Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Khái niệm và đặc điểm quyền tác giả
2.1.1. Khái niệm
Hiểu một cách đơn giản, quyền tác giả cho phép tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền khai thác tác phẩm, chống lại việc sao chép bất hợp pháp. Quyền tác giả còn được gọi là tác quyền hay bản quyền.
Về khái niệm pháp lý, quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm quy định và bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
Từ khái niệm quyền tác giả, các yếu tố cấu thành của quan hệ pháp luật dân sự quyền tác giả được thể hiện rõ. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự này là tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Khách thể hay đối tượng của quan hệ pháp luật dân sự này là các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật. Nội dung của quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả là các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Quyền tác giả đã khuyến khích nhiều nhà văn, nghệ sỹ, nhà khoa học sáng tạo. Nói như vậy không có nghĩa là phải là một nhà văn danh tiếng, một nhạc sỹ nổi tiếng hay một đạo diễn chuyên nghiệp mới có quyền tác giả. Quyền tác giả xuất hiện không phụ thuộc vào nội dung hay chất lượng tác phẩm.
2.1.2. Đặc điểm quyền tác giả
Quyền tác giả có hai đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ nội dung sáng tạo. Mặt khác, nếu hình thức thể hiện của một ý tưởng trùng với nội dung của ý tưởng đó thì hình thức cũng không được bảo hộ. Quyền tác giả bảo hộ tác phẩm, còn tác phẩm là sự hình thành một ý tưởng dưới một hình thức nhất định. Quyền tác giả được phát sinh kể từ khi tác phẩm được thể hiện dưới một hình thức nhất định. Nói cách khác, căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả là các hành vi pháp lý. Điều này có nghĩa là cơ quan nhà nước sẽ không xem xét nội dung tác phẩm, và việc đăng ký bảo hộ quyền tác giả chỉ có giá trị chứng cứ mà không có giá trị pháp lý như đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Thứ hai, tác phẩm được bảo hộ phải có tính nguyên gốc, tức là không sao chép, bắt chước tác phẩm khác. Điều đó không có nghĩa là ý tưởng của tác phẩm phải mới, mà có nghĩa là hình thức thể hiện của ý tưởng phải do chính tác giả sáng tạo ra. Như vậy, một tác phẩm muốn được bảo hộ phải do chính sức lao động trí óc của tác giả tạo ra.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2.2. Đối tượng, chủ thể và nội dung quyền tác giả Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
2.2.1. Đối tượng quyền tác giả
2.2.1.1. Tác phẩm trong nước hay do người Việt Nam sáng tạo
Quyền tác giả là quyền sở hữu trí tuệ có đối tượng điều chỉnh rộng lớn nhất. Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ liệt kê các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả như sau:
- Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác.
- Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác.
- Tác phẩm báo chí.
- Tác phẩm âm nhạc.
- Tác phẩm sân khấu.
- Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự.
- Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng – Tác phẩm nhiếp ảnh.
- Tác phẩm kiến trúc.
- Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học.
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
- Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
- Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định nếu không gây tổn hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
- Những tác phẩm được bảo hộ này phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác. Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
Trong các hình thức thể hiện tác phẩm được nhắc đến ở Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ, có một khái niệm dễ hình dung nhưng khó định nghĩa và khó xác định phạm vi bảo hộ, đó là chương trình máy tính. Tuy không có định nghĩa trực tiếp nhưng khái niệm này đã được nhắc đến ở Điều 6 Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả. Theo đó, chương trình máy tính là một hoặc một nhóm chương trình được biểu hiện dưới dạng chuỗi lệnh viết theo một ngôn ngữ lập trình nào đó và các tệp dữ liệu có liên quan, chỉ dẫn cho máy tính hoặc hệ thống tin học biết phải làm gì để thực hiện nhiệm vụ được đề ra; có thể được cài đặt bên trong máy tính hoặc dưới hình thức văn bản, đĩa mềm, CD-ROM.
