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng. Đây cũng là nơi có nhiều tiềm năng, lợi thế về, tài nguyên khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu.
1.2. Điều kiện dân cư – xã hội Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Tây Bắc là vùng có trên 20 dân tộc thiểu số sinh sống, mỗi dân tộc có một phong tục tập quán riêng, một nét văn hóa riêng. Đây vừa là thuận lợi, vừa là điểm khó khăn trong việc khai thác và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng.
Ở Tây Bắc, người Mường chiếm 1,2 % dân số cả nước. Người Mường tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình. Người Thái chiếm gần 1,3 % dân số của cả nước. Hiện nay người Thái cư trú trên một địa bàn rộng lớn chủ yếu ở các huyện vùng trung du và thượng du Tây Bắc cho đến tận miền Tây hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Ngoài ra, còn có người Mông định cư và hoạt động sản xuất ở các sườn núi với độ cao trên 1.500m sát biên giới phía Bắc, với các ngành Trắng, Xanh, Đen, Hoa, Dao (với các ngành Quấn chẹt, Nga Hoàng, Dao đỏ), chiếm khoảng 0,7% dân số cả nước. Người Dao, cư trú ở độ cao 700 – 1000 m, tức là thấp hơn độ cao của người Mông ở lưng chừng núi, nơi nạn đốt rừng đang gây ra hiện tượng xói mòn với tốc độ đáng lo ngại. Cùng sinh sống trên địa bàn này còn có các tộc người như Khơmú, Laha, Xinhmun, Tày… Ngoài ra, còn có một bộ phận người Kinh vốn là con cháu nghĩa binh Hoàng Công Chất đã sống lâu đời ở đây, và một bộ phận người Hoa, vốn là dòng dõi quân Lưu Vĩnh Phúc.
Tây Bắc là vùng đất có nền sản xuất nông nghiệp phong phú: chăn nuôi bò sữa, trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa, trồng cây ăn quả, chế biến chè và các lâm sản khác. Nương rẫy là một bộ phận bổ sung không thể thiếu. Với nương, đồng bào có lúa, rau quả như bầu bí, rau cải, đậu, đu đủ, vừng, kê, ớt… Bông và chàm cũng trồng trên nương. Và rừng, rừng bạt ngàn là nơi con người hái rau rừng, lấy thuốc chữa bệnh, thuốc nhuộm, săn bắt thú rừng và khi thất bát mùa màng thì chính rừng, với củ mài, bột báng đã cứu họ khỏi chết đói. Bản làng có một thái độ rất kính trọng với rừng. Chẳng phải vì rừng có ma thiêng, mà vì rừng là nơi con người nương tựa để tồn tại. Luật Thái có hàng chục điều quy định về việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc biệt là những quyết định về bảo vệ rừng đầu nguồn.
Các dân tộc trong vùng đều có tín ngưỡng “mọi vật có linh hồn” (animisme), một loại tín ngưỡng mà mọi dân tộc trên hành tinh đều trải qua. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Có đủ loại “hồn” và các loại thần sông núi, suối khe, đá, cây, súc vật, các lực lượng thiên nhiên như sấm, chớp, mưa, gió. Các bộ phận trên thân thể con người cũng có hồn. Người Kinh cho rằng có ba hồn bảy vía (nam) và ba hồn chín vía (nữ). Người Thái có đến 80 hồn (Xam xếp khoăn mang nả. Hả xếp khoăn mang lăng), như hồn tóc, hồn lông mày, lông mi, tai, mũi, trán…
Người chết không biến mất mà trở về sống ở bản của tổ tiên. Do chỗ mọi vật đều có hồn, nên cần phải cư xử với chúng như trong quan hệ với người. Vậy có hồn tốt, hồn xấu, hồn ác, hồn lành tùy thuộc vào cách đối xử của người với chúng. Vào hoàn cảnh xã hội cổ truyền thì đây là cách chiếm lĩnh thiên nhiên và thực tại của đồng bào, với hi vọng có thể nói chuyện”, có thể “thương lượng thậm chí khi cần thì cầu xin chúng. Bằng cách đó, đồng bào thiết lập được mối quan hệ với mọi vật và với tổ tiên, đặt con người vào tổng thể môi trường không gian và thời gian, tạo nên một cân bằng trong tâm thức. Con người hội tụ vào cuộc sống hiện hữu của mình các miền thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai; và các chiều không gian: thiên nhiên, môi trường, con người, xã hội. Đó chính là mối quan hệ đa diện, đa phương đảm bảo cho tính hợp lí và sự ổn định tất yếu của cuộc sống con người. Thiết tưởng, với trình độ khoa học kĩ thuật chưa phát triển thì cách nhận thức thế giới theo phương pháp huyền thoại, tín ngưỡng này không phải không có tác dụng tích cực cho sự tồn tại của cộng đồng và con người nới miền núi rừng Tây Bắc.
1.3. Tài nguyên du lịch Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Đây là vùng giàu tài nguyên du lịch cả về tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn.
1.3.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Tây Bắc là một vùng được thiên nhiên ưu đãi, với địa hình đa dạng, nơi đây có rất nhiều cảnh đẹp nổi tiếng bao gồm cả hang động và thác ghềnh. Có thể kể tên một số công trình đã được kì quan thiên nhiên thiên tạo như:
Động Đá Bạc – Hòa Bình
Động Đá Bạc thuộc xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Ðộng Ðá Bạc là tác phẩm nghệ thuật tạo hình kỳ lạ của tạo hóa, là sự kết hợp tinh tế giữa điêu khắc và hội họa, giữa tính hoành tráng khỏe khắn với sự duyên dáng thơ mộng.
Ðộng Ðá Bạc được phát hiện năm 1990 do sự tình cờ của người dân đi lấy củi. Ban đầu cửa động là một khe nhỏ vừa một người chui vào, sau dân địa phương mở rộng cửa động để dễ bề đi lại. Với chiều dài gần 70m, nhiều cung phòng nhỏ, động Ðá Bạc chứa đựng những giá trị tiềm tàng và nhiều điều bí ẩn của thiên nhiên.
Suối nước nóng Kim Bôi – Hòa Bình
Suối nước khóang nóng Kim Bôi thuộc huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Đây là suối khoáng nóng tự nhiên rất tốt cho sức khỏe con người. Qua kiểm nghiệm nguồn nước khóang Kim Bôi có đủ tiêu chuẩn dùng làm nước uống, để tắm, ngâm mình có tác dụng chữa các bệnh viêm khớp, đường ruột, dạ dày, huyết áp. Đây cũng là một điểm du lịch hấp dẫn của tỉnh Hòa Bình.
Bản Lác Mai Châu – Hòa Bình Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Bản Lác thuộc thung lũng Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Nơi đây từ lâu đã nổi tiếng là một điểm du lịch cộng đồng đặc sắc của đồng bào dân tộc Thái. Tới thăm bản Lác, du khách sẽ được ở trong những ngôi nhà sàn cao ráo, sạch sẽ, đặc trưng của người Thái. Sàn nhà cách mặt đất khoảng 2m, được dựng bằng những cột gỗ chắc chắn. Khách đến nhà xin mời múc nước rửa chân trước khi bước lên cầu thang. Sàn nhà bằng tre hoặc bương. Mái nhà lợp lá gồi hoặc lá mây. Các cửa sổ trong nhà có kích thước khá lớn để đón gió mát và cũng là nơi để chủ nhà treo các giò hoa phong lan, lồng chim cảnh. Một khung dệt vải thổ cẩm được đặt cạnh một ô cửa sổ. Đây là bản dân tộc ở tỉnh Hòa Bình còn giữ được nhiều nét phong tục tập quán cổ truyền đặc sắc. Nơi đây đang được tỉnh Hòa Bình đầu tư phát triển để trở thành một trong những điểm du lịch sinh thái hấp dẫn.
