Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh cho các bạn đang chuẩn bị làm bài tiểu luận cùng nhau tham khảo nhé. Tiểu luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài tiểu luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dư như đề tài: Tiểu Luận: Tư tưởng triết học, chính trị, đạo đức của Hồ Chí Minh các bạn cùng tham khảo đề tài tiểu luận dưới đây nhé.
Nội dung chính
Mở bài:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao tên tuổi vĩ đại, vừa là anh hùng dân tộc, vừa là nhà tư tưởng lớn, nhưng không ai có được sự nghiệp lẫy lừng như chủ tịch hồ chí minh của chúng ta, không ai có được tầm vóc thời đại, được loài người tiến bộ ca ngợi và thừa nhận như chủ tịch Hồ Chí Minh
Địa vị có một không hai trong lịch sử dân tộc của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã được xác lập và củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống hiến cho cách mạng Việt Nam. Đã đưa Người lên địa vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà lý luận sáng tạo của cách mạng việt nam,
Người đã có công lao to lớn đối với cách mạng việt nam , tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, đã truyền bá chủ nghĩa mác lênin vào việt nam, xây dựng lên một khối đoàn kết dân tộc, Người là người cha thân yêu của cách mạng việt nam, đã bồi dưỡng cho họ tinh thần quyết chiến, quyết thắng, làm nên những chiến công hiển hách được cả loài người khâm phục và ca ngợi
Ngày mùng 2/9/1945 Người đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Châu Á, người đặt nền móng cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “ của dân, do dân, vì dân” Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Tất cả những tư tưởng của Người đã được nhân loại ca ngợi và đánh giá rất cao, mang một tầm vóc thế giới.Người không để lại các công trình nghiên cứu rõ ràng về các lĩnh vực nhưng qua những bài báo và những tác phẩm người để lại, nó chứa đựng những tư tưởng lớn mang tầm vóc thời đại, quan trọng nhất là tư tưởng của Người về triết học, chính trị, đạo dức.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
I: Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Quá trình hình thành:
Vào những năm giữa thế kỉ XIX, phương thức sản suất tư bản chủ nghĩa đã thống trị ở Anh, Pháp, Đức và một số nước Tây Âu. Trong xã hội mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt. dẫn đến cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải có lý luận tiên phong chỉ đuờng, chủ nghĩa Mác đã ra đời “ tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” đã khẳng định quy luật tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản để nhường bước cho một xã hội mới, đồng thời chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc đã hoàn thành căn bản việc phân chia thế giới, nô dịch các dân tộc thuộc địa, thế giới chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, phản ánh xu thế biến động đầy kịch tính của xã hội loài người, đa số các quốc gia Phương Đông các nước lạc hậu ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh đã bị xâm chiếm làm thuộc địa chỉ một số ít nước là đế quốc Anh, Pháp, Bồ Đào Nha , Tây Ban Nha, Hà Lan, Mỹ .. nô dịch và bóc lột đa số nhân loại những mâu thuẫn lớn trong thời kỳ này ngày càng gay gắt: mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước đế quốc ; mâu thuẫn giữa các dân tộc với bè lũ thực dân; mâu thuẫn giữa quảng đại quần chúng lao động chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, trước hết là với triều đình phong kiến ở các nước thuộc địa ở phương đông; mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa với giai cấp tư sản bản xứ và với tư sản thực dân ; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau vv… những mâu thuẫn đó tích tụ lại tạo thành thời kì bão táp cách mạng và chiến tranh ở những năm đầu thế kỉ 20. Mở đầu thời kì bão táp là cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917, trước đó phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa diễn ra liên tục và mạnh mẽ, nhất là ở các nước thuộc địa phương Đông nơi tồn tại hàng nghìn năm của chế độ phong kiến. Tuy nhiên các phong trào đó đều thất bại vì người lãnh đạo phần lớn là giai cấp địa chủ phong kiến, số ít là lãnh tụ nông dân và sau đó thuộc giai cấp tư sản dân tộc; vì mục tiêu phong trào chỉ hướng vào mục tiêu dân tộc, ít nhắm vào mục tiêu dân chủ và không nhằm mục tiêu giải phong triệt để nhân dân lao động; do dường lối không đúng lên không thu hút được sức mạnh của cả dân tộc. Cách mạng tháng mười Nga thành công vì cuộc cách mạng này do giai cấp vô sản lãnh đạo, đứng đầu đảng cộng sản bôn-sê-vích nga Và Lênin vĩ đại; vì mục tiêu của đó nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lớn nhất của thời đại ở nước Nga đế quốc lúc bấy giờ, giải phóng triệt để giai cấp những người lao động, đưa nước Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Sự thất bại của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, cũng như sự thành công của cách mạng tháng mười Nga đã chỉ ra rằng : ở những năm đầu thế kỉ 20, chỉ những phong trào cách mạng có mục tiêu giải quyết đồng thời những mâu thuẫn lớn của thời đại ở nước mình thì mới có thể đi tới thắng lợi. Một cuộc cách mạng như vậy chỉ có do giai cấp công nhân và đảng cộng sản ở nước đó đứng ra lãnh đạo và tổ chức dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Cách mạng tháng mười Nga có sứ mệnh vạch ra con đường cách mạng đúng đắn cho phong trào các mạng thế giới, tuy vậy dưới ánh sáng đó chưa phải một sớm một chiều mà tới ngay được các nước thuộc địa phương Đông. Điều này được chủ tịch hồ chí minh giải thích rất rõ ở bài “ mấy ý nghĩ vấn đề thuộc địa “ của người. như vậy ở các nước này phong trào giải phóng dân tộc hoàn toàn bị bế tắc về mặt đường lối, bế tắc về người lãnh đạo nó đang chờ một bàn tay chèo lái
Một mâu thuẫn mới của thời đại xuất hiện, đó là mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Chính trong bối cảnh ấy, chủ nghĩa Mác-Lênin đã xuất hiện tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác, vạch rõ đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành công trong một số nước thậm chí trong một nước. Năm 1917, Lênin đã lãnh đạo cuộc cách mạng tháng mười Nga thắng lợi, mở ra một thời đại mới trong lịch sử của loài người.
Lúc này, cuộc đấu tranh chống đế quốc ở các nước phương Đông đã diễn ra mạnh mẽ ở Trung Quốc, Ấn Độ..
Năm 1858, thực dân pháp đưa quân xâm lựơc nước ta, chúng đã áp đặt chế độ thống trị thuộc địa, biến nước ta từ một nước phong kiến trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, chúng đã thi hành các chính sách áp bức bóc lột , đàn áp dã man nhân dân ta, nhân dân Việt Nam đã kiên quyết đấu tranh tới cùng để giành lại quyền độc lập tự do cho dân tộc. Từ bắc chí nam trong cả nước dấy lên một làn sóng cách mạng chống Pháp, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đều bị thất bại, ở nước ta diễn ra nhiều khuynh hướng cứu nước khác nhau như phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, khuynh hướng dân chủ tư sản, phong trào tôn giáo cứu thế, nhưng tất cả đều không đáp ứng được nhiệm vụ của cách mạng việt nam lúc bấy giờ. Trước sự bế tắc về con đường cứu nước cho dân tộc Hồ Chí Minh đã xuất hiện, Người đã làm thay đổi vận mệnh của dân tạ việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc sinh tại làng sen , Nam Đàn – Nghệ An, mảnh đất có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm từ lâu đời, có truyền thống hiếu học, Người sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu nước tiến bộ. Ngay từ lúc còn nhỏ Người đã được hấp thụ truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc. Người đã theo học nho giáo, sau đó bắt đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây trong những ngày học ở trường Quốc Học Huế. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Những năm tháng sống tại quê nhà và những buổi đi học ở trường Quốc Học Huế, Người đã tận mắt được chứng kiến các phong trào đấu tranh như: những cuộc đấu tranh chống cướp đất, chống sưu cao thuế nặng, chống bắt phu, bắt xâu… và đã hun đúc lên lòng yêu nước và căm thù bọn bán nước và cướp nước, trong đó có các phong trào nổi bật nhất đã ảnh hưởng đến người như phong trào Cần Vương chống pháp của Tôn Thất Thuyết, của Phan Đình Phùng bùng lên rồi bị dập tắt trong bể máu; phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, cũng như phong trào Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh đều thất bại: cuộc đấu tranh vũ trang của Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế bị đàn áp… với những sự kiện ấy đã đọng lại trong Người những ấn tượng sâu sắc, đưa đến những suy nghĩ, phân tích về nguyên nhân thất bại của các phong trào.
Trứơc sự bế tắc về con đường cứu nứơc cho dân tộc. Nguyễn Tất Thành đã quyết chí rời Tổ Quốc ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân người không đi theo con đuờng của các bậc tiền bối, mà lại đi sang các nước phương Tây, sang Pháp đi đến hang ổ của kể xâm lược để “xem nước pháp và các nước khác làm ăn thế nào rồi trở về giúp đồng bào ta”. Đây là một điều rất mới, rất quan trọng thể hiện bản lĩnh độc lập và tư duy sáng tạo của Nguyễn Tất Thành.