Danh sách các tác phẩm được nêu trong Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ không cố định, và số loại hình tác phẩm sẽ ngày một tăng với sự ra đời của các phương tiện lưu trữ và truyền tải thông tin hiện đại, ví dụ như cơ sở dữ liệu (database), truyền thông đa phương tiện (multimedia), hay xa lộ thông tin (internet). Các loại hình này được tập trung thành ba nhóm: các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật. Tuy vậy, cũng có trường hợp một tác phẩm vừa là một tác phẩm khoa học, vừa là một tác phẩm nghệ thuật. Cách phân loại này tương tự với cách phân loại tác phẩm ở các nước theo hệ thống luật lục địa (continental law). Ở các nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ, người ta phân chia tác phẩm thành 3 loại sau: các tác phẩm viết (written works), tác phẩm âm thanh (sound recordings) và tác phẩm hình ảnh (motion pictures).
Cách phân loại nói trên không làm ảnh hưởng đến tiêu chuẩn bảo hộ của tác phẩm. Các tác phẩm được bảo hộ không phân biệt hình thức, ngôn ngữ thể hiện và chất lượng tác phẩm. Tuy nhiên, không phải bất cứ hình thức thể hiện nào cũng được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả. Để được bảo hộ, một tác phẩm phải được chấp nhận về mặt nội dung, được thể hiện dưới một hình thức nhất định và có tính nguyên gốc.
Sự sáng tạo của một tác giả không nhất thiết phải độc lập với sự sáng tạo của tác giả khác. Các tác phẩm dẫn xuất từ những tác phẩm khác cũng được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả, ví dụ như tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, tuyển tập, biên soạn, sưu tầm.
Theo Bộ Luật Dân sự 1995, một số tác phẩm được bảo hộ theo quy chế riêng, đó là: tin tức thời sự thuần túy đưa tin, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, văn bản pháp luật và bản dịch của những văn bản đó. Theo Luật sở hữu trí tuệ, trong các tác phẩm trên, chỉ có tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là được bảo hộ theo quy chế riêng (Điều 23 Luật sở hữu trí tuệ). Các tin tức thời sự thuần túy đưa tin hoặc văn bản pháp luật đều không được bảo hộ (Điều 15 Luật sở hữu trí tuệ).
2.2.1.2. Tác phẩm do người nước ngoài sáng tạo
Hiện tại, Việt Nam đã gia nhập Công ước Berne nên các tác phẩm nước nước ngoài (là thành viên của Công ước Berne) sẽ được bảo hộ tại Việt Nam theo quy định của Nghị định số 60/CP ngày 06/06/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ Luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, theo Điều 12 của Nghị định 60, Nhà nước CHXHCN Việt Nam còn bảo hộ các tác phẩm của người nước ngoài lần đầu tiên được hình thành, công bố, phổ biến tại Việt Nam, với điều kiện là chúng phải thỏa mãn các điều kiện về nội dung (không phải là tác phẩm phản động, văn hóa đồi trụy,…).
Đối với các tác phẩm được hình thành tại một nước có Hiệp định tương trợ về bảo hộ bản quyền (như Hoa Kỳ), hay do công dân các nước đó sáng tạo, thì tác phẩm này cũng được bảo hộ tại Việt Nam như các tác phẩm Việt Nam.
2.2.2. Chủ thể của quyền tác giả Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
Các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả bao gồm tác giả (đồng tác giả) và chủ sở hữu quyền tác giả.
2.2.2.1. Tác giả
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hay một phần tác phẩm (Khoản 1 Điều 13 Luật sở hữu trí tuệ). “Sáng tạo” trong quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả được coi là việc “sử dụng sức lao động và khả năng suy xét” để tạo ra tác phẩm.