Hang Tiên Sơn – Lai Châu
Hang Tiên Sơn thuộc xã Bình Lư, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Trong hang có nhiều nhũ đá rủ xuống, nhiều măng đá “mọc” từ dưới lên tạo thành các hình thù kỳ lạ. Hang mới được phát hiện và khai thác nên còn khá nguyên sơ. Chính vẻ đẹp nguyên sơ của hang đang thu hút được rất nhiều khách du lịch.
Hang Dơi – Sơn La
Hang Dơi thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La có diện tích là 6.915 m2. Nơi đây dưới sự tác động của thiên nhiên đã tạo ra những hang động lớn với những cảnh đẹp mê hồn, cùng địa hình có độ dốc lớn của những dòng suối chảy đã tạo ra những dòng thác kỳ thú khiến không ít du khách phải trầm trồ thán phục. Nơi đây có rất nhiều dơi sinh sống, du khách đến đây có thể ngắm nhìn nhiều tổ dơi xen lẫn trong các hốc đá, điều này đã tạo nên điểm khác biệt hấp dẫn cho Hang Dơi.
Thác Dải Yếm – Sơn La Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Khởi nguồn từ hai khe nước Bó Co Lắm và Bo Tá Cháu ở đầu bản Vặt – một bản của dân tộc Thái có lịch sử lâu đời nhất ở vùng đất này – nước từ nguồn trong núi chảy ra tạo thành suối Vặt khoảng 5 km thì hòa vào dòng chảy của suối Bó Sập – một dòng suối lớn bắt nguồn từ bản Bó Sập giáp biên giới Việt – Lào chảy về đất Yên Châu tạo thành thác nước hùng vĩ. Thác ngày đêm đổ xuống trắng xóa, ầm ào không chỉ mang đến cho du khách sự thích thú trước một khung cảnh vừa huyền bí vừa kỳ vĩ của đất trời mà còn tạo nên cảm giác sảng khóai khi được hòa mình theo những ngọn gió mát lành của thiên nhiên. Thác Dải Yếm đẹp nhất vào tháng 4 đến tháng 9 hàng năm bởi đây là mùa nước đủ, toàn bộ thác rộng 70m là một màn nước trắng xóa đổ xuống vừa mạnh mẽ vừa hùng vĩ tạo ra cảnh quan không kém phần thơ mộng và lãng mạn.
Ngược theo suối một đoạn, một lòng suối rộng với hàng ngàn viên đá, tảng đá mang muôn hình vạn trạng khác nhau, nhìn rất lạ mắt hiện ra sẽ khiến du khách thích thú. Chịu khó trèo lên đến đỉnh thác, khách sẽ gặp một thảm thực vật phong phú và tuyệt đẹp tạo cho khung cảnh thiên nhiên nơi đây càng thêm sinh động.
Hồ Pá Khoang – Điện Biên
Hồ Pá Khoang thuộc địa phận xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện Biên gần 20km. Hồ Pá Khoang nằm giữa một vùng thiên nhiên cảnh đẹp hùng vĩ, ẩn hiện trong mây trời non nước. Vào mùa đông sương mờ buông phủ tạo thành một phong cảnh huyền ảo, thấp thóang nơi xa là những dãy núi trập trùng, những nếp nhà xinh xắn. Mùa hè không khí nơi đây thật dễ chịu với những luồng gió nam mát dịu. Tất cả tạo nên một khung cảnh êm đềm, thơ mộng, một thắng cảnh quyến rũ lòng người. Trong khu vực lòng hồ có các bản dân tộc Thái, Khơ Mú là những dân tộc còn giữ được những phong tục tập quán, nét đặc sắc của các dân tộc vùng Tây Bắc.
Hang Thẩm Báng – Điện Biên Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Hang Thẩm Báng không chỉ là một hang đá đẹp mà tại đây, nhân dân địa phương đã phát hiện một số loại rìu, chày nghiền thức ăn bằng đá, một số mẩu xương động vật hóa thạch.
Sa Pa – Lào Cai
Nằm ở phía Tây Bắc của Việt Nam, thị trấn Sa Pa ở độ cao 1.600 mét so với mực nước biển, cách thành phố Lào Cai 38 km và 376 km tính từ Hà Nội. Sa Pa có khí hậu mang sắc thái ôn đới và cận nhiệt đới, không khí mát mẻ quanh năm. Thời tiết ở thị trấn một ngày có đủ bốn mùa: buổi sáng là tiết trời mùa xuân, buổi trưa tiết trời như vào hạ, thường có nắng nhẹ, khí hậu dịu mát, buổi chiều mây và sương rơi xuống tạo cảm giác lành lạnh như trời thu và ban đêm là cái rét của mùa đông.
Sa Pa là một vùng đất khiêm nhường, lặng lẽ nhưng ẩn chứa bao điều kỳ diệu của cảnh sắc thiên nhiên. Phong cảnh thiên nhiên của Sa Pa được kết hợp với sức sáng tạo của con người cùng với địa hình của núi đồi, màu xanh của rừng như bức tranh có sự sắp xếp theo một bố cục hài hòa tạo nên một vùng có nhiều cảnh sắc thơ mộng hấp dẫn. Chìm trong làn mây bồng bềnh, thị trấn Sa Pa như một thành phố trong sương huyền ảo, vẽ lên một bức tranh sơn thủy hữu tình.
Sa Pa có đỉnh Phan Xi Păng cao 3.143m trên dãy Hoàng Liên Sơn. Gọi là Hoàng Liên Sơn bởi duy nhất trên dãy núi này có cây Hoàng Liên, một loại dược liệu quý, hiếm. Ngoài ra dãy Hoàng Liên còn là “mỏ” của nhiều loài gỗ quý như thông dầu, của bao chim thú như gà gô, gấu, khỉ, sơn dương và của hàng ngàn loại thuốc. Khu rừng quốc gia Hoàng Liên Sơn có 136 loài chim, có 56 loài thú, 553 loài côn trùng. Trong đó có 37 loài thú được ghi trong “sách đỏ Việt Nam. Rừng Hoàng Liên Sơn có 864 loài thực vật, trong đó có 173 loài cây thuốc. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Sa Pa có núi Hàm Rồng ở sát ngay thị trấn, bất kỳ du khách nào cũng có thể lên đó để ngắm toàn cảnh thị trấn, thung lũng Mường Hoa, Sa Pả, Tả Phìn ẩn hiện trong sương khói. Hiện nay, với bàn tay tôn tạo của con người, Hàm Rồng thực sự là một thắng cảnh đầy hoa trái của Sa Pa. Và, nếu ai đã đến Thạch Lâm (Vân Nam, Trung Quốc) thì Hàm Rồng cũng có thể giúp các bạn tưởng tượng là Thạch Lâm được. Lên Hàm Rồng, du khách như lạc vào vườn tiên, mây ùa kín thân người, hoa rực rỡ mặt đất.
Sa Pa còn có nhà thờ cổ ở ngay thị trấn và từ thị trấn đi ngược về hướng đông bắc trên đường đi tới động Tả Phìn có một tu viện được xây gần toàn như bằng đá tại một sườn đồi quang đãng, thóang mát. Qua tu viện đi bộ ba cây số theo hướng bắc ta đến hang động Tả Phìn với độ rộng có thể đủ chứa một số lượng người cỡ trung đoàn của quân đội. Trong hang nhiều nhũ đá tạo nên những hình thù kỳ thú như hình tiên múa, đoàn tiên ngồi, cánh đồng xa, rừng cây lấp lánh.
Đặc biệt, tại thung lũng Mường Hoa có 196 hòn đá chạm khắc nhiều hình kỳ lạ của những cư dân cổ xưa cách đây hàng ngàn vạn năm mà nhiều nhà khảo cổ học vẫn chưa giải mã được. Khu chạm khắc cổ đã được xếp hạng di tích quốc gia.