Ngày 5/6/1911 trên con tàu “ đô đốc La Touche Treville” người đã rờ khỏi quê hương thân yêu của mình đi ra nước ngoài với một tấm lòng yêu nước tha thiết, với hoài bão nhất định phải tìm cho được con đường cứu nước cho dân tộc, với lòng tin ở đôi bàn tay của mình, người đã bắt tay vào công việc làm phụ bếp trên tàu với tên là Văn Ba. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Người đã đi qua các châu lục khác nhau như Châu Phi , Châu Mỹ La Tinh, Châu Âu, từ các nước tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, đến các nước thuộc địa; Người đã tiếp xúc với mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là những người lao động cùng khổ. Và nhận ra rằng ở các nước thuộc địa cũng như ở Việt Nam đâu đâu cũng thấy nỗi tủi nhục, khổ cực của nhân dân các dân tộc bị áp bức và sự dã mam của bọn đế quốc thực dân , đâu đâu cũng thấy nổi lên khát vọng đứng lên tự giải phóng. Còn ở các nước tư bản chủ nghĩa , tự xưng là tiên tiến văn minh thì đâu đâu cũng chia làm hai loại người: loại người bóc lột và loại người bị bóc lột. Trong những năm tháng sống ở Anh, Pháp nhất là khi Người sống ở Pari , Người đã tham gia thành lập và hoạt động trong các tổ chức của nhưng người Việt Nam yêu nước, tham gia các hoạt động trong các tổ chức chính trị xã hội, dự các buổi hội thảo tại các câu lạc bộ của thanh niên , công nhân, trí thức, làm quen với các nhà văn hoá , các nhà hoạt động chính trị xã hội nổi tiếng ở Pháp lúc bấy giờ. Năm 1911 người tham gia vào Đảng Xã Hội Pháp “ thế hệ lửa đạn” , trong bầu không khí chống chiến tranh, chống chủ nghĩa đế quốc. Đầu năm 1919 thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Người đã gửi đến hội nghị Véc – Xây bản “ yêu sách của nhân dân An Nam”
Những điều tai nghe mắt thấy đấy và những hoạt động chính trị, xã hội, trong những năm đi khắp các nước, đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc từ tinh thần yêu nước gắn một cách tự nhiên với tinh thần quốc tế ; từ tình cảm yêu thương , thông cảm với những người cùng khổ, ý thức giai cấp từng bước được nảy nở và hình thành.
Đó chính là cơ sở tư tưởng để Người phấn khởi tiếp thu “bản sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và đến đại hội Tua vào năm 1920 thì Người đã kiên quyết đứng về phía quốc tế cộng sản và tin theo Lênin. Đây là bước ngoặt , một sự chuyển biến về chất trong tư tưởng và cuộc đời của Người. Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập đảng cộng sản Pháp, và là người yêu nước chân chính, người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Năm 1923 người rời Pháp sang Liên Xô tham dự đại hội quốc tế nông dân, Người học tập và làm việc ở đó một thời gian đến cuối năm 1924, trở về Quảng Châu Trung Quốc . người đã cho xuất bản các tác phẩm nỗi tiếng “ bản án chế độ thực dân pháp” viết tác phẩm “đường cách mệnh” năm 1925 người thành lập ra hội việt nam cách mạng thanh niên ra tờ báo thanh niên làm cơ quan ngôn luận của hội. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Ngày 3/2/1930 theo chỉ thị của quốc tế cộng sản người đã hợp nhất các tổ chức cộng sản ở việt Nam để thành lập đảng cộng sản Việt Nam, và hội nghị thành lập đảng đã thông qua chính cương vắn tắt sách lược vắn tắt do Người soạn thảo, đuợc coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng như vậy có thể nói với tác phẩm “ bản án chế độ thực dân pháp”, “đường cách mệnh” và “cương lĩnh đầu tiên của đảng” , tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành về cơ bản.
Tuy nhiên tư tưởng của Hồ chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam lúc này đã bị phê phán là có xu hướng dân tộc, và quốc tế cộng sản đã cử Trần Phú về nước triệu tập hội nghị ban chấp hành trung ương đảng lần thứ nhất, quyết định đổi tên đảng cộng sản Việt Nam thành đảng cộng sản Đông Dương. Lúc này người phải tích cực học tập nghiên cứu hoạt động để bảo vệ quan điểm của mình, Người đã nỗ lực hết mình để hoạt động bảo vệ quan điểm của mình, bằng sự minh chứng là người đã cùng nhân dân làm lên cách mạng tháng 8/1945 lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trên đà thắng lợi đó người đã lãnh đạo nhân dân ta chống lại hai kẻ thù xâm lược đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, qua thực tiễn đấu tranh tư tưởng quan điểm của Người ngày càng thể hiện tính đúng đắn sáng suốt hơn.
Tư tưởng hồ chí minh đã hình thành và phát triển qua một thời kỳ rất dài trong lịch sử hơn nữa thế kỷ, đã được đảng và nhà nước ta vận dụng trong quá trình xây dựng đất nước, đảng ta khẳng định rằng “ đảng lấy chủ nghĩa Mác lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động”
1.2 Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh: Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ các yếu tố như sau:
Từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam . chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh kiên cường bất khuất, tự lực, tự cường. Ở những thời điểm nước mất nhà tan thì trăm họ đều đứng lên, cố kết một lòng giành lại bằng được quyền độc lập tự do. Chính tinh thần yêu nước thương dân, truyền thống văn hoá nhân ái, ý chí tự lực tự cường được khơi dậy trong hoàn cảnh thực dân Pháp đã đặt ách thống trị lên nhân dân ta, đã thúc đấy Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước . đó cũng chính là tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ, hành động của người trong suốt cả cuộc đời mình; là cơ sở để người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vì vậy có thể nói chủ nghĩa yêu nước là một trong những tư tưởng cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa triết học và văn hoá phương Đông, phương Tây. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác –Lênin, Người đã nhiều năm theo học Nho giáo, tinh thong “tứ thư” ngũ kinh” , người đã chuyển qua học chữ quốc ngữ và bắt đầu tiếp xúc với văn hoá phương tây với tư tưởng tự do bình đẳng bác ái” , người đã tiếp xức với nhiều nhà tri thức , nhà chính trị nổi tiếng của Pháp và thế giới, từ đó tiếp thu những tư tưởng dân chủ của thế kỷ ánh sáng và nền “văn hoá phục hưng”, của cuộc cách mạng tư sản Pháp, cách mạng tư sản Mỹ, nhất là Pháp, những tư tưởng nhân ái trong nền văn học Pháp, Nga, Anh..
Người tiếp thu nho giáo, những trên cơ sở chọn lọc lấy tinh hoa loại bỏ những yếu tố thủ cựu tiêu cực của nho giáo, người tiếp thu triết lý của nhà phật, của Lão giáo, Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Những kiến thức phong phú ấy đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp được truyền thống và hiện đại, tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây, cũng như làm cho Người vừa giản dị vừa sâu sắc, vừa dân dã vừa bác học, rất Việt Nam và rất nhân loại.
Nguồn gốc thứ ba là từ chủ nghĩa Mác – Lênin: người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là bước ngoặt cơ bản trong quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước đã gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản, làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh được định hình, quyết định bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh là theo hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, mang tính cách mạng và khoa học.
Chính thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của mình mà tìm ra con đường cứu nước ảnh hưởng sâu sắc và quyết định ấy đã thể hiện trong câu nói của Người “ chủ nghĩa Lênin là cái cẩm nang thần kỳ” lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới thoát khỏi ách nô lệ” Người khẳng định “ bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin và chính vì do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được thắng lợi to lớn… ”.
Đó là nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài ra tư tưởng Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ thực tiễn
Đó là thực tiễn mà người đã sống và hoạt động , từ một người dân mất nước, qua tìm hiểu thực tiễn các nước khác nhau ở các châu lục khác nhau, đến thực tiễn hoạt đông trong các tổ chức xã hội và cộng sản, thực tiễn tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng đảng cách mạng. Thực tiễn hoạt động cách mạng, lãnh đạo cách mạng, chuẩn bị tổng khới nghĩa, lãnh đạo tổng khởi nghĩa, giành và giữ chính quyền, vừa kháng chiến lâu dài, vừa xây dựng chế độ mới, con người mới. Trên cương vị một thanh niên tri thức, một thầy giáo, một công nhân làm nhiều nghề, một nhà báo, một trong những người sáng lập ra đảng cộng sản Pháp, một cán bộ của quốc tế cộng sản, trở thành lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, lãnh tụ của đảng và chủ tịch nước trong suốt 24 năm. Thực tiễn ấy là một nguồn gốc, một cơ sở có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành và phát triển hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Nhân tố cuối cùng tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh đó là nhân cách của Người , chính nhân cách đó đã sản sinh ra tưởng đó, bản lĩnh, phẩm chất, tình cảm tư chất, tích cách, phong cách. Ngay từ thời buổi thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tỏ ra là một người có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu tình cảm, nhân ái, yêu nước, thương dân, tư chất thông minh , tư duy độc lập và sáng tạo, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là những đức tính của Người . Người là một người hành động luôn có niền tin ở bản thân, ở bàn tay khối óc của mình, của con người , của mọi người. Những phẩm chất ấy càng được rèn luyện phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động của người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa vô vàn lý thuyết học thuyết khác nhau, giữa biết bao nhiêu tình huống phức tạp,Người đã tìm hiểu , phân tích, tổng kết, khái quát, tìm ra bản chất , quy luật hình thành những luận điểm và có những quyết định đúng đắn sáng tạo.