Điểm mấu chốt để xác định quyền tác giả là tác phẩm phải mang tính nguyên gốc. Các khái niệm “nguyên gốc” và “trực tiếp sáng tạo” có liên quan đến nhau. Khi tác giả sáng tạo một tác phẩm thì đương nhiên tác phẩm được sáng tạo đó phải mang tính nguyên gốc, trừ khi tác giả sao chép từ một tác phẩm khác. Bên cạnh đó, luật Việt Nam cũng công nhận người dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, sưu tầm, tuyển chọn từ những tác phẩm khác cũng là tác giả. Như vậy, một người chỉ được bảo hộ quyền tác giả trong phạm vi mà người đó trực tiếp sáng tạo. Để đánh giá một tác phẩm có phải là nguyên gốc hay không cần phải xem có phần nào của tác phẩm đã được sáng tạo. Trong tác phẩm dịch, việc thể hiện, cách đặt câu của dịch giả là một sự sáng tạo mang tính nguyên gốc. Trong tác phẩm tuyển chọn, cách sắp xếp các tác phẩm khác nhau vào một tổng thể mang tính logic là một sáng tạo mang tính nguyên gốc.
Bên cạnh khái niệm tác giả còn có khái niệm đồng tác giả. Đó là những người cùng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Có 2 loại đồng tác giả. Loại thứ nhất là những người cùng sáng tạo ra một tác phẩm thống nhất mà phần sáng tác của mỗi người không thể tách ra để sử dụng riêng. Trong trường hợp này, vị trí của các đồng tác giả gần giống như vị trí của những chủ sở hữu chung hợp nhất. Loại thứ hai là những người cùng sáng tác ra một tác phẩm thống nhất mà phần sáng tác của mỗi người có thể tách ra để sử dụng riêng. Vị trí của các đồng tác giả lúc này sẽ giống như vị trí của những sở hữu chung theo phần.
2.2.2.2. Chủ sở hữu quyền tác giả
Chủ sở hữu quyền tác giả là người độc quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm. Trong đa số các trường hợp, tác giả sẽ đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên, nếu tác phẩm được hình thành do có các tổ chức, cá nhân thuê, giao nhiệm vụ cho tác giả thì các tổ chức, cá nhân này sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả.
Ngoài ra, người được chuyển giao quyền tác giả, hay người thừa kế của tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả cũng là chủ sở hữu quyền tác giả. Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
Tóm lại, nhiều trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả và ngược lại. Việc phân biệt giữa tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả là quan trọng. Vì chủ sở hữu quyền tác giả mới chính là người có quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm. Xét về khía cạnh kinh tế thì chủ sở hữu quyền tác giả đóng vai trò quan trọng hơn tác giả. Vì khi sử dụng hay trình diễn tác phẩm, các chủ thể khác phải xin phép hay trả thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả.
2.2.3. Nội dung quyền tác giả
Nội dung quyền tác giả bao gồm các quyền của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự này, cụ thể là của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Đó cũng là trọng tâm của sự ra đời luật bảo hộ quyền tác giả. Như vậy, quyền tác giả không chỉ đơn thuần là quyền của tác giả mà còn là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả. Hiện nay, quyền tác giả được tập trung lại thành hai mảng lớn: quyền nhân thân (Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ) và quyền tài sản (Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ).
2.2.3.1. Quyền nhân thân
Quyền nhân thân bao gồm quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.
Các quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền gắn liền với các giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao, bao gồm ba quyền: quyền được đặt tên tác phẩm, đứng tên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của nội dung tác phẩm. Vì là quyền nhân thân không được chuyển giao nên nó chỉ được dành cho tác giả (cho dù đồng thời hay không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả). Các quyền này ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và danh dự của tác giả, tồn tại một cách độc lập đối với quyền tài sản, gắn liền với tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm đã được chuyển giao. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được bảo hộ vô thời hạn, khác với các quyền khác được bảo hộ có thời hạn.