Từ thị trấn Sa Pa, đi về phía tây khoảng 12km trên đường đi Lai Châu, ta sẽ gặp Thác Bạc với những dòng nước đổ ào ào từ độ cao trên 200m tạo thành âm thanh núi rừng đầy ấn tượng.
Núi Cô Tiên – Bắc Hà – Lào Cai
Đến với núi Cô Tiên là đến với địa thế có tầm nhìn đẹp. Trên vách đá phẳng, rộng, nhiều am nhỏ như được bàn tay các nghệ nhân đẽo gọt. Tượng Phật Bà Quan Âm được đặt mặt quay về phương Nam. Tham quan núi Cô Tiên, du khách không những được thưởng thức những nét đẹp văn hóa truyền thống độc đáo của người vùng cao mà còn được ngắm nhìn cảnh quan thiên nhiên kỳ thú. Thị trấn như tràn ngập trong biển mây khi mùa hoa mận nở, những phiên chợ náo nhiệt với đầy đủ sắc màu váy áo, dinh thự Hoàng A Tưởng trầm tĩnh uy nghi, những thảm lúa, nương ngô, cánh rừng xanh ngắt… tất cả đều chứng minh cho sự thịnh vượng của một vùng đất vùng cao.
Động Mường Vi – Bát Xát – Lào Cai
Đây là quần thể hang động lớn và đẹp chẳng khác nào ‘”tiên cảnh”, được xếp hạng là danh thắng cấp quốc gia cần được giữ gìn. Với hệ thống hang liên hoàn, quần thể hang động Mường Vi nổi tiếng và đẹp nhất bởi 3 hang là Pạc Cám, Na Rin và Ná Rim. Trong đó, hang Pạc Cám là một động khô, một số nhà khoa học cho rằng, hang có giá trị cao về khảo cổ học vì nơi đây ẩn chứa nhiều dấu tích của người xưa. Hang Na Rin và Ná Rim lại là những động nước kỳ ảo, đẹp lung linh với muôn vàn nhũ đá gắn liền với sự tích thần tiên. Động Mường Vi là một trong số ít danh thắng của Lào Cai khiến du khách đã đến một lần thì không thể không khám phá thêm nhiều lần nữa.
Trên đây là những thắng cảnh tiêu biểu của vùng. Bên cạnh đó còn rất nhiều những điểm du lịch hấp dẫn khác mà không thể kể hết được đang chờ đợi du khách khám phá, tìm hiểu và nghiên cứu.
1.3.2. Tài nguyên du lịch nhân văn Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Không gian Tây Bắc là không gian văn hóa của trên 20 tộc người thiểu số cùng sinh sống, với những nét văn hóa đặc trưng hấp dẫn, với nhiều lễ hội, các loại hình nghệ thuật, các sản phẩm thủ công truyền thống, các đặc sản ẩm thực…
1.3.2.1. Lễ hội
Vùng Tây Bắc có rất nhiều dân tộc thiểu số sinh sống nên cũng là nơi tập trung rất nhiều lễ hội đặc sắc. Mỗi dân tộc ở mỗi địa phương lại có những lễ hội khác nhau. Lẽ hội là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Dưới đây chỉ xin được kể đến một số lễ hội tiêu biểu của một số dân tộc tại một số địa phương có khả năng phục vụ phát triển du lịch.
Lễ hội xuống đồng Sa Pa – Lào Cai
Lễ hội xuống đồng đầu xuân của đồng bào dân tộc Tày, Dao xã Bản Hồ – Sa Pa (Lào Cai) khai hội sáng ngày mồng 8 Tết luôn thu hút rất đông nhân dân địa phương và du khách thập phương, có rất nhiều khách du lịch nước ngoài đã đến dự vui và khám phá nét văn hóa đặc sắc của đồng bào vùng núi cao phía bắc.
Phần lễ được bắt đầu từ tục rước đất, rước nước. Đoàn rước bao giờ cũng đi từ rất sớm khi trời còn chưa rõ mặt người. Trong đoàn gồm có: thầy cúng, đội trống, đội khèn, hai đôi nam nữ chưa vợ chưa chồng khiêng kiệu rước. Kiệu rước được trang trí sặc sỡ nhiều mầu theo biểu tượng âm dương ngũ hành. Đi đầu đoàn rước là thầy cúng, người được dân bản giao trách nhiệm là sứ giả để giao tiếp với thần linh, trên tay thầy cầm cây nêu biểu tượng của sự sinh sôi, nảy nở. Đi sau là kiệu rước nước, nước được đựng trong hai ống bương to một ống bố và một ống mẹ. Tiếp đến là kiệu rước đất, đất thiêng được lấy từ trên núi cao gọi là đất mẹ. Sau đó là các mâm lễ để dâng các vị thần linh. Lễ vật gồm một mâm quả còn (bên trong các quả còn có đựng các hạt giống), mâm xôi 7 màu, bánh dày ngũ sắc và thủ lợn, gà luộc, hoa quả… Đội chiêng trống đi hai bên thầy cúng nổi chiêng trống để thầy cúng giao linh với thần linh. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Phần hội được bắt đầu bằng các điệu múa và các tiết mục văn nghệ dân gian đặc sắc của người Tày, người Dao. Nổi bật nhất, vui nhất, nhiều người tham gia nhất là những màn xòe, khi tiếng kèn trống vang lên các cô gái Tày mở đầu màn xòe với những động tác xòe duyên dáng, điệu nghệ mời mọi người tham gia, vòng xòe cứ rộng mãi đi đều trong tiếng kèn, tiếng trống dập dìu.
Khi các màn xòe kết thúc mọi người lại đổ tới khu chơi trò chơi. Các trò chơi ở đây đa số là trò chơi dân gian. Đầu tiên là trò chơi ném còn, hai đôi nam thanh nữ tú được vinh dự ném quả còn đầu tiên, sau đó tất cả mọi người đều được tham gia. Trò chơi ném còn được tiếp tục cho đến khi quả còn được ai đó ném qua vòng. Tiếp theo là các trò chơi như đẩy gậy, kéo co, đánh quay, đánh bóng, bịt mắt bắt dê, leo cột mỡ…
Có thể nói hội xuống đồng Bản Hồ – Sa Pa có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp thêm sinh lực mới cho người dân trong sản xuất và xây dựng, gìn giữ bản sắc văn hóa.
Lễ hội Đền Thượng – Lào Cai
Đây là lễ hội có quy mô lớn nhất trên địa bàn được tổ chức hàng năm để tưởng nhớ công ơn Đức Thánh Trần đánh đuổi giặc Nguyên, giữ yên bờ cõi đất Việt. Nhiều năm qua, cứ đến rằm tháng Giêng hàng năm, trong không khí đầu xuân, đồng bào các dân tộc ở Lào Cai nói riêng và nhân dân cả nước nói chung lại nô nức hành hương về thành phố Lào Cai – nơi đất thiêng ải bắc để hòa mình vào không khí sôi động của lễ hội đền Thượng. Những năm gần đây, lễ hội đền Thượng đã dược tỉnh Lào Cai tổ chức với quy mô ngày càng lớn hơn và trình tự nghi thức trọng thể.
Phần lễ được cử hành trang nghiêm trong các đền chùa trên đồi Hỏa Hiệu. Phần hội diễn ra tưng bừng náo nhiệt với nhiều trò chơi dân gian đặc sắc, vui nhộn như: múa rồng, lân, kéo co, ném còn, vật dân tộc, đẩy gậy, bắn nỏ, chọi gà, đu, cờ người… Ngoài dịp lễ hội rằm tháng Giêng, những ngày thường, nhất là vào các ngày 15, 30, mồng 1 âm lịch hàng tháng …, đồng bào các dân tộc ở Lào Cai và nhiều nơi khác vẫn về dâng hương cầu phúc và vãn cảnh đền Thượng. Đó cũng là một trong những nét đẹp văn hóa truyền thống của tỉnh Lào Cai còn lưu giữ và phát huy đến ngày nay.