Tóm lại tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác lênin, kế thừa những tinh hoa nhân loại. Là một bước phát triển mới của chủ nghĩa mác lênin nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn mới do đất nước và thời đại đặt ra.
2. Tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
2.1 Cơ sở hình thành tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh
Chủ tịch hồ chí minh có những tư tưởng triết học phong phú sâu sắc và độc đáo, được thể hiện trong nhiều bài viết của Người, những tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh có thể được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng dù ở góc độ nào chúng ta cũng thấy tư tưởng đó vừa mang sắc thái thâm tuý của triết học phương Đông, lại vừa có tính khúc triết, duy lý, hiện đại của triết học phương Tây. Thí dụ về tư tưởng “ không có gì quý hơn độc lập tự do”của chủ tịch Hồ Chí Minh , người Việt Nam nhận thấy ở đó trình độ khái quát cao của tư tưởng “ một dân tộc độc lập và một quốc gia có chủ quyền” của tư tưởng truyền thống Việt Nam: những người cộng sản nhìn thấy ở đó hiện thân của triết học Mác- Lênin. Trong hàng loạt những tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh về con người chúng ta thấy hiện lên rất rõ những giá trị nhân văn đặc sắc của dân tộc Việt Nam cũng như những tư tưởng triết học sâu sắc của Khổng Tử, Lão Tử, Mặc Tử, phật giáo , thiên chúa giáo, triết học khai sang pháp và đặc biệt là tư tưởng nhân đạo cao cả của triết học Mác – Lênin. Ở tư tưởng “dĩ bát biến, ứng vạn biến”của chủ tịch Hồ Chí Minh, có cả phép biến dịch của triết học phương Đông lại có cả phép biện chứng duy vật của triết học Mácxít.. có thể nói nhiều giá trị triết học của nhân loại trong lịch sử đã được chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết, kế thừa và vận dụng sáng tạo, và nhờ đó mà nâng chúng lên ở trình độ mới, chẳng những ngang tầm thời đại mà còn hướng tới tương lai. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Cách đây hơn 70 năm nhà thơ Xô Viết Oxip Manđenxotam đã viết “ từ Nguyễn Ái Quốc toả ra một nền văn hoá, không phải văn hoá của Châu Âu, mà có lẽ là nền văn hoá trong tươg lai.. nhiều nhà hoạt động nổi tiếng trong phong trào cộng sản thế giới , nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, xã hội, văn học, triết học,.. đều đánh giá chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lý luận vĩ đại, mà tên tuổi sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại và chân lý của lịch sử vv….
Ở Việt Nam tuy không có hệ thống triết học, nhưng ông cha ta đã có những khái quát triết lý, mang tính triết học, được thể hiện trong tư tưởng văn hoá dân gian, thơ văn lý trần, trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng, văn hoá nhà Trần, Chu Văn An , Nguyễn Trãi, , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Phan Bội Châu,…xuất phát từ nhu cầu đoàn kết dân tộc, thơ văn lý Trần rất chú ý đề cao tinh thần khoan dung, hoà mục: “ nhật, nguyệt tịnh minh, các hữu sở chiếu”
( mặt trời và mặt trăng đều chiếu sáng, mỗi cái có cách chiếu riêng. Ý nói: mặt trời chiếu ban ngày, mặt trăng chiếu ban đêm, cả hai đều cần thiết cho cuộc sống của con người, không nên đề cao cái này mà phủ nhận cái kia)
Nguyễn Trãi viết: “ phúc chu, thuỷ tín dân do thuỷ” (lật thuyền mới biết sức dân như nước- Quan hải)
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thức rằng:
- Cổ lai, quốc dĩ dân di bản
- Đắc quốc ưng tri tại dắc dân – (cảm hứng)
- ( xưa nay nước lấy dân làm gốc
- Được nước nên biết là do được lòng dân) Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Còn Phan Bội Châu lại chú ý nhiều đến phạm trù “ thời” trong triết học phương Đông (thời cơ, thời vận, thời thế). Ông viết : phàm mọi việc trong thiên hạ đều không đương nỗi chữ thời. Thời chưa đến mà vội là làm trái trời, thời đã đến mà không làm là khinh trời”. Phải theo thời nhưng không được ỷ lại chờ thời mà phải biết chủ động tạo nên thời thế, và ông kêu gọi:” sinh thời thế phải xoay nên thời thế”. Nói cách khác, Phan Bội Châu khẳng định phải biết xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Chịu ảnh hưởng của quan niệm này Hồ Chí Minh viết:
- Lạc nước hai xe đành bỏ phí
- Gặp thời, một tốt cũng thành công
Hồ Chí Minh đã từ những khái quát giàu tính triết lý này của cha ông rồi sử dụng thế giới quan và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để tổng kết, rút ra phương pháp luận triết học của mình để chỉ đạo việc hoạch định đường lối chiến lược, sách lược, đưa tới thắng lợi cho cách mạng việt nam.
Đặc điểm lớn trong tư duy của người Việt Nam là tư duy thực tiễn, luôn luôn xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của dân tộc để giải quyết những vấn đề cấp bách đang đặt ra trong đời sống thực tiễn của đất nước. Vì vậy người Việt xưa ít bàn đến những vấn đề về vũ trụ quan . Trong lĩnh vực triết học bình diện được người Việt quan tâm nhiều nhất là nhân sinh quan và đạo đức quan; ngay trong đạo đưc quan, giữa mặt triết học đạo đức và mặt chuẩn mực đạo đức thì người Việt Nam vẫn quan tâm hơn nhiều đến phần chuẩn mực đạo đức, phần hành đạo, nhằm đòi hỏi những ứng xử kịp thời của con người trước mỗi biến cố xã hội và xung đột đạo đức. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Đặc điểm này để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh: dị ứng với mọi giáo điều, không sa vào các cuộc tranh luận lý thuyết thuần tuý, thiên về hành động thực tiễn của con người, mà hành động lại rất cần đến vai trò của phương pháp luận, của đạo đức – bởi đạo đức xưa nay vẫn được coi là triết học của thực tiễn.
Thứ hai tư tưởng Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng nhất định của tinh hoa triết học phương Đông như nho giáo, phật giáo, lão giáo và phương Tây chủ yếu là triết học Mác –Lênin. Các yếu tố biện chứng trong triết học phương Đông được Hồ Chí Minh học tập người đã viết.
- Sự vật vần xoay vần đã định sẵn
- Hết mưa là nắng lên thôi…
- Hết khổ là vui vốn lẽ đời
Ngoài ra tư tưởng “ thiên nhân hợp nhất “, tam tài thống nhất cũng đuợc Hồ Chí Minh nhắc tới khi bàn về mối quan hệ thiên thời địa lợi nhân hoà.
Triết học phương Đông cũng đưa ra thuyết ngũ hành (5 nhân tố)nhưng không coi yếu tố nào là nguyên bản, mà có sự chuyển hoá theo quan hệ, ở quan hệ này là thuỷ, ở quan hệ khác là thổ, v.v.. triết học phương Tây coi trọng nguyên tử luận, triết học phương Đông coi trọng quan hệ luận , quan hệ con người với tự nhiên : nhấn mạnh hài hoà, cộng sinh; quan hệ con người với con người: nhấn mạnh đạo đức , phép ứng xử, chủ trương “ dĩ dức trị quốc”. Ta hiểu vì sao triết học phương Đông chú ý bàn nhiều hơn đén nhân sinh quan, đạo đức quan so với triết học phương Tây. Đó cũng là mặt chủ đạo trong tưu tưởng triết học Hồ Chí Minh. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với nhiều nhà triết học khai sáng pháp thế kỉ XVIII qua đó Người chịu ảnh hưởng từ các tư tưởng chính trị tiến bộ của họ về quyền con người và quyền công dân, tư tưởng dân chủ, khẩu hiệu tự do bình đẳng bắc ái .vv.
Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và hệ thống triết học Mác – Lênin đã đem lại cho Hồ Chí Minh phương pháp luận đề nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ phức tạp trong cách mạng Việt Nam : dân tộc và giai cấp, dân tộc và thời đại, vật chất và tinh thần, khách quan và chủ quan, vv..
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh “ thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”. Lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó phù hợp với thực tiễn, giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Như vậy tư tưởng triết học Hồ Chí minh bắt nguồn từ những tiền đề tư tưởng triết lý của dân tộc, của phương Đông và được thăng hoa lên dưới ánh sáng của triết học Mác -Lênin, rất Mácxit mà vẫn mang bản sắc riêng của Hồ Chí Minh.
2.2 Nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh gồm có 3 nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất về thế giới quan: thế giới quan Hồ Chí Minh là thế giới quan duy vật khoa học, được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
Thế giới quan đó giúp cho Người nhận thức, đánh giá đúng tình hình để đề ra chiến lược sách lược cho cách mạng Việt Nam từng giai đoạn.
Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng đinh vai trò quyết định của sức sản suất, của cơ sở kinh tế đối với sự chuyển biến từ chế độ này sang chế độ khác. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Sự phát triển cả xã hội xét cho đến cùng là do nhân tố vật chất quyết định. Con người muốn tồn tại trước hết phải có ăn có mặc, ở, đi lại… do đó đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, trong đó sức sản xuất là yếu tố năng động nhất
Triết học ở phương Đông cũng nói nhiều về sự biến dịch, chuyển hoá của âm dương, tuần hoàn,.. nhưng vẫn dừng lại ở suy nghiệm trừu tượng mà chưa lý giải được yếu tố vật chất nào là nguyên nhân và điều kiện tạo ra sự biến đổi đó
Năm 1950 trong một bài giảng tại lớp huấn luyện trung ương Hồ Chí Minh đã nói lịch sử của xã hội là lịch sự của sự phát triển trong cách sinh sản tức phương thức sản xuất .. sự thay đổi luôn luôn bắt đầu từ sự phát triển của sức sản xuất thay đổi, sức sinh sản thay đổi, quan hệ sinh sản tức quan hệ sản xuất giữa người với người cũng do đó mà thay đổi. Sức sinh sản như thế nào thì quan hệ sinh sản phải như thế ấy.
Như vậy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quyết định của sức sản xuất vật chất đối với sự phát triển của xã hội, đối với sự chuyển biến từ một chế độ này sang chế độ khác
Sau năm 1954, khi miền bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : “đặc điểm to nhất của ta trong thời kì quá độ là từ nước nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đó là cách diễn đạt sự lựa chọn của nước ta về con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, một sự lựa chọ vừa mang tính tất yêu về chính trị, vừa có khả năng thực hiện.
Tuy nhiên theo Người, đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa thì việc giành được chính quyền mới chỉ bắt đầu, chúng ta phải biết sử dụng chính quyền cách mạng và sức mạnh làm chủ nhân dân, tận dụng điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng cơ sở kinh tế của chế độ mới, thúc đẩy sự chính muồi tất yếu của kinh tế. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Vì vậy Người chỉ rõ : nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất để nang cao đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện nay… Tất cả chúng ta, ở bất kỳ cấp nào, nghành nào đều cũng phải góp sức làm cho sản xuất phát triển.
Là người duy vật Mácxit, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nói rõ vai trò của điều kiện vật chất đối với văn hoá đạo đức, bàn về mối quan hệ giữa văn hoá với kinh tế, Người chỉ rõ văn hoá là kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ hạ tầng có kiến thiết rồi, văn hoá mới được kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được “ muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế văn hoá.
Tuy nhiên Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh một chiều sự phụ thuộc của văn hoá vào kinh tế mà còn chỉ rõ vai trò sức mạnh to lớn của văn hoá nói riêng, của các hình thái tinh thần khác ảnh hưởng trở lại đối với kinh tế
Hồ Chí Minh luôn Luôn chú ý phát huy vai trò của nhân tộc chủ quan trong con người, của ý thức, của lý luận… để vượt lên hoàn cảnh, cải tạo hoàn cảnh
Hồ Chí Minh quan niệm đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, mặt khác người cũng rất coi trọng vai trò tác động trở lại của tinh thần, tư tưởng , đạo đức… đối với xã hội, lịch sử thông qua hoạt động thực tiễn của con người , đặc biệt là lúc mà điều kiện vật chất còn thiếu thốn, ở những thời điểm có tính bước ngoặt của lịch sự, con người thực hiện các hoạt động của mình thông qua ý thức, nếu biết gia tăng sức mạnh của ý thức, của tinh thần sẽ nhân lên sức mạnh của hoạt động thực tiễn của con người. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Vì vậy Người hết sức chú trọng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sức mạnh của lý tuởng chính trị, của văn hoá- khoa học – kỹ thuật đặc biệt là sức mạnh của đạo đức, của ý chí cách mạng.
Qua đó ta có thể thấy Người là Một nhà Mácxít cực uyển chuyển, đã kết hợp nhuần nhuyễn động lực vật chất với đông lực tinh thần để phát huy sức mạnh của toàn dân tộc chiến thắng kẻ thù.
Thứ hai là Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là sự vận dụng thuần thục phương pháp biện chứng duy vật macxít.
Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng bàn về phương pháp. Nhưng trong thực tế lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo và nhuần nhuyễn các nguyên lý của phép biện chứng duy vật Macxít kết hợp với các yếu tố biện chứng của triết học phương Đông qua đó tạo nên một hệ thống phương pháp riêng của mình, rất Macxít mà cũng rất Hồ Chí Minh, không trộn lẫn được. Vì vậy, có thể nói, có phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh, phương pháp đó vẫn là phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin nhưng đã được vận dụng và chuyển hoá vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để xử lý thành công những vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó in đậm màu sắc Việt Nam – Hồ Chí Minh và bằng cái riêng đã làm phong phú thêm cái chung.Vậy nội dung và đặc điểm của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là gì?
2.3 Đó là Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái riêng và cái chung Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, đó là quan điểm cốt lõi nhất của nhận thức luận Macxít và cũng là nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Theo quan điểm của C.Mác: “ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy”. Nói cách khác, lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của mỗi dân tộc. Hồ Chí Minh cũng quan niệm: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế, đó là lý luận chân chính”. Theo quan niệm đó, Hồ Chí Minh luôn luôn lấy thực tiễn, lấy sự kiện của đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho tư duy và hành động, lấy mục tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem xét lý luận, để lựa chọn con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà tránh được giáo điều, rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng tránh để không rơi vào cơ hội, xét lại (do quá nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).
Đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học thuyết cách mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết cho giai đoạn trước mắt của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam: từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tức là từ độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp theo, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ đứng vững trên quan điểm thực tiễn và đường lối độc lập tự chủ, một mặt, chúng ta vẫn tranh thủ viện trợ kinh tế và quân sự của các nước XHCN anh em, mặt khác, chúng ta lại đánh theo đường lối và cách đánh Việt Nam, phù hợp với chiến trường Việt Nam, vì vậy ta đã giành được thắng lợi vẻ vang: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CHXH. Khi miền Bắc từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiền tư bản bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Chúng ta phải đùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến lên CNXH” và Người nhắc nhở: “Tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi đào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”. Đó là biện chứng Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái riêng và cái chung. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
2.4 Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn và thống nhất của các mặt đối lập.
Theo quan điểm Macxít, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, bởi mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng và đấu tranh để đi tới chuyển hoá giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động và phát triển. Hồ Chí Minh cũng thừa nhận tính phổ biến của mâu thuẫn. Người viết: “Cái gì cũng có mâu thuẫn, vì cái gì cũng có biến âm, dương, có sinh có tử, có quá khứ, có tương lai, có cũ, có mới. Đó là những mâu thuẫn sẵn có trong mọi sự vật”.
Mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác nhau: có mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, đối kháng và không đối kháng. Vì vậy, phân tích mâu thuẫn là điều kiện để nhận thức đúng sự vật. Hồ Chí Minh chính là một bậc thầy trong nhận thức, phát hiện và xử lý mâu thuẫn. Trong đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp có nhận thức, phát hiện đúng mâu thuẫn mới xác định rõ kẻ thù và bạn đồng minh, mới đề ra được chiến lược, sách lược, bước đi đúng đắn cho mỗi giai đoạn của cách mạng. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Vận dụng phép biện chứng duy vật vào phân tích xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra hai mâu thuẫn cơ bản: một là, mâu thuẫn vốn có của xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến và hai là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp, từ đó Hồ Chí Minh xác định nhân dân Việt Nam có hai kẻ thù chính là đế quốc và phong kiên tay sai, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc giành lại độc lập cho dân tộc và chống phong kiên đem lại ruộng đất cho dân cày.
Tuy xác định xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản, nhưng trong việc xử lý mâu thuẫn, Hồ Chí Minh không coi hai mâu thuẫn đó ngang nhau, phải tiến hành song song, đồng thời. Theo Hồ Chí Minh, trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn nổi lên gay gắt nhất, trở thành mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và bọn tay sai, có giải quyết được vấn đề dân tộc mới giải quyết được vấn đề dân chủ. Vì vậy, ngay trong Chính cương vắn tắt (1930), Hồ Chí Minh cũng chỉ nêu chủ trương “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo” mà chưa nêu khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, cũng chủ trương tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đề thêm khẩu hiệu “giảm tô, giảm tức”, chia lại ruộng công,… Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Làm như vậy, theo Hội nghị phân tích, nếu không đánh đuổi được Pháp – Nhật, nếu dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu thì vấn đề ruộng đất cũng không sao giải quyết được. Cuộc Cách mạng tháng 8/1945 đã lôi cuốn hàng chục triệu nông dân, dù chưa được chia lại ruộng đất của địa chủ vẫn hăng hái tiến bước cùng giai cấp công nhân làm nên cuộc cách mạng long trời lở đất, giành lại nền độc lập cho dân tộc. Thắng lợi đó là sự thể hiện phép biện chứng của Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng là bậc thầy về xử lý mâu thuẫn địch – ta, nêu tấm gương về nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn, khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Theo quyết định của Đồng minh tại Hội nghị Pốtxđam (tháng 7/1945), gần 20 vạn quân Tưởng đổ vào Bắc Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở ra) và hàng vạn quân Anh – Ấn Độ đổ vào Nam Đông Dương với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. Núp dưới bóng quân đội Anh, thực dân Pháp cũng đem quân trở lại nước ta. Nếu kể cả quân đội Nhật tuy đã đầu hàng nhưng chưa bị tước vũ khí, thì vào lúc đó, có gần nửa triệu quân nước ngoài đóng trên đất nước ta. Cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, tình thế cách mạng Việt Nam như đang “nghìn cân treo sợi tóc”. Để bảo vệ thành quả cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương phải phân hoá kẻ thù, bằng cách khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ của chúng.