Mặc dù quyền nhân thân không gắn với tài sản cũng là quyền quan trọng, nhưng quyền quan trọng nhất trong tất cả các nội dung của quyền tác giả là các quyền nhân thân gắn với tài sản. Đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm. Chính từ này làm phát sinh bản chất độc quyền của tác giả. Quyền này là quyền nhân thân có thể chuyển giao, gắn với các quyền tài sản trong chế định quyền tác giả. Vì thế, nó chỉ dành cho chủ sở hữu quyền tác giả và tác giả nếu như tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả.
Việc quy định bảo hộ quyền nhân thân không gắn với tài sản trong luật về quyền tác giả chỉ có ở các nước theo hệ thống luật lục địa, không có ở các nước theo hệ thống luật chung, một phần vì họ coi các quyền này là điều hiển nhiên. Đối với quyền nhân thân gắn với tài sản, khái niệm này cũng chỉ tồn tại ở các nước theo hệ thống luật xã hội chủ nghĩa trước đây (Nga, Ba Lan,…), không tồn tại ở các nước theo hệ thống luật lục địa khác như Pháp, Đức. Tại các nước này, các quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm được coi là một quyền tài sản (quyền định đoạt với tác phẩm của mình).
2.2.3.2. Quyền tài sản Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
Theo luật Việt Nam, quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng và quyền được hưởng thù lao giải thưởng. Thông thường, chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng quyền sử dụng, còn tác giả được hưởng thù lao, giải thưởng.
Quyền sử dụng bao gồm quyền công bố, phổ biến, trình diễn, sao chép, cải biên, chuyển thể, ghi âm, ghi hình, phát thanh truyền hình, cho thuê tác phẩm. Quyền sử dụng này gắn liền với quyền nhân thân gắn với tài sản (cho/không cho sử dụng tác phẩm). Vì thế, mọi hành vi sử dụng tác phẩm (sao chép, dịch, chuyển thể,…) mà không xin phép chủ sở hữu quyền tác giả là xâm phạm quyền tác giả, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác.
Các hành vi sử dụng tác phẩm quan trọng nhất bao gồm:
- Sao chép và phân phối, bán tác phẩm: hành vi sao chép có thể bao gồm sao chép toàn bộ tác phẩm, hay một phần quan trọng của tác phẩm. Sao chép khác với trích dẫn. Trích dẫn là việc sử dụng một phần tác phẩm (không đáng kể) của người khác để nêu bật ý của tác giả. Việc trích dẫn phải không đơn thuần vì mục đích kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng bình thường tác phẩm và phải nêu nguồn gốc tác phẩm. Các hành vi sử dụng không phải là trích dẫn đều có thể bị coi là sao chép và phải được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Công bố, phổ biến, phát thanh, truyền hình: quyền này còn được gọi là quyền “truyền thông đến công chúng” (communication to the public) bao gồm các hành vi trình diễn, phân phối tác phẩm đến một số lượng đáng kể người sử dụng. Việc đưa một tác phẩm lên Internet ngày nay cũng được coi là truyền thông đến công chúng.
- Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, tuyển tập, chú giải (còn gọi là làm tác phẩm phái sinh). Khi một người muốn dịch, cải biên, chuyển thể một tác phẩm, họ phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả gốc. Ngoài ra, khi một nhà xuất bản muốn phát hành một tác phẩm viết, nhà xuất bản cũng phải xin chấp thuận của chủ sở hữu quyền tác giả. Mọi hành vi sử dụng tác phẩm mà không được sự đồng ý từ trước của chủ sở hữu quyền tác giả đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả (trừ các trường hợp sử dụng hạn chế do pháp luật quy định). Tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể được coi là những tác phẩm riêng, khác với tác phẩm gốc.