Lễ hội Khai hạ của người Mường Bi – Hòa Bình Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Hàng năm cứ đến mùng 8 tháng Giêng, Lễ hội Khai hạ (Lễ xuống đồng) của người Mường Bi lại được tổ chức tại huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Lễ hội gồm hai phần, phần lễ bao gồm thủ tục thờ cúng, làm lễ thắp hương cầu lộc, cầu may. Phần hội diễn ra sau đó với các trò chơi dân gian như ném còn, đánh mảng, đẩy gậy, bóng đá, bóng chuyền, bắn nỏ, giã gạo, vật cổ truyền, múa cồng chiêng, múa sạp… Đây là sự kiện văn hóa có ý nghĩa đối với cộng đồng dân tộc Mường huyện Tân Lạc nói riêng và của tỉnh Hòa Bình nói chung, lễ hội nhằm lưu giữ, bảo tồn những giá trị văn hóa Mường trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Lễ hội đền Đông Cuông – Yên Bái
Từ lâu, Đền Đông Cuông xã Đông Cuông, Yên Bái đã nổi tiếng là ngôi đền linh thiêng, thờ Mẫu Thượng Ngàn, hàng năm thu hút đông đảo nhân dân cả nước đến dâng hương, vãn cảnh đền và cầu nguyện cho mình vcũng như người thân một năm gặp nhiều may mắn… Lễ hội đền Đông Cuông còn là một trong những lễ hội chính của Chương trình Du lịch về cội nguồn hợp tác giữa 3 tỉnh Yên Bái – Phú Thọ – Lào Cai. Đền Đông Cuông đã thực sự trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút nhân dân và du khách ở khắp nơi đến thưởng ngoạn và dâng hương.
Lễ hội Hoa ban – Lai Châu
Hội Hoa ban, được tổ chức vào dịp tháng hai âm lịch hàng năm, khi thời tiết bắt đầu nắng ấm. Sau mùa mưa hoa ban bắt đầu nở trắng cả núi rừng thì người Thái ở Tây Bắc bắt đầu đi trẩy Hội. Tại Hội này các bạn tâm giao có dịp gặp nhau, hò hẹn, tâm tình. Chàng trai ngắt những bông hoa ban đầu xuân đẹp nhất cài lên mái tóc của người mình yêu. Cô gái e ấp, thẹn thùng nấp mình dưới những lộc ban xanh mướt. Hội hoa ban mở ra không chỉ là ngày hội của tình yêu và hạnh phúc, mà còn là dịp để người Thái cầu mùa, cầu phúc, bày tỏ đạo hiếu đối với ông bà, cha mẹ. Tất cả được thể hiện thông qua tiếng đàn, tiếng hát và lời nguyện cầu tha thiết. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Lễ hội Hạn Khuống – Lai Châu
Hạn Khuống là một sinh hoạt truyền thống văn hóa, vui tươi, lành mạnh, giàu sáng tạo (lời hát, truyện kể) trong không khí ấm cúng và tao nhã. Người Thái cùng một số dân tộc Tây Bắc thường tổ chức hạn khuống sau vụ thu hoạch vào khoảng giữa thu – đông. Nơi tổ chức trò vui trên là một khoảng đất rộng thoáng ở bản, thanh niên nam nữ dựng sàn. Sàn cao khoảng 1,5 m (4.5 ft), có hàng rào bao quanh bằng phên mắt cáo, chỉ có một cửa ra vào. Cuộc vui mở vào đêm bên bếp lữa sàn. Thanh niên nam nữ đến hát làm quen, vui chơi ca hát và thi tài khéo léo. Nam nữ hát đối đáp với nhau cho đến sáng họ mới chia tay nhau. Đêm hôm sau họ lại tiếp tục ca hát vui đùa trò chuyện. Hạn Khuống do bên gái tổ chức thực ra là cuộc vui để tìm hiểu bạn đời và sau đó là để chia tay về nhà chồng. Lễ hội Hạn Khuống Tây Bắc đã để lại trong tâm khảm tuổi trẻ Tây Bắc ấn tượng đẹp về một thời trẻ trung sôi nổi.
Lễ hội thành Bản Phủ – Điện Biên
Là lễ hội lớn, được tổ chức hàng năm để tưởng nhớ công lao to lớn của thủ lãnh Hoàng Công Chất cùng tướng Ngải, tướng Khanh và nghĩa quân trong công cuộc giải phóng Mường Then – Điện Biên khỏi sự chiếm đóng của giặc Phẻ. Lễ hội được tổ chức vào các ngày 24, 25 tháng Hai âm lịch hàng năm tại Bản Phủ với các phần lễ, ẩm thực dân tộc, múa, biểu diễn các tiết mục của các dân tộc ở địa phương.
Lễ hội Xên bản Mường Sang – Sơn La
Đây là một trong những lễ hội độc đáo, điển hình của người Thái trắng. Lễ hội tổ chức để cúng lễ tạ ơn những người có công lập bản, cầu các vị thần linh cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, cuộc sống ấm no, hạnh phúc…
Lễ Xên bản phải có áo của con trai thuộc dòng dõi quý tộc gốc hay người đương chức làm vật tế. Lễ vật do người dân toàn Mường đóng góp, có thể mổ từ hai đến bốn con trâu. Riêng người Thái ở Yên Châu, tỉnh Sơn La thì tế trâu trắng. Điều lạ là, con trâu để Xên bản phải do chính mo Nghè đi tìm, ông thích con nào thì chỉ con đấy, không cần biết con trâu đó của nhà ai. Người ta bảo khi bị ông mo chỉ gậy vào, con trâu đứng yên đến mức gần như bị thôi miên, người giúp việc cho ông chỉ việc dắt trâu về nơi tổ chức lễ hội. Cỗ cúng thường gồm ba mâm nhưng phải đảm bảo có thịt trâu chín, gạo và rượu. Ông mo khấn bảy lần, mời các vị thần, tổ tiên về dự lễ và phù hộ cho dân Mường được ấm no, sung túc, cuộc sống an vui.
Với nhiều hoạt động văn hóa phong phú, lễ hội Xên bản là một vốn quý trong trong đời sống văn hóa, xã hội không chỉ với cộng đồng người Thái trắng mà còn làm phong phú thêm đời sống văn hóa các dân tộc vùng cao. Lễ hội này cũng như nhiều lễ hội đặc sắc của các dân tộc anh em khác ở vùng cao đã và sẽ là nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Lễ hội lộc hoa của người Xinh Mun – Sơn La Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Lễ hội Lộc hoa được tổ chức sau dịp Tết Nguyên Đán, lần lượt tổ chức từng nhà, mỗi bản có bao nhiêu nhà là có bấy nhiêu ngày hội, lễ hội kéo dài, nhưng không bao giờ diễn ra khi hoa ban đã tàn, măng đắng đã mọc cao, vì khi ấy mùa làm nương (đầu tháng 4 dương lịch) đã bắt đầu, để không ảnh hưởng đến sản xuất.
Tuy lễ hội tổ chức trong từng nhà, nhưng lại là dịp hội tụ dân bản vì ai cũng tự giác tham gia, ai làm trái lệ dễ bị chê cười, ghét bỏ, thậm chí có thể bị loại ra khỏi cộng đồng.