Quân đội Tưởng vào miền Bắc có ba thế lực: cánh Lư Hán thuộc Đệ nhất chiến khu Vân Nam, cánh Tiêu Văn thuộc Đệ tứ chiến khu Quảng Tây, cánh Chu Phúc Thành thuộc quân khu Trung ương Trùng Khánh. Chúng giống nhau về mục tiêu “diệt cộng, cầm Hồ” để dựng lên chính phủ tay sai, phục vụ cho mưu đồ lâu dài của chúng, nhưng mâu thuẫn với nhau về lợi ích cá nhân. Biết Lư Hán vốn có tư thù sâu sắc với Tưởng Giới Thạch và cả với Pháp (vì đã bị Pháp tịch thu mấy chuyến hàng lớn trên tuyến đường sắt Hải Phòng Côn Minh), Hồ Chí Minh đã chủ động tới thăm chúng nhằm tranh thủ Lư Hán, đồng thời, nhượng bộ cho vợ chồng Tiêu Văn một số đặc quyền kinh tế để cô lập cánh Chu Phúc Thành… Nhờ đó, chúng ta buộc họ phải thay đổi thái độ đối với Chính phủ Hồ Chí Minh, đã sử dụng được lực lượng quân đội Tưởng làm bình phong, ngăn chặn quân đội Pháp đang lăm le ra miền Bắc. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội Pháp cũng chia thành hai phe: cánh diều hâu chủ chiến, đứng đầu là Cao ủy Đông Dương Đácgiăngliơ (D’argenlieu), cánh tương đối hiểu biết, muốn hoà hoãn, tiêu biểu là đại tướng Lơcléc (Leclerc), tổng chỉ huy quân đội viễn chinh. Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Lơcléc: “Ngài là một đại quân nhân và là một nhà ái quốc. Ngài đã chiến thắng và chiến thắng anh dũng kẻ xâm lăng nước ngài… Lừng danh với những chiến công, ngài lại đi đánh một dân tộc chỉ muốn độc lập, thống nhất quốc gia và một nước chỉ muốn hợp tác như anh em với nước ngài sao?”.
Lòng tự trọng bị tổn thương, ít lâu sau Lơcléc từ chức Tổng chỉ huy, xin chuyển về Pháp, mở đầu cho sự liên tục thay đổi Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương.
Đánh giá sách lược của Hồ Chí Minh Trong giai đoạn này, đồng chí Lê Duẩn đã viết: “Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đã ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc”. Nhắc lại những năm tháng đó, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng viết: “Nếu bấy giờ không có Hồ Chí Minh thì khó lường hết cái gì có thể xảy ra”.
Đối với mâu thuẫn địch – ta, chỉ có một cách xử lý duy nhất là “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta phải kiên quyết đánh đuổi nó đi”. Còn với mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xuất phát từ quan điểm “Hễ là người Việt Nam thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc”, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng “miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc”, “Không được phép bỏ một lực lượng nào sẵn sàng phục vụ quốc gia”. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là lấy cái chung, cái tương đồng để khắc phục cái riêng, cái dị biệt, lấy nhân ái, khoan đung để cảm hoá, lấy nhân nhượng, thoả hiệp lẫn nhau để giải quyết bất đồng, “biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự”. Người phê phán một số cán bộ chỉ biết “chia rẽ, bênh vực lớp này chống lại lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân nhượng lẫn nhau, hoà thuận với nhau… quên rằng lúc này ta phải toàn dân đoàn kết, không chia già trẻ, giàu nghèo để giữ nền độc lập, chống kẻ thù chung”.
Như vậy, trong mâu thuẫn nội bộ nhân dân (mâu thuẫn không đối kháng), có mặt thuận và mặt nghịch, bên cạnh mặt mâu thuẫn còn có mặt thống nhất, để tồn tại trong sự thống nhất, phải biết lấy thuận chế nghịch, lấy cái chung, cái đồng thuận để khắc phục cái riêng, cái dị biệt. Đó là biện chứng trong cách xử lý của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giũa mâu thuẫn và thống nhất các mặt đôi lập.
2.5 Biện chứng giữa cái “bất biến” và cái “vạn biến”.
Đây là một tư tưởng biện chứng hết sức sâu sắc của triết học phương Đông, xuất phát từ quan niệm vạn vật sinh hoá đều do điều lý (quy luật) chi phối, nếu nắm được điều lý của vũ trụ thì có thể điều khiển được mọi biến hoá của trời đất (hiện tượng), nghĩa là có thể lấy cái bất biến chế ngự được cái vạn biến, lấy tĩnh chế động, lấy nhu thắng cương…
Phép biện chứng duy vật Macxít cũng đã đề cập đến các cặp mâu thuẫn và thống nhất, vận động và đứng im, nhưng mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến trong phép biện chứng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc chủ yếu từ trong triết học phương Đông và Việt Nam. Xưa Lý Thánh Tông, khi đi lo việc biên cương ở phương Nam, có dặn lại nhiếp chính Ỷ Lan một câu: “Vạn biến như lôi, nhất tâm thiền định”, ý nói cứ lấy nhất tâm bất biến (là một lòng lo giữ việc nước) thì có thể đối phó với vạn biến (dù có dữ dội như sấm sét). Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Vậy ta hiểu “dĩ bất biến ứng vạn biến” mà Hồ Chí Minh nói đến là gì? Theo cách nói của triết học, có thể hiểu “bất biến” là quy luật, vì chỉ có quy luật (tự nhiên, xã hội, tư duy) là tồn tại lâu đài, là hầu như bất biến, còn “vạn biến” là hiện tượng, là sự biểu hiện đa dạng của quy luật, cho nên có thể đưa vào quy luật mà lý giải hiện tượng hay ngược lại, từ phân tích vô vàn hiện tượng có thể tìm ra quy luật tương ứng. Phép biện chứng duy vật thường chú trọng nhiều hơn về trình bày sự phát triển biện chứng của sự vật, coi mâu thuẫn, vận động là tuyệt đối, thống nhất, đứng im là tương đối. Trong thực tế vận dụng, đôi khi chúng ta lại có phần coi nhẹ, thậm chí bỏ qua cái “bất biến” (tức là cái thống nhất, đứng im vốn là điều kiện tồn tại của sự vật).
Trong vũ trụ và trong cuộc sống xã hội vốn tồn tại phạm trù “bất biến”. Hoá học được xây dựng trên cơ sở định luật bảo toàn trọng lượng. Công thức có thể biến hoá, nhưng trị số thì không đổi. Năng lượng học dựa trên định luật bảo toàn năng lượng. Toán học có những hằng số, hằng đẳng thức không đổi. Về mặt xã hội, các chế độ xã hội đều có nhiều thay đổi, nhưng trong xã hội nào người ta cũng vẫn cần đến ăn, mặc, ở… tức là vẫn phải có sản xuất và phân phối, nghĩa là sự khác nhau, như C.Mác nói, chỉ là về cách thức sản xuất và cách thức phân phối, còn bản thân sản xuất và phân phối thì xã hội nào cũng vẫn phải có. Cũng có thể gọi đó là các hằng số xã hội. Hồ Chí Minh tiếp thu phép biện chứng Macxít, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của tư duy biện chứng phương Đông. Người thường bắt đầu từ cái bất biến để đi tới cái khả biến của xã hội và con người. Thí dụ, Người nói: “Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau ấy là dân nào cũng ưa sự lành, ghét sự dữ”. Khi nghe một vị ủy viên Ban vận động đời sống mới nói cần định ra một cái hướng mới cho cuộc vận động, vì khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính” xem ra vừa không đủ, vừa cổ… thì Hồ Chí Minh ngắt lời: “Cổ, lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa, bây giờ mình ăn cũng cổ à?”. Theo Người, ăn cơm, uống nước, hít thở khí trời… không bao giờ cũ, xưa nay và sau này đều phải làm. Cần, kiệm, liêm, chính cũng vậy. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Trước khi sang Pháp đàm phán, Người chỉ dặn lại cụ Huỳnh có một câu: “Mong cụ ở nhà: dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Ta hiểu đó là Người nói đến mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, nguyên tắc và sách lược. Mục tiêu của chúng ta là độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân, đó là điều bất biến còn phương pháp – sách lược có thể tuỳ tình hình mà biến hoá đa dạng, thay đổi linh hoạt, nhưng không được xa rời cái bất biến. Người nói: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”.
Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng này một cách rất hiệu quả trong chỉ đạo cách mạng, đưa tới những thắng lợi to lớn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đúng như một nhà báo Pháp đã nhận xét: “Chính sự kết hợp mà không ai bắt chước nổi giữa tính mềm dẻo với tính cương nghị, giữa tính linh hoạt về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận dụng truyền thống yêu nước với sự phân tích macxít đã tạo nên tính chất độc đáo của ông Hồ Chí Minh”.