2.2.4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Quyền tác giả phát sinh từ khi tác phẩm được hình thành cho đến hết 50 năm kể từ khi tác giả qua đời, trừ trường hợp pháp luật quy định khác. Trong thời hạn bảo hộ, chủ sở hữu quyền tác giả có quyền cấm các chủ thể khác sử dụng tác phẩm của mình vào mục đích kinh doanh, đồng thời yêu cầu người sử dụng trả thù lao quyền tác giả. Hết thời hạn này, tác phẩm trở thành tài sản công cộng và bất kì ai cũng có thể sử dụng tác phẩm đó để kinh doanh mà không cần phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả. Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
Các trường hợp pháp luật quy định khác như đã nói ở trên bao gồm:
- Các quyền nhân thân không gắn với tài sản của tác giả được bảo hộ vô thời hạn.
- Đối với đồng tác giả, tác phẩm được bảo hộ cho đến hết 50 năm kể từ khi đồng tác giả sau cùng qua đời. Nếu tác phẩm không rõ tác giả hay khuyết danh thì Nhà nước được hưởng quyền tác giả. Nếu trong vòng 50 năm kể từ ngày được công bố đầu tiên mà phát hiện được tác giả thì tác giả được hưởng quyền từ khi được phát hiện cho đến hết thời hạn hưởng quyền theo quy định của pháp luật.
- Hiện nay, thời hạn bảo hộ đã được sửa đổi thành 75 năm đối với loại hình tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh; bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, để cân bằng lợi ích giữa các loại hình, phù hợp với xu thế chung trên thế giới, vì tuổi thọ bình quân của con người đã được nâng lên (người Việt Nam có tuổi thọ bình quân là 73 tuổi).
2.2.5. Thừa kế quyền tác giả
Vấn đề thừa kế được quy định ở Điều 40 Luật sở hữu trí tuệ. Trên nguyên tắc, mọi thứ chuyển giao được đều có thể được thừa kế. Mọi quyền tài sản cũng đều được thừa kế vì chúng nằm trong khái niệm di sản. Thừa kế quyền tác giả về bản chất và nội dung cũng không khác gì so với các quyền thừa kế thông thường. Ngoài ra, có hai vấn đề cần lưu ý là: việc thừa kế quyền tác giả không kéo dài mãi mãi mà chỉ kéo dài trong thời hạn bảo hộ. Thứ hai là nếu không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hay không được quyền hưởng di sản thì quyền tác giả thuộc về Nhà nước.
2.3. Hành vi xâm phạm quyền tác giả và ngoại lệ Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
2.3.1. Hành vi xâm phạm
Xâm phạm là các hành vi sử dụng tác phẩm hay cuộc biểu diễn nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của chủ thể quyền tác giả, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Các hành vi này còn gọi là hành vi ăn cắp bản quyền hay sao chép lậu (piracy). Các hành vi xâm phạm theo Điều 28 Luật sở hữu trí tuệ được liệt kê như sau:
- Xâm phạm quyền nhân thân không gắn với tài sản: chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, mạo danh tác giả, sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự hay uy tín của tác giả.
- Xâm phạm quyền nhân thân gắn với tài sản: công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả; công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó.
- Xâm phạm quyền tài sản: trừ trường hợp pháp luật cho phép, hành vi xâm phạm là hành vi sao chép tác phẩm, làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm gốc; xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo; sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật; cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
Như vậy, không những hành vi sao chép, bán tác phẩm sao chép lậu bị coi là xâm phạm, mà hành vi mua những sản phẩm đó, dù để sử dụng hay để bán, tặng, cho cũng bị coi là xâm phạm quyền tác giả.
Thông thường, muốn chứng minh một hành vi sử dụng một tác phẩm là hành vi xâm phạm quyền tác giả, nguyên đơn phải chứng minh ít nhất được ba vấn đề:
- Quyền sở hữu đối với tác phẩm của mình – thời điểm hình thành và hình thức thể hiện.
- Tác phẩm của bị đơn ra đời sau tác phẩm của nguyên đơn, song lại giống toàn bộ hoặc phần lớn các yếu tố cơ bản trong tác phẩm của nguyên đơn.