1.3.2.2. Di tích lịch sử – văn hóa và khảo cổ
- Di chỉ khảo cổ học
Một số di chỉ khảo cổ ở Lai Châu
Là mảnh đất có nhiều hang động, Lai Châu hiện lưu giữ nhiều di tích minh chứng cho nền văn minh của người Việt cổ. Hiện nay, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều di tích khảo cổ tại hang Thẩm Púa (Búng Lao), Thẩm Khương (Chiềng Sinh) đều thuộc huyện Tuần Giáo; hay ở Nậm Phé, Nậm Tun thuộc huyện Phong Thổ. Tại đây, các nhà khảo cổ đã tìm thấy công cụ của thời kỳ đồ đá cũ, đồ đá giữa, đồ đá mới. Ngoài ra còn tìm thấy ở đây những công cụ bằng đồng thau của nền văn hóa Đông Sơn thuộc thời đại Hùng Vương như trống đồng Tuần Giáo (huyện Tuần Giáo), trống đồng Mường Thanh, Nà Ngưm (huyện Điện Biên), trống đồng Chiềng Nưa (huyện Mường Lay), trống đồng Mường So (huyện Phong Thổ)… Hệ thống các di chỉ khảo cổ ở Lai Châu đều có giá trị lịch sử văn hóa và nằm sâu dưới lòng đất vẫn còn những tầng văn hóa chưa khai quật và nghiên cứu hoàn chỉnh. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Bãi đá cổ Sa Pa – Lào Cai
Bãi đá cổ Sa Pa nằm trong thung lũng Mường Hoa, xã Hầu Thào, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách thị trấn Sa Pa khoảng 8km về phía đông nam. Đây là di sản của cư dân người Việt cổ, gồm những khối đá với các hình chạm khắc từ xa xưa, nằm rải rác trên những thửa ruộng bậc thang của người dân bản Pho.
Bãi đá cổ Sa Pa được nhà khảo cổ người Pháp gốc Nga Glubev của trường Viễn Đông Bắc Cổ phát hiện vào năm 1925. Bãi đá trải rộng 8km² với gần 200 khối đá có kích thước, hình khắc khác nhau như: tranh vẽ tả thực, hoa văn trang trí, hình người đang tỏa hào quang, hình người cách điệu và một số mô tuýp khác về hình người, hình kiểu bản đồ mô tả thung lũng Mường Hoa… Đặc biệt, có các tảng đá được khắc trên đó những khối chữ vuông giống với chữ Nôm Dao.
Các nhà khoa học giả thiết đó là hình bản đồ cổ của người Mông hoặc gần như là cuốn sách cổ giới thiệu về những trận đánh ngày xưa… Có rất nhiều cách giải mã khác nhau của các nhà khoa học khi đến nghiên cứu Bãi đá cổ Sa Pa. Tuy nhiên, tất cả những cách giải mã đó mới chỉ dừng lại ở giả thiết. Bãi đá cổ Sa Pa vẫn nằm đó ẩn dấu những bí ẩn của người cổ xưa, thách thức các nhà khoa học. Từ tháng 10/1994, Bãi đá cổ Sa Pa được Bộ VHTT công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Hiện nay, di tích này đang được nhà nước đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Miền đất cổ Cao Răm – Hòa Bình Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Nằm giữa những dãy núi đá vôi, Cao Răm là một thung lũng cổ, chỉ rộng chừng 3km2, nhưng nơi đây hiện đang có tới 4 trên tổng số 37 di tích cấp Quốc gia.
Nơi đây, năm 1926 đã được nhà khảo cổ người Pháp M.Côlani chọn là một trong những địa điểm đầu tiên khai quật để nghiên cứu về văn hóa Hoà Bình.
Với hơn 1.000 hiện vật đã được khai quật và trưng bày ở Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Viện khảo cổ học Việt Nam, Bảo tàng nhân chủng học, Bảo tàng Hoà Bình, các nhà khoa học đã khẳng định hang Chổ là di tích khảo cổ học quan trọng, có giá trị cao trong công tác nghiên cứu và thăm quan về một nền văn hóa tiền sử nổi tiếng: Văn hóa Hoà Bình.
Nằm ở cuối dãy núi Sáng, động Mãn Nguyện đẹp làm ngỡ ngàng du khách bốn phương. Động như một tác phẩm nghệ thuật tạo hình kỳ lạ của tạo hóa, được kết hợp tinh tế giữa điêu khắc và hội họa, giữa tính hoành tráng của dãy núi Sáng cùng với nét duyên dáng của từng nhũ đá, măng đá, cột đá, vân đá. Sự mềm mại của đá làm tất thảy những ai một lần được chiêm ngưỡng đều phải sửng sốt. Những màu sắc, hình dáng, vân đá… biến đổi kì ảo theo từng thời gian, góc độ khác nhau luôn tạo cho du khách sự bối rối, bất ngờ.
Điểm dừng chân cuối cùng trong hành trình khám phá Cao Răm là hang Khụ Thượng. Hang chia thành 3 động nhỏ, mỗi động lại có những vẻ đẹp kỳ thú khác nhau.
Thung lũng Cao Răm mang trong mình đầy đủ những tiềm năng du lịch quí giá để có thể phát triển thành vùng du lịch hấp dẫn du khách bốn phương. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Di tích lịch sử văn hóa
Dinh thự Hoàng A Tưởng – Lào Cai
Dinh thự ngự ở trung tâm huyện lỵ Bắc Hà được khởi công năm 1914, chủ nhân là Hoàng A Tưởng – một thổ ty điển hình của giai cấp bóc lột thời thuộc địa nửa phong kiến. Dinh thự do các kiến trúc sư người Pháp và Trung Quốc thiết kế và trực tiếp giám sát thi công. Trải qua hơn 80 năm tồn tại cùng thời gian, phủ bao lớp rêu phong cổ kính, ngôi biệt thự bề thế uy nghi nổi trội giữa một khu phố xá dân cư đông đúc. Khu biệt thự này đã được trùng tu tôn tạo để đón du khách tới tham quan, tìm hiểu về lịch sử xã hội một thời đã qua.
Thành cổ Nghị Lang – Lào Cai
Thành nằm ở thung lũng Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Thành cổ Nghị Lang được xây dựng vào năm, phía Đông là sông Chảy – một chiến hào tự nhiên nước chảy, từ ngòi Lự đến ngòi Ràng là những đoạn lũy cổ, tre ken dày và bên kia sông Chảy là bãi soi Bầu (từ cổ, nghĩa là bề trên, chỉ anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật). Tương truyền đó là bến thuyền, là căn cứ quân thủy của các chúa Bầu, ở đó có đồi khao quân, có xưởng rèn vũ khí, sản xuất gạch ngói, có trại lính và hệ thống chợ, trường học. Nơi đây còn có chùa Phúc Khánh rất linh thiêng đã được trùng tu khang trang, lộng lẫy, phía Tây Bắc thành có hệ thống hồ sen du ngoạn của chúa Bầu với phong cảnh “sơn thuỷ hữu tình”. Cạnh hồ là quần thể các lò gốm, lò gạch cổ, hiện nay còn nhiều dấu tích các hiện vật gốm cổ từ thời Lê Trung Hưng, đặc biệt còn lưu lại khẩu súng lệnh bằng đồng dài 40cm, đường kính 12cm, trên thân khẩu súng còn khắc hai hàng chữ “Nghị Lang thủ ngự”, đây là khẩu súng lệnh mang số hiệu 29 của vị thủ lĩnh đơn vị bảo vệ thành Nghị Lang.
Lịch sử đã sang trang nhưng dấu tích oanh liệt hùng cứ một phương chống nhà Mạc, bảo vệ biên cương của các chúa Bầu vẫn luôn in đậm trong truyền thống người dân.