Cũng xuất phát từ phép biện chứng Đông – Tây kết hợp này, chúng ta thấy Hồ Chí Minh đã giải quyết rất thành công, vừa khoa học, vừa nhuần nhuyễn các mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và đổi mới, dân tộc và giai cấp, nội lực và ngoại lực, lực – thế, thời…
Tóm lại, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được thể hiện một phần quan trọng trong phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh. Về bản chất, đó là phương pháp biện chứng duy vật Macxít được vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, có sự kết hợp với tư duy biện chứng phương Đông, in đậm dấu ấn phương Đông và Việt Nam, nổi bật lên trong đó là sự kết hợp tính cương nghị về nguyên tắc với tính mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, lấy cái đại đồng để khắc phục cái tiểu dị, đi từ dân tộc đến giai cấp, nhằm mục tiêu đại đoàn kết dân tộc, phân hoá và cô lập kẻ thù chính, giành thắng lợi cho độc lập dân tộc để từng bước đi lên CNXH. Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh cũng do đó mà có vai trò rất to lớn đối với công cuộc đổi mới của chúng ta, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế đang chuyển biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay.
Thứ ba là Tư tưởng về con người, bộ phận cơ bản của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần quan điểm cải tạo thế giới của triết học Mác, vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là vấn đề con người và sự nghiệp giải phóng con người. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là con người chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, mà là con người hiện thực, cụ thể, sinh động, trước hết là nhân dân lao động và quần chúng bị áp bức ở khắp mọi nơi, không phân biệt dân tộc và màu da. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có thể tóm tắt lại trong ba nội dung cơ bản:
Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng:
Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng dân, vì “có dân là có tất cả”. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Do đó, “trong xã hội không có gì tất đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”.Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng: Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem con người như là công cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con người. Người nói: “Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân”, “dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân”, “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây đựng lấy”. Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người – mục tiêu và con người – động lực là thống nhất, vì dân và do dân là thống nhất. Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào cái động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người đồng thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ.
Trong hệ thống các động lực chính trị – tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng… đồng thời không coi nhẹ vai trò tác động của các nhân tố tinh thần khác, như văn hoá, khoa học, pháp luật… đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi “thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Là nhà duy vật Macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đôi với các biện pháp chính trị – tinh thần, Hồ Chí Minh không coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật chất, khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tính năng động cách mạng của con người. Người tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương kết hợp hài hoà ba lợi ích, sao cho “Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi”.
Nhưng muốn khai thông động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con người, trong đó “căn bệnh mẹ” cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ
Tư tưởng về chiến lược “trăm năm trồng người” Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Từ quan điểm về con người đến quan điểm về chiến lược “trồng người” là một bước phát triển hợp logic của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh. Để thực hiện chiến lược kinh tế – xã hội thì chiến lược con người phải đi trước một bước. Từ rất sớm, Người đã nêu ra một luận điểm nổi tiếng: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết cần có những con người XHCN”. Do đó, “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” (Di chúc). Quan điểm “trồng người” của Hồ Chí Minh rất toàn diện và phong phú, ở mỗi thời kỳ cách mạng, Người nêu ra những yêu cầu khác nhau. Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nhấn mạnh đến các yêu cầu sau đây:
Có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham ô, lãng phí, quan liêu, có ý thức làm chủ và tinh thần tập thể. Có ý chí học hỏi, không ngừng vươn lên làm chủ những thành tựu văn hoá, khoa học – kỹ thuật, những hiểu biết mới của thời đại. Có tinh thần tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo, nhạy bén với cái mới, biết vận dụng nó vào thực tế công tác để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người là một hệ thống chặt chẽ, phong phú, vừa khoa học, vừa cách mạng, là một bộ phận hợp thành của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, một đóng góp quan trọng vào việc làm phong phú triết học về con người của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng cứu dân, cứu nước, tìm một con đường phát triển mới để canh tân đất nước, Hồ Chí Minh đã tìm đến nhiều học thuyết Đông – Tây, trên hết là chủ nghĩa Mác – Lênin, đã học hỏi, tiếp thu, dung hợp, tích hợp, hình thành cho mình một thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng Macxít, tạo nền tảng triết học để xây đựng lý luận, đường lối và phương pháp cho cách mạng Việt Nam. Triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn, biện chứng Hồ Chí Minh là biện chứng thực hành, nó được thể hiện và xuyên thấm trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp và trước tác của Hồ Chí Minh. Từ những hoạt động thực tiễn phong phú ấy của Người, phân tích, hệ thống hoá, có thể rút ra tư tưởng và phương pháp triết học của Hồ Chí Minh. Đó là một việc làm công phu và lâu dài. Mấy nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được trình bày trên đây mới chỉ là những khái quát bước đầu, chắc chắn cần được bổ sung và hoàn chỉnh cùng với những thành tựu mới trên con đường lâu dài nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh.
3. Tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
Độc lập – tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc
Không có gì quý hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát và là nội dung lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ 1919, trong “Bản yêu sách tám điểm” gửi đến Hội nghị Véc-xây, Hồ Chí Minh cũng chính là người Việt Nam đầu tiên đã thống nhất hai nội dung Độc lập dân tộc và Tự do của nhân dân trong lịch sử Việt Nam.
Người đã khẳng định: Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động, sáng tạo và có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương Tây. Đây không chỉ là một luận điểm sáng tạo mà còn là sự phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đến các lời kêu gọi sau đó, nhất là các lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là chân lý sáng ngời thời đại do Người vạch ra mãi soi sáng cho cách mạng Việt Nam và cách mạng nhân loại. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, bao trùm và xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nếu trong “Bản yêu sách tám điểm” gửi đến Hội nghị Véc-xây là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc với tự do của nhân dân, thì trong “Đường Kách mệnh” và trong “Cương lĩnh đầu tiên của Đảng” là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc với CNXH. Thì từ “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đến các “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” sau này, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được bổ sung thêm quyết tâm cao nhất của dân tộc nhằm giữ vững mục tiêu cao cả Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là chủ nghĩa Mác-Lênin đã Việt Nam hóa bởi Hồ Chí Minh.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Người là tổng hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đây là một đóng góp về lý luận vào kho tàng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vào lý luận cách mạng xã hội nói chung và cách mạng xã hội chủ nghĩa nói riêng trong thời đại ngày nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện Đảng đã nắm chính quyền (Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền), là một đóng góp mới vào lý luận xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Để bảo đảm cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công”. Để xứng đáng là Đảng lãnh đạo, là đầy tớ tận tuỵ của nhân dân, Người đòi hỏi Đảng ta một mặt phải ra sức nâng cao trí tuệ cho ngang tầm nhiệm vụ lịch sử, mặt khác phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam mà chủ yếu phải là Đảng của nhân dân, Đảng của dân tộc Việt Nam.
Trong xây dựng Đảng về tư tưởng – lý luận, Người chỉ rõ: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”… Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Để đạt mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, phải làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lý luận xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự trung thành của Người với những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của Lênin. Đồng thời quan điểm xây dựng “Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của Dân tộc, Đảng của Nhân dân Việt Nam”[1] là sự phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin của Người về xây dựng Đảng trong điều kiện mới.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” . Luận điểm nổi tiếng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát huy cao nhất truyền thống cố kết dân tộc cao của dân tộc Việt Nam, và đã trở thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt cả quá trình cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh cùng với đạo đức và nhân cách vô cùng cao thượng và trong sáng của Người đã quy tụ được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đấu tranh vì thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Với mẫu số chung của đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước, Người đã đoàn kết được mọi con dân Việt Nam, làm nên sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam để chiến thắng mọi kẻ thù.
Toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người, bao gồm cả việc sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam.., Hồ Chủ Tịch đã kế thừa và phát huy thành công truyền thống cố kết cộng đồng của dân tộc, đánh giá đúng, đề cao sức mạnh và phát huy tinh thần quật cường của nhân dân ta, mà luôn thực hiện đường lối cách mạng đại đoàn kết toàn dân, với nguyên tắc “tin dân, dựa vào dân”, “tất cả sức mạnh đều từ dân mà ra”[2], một trong những cơ sở chủ yếu làm nên sức mạnh của quân đội là “quân dân như cá với nước”[3].
Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, lâu dài, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh mãi mãi là một sức mạnh làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Xây dựng Nhà nước Việt Nam thành Nhà nước của dân, do dân và vì dân là cống hiến vĩ đại của Người vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước.
Từ việc nghiên cứu kỹ các mô hình nhà nước trong lịch sử dân tộc cũng như trên thế giới, Người đã lựa chọn một mô hình nhà nước phù hợp với thực tế của Việt Nam: nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân là một cống hiến về lý luận và thực tiễn to lớn và đặc sắc của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng về xây dựng nhà nước kiểu mới, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: Bản chất dân chủ triệt để của nó; Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước; Kết hợp cả đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Điều đó thể hiện rất rõ nét ở các luận điểm của Người về:
Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi “cho số đông người” và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một Nhà nước công nông binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930.
Trải qua thực tế các cao trào cách mạng ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng ở Việt Nam một nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong bài báo Dân vận (năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Theo Người Nhà nước của dân Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dan. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của Người được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết.
Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì Nhà nước đó là nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
Nhà nước do dân Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
c) Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác.
Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành. Cả cuộc đời Người “chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”. Hồ Chí Minh viết: “khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng – cũng vì mục đích đó”. Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui… Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi” Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Mang bản chất giai cấp công nhân .Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh giai cấp xuất hiện, do đó, nhà nước là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy không phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không phải tồn tại mãi mãi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng bản chất giai cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân. Vì:
Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta thời kỳ đó không giống với những thời kỳ sau này. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là:
Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển của đất nước. Điều này đã được thể hiện ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời ngày 2-9-1945 trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.
Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp – dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:
Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các nhà cách mạng tiền bối rất oanh liệt tô thắm cho truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự do cho dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Từ ngày 3-2-1930 Đảng ta ra đời thì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua được tất cả các hạn chế và đã lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu á.
Tính thống nhất của nó còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và của toàn dân tộc. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của pháp luật trong quản lý xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Người ký tên là Nguyễn ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919. Sau này, khi trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc hơn việc xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu quả bằng pháp quyền. Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ được Hồ Chí Minh chú ý xây dựng thể hiện trên những điểm sau đây:
Xây dựng một Nhà nước hợp hiến
Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức khác của Nhà nước mới. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu và lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam châu á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo… đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình vào trong Quốc hội. Ngày 2 – 3 – 1946, Quốc hội Khóa I đã họp Phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhau nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất là Hiến pháp – đạo luật cơ bản của nước nhà. Các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 đã để lại dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế và hoạt động của Nhà nước mới. Từ năm 1919, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề “thần linh pháp quyền” trong đời sống xã hội hiện đại. Có Hiến pháp và pháp luật nhưng không đưa được vào trong cuộc sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật. Suốt cả thời kỳ giữ trọng trách Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân. Chính bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo pháp luật đã trở thành nền nếp, thành thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh.
“Thần linh pháp quyền” là sức mạnh do con người và vì con người. Do vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đòi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Người cho rằng công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Trong việc thực thi pháp luật, có quan hệ rất lớn tới trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Hồ Chí Minh chú trọng tới vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp. Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, biết thực hành dân chủ.
Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước đủ đức và tài Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát nhất về yêu cầu đối với đội ngũ này là vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả.
Đi vào những mặt cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau đây về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức:
Một là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ này. Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác.
Hai là: Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Chỉ với lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ này phải hiểu biết công việc của mình, biết quản lý Nhà nước, do vậy, phải được đào tạo và tự mình phải luôn luôn học hỏi. Hồ Chí Minh là người mạnh dạn sử dụng những công chức của chế độ cũ phục vụ cho chính quyền cách mạng và nhiều người trong số họ đã trở thành những người có công lớn đối với chế độ mới, đồng thời Người chú trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ, công chức mới. Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh về công chức, trong đó có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ tư pháp. Ngay trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76 ban hành Quy chế công chức nêu rõ công chức là người giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ. Sắc lệnh cũng nêu lên cách thức và nội dung thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính trong bộ máy chính quyền. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Ba là: Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những người ăn lương từ nguồn ngân sách của Nhà nước mà nguồn ngân sách này do dân đóng góp. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi cán bộ, công chức không được lãng phí của công; phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho Tổ quốc, lấy phục vụ cho quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình. Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, phải luôn luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền…đối với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà nước.
Bốn là: Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”. Đó là những người có ý thức sẵn sàng làm “công bộc”, làm “đày tớ” cho dân, những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn luôn “có chí tiến thủ”, luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy, học ở bạn; phải thường xuyên tự phê bình và phê bình.
Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với việc làm cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm cho sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt. Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh gửi thư cho ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng.
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời nào cũng cần và đều phải được áp dụng cho bất cứ ai. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của mình để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ Chí Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đã không “sẩy chân” phạm pháp hoặc không đi theo kẻ địch.
Chú trọng hơn nữa xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Đảng về chính trị trước hết đòi hỏi Đảng ta phải đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, đồng thời tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó ở tất cả các cấp, các ngành. Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Đảng Cộng sản là sai lầm về đường lối. ở đây, sai một ly, đi một dặm. Cần chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ ở đường lối mà ngay cả trong quá trình thực hiện đường lối đó. Đường lối của Đảng phải được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở từng thời kỳ. Đường lối ấy phải dựa vào thực tế, có khả năng thực thi, đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển của đất nước. Trong quá trình thực hiện đường lối, Đảng phải tổng kết thực tiễn, nắm bắt xu thế của thời đại, nắm được sự biến động của tình hình trong nước và quốc tế để kịp thời bổ sung, phát triển đường lối. Sự kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa là một thước đo quan trọng nhất tính đúng đắn của đường lối, đồng thời, trong bối cảnh toàn cầu hóa phải tính đến những đặc điểm mới để đưa ra những quyết sách mới nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững, biến đất nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về tư tưởng đòi hỏi phải giáo dục, rèn luyện đảng viên kiên định lập trường tư tưởng, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, không hoang mang, dao động trước mọi diễn biến phức tạp, luôn luôn đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Hồ Chí Minh luôn luôn mong muốn Đảng ta trở thành một khối thống nhất về tư tưởng và hành động. Hiện nay, đất nước đang đứng trước thử thách nghiệt ngã. Chúng ta đã rửa được nỗi nhục mất nước. Hiện nay, nỗi nhục nghèo nàn và lạc hậu cũng đang là vấn đề bức xúc cần được giải quyết. Trong cuộc chiến đấu gian khổ chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, chống lại nghèo nàn và lạc hậu, thì sự nhất trí về tư tưởng để đi đến nhất trí trong hành động càng có ý nghĩa quyết định. Lòng tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa là thước đo lớn nhất đối với việc xây dựng Đảng về tư tưởng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Đảng về tổ chức đòi hỏi Đảng ta phải luôn luôn chú trọng kiện toàn các tổ chức của mình, làm cho Đảng có sức mạnh vô địch. Đảng mạnh là do tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, đến chi bộ mạnh.
Các tổ chức đảng luôn luôn phải trong sạch, vững mạnh. Cán bộ, đảng viên luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng và các tiêu cực khác. Những điều căn dặn của Hồ Chí Minh trong Di chúc khi nói về Đảng vẫn còn có giá trị lớn trong công tác xây dựng Đảng thời kỳ đổi mới hiện nay.
Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà nước ta. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, còn cần chú ý tới thực hiện những quy tắc dân chủ trong các cộng đồng dân cư, tùy theo điều kiện của từng vùng, miễn là các quy tắc đó không trái với những quy định của pháp luật. Theo đó, cần thực hiện tốt các Quy chế dân chủ ở cơ sở đã được Chính phủ ban hành.
Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này đòi hỏi phải chú trọng cải cách và xây dựng, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực và có hiệu quả đối với nhân dân. Kiên quyết khắc phục quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu, tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay còn cần chú ý cải cách các thủ tục hành chính; đề cao trách nhiệm trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân theo đúng những quy định của pháp luật; tiêu chuẩn hóa cũng như sắp xếp lại đội ngũ công chức, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ. Nguồn lực đội ngũ công chức yếu thì không thể nói đến một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân mạnh được. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được đặt lên hàng đầu và phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm chất lượng. Theo đó, hệ thống các trường trong cả nước, nhất là các trường đại học, cao đẳng, các trường dạy nghề, đặc biệt là các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên ngành tư pháp phải được đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo.
Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng tất yếu gắn liền với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây là trách nhiệm cực kỳ quan trọng của Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền. Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở những nội dung như: lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: lãnh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, bằng công tác kiểm tra, Đảng không làm thay công việc quản lý của Nhà nước. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở bảo đảm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước theo luật định. Bản chất, tính chất của Nhà nước ta gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng, một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của đạo đức cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa – cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, toàn diện nhất, chúng ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu; phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Một trong những bài giảng đầu tiên cho lớp thanh niên trí thức yêu nước đầu tiên của Việt Nam từ những năm 1920 là bài giảng về “tư cách của một người cách mạng”. Đến khi viết Di chúc, Người vẫn dành một phần trang trọng để bàn về vấn đề đạo đức, yêu cầu mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Đảng phải quan tâm chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Hồ Chí Minh xem xét đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một mặt không thể thiếu của cán bộ, đảng viên. Cũng như V.I. Lênin, Hồ Chí Minh đào tạo các chiến sĩ cách mạng không chỉ bằng chiến lược, sách lược mà còn bằng chính tấm gương đạo đức trong sáng của mình.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây h Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh trăn trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối và suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa con người. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân yêu, dân phục thì không phải “viết lên trán chữ cộng sản là được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức”. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức không phải một chiều phụ thuộc vào tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng tác động tích cực trở lại, cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần một khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất.
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không lùi bước, chán nản…; khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, v.v.. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, nhưng phải nhận thức đức và tài có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có đức phải có tài, nếu không sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn có hại cho dân. Mặt khác, phải thấy trong đức có tài. Tài càng lớn thì đức phải càng cao, vì đức – tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách mạng đến thắng lợi.
Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới
Trung với nước, hiếu với dân “Trung” và “hiếu” vốn là những khái niệm đạo đức cũ chứa đựng nội dung hạn hẹp: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”, phản ánh bổn phận, trách nhiệm của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đưa vào khái niệm cũ một nội dung mới, mang tính cách mạng, đó là trung với nước, hiếu với dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Từ chỗ trung với vua, hiếu với cha mẹ đến trung với nước, hiếu với dân là một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức. Hồ Chí Minh đã lật ngược quan niệm đạo đức cũ, đạo đức Nho giáo, xây dựng đạo đức mới “như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và dân là người chủ của nước. Vì vậy, “trung với nước, hiếu với dân” là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên và phát triển của đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là: Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.
- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.
- Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Nội dung chủ yếu của hiếu với dân là:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đạo đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng “có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là: trung với nước hiếu với dân
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. “Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Hai là: yêu thương con người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái… không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”.
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Ba là: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. – Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá”. Chính, “nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản đều là anh em”; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.
Xây đi đôi với chống. Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân – nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc “nội xâm” phá từ trong ra.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn liền với kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người. Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất đạo đức. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh “cá nhân”, đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ.
Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ nạn cần phải chống gồm ba loại hình là tham ô, lãng phí, quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng” phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí quan liêu cũng nặng như tội lỗi “Việt gian, mật thám”. Người cho rằng: “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”.
Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phải khắc phục các nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng.
Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” .
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ, được Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra rằng: phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không thực hiện; ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện sinh động của phẩm chất “trung với nước hiếu với dân”. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
- “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
- Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
- Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
- Thiếu một mùa, thì không thành trời
- Thiếu một phương, thì không thành đất.
- Thiếu một đức, thì không thành người”
Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu cán bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại.
Thương yêu con người
Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của các dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này có nhiều người, nhiều công việc, nhưng có thể chia thành hai hạng người: người thiện và người ác, và hai thứ việc: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Từ đó, Người kết luận: những người bị áp bức, bị bóc lột, những người làm điều thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo có khác nhau, vẫn có thể thực hành chữ “bác ái”, vẫn có thể đại đoàn kết, đại hòa hợp, coi nhau như anh em một nhà. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ.
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn thuở hàn vi, đến những người quen mới. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.
Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hòa quyện giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng tuyệt vời về nói đi đôi với làm. Người quan tâm đặc biệt, hàng đầu tới vấn đề đạo đức. Người để lại nhiều bài viết, bài nói về đạo đức và quan trọng hơn là Người thực hiện trước hết, nhiều nhất những tư tưởng ấy. Ngay trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản, bàn về tư cách một người cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “nói thì phải làm”. Người còn làm nhiều hơn những điều Người nói, kể cả việc làm mà không nói. Mỗi việc làm, mỗi hành vi của Người đều tiềm ẩn những tư tưởng đạo đức sáng ngời. Đây là một bài học quý giá cho mỗi chúng ta muốn tìm hiểu những tầng sâu bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thì không chỉ dừng lại ở những bài viết, bài nói, mà phải khám phá những hành vi đạo đức của Người, nghiên cứu những bài nói, bài viết của bạn bè quốc tế, những học trò của Người. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Tại sao nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức?
Đạo đức cách mạng là đạo đức luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của cách mạng. Điều này phân biệt một cách rạch ròi với thói đạo đức giả, đạo đức của giai cấp bóc lột với những đặc trưng bản chất là nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, nói một đằng, làm một nẻo, đem lại lợi ích không phải cho quần chúng nhân dân lao động, mà cho thiểu số những kẻ bóc lột.
Nói đi đôi với làm còn nhằm chống thói đạo đức giả. Sáu mươi năm qua, từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, nơi này, nơi khác, trên những mức độ khác nhau ở cán bộ, đảng viên ta vẫn còn tồn tại hiện tượng nói không đi đôi với làm. Điều này sẽ dẫn tới nguy cơ làm mất lòng tin của dân đối với Đảng và chế độ mới. Ngay từ tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh đã nói tới những kẻ “vác mặt làm quan cách mạng”. Sau này, trong nhiều lần bàn tới việc cần tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh lệnh, Người chỉ rõ: “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ”.
Nêu gương đạo đức, nói đi đôi với làm là một nét đẹp của văn hóa phương Đông.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” Noi theo tấm gương của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh cũng đào tạo các thế hệ cách mạng người Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng, mà bằng chính tấm gương đạo đức cao cả.
Theo Hồ Chí Minh hơn bất kỳ một lĩnh vực nào khác, trong lĩnh vực đạo đức đặc biệt phải chú trọng “đạo làm gương”. Làm gương có nhiều cấp độ, phạm vi và hệ quy chiếu khác nhau. ở đâu cũng có người tốt, việc tốt. Giai đoạn cách mạng nào cũng cần có nhiều tấm gương. Tùy theo nhiệm vụ và tình hình cụ thể mà tấm gương đó được biểu hiện ở những mặt nào, trong chiến đấu, lao động, học tập, cuộc sống đời thường trong gia đình, ngoài xã hội… Việc bồi dưỡng, nêu gương “người tốt, việc tốt” là rất quan trọng và cần thiết, không được xem thường. Nhiều giọt nước hợp lại mới thành suối, thành sông, thành biển cả. Không nhận thức được điều đó là “chỉ thấy ngọn mà quên mất gốc”. Xây dựng đạo đức mới, nêu gương đạo đức phải rất chú trọng tính chất phổ biến, rộng khắp, vững chắc của toàn xã hội và những hạt nhân “người tốt, việc tốt” tiêu biểu.
Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Làm cách mạng là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây dựng đạo đức mới lại càng phải quan tâm điều này. Bởi vì trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau, nên không phải “người người đều tốt, việc việc đều hay”. “Mỗi con người đều có cái thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Mặt khác, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, cuộc chiến đấu khổng lồ. Trong cuộc chiến đấu đó, có nhiều kẻ địch nhưng thường có ba loại: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm; thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ; loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta; nó chờ dịp – hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi – để ngóc đầu dậy; nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia.
Nhận thức như vậy để thấy rằng “đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. Có như thế mới thắng được địch và thực hiện được nhiệm vụ cách mạng” Đối với từng người, Hồ Chí Minh yêu cầu trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình, không hiếu danh, không kiêu ngạo, ít lòng tham muốn về vật chất, vị công vong tư…
Chống và xử lý nghiêm là nhằm xây, đi liền với xây và muốn xây thì phải chống. Mục đích cuối cùng là xây dựng con người có đạo đức và nền đạo đức mới Việt Nam. Vì vậy, phải xác định đây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài.
Xây là giáo dục những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tất nhiên, giáo dục đạo đức phải phù hợp với lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau. Đồng thời, phải chú ý tới hoàn cảnh, nhiệm vụ từng giai đoạn cách mạng. Xa rời thực tiễn và khư khư giữ lấy những nội dung cũ khi thực tiễn đã vượt qua đều không phù hợp với quan điểm xây dựng đạo đức của Hồ Chí Minh.
Xây dựng đạo đức có nhiều cách làm. Trước hết mỗi người và tổ chức phải có ý thức tự giác trau dồi đạo đức cách mạng. Bản thân sự tự giác cũng là phẩm chất đạo đức quý đối với từng người và tổ chức. Điều này càng cần thiết và có ý nghĩa to lớn đối với Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Bởi vì: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Xây đi đôi với chống trên cơ sở tự giáo dục, đồng thời phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Điều này thuộc quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của quần chúng nhân dân tự xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh cũng viết rõ điều này: Để chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng và tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã luôn phát động phong trào quần chúng rộng rãi và đem lại những hiệu quả thiết thực. Đó là phong trào thi đua tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; cuộc vận động “3 xây, 3 chống”: nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế – tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Tu dưỡng đạo đức là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc và văn hóa phương Đông. Hồ Chí Minh đã nói về ưu điểm của Khổng Tử là “vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân”. Quan điểm của Khổng Tử là “chính tâm, tu thân”. Có “tu thân” mới làm được những việc lớn khác như “trị quốc, bình thiên hạ”. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta phải nhớ câu “Chính tâm, tu thân” để “trị quốc bình thiên hạ”. Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới không phải là một việc dễ dàng… Dù khó khăn gian khổ, nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công”.
Đạo đức cách mạng, đạo đức mới khác đạo đức cũ ở chỗ nó gắn với thực tiễn cách mạng và phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Vì vậy, việc rèn luyện, tu dưỡng bền bỉ suốt đời phải như công việc rửa mặt hàng ngày là một trong những yêu cầu có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người” Vì vậy, Người đòi hỏi “gian nan rèn luyện mới thành công”. “Kiên trì và nhẫn nại… Không nao núng tinh thần”.
Cái ác luôn ẩn nấp trong mỗi người. Vì vậy, không được sao nhãng việc tu dưỡng, mà phải rèn luyện suốt đời, bền bỉ. Đặc biệt trong thời kỳ hòa bình, khi con người đã có ít quyền hạn, nếu không ý thức sâu sắc điều này, dễ bị tha hóa, biến chất. Hồ Chí Minh so sánh: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”. Nếu không chú ý điều này, sa vào chủ nghĩa cá nhân thì có thể ngày hôm qua có công với cách mạng, nhưng ngày hôm nay lại có tội với nhân dân. Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con người, đó là đạo đức của những con người được giải phóng. Vì vậy, tu dưỡng đạo đức phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm và trách nhiệm của mỗi người. Chỉ có như vậy thì việc tu dưỡng mới có kết quả trong mọi môi trường, mọi mối quan hệ, mọi địa bàn, mọi hoàn cảnh
III. Kết luận:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh- một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Việt Nam hiện đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường xây dựng đất nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao tư duy lý luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng, năng lực công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ cách mạng trọng đại của Đảng, của Nhà nước ta trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiểu luận: Tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Hồ Chí Minh.
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com