- Bị đơn biết cụ thể về tác phẩm của nguyên đơn, kể cả hình thức thể hiện và nội dung.
Sau khi chứng minh được ba vấn đề trên, nghĩa vụ chứng minh rằng hành vi của mình không xâm phạm quyền tác giả của chủ thể khác được chuyển sang cho bị đơn. Bị đơn có thể tự bảo vệ bằng những luận điểm sau đây:
- Có sự khác biệt cơ bản giữa hai tác phẩm.
- Hành vi sao chép của mình chỉ tập trung vào nội dung chứ không phải là hình thức của tác phẩm của nguyên đơn.
- Hành vi sao chép của mình thuộc vào trường hợp không phải xin phép nguyên đơn.
Trong các hành vi xâm phạm quyền tài sản, Luật sở hữu trí tuệ đã bổ sung những hành vi xâm phạm trong môi trường kỹ thuật số, bao gồm: Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
- Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu hóa các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả; cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền (digital rights management – ví dụ các mã số để máy đọc có thể đọc đĩa quang học) dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm.
- Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
Trong số các hành vi xâm phạm, sao chép lậu là hành vi phổ biến và nghiêm trọng nhất. Quyền quan trọng nhất trong các quyền tác giả hay quyền liên quan là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn của mình. Nó thể hiện bản chất độc quyền của quyền tác giả và quyền liên quan. Các hành vi xâm phạm phổ biến nhất bao gồm: sao chép giản đơn , làm giả (nhái) và làm lậu (chuyển thể mà không xin phép). Ngoài ra, sự phát triển hết sức nhanh chóng của các mạng truyền thông, đặc biệt là Internet, đã làm cho việc sao chép tác phẩm qua mạng trở nên hết sức dễ dàng.
Các công cụ sao chép ngày càng nhiều, tốc độ ngày càng nhanh và giá thành ngày càng giảm làm vấn đề xâm phạm quyền tác giả ngày càng trầm trọng. Xét về khía cạnh nhân thân, những người sao chép, ăn cắp thành quả lao động sáng tạo của người khác đã xúc phạm đến uy tín của cá nhân và cả của tổ chức. Xét về khía cạnh kinh tế, những người sao chép tác phẩm của người khác để kinh doanh không phải nộp thuế và trả thù lao cũng như phí license hay quảng cáo. Vì vậy, họ đã được lợi bất chính từ thành quả lao động của người khác. Các hành vi này xâm hại lợi ích của chủ thể quyền, những người trung gian (phát hành tác phẩm), người tiêu dùng (vì mua phải sản phẩm kém chất lượng) và Nhà nước (vị bị thất thu thuế).
2.3.2. Các hành vi sử dụng không bị coi là xâm phạm Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
Hành vi sử dụng với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả không bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Ngoài ra, việc sử dụng tác phẩm nước ngoài mà nước đó không có thỏa thuận, trực tiếp hay gián tiếp, về bảo hộ quyền tác giả với Việt Nam cũng không bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả, vì Việt Nam chưa tham gia Công ước Berne (cho tới tháng 10 năm 2004). Trên nguyên tắc, chủ sở hữu quyền tác giả được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam chống lại hành vi xâm phạm tại Việt Nam. Đối với hành vi xâm phạm tại nước khác thì được xử theo luật của nước khác, trừ trường hợp giữa hai nước có thỏa thuận khác. Người nước ngoài được bảo hộ tại Việt Nam đối với tác phẩm lần đầu tiên được công bố, phổ biến hoặc được sáng tạo và thể hiện dưới một hình thức nhất định tại một nước là thành viên của Công ước Berne. Điều này không khó khăn vì hiện nay, tất cả các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đều là thành viên Công ước Berne.