Chùa tháp đất nung Hắc Y – Yên Bái Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Đây là vùng đất lịch sử văn hóa được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) năm 2001 công nhận là Di tích lịch sử – khảo cổ học Hắc Y (thuộc xã Tân Lĩnh, huyện Lục Yên), với một quần thể dày đặc các dấu tích kiến trúc Phật giáo thời Lý – Trần. Di tích được phát hiện năm 1995, qua nhiều đợt khai quật càng phát lộ nhiều giá trị đáng quý. Viện Khảo cổ Việt Nam đánh giá “Là một quần thể di tích quan trọng, lưu giữ nhiều di vật khảo cổ học quý hiếm, thuộc nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, từ thời nguyên thủy đến thời kỳ lịch sử phong kiến tự chủ”. Giáo sư Hà Văn Tấn đã khảo sát tại hiện trường, cho rằng “Đây là tháp đất nung rất độc đáo có quy mô và kích thước to lớn, lần đầu tiên được tìm thấy ở vùng miền núi Việt Nam” (theo Baodatviet.vn).
Đền Đại Cại – Yên Bái
Quần thể di tích đền Ðại Cại thuộc xã Tân Lĩnh, huyện Lục Yên, cách thành phố Yên Bái khoảng 80km. Quần thể di tích lịch sử này bao gồm đình Bến Lăn, chùa tháp đất nung Hắc Y, đền Ðại Cại và thành nhà Bầu bao bọc quanh bãi đua ngựa huấn luyện kỵ binh. Ðền Ðại Cại, đình Bến Lăn có kiến trúc đẹp, có đủ các đồ thờ tự như bát nhang đồng, ngai thờ sơn son thếp vàng, có chạm trổ tứ quý làm từ gỗ tứ quý như chò chỉ, vàng tâm, lõi thọ, đinh hương. Ðặc biệt, những tảng đá kê cột đình, cột đền được chạm trổ hình mặt trăng, hoa sen, lá đề, mỗi tảng nặng hơn 100 kg. Ðền có chiêng đồng, chuông đồng, có sắc phong của vua Cảnh Phong và vua Tự Ðức. Ngôi đền có kiến trúc đồ sộ, các chân tảng kê cột loại lớn có đường kính tới 45 cm, loại nhỏ 32 cm để đỡ các cột nách, cột lòng. Các chân tảng đều chạm 16 cánh hoa sen đều đặn vây quanh. Tại đây còn tìm thấy bệ Phật hoa sen bằng đất nung, bát sứ, lọ sứ men ngà rạn trang trí hình cánh sen rất đặc trưng của nghệ thuật thời Trần. Có thể nói, quần thể di tích khảo cổ này rất quan trọng không chỉ của riêng Yên Bái mà quan trọng đối với cả nước.
Một số di tích ở Sơn La
Di tích lịch sử Tập đoàn cứ điểm Nà Sản, nơi đánh dấu 5 trận đánh lớn nhất của quân và dân ta vào một căn cứ quân sự mạnh về hoả lực, đông về lực lượng của Pháp. Di tích đã đi vào lịch sử quân sự cách mạng Việt Nam, là bước tập dượt cho cuộc tấn công Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nhà tù Sơn La là một minh chứng về những tội ác của giặc Pháp và tinh thần bất khuất, anh hùng của các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Bảo tàng Sơn La lưu giữ những nét văn hóa đặc sắc của 14 dân tộc anh em sống ở Sơn La với hàng trăm di vật từ thời kỳ tiền sử, sơ sử được tìm thấy tại địa phương. Gần 1.000 bản sách được ghi chép bằng chữ Thái cổ ở nhiều thể loại (sử thi, trường ca, truyện thơ dân gian…) và nhiều vật dụng cầm tay bằng đá, sắt, hay trống đồng có niên đại nhiều nghìn năm, được tìm thấy trong các hang động và di chỉ ở Chiềng Ơn, Pắc Ma, Mường Chiên và khắp vùng lòng hồ sông Đà đang được bảo quản và trưng bày tại đây.
Đền thờ Vua Lê Thái Tông ở Sơn La mang dáng dấp kiến trúc Đền cổ Việt Nam với các hoạ tiết mang đậm nét tâm linh của dân tộc, được khởi công tháng 9/2001, khánh thành 22/01/2003 để ghi nhớ công đức của nhà Vua, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân địa phương.
Cụm di tích chiến thắng Điện Biên Phủ
Quần thể di tích này bao gồm tên đất, tên núi, tên sông gắn liền với chiến dịch 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” của quân và dân ta để ” Chín năm làm một Điện Biên. Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng “(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu). Quần thể di tích lịch sử cách mạng này bao gồm đồi Him Lam, nơi mở màn chiến dịch; đồi A1- nơi ta và địch giành nhau từng tấc đất; Cầu Mường Thanh – nơi quân ta tiến công vào sào huyệt cuối cùng; Nghĩa trang liệt sỹ, Bảo tàng Điện Biên Phủ; đồi D1, C1; hầm tướng đại bại Đờ Cát… Ngày nay, nhắc tới chiến thắng Điện Biên Phủ tất cả người dân Việt Nam đều có quyền tự hào và mong muốn một lần tới thăm để tận mắt chứng kiến sức mạnh, ý chí quật cường của một dân tộc anh hùng được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ. Những di tích lịch sử văn hóa, cách mạng này sẽ mãi mãi là minh chứng cho sự tồn tại và phát triển bền vững của mảnh đất Lai Châu anh hùng. Hàng năm, hàng nghìn, hàng vạn du khách trong nước và quốc tế đã đến đây để tham quan, tìm hiểu về mảnh đất, con người đã làm nên trận Điện Biên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Tháp cổ Mường Luân – Lai Châu Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Được đánh giá là công trình nghệ thuật có giá trị tham quan nghiên cứu thuộc xã Mường Luân huyện Điện Biên Đông, Tháp cổ Mường Luân là tác phẩm nghệ thuật độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc. Được xây dựng bằng bàn tay tài hoa của những nghệ nhân người dân tộc thiểu số, Tháp Mường Luân là niềm tự hào của đồng bào các dân tộc Lai Châu từ nghìn đời nay.
Tác phẩm nghệ thuật này thể hiện khát vọng vươn lên xây dựng cuộc sống ngày một ấm no, hạnh phúc của đồng bào các dân tộc. Mặc dù vậy, hiện nay, do giao thông tới tháp Mường Luân không thuận lợi nên việc tu bổ, tôn tạo và đưa vào khai thác di tích văn hóa này chưa tương xứng với tiềm năng và vẻ đẹp vốn có của nó.
1.3.2.3. Các làng nghề truyền thống
Làng thổ cẩm Tả Phìn – Lào Cai
Làng thổ cẩm Tả Phìn thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách trung tâm thị trấn Sa Pa khoảng 17km về hướng Đông. Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc thông qua các lễ hội như tết nhảy của người Dao đỏ, lễ ăn thề, lễ mừng nhà mới của đồng bào các dân tộc, Tả Phìn còn được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến bởi ở đó có một làng nghề thổ cẩm nổi tiếng. Thổ cẩm là một món quà không thể thiếu được cho du khách mỗi lần đặt chân tới Sa Pa. Ðối với người dân tộc vùng cao, thổ cẩm không chỉ để dùng trang trí, tô điểm thêm cho sắc đẹp mà còn là vật kỷ niệm của tình yêu hay trong ngày cưới của các đôi trai gái. Những đường nét hoa văn thể hiện trên tấm thổ cẩm là những tinh hoa của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc làm cho thổ cẩm Sa Pa không thể hoà lẫn được với bất cứ sản phẩm thổ cẩm của vùng nào.
Làng rượu San Lùng – Lào Cai Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Nguyên liệu gồm thóc nương, hạt cao lương đỏ, men lá gia truyền và nguồn nước tinh khiết từ núi Pò Sèn, kết hợp với kinh nghiệm bí truyền của các nghệ nhân người Dao ở bản San Lùng, rượu được chế xuất rất công phu. Nguyên liệu được luộc chín rồi ủ bằng loại men lá cổ truyền có nhiều vị thảo dược phòng, chống lạnh, giúp lưu thông khí huyết. Sản phẩm rượu có màu trong suốt, hương thơm ngây ngất, khi uống có cảm giác đậm đà, êm và không đau đầu. Theo truyền thuyết dân tộc Dao bản địa thì rượu San Lùng nấu để cúng thần tiên, trời đất, vì vậy rượu được nấu hết sức công phu, những giọt rượu ngon không chỉ mang ý nghĩa ẩm thực, mà còn mang ý nghĩa tâm linh và văn hóa. Đó chính là giá trị từ mạch nguồn văn hóa dân gian.
Các làng nghề nấu rượu cần ở Hòa Bình
Hòa Bình có gần 200 cơ sở sản xuất rượu cần cung cấp hàng vạn vò ra thị trường; tập trung nhiều ở khu vực thị xã Hòa Bình, huyện Lương Sơn. Mỗi vùng Mường tại Hòa Bình có công thức làm rượu cần riêng, nên có hương vị khác nhau. Nguyên liệu nhìn chung gồm có nếp than, men lá, lá thuốc, vỏ trấu. Trong đó, men lá và quy trình ủ rượu là yếu tố quyết định để có loại rượu cần dân tộc đặc trưng. Thường muốn có rượu ngon phải ủ trên ba tháng, quý hơn nữa phải ủ ba năm khi có nước màu nâu sẫm uống có vị ngọt, vừa có vị đắng. Rượu cần được dùng trong những dịp lễ hội, ngày Tết cổ truyền, hoặc đám hiếu hỷ có đông người tham dự ở các bản làng của đồng bào Mường. Gần mươi năm trở lại đây, theo chân những du khách, rượu cần đã về tới các thành phố lớn và trở thành một loại hàng hóa được mọi người ưa chuộng.
1.3.2.4. Ẩm thực Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Nét văn hóa ẩm thực Sa Pa – Lào Cai
Trong rất nhiều ấn tượng mà du khách khi rời xa thị trấn xinh đẹp trong mây không thể quên – đó là cá Hồi nướng, thịt lợn cắp nách quay, thịt lợn hun khói, nấm hương tươi xào thịt… và đặc biệt là các món ăn được chế biến từ rau xanh là những món ăn mà bất kì du khách nào khi đặt chân đến mảnh đất này khi đã thưởng thức đều phải trầm trồ thán phục vì hương vị tươi nguyên, thơm ngọt riêng của mỗi loại.
Đồ nướng Sa Pa đang trở thành một “thương hiệu” rất riêng biệt, không thể lẫn với các địa phương khác. Nhiều khách du lịch nói rằng: Nếu đến Sa Pa mà không thưởng thức đồ nướng thì quả thật chưa thực sự khám phá được hết sự độc đáo, phong phú và thi vị của văn hóa ẩm thực Sa Pa. Không phải chỉ ở Sa Pa mới có các món đồ nướng, thế nhưng, có lẽ do sự ưu đãi của khí hậu trong trẻo mát lành và thơ mộng của đất trời tự nhiên, đồ nướng Sa Pa luôn mang đến cho người thưởng thức một hương vị hết sức riêng biệt, không có bất kỳ ở một địa phương nào. Với tất cả chất thi vị và phong phú, dân dã của nghệ thuật ẩm thực vùng cao, cùng rất nhiều sản vật ẩm thực độc đáo khác của mảnh đất vốn được thiên nhiên ưu đãi này – các món đồ nướng đã và đang tạo ra một nét cuốn hút duyên dáng, riêng biệt của du lịch Sa Pa.
Rượu San Lùng – Đặc sản ẩm thực Lào Cai
Nguyên liệu là thóc mẩy đều hạt, đem ủ cho nảy mầm, lúc đó tinh bột được chuyển hóa thành đường ở mức cao nhất. Người Mông đem thóc nảy mầm cho vào chõ đồ chín, tãi ra nong cho nguội, tới nhiệt độ thích hợp mới trộn đều với men, rồi ủ từ năm tới sáu ngày, khi tỏa mùi thơm thì đem cất rượu. Dù quy trình, nguyên liệu như vậy nhưng nếu nấu ở nơi khác, rượu sẽ không ngon bằng ở San Lùng. Bởi ngoài những bí quyết truyền đời, có lẽ nguồn nước và tiểu vùng khí hậu là những yếu tố không thể thay thế được đã tạo ra hương vị đặc biệt của rượu San Lùng.
Lợn “cắp nách” đặc sản của Lai Châu Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Đây là loại lợn mà trọng lượng thường trên dưới 1 yến, đồng bào các dân tộc vùng cao trong lúc mang lợn đi bán (có thể đựng trong rọ hoặc chỉ buộc chân), thường cắp vào nách nên mới có tên gọi độc đáo như vậy.
Lợn “cắp nách” được ra đời từ thói quen chăn nuôi lạc hậu của bà con các dân tộc vùng cao như: Dao, Thái, Mông… Đây thực chất là giống lợn đặc trưng truyền thống chuyên thả rông chẳng phải nuôi dưỡng của đồng bào. Ổ được làm bằng những cành cây, lá cây khô. Chính vì ăn cỏ cây, lại chậm lớn nên thịt chúng rất thơm ngon, hầu như không có mỡ, miếng nào có một tý mỡ thì cũng không ngấy. Có nhiều cách chế biến lợn cắp nách thành đặc sản như tiết canh, luộc, hấp, nướng, hun khói, xào…
Đến với Hòa Bình du khách cũng được thưởng thức không ít những đặc sản của địa phương.
Lợn thui luộc
Lợn thả rông được thui vàng, thui đến đâu thì cạo lông đến đó. Sau đó rửa sạch trước khi mổ lấy phần nội tạng, không rửa lại nước, mà chỉ lấy lạt giang buộc treo lên để cho ráo máu. Thịt lợn làm như vậy sẽ để được lâu, không bị ôi thiu. Sau đó, thịt được pha ra cho vào nồi luộc trên bếp củi ở nhiệt độ vừa phải. Khi thịt vừa chín tới được đem ra thái mỏng bày trên lá chuối rừng tươi xanh. Thịt nóng quyện với lá chuối rừng tạo ra hương vị thơm ngon. Thịt luộc được chấm với muối rang và hạt dổi nướng giã nhỏ. Khách du lịch thưởng thức món ăn sẽ cảm nhận được độ ngọt của thịt lợn, giòn của bì và mỡ, mùi thơm của lá chuối, hương vị của hạt dổi, đậm đà của muối rang. Mỗi khi ăn xong thì không ai có thể quên được.
Thịt trâu nấu lá lồm Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Thịt trâu đem thui cho thơm, cạo sạch rồi bung cho mềm, đem bóc thái miếng nhỏ, hầm trong nồi đất chín kỹ rồi giã lá lồm (một loại lá chua), nêm một ít tấm gạo bỏ vào nồi hầm với thịt trâu. Khi tấm chín nở và hơi sánh thì cũng là lúc thịt trâu nhừ và ngấm vị chua của lá lồm. Đây là món ăn dân tộc phổ biến của người Mường Hòa Bình.
Ngoài ra khi đến đây du khách còn được thưởng thức rất nhiều món ăn của đồng bào các dân tộc thiểu số như: Món cơm lam, Xôi ngũ sắc, Thịt lợn muối chua …
Khi đến với Yên Bái, ngoài những món ăn thường thấy, khách du lịch được thưởng thức một món ăn rất đặc biệt mà không phải nơi nào cũng có đó là món Rêu đá vùi than. Một loại rêu thường mọc ở suối nơi có nhiều đá, sau khi lấy về rửa sạch và vắt hết nước, tẩm với các gia vị như sả, gừng, hạt sẻn, bột ớt….gói vào lá dong và vùi trong than hồng. Đây là một món ăn lạ, thu hút sự tìm hiểu và khám phá về văn hóa ẩm thực các dân tộc Yên Bái đối với khách du lịch.
Đến với Điện Biên, bạn không chỉ được tham quan, được tìm hiểu văn hóa, lịch sử… mà còn được tìm hiểu về một nền ẩm thực hết sức đặc sắc với rất nhiều món lạ.
Rượu sâu chít Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Sâu chít là 1 loại sâu nằm trong thân cây chít. Ấu trùng sâu ăn những đọt chít còn non, đến mùa thu hoạch chúng trở nên béo mẫm, căng tròn, có màu trắng sữa. Rượu sâu chít từ lâu đã trở thành đặc sản không thể không nhắc tới của mảnh đất Điện Biên. Nó được biết đến không chỉ bởi lạ, mà bằng chính những tác dụng mà nó mang lại cho sức khỏe. Theo những nghiên cứu cho thấy, sâu chít chứa hàm lượng cao và đa dạng các protein, acid amin, acid béo, các nguyên tố vi lượng có lợi cho cơ thể, có tác dụng kháng dòng tế bào ung thư… Rượu sâu chít được ví như ” Đông trùng hạ thảo” Việt Nam.
Vùng văn hóa Bắc Bộ là một vùng có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, mỗi dân tộc lại có một nét văn hóa ẩm thực riêng vì vậy khi đến đây bạn có thể thưởng thức và tìm hiểu rất nhiều các món ăn lạ và độc đáo, đây cũng là một trong các thế mạnh của vùng nhằm thu hút khách du lịch.
1.3.2.4. Văn hóa nghệ thuật
Văn hóa nghệ thuật, lĩnh vực văn hóa thể hiện cái nhìn thẩm mỹ của nhân dân Tây Bắc có nhiều nét độc đáo và trở thành một trong những dấu hiệu làm nên đặc trưng văn hóa vùng. Trong xã hội cổ truyền Tây Bắc, văn hóa chuyên nghiệp, bác học chưa xuất hiện. Ở người Thái tuy đã có một vài nghệ nhân giỏi sáng tác thơ ca nổi tiếng và mặc dầu dân tộc này có chữ viết cổ, nhưng tác phẩm của họ vẫn lưu truyền chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Mỗi dân tộc trong vùng đều có một kho vốn sáng tác ngôn từ giàu có và đủ thể loại từ tục ngữ, thành ngữ, đồng dao, giao duyên, cho đến lời khấn, lời bùa chú, các áng văn trong lễ tang, trong lễ hội, các bài văn vần dạy bảo đạo đức cho dâu rể trong đám cưới, các thần thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười… Ở một số dân tộc có cả truyện thơ dài hàng ngàn câu như Tiễn dặn người yêu (Thái), Tiếng hát làm dâu (H’mông), Vườn hoa núi Cối (Mường)… Người Thái còn có cả truyện thơ lịch sử, kể lại quá trình thiên di của họ vào Tây Bắc như bản sử ca Dõi theo bước đường chinh chiến của ông cha (Táy pú Xớc) hay Lịch sử bản mường (Quán tố mướng). Ngay đến lời hát của các Mo-then trong lễ cúng người ốm cũng là một áng du kí ca đầy hình tượng đẹp được diễn tả bằng văn phong trau chuốt. Bộ phận người Mường Tây Bắc cũng có những thiên sử thi như ở Hòa Bình, Thanh Hóa. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Các truyền thuyết của từng dân tộc, một mặt khẳng định nguồn gốc của họ với những nhóm đồng tộc cư trú ở các vùng văn hóa khác; mặt khác lại gắn bó với vùng đất và trình diễn lịch sử của họ trên mỗi đất miền này, và góp phần làm nên dấu hiệu đặc trưng của vùng văn hóa Tây Bắc. Có thể gặp những truyền thuyết như thế trên từng bước chân. Và đặc biệt là những truyền thuyết về hoa ban, dân tộc nào cũng có và cũng thắm đượm tình người. “Xòe” là đặc sản nghệ thuật múa Thái và trở thành biểu tượng văn hóa Tây Bắc. Người Thái có Xòe vòng quanh đốm lửa, quanh hũ rượu cần với sự tham gia đông đảo của già trẻ, gái trai trong tiếng chiêng trống rộn ràng. Nhưng cũng có Xòe điệu của người Thái trắng ven sông Đà suốt từ Ngọc Chiến, Quỳnh Nhai lên đến Lai Châu, Phong Thổ. Tương truyền có đến 32 điệu xòe do các cô thanh nữ múa trong tiếng tính tang dịu dàng của hai chàng trai. Xòe vòng sôi nổi bao nhiêu thì xòe điệu nhẹ nhàng, tinh tế bấy nhiêu. Người H’mông nổi tiếng về các điệu múa khèn, đá chân hùng dũng của nam giới. Người Khơmú và Xinhmun lại độc quyền điệu múa lắc mông, lượn eo. Còn điệu Tăng bu (dỗ ống) là sở hữu của người Laha. Và đến với người Mường thì phải được xem múa bông. Riêng điệu múa Xạp, trừ người H’mông còn dân tộc nào trong vùng cũng có, mỗi nơi một vẻ riêng. Có thể xem nghệ thuật múa dân tộc là một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc.
Dường như có một sở thích âm nhạc chung cho hầu hết các dân tộc Tây Bắc, một sở thích không thấy hoặc ít thấy ở các vùng khác. Đó là hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre, bằng đồng hay bằng bạc. Nếu sưu tầm và gộp chung lại thì có đến vài chục loại hình thuộc hệ nhạc cụ này. Nhiều loại đã được cả nước biết đến như Pí pặp, khèn bè Thái, sáo và khèn H’mông. Ngoài ra, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng như cây Tính Tảu Thái, đống ôi Mường, chưn may Khơmú, đàn tròn và đàn ba dây Hà nhì…
Nét chung nữa trong văn hóa Tây Bắc là sở thích trang trí trang phục, chăn màn, đồ dùng với các sắc độ của gam màu nóng; rất nhiều màu đỏ, xen vào với vàng tươi, vàng đất, vàng rơm, da cam, tím và nếu có xanh thì phải là xanh da trời tươi. Còn họa tiết, bố cục, phối màu của trang trí thì rất nhiều và phong phú, đến nỗi chỉ một chiếc khăn piêu Thái, một bộ nữ phục H’mông, Lô Lô, Dao đỏ, một mặt chăn Mường, một điểm màn Kháng cũng có thể làm nên những ấn tượng vô cùng sâu sắc trong lòng của du khách. Nhưng cũng cần khẳng định một điều rằng những nét chung của cả vùng vẫn không làm mất đi bản sắc riêng trong văn hóa của từng dân tộc vùng Tây Bắc.
Tiểu kết chương 1 Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.
Tây Bắc là nơi hội tụ đầy đủ những điều kiện để trở thành một trong những tuyến du lịch quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch của đất nước. Tây Bắc có cả các thắng cảnh tự nhiên, sự đa dạng sinh học, có cả các giá trị văn hóa đặc sắc, độc đáo của các dân tộc thiểu số như văn hóa chợ phiên, Chợ tình, văn hóa ẩm thực…
Với diện tích tự nhiên 3.610.140 ha, chiếm 10% diện tích cả nước, Tây Bắc là vùng đất rất có tiềm năng để phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch thể thao (golf, nhảy dù, tàu lượn…), mạo hiểm (vượt thác ghềnh, đua xe ô tô, xe máy, leo núi, đi bộ…), du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và chữa bệnh…
Tuy nhiên, hiện nay những tiềm năng ấy vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả hoặc đã được khai thác nhưng chưa có kết quả như mong muốn, văn hóa Chợ tình là một trong những nét văn hóa như vậy. Tiểu Luận: Tìm Hiểu Chợ Tình Tây Bắc.

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com