Một giới hạn quan trọng của quyền tác giả là các hành vi sử dụng hạn chế (fair use) – trước đây được quy định tại Điều 760 và 761 Bộ Luật dân sự 1995 (không áp dụng cho tác phẩm tạo hình và phần mềm máy tính). Theo quy định của Điều 760 Bộ Luật Dân sự 1995, mọi người đều được sử dụng một tác phẩm mà không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả nếu:
- Tác phẩm đó đã được công bố, phổ biến và không bị cấm sao chép.
- Việc sử dụng không nhằm mục đích kinh doanh.
- Việc sử dụng không ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Người sử dụng nhắc đến tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm.
Các quy định này thực chất là tuân thủ theo các quy định tại Điều 13 Thỏa ước TRIPS và Điều 9 Khoản 2 Công ước Berne.
Hiện nay, mọi hành vi sử dụng tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình hay phần mềm máy tính mà không xin phép đều bị coi là hành vi xâm phạm. Điều đáng nói là tình trạng xâm phạm quyền tác giả đối với phần mềm lại là nghiêm trọng nhất (trên 90% phần mềm sử dụng không trả tiền bản quyền).
Ngoài ra, các quyền của tổ chức phát sóng được sử dụng cuộc biểu diễn đã được công bố, phổ biến mà không phải xin phép song phải trả thù lao cho chủ thể quyền liên quan (trong trường hợp sử dụng nhằm mục đích kinh doanh) cũng được coi là giới hạn của quyền tác giả.
- Quyền liên quan Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
Theo Khoản 3 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ, quyền liên quan đến quyền tác giả (quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Quyền liên quan là một quyền liên quan mật thiết đến quyền tác giả. Theo Điều 19 và 20 Luật sở hữu trí tuệ, tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả có quyền trình diễn tác phẩm. Song, phần lớn nhiệm vụ này được giao cho các nghệ sỹ biểu diễn. Nếu tác phẩm chỉ được truyền đạt đến công chúng thông qua trình diễn, thì hiệu quả của nó sẽ bị hạn chế. Vì thế, vai trò của các nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình cũng không kém phần quan trọng.
Như vậy, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát thanh truyền hình (gọi chung là các chủ thể kế cận), tuy là những người sử dụng tác phẩm của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, nhưng họ là những người sử dụng đặc biệt. Họ đã đóng vai trò rất lớn giúp cho tác giả truyền đạt được tác phẩm của mình đến công chúng. Các sản phẩm của họ cũng có thể bị sao chép và làm lậu. Tình hình đó yêu cầu phải có quy định về quyền liên quan. Các quyền này ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội khi xuất hiện các hình thức lưu giữ và truyền tải thông tin. Nếu không, những người lao động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật sẽ không thể kiểm soát được quyền khai thác thành quả lao động của mình, họ là chủ thể của quyền liên quan.
- Quyền tác giả trong môi trường Internet:
Internet được coi như một mối đe dọa lớn đối với Quyền tác giả. Internet tràn ngập thông tin, và những thông tin đó có sự bảo vệ của Quyền tác giả ở những mức độ khác nhau. Nếu như Internet được tạo ra để con người có thể dễ dàng sử dụng và chia sẻ thông tin, thì Quyền tác giả lại hạn chế những hành vi này. Có một số ý kiến cho rằng liệu Quyền tác giả có “giết chết” Internet?
Nhưng tất cả những vấn đề này còn đang trong giai đoạn tranh cãi.
Trong môi trường Internet, cụm từ “quyền tác giả” vốn thường được dùng đối với hệ thông luật lục địa sẽ ít được gặp hơn, thay thế vào đó là cụm từ “bản quyền”. Hai khái niệm này gần như tương đồng nhưng có một số những điểm khác biệt. Như đã nói ở những phần trên của Khóa luận, cụm từ “quyền tác giả” hướng sự quan tâm trực tiếp tới chủ thể quyền tác giả, còn cụm từ “bản quyền” hướng sự quan tâm đến hành vi sao chép tác phẩm gốc. Hành vi sao chép này rất phổ biến và rất nghiêm trọng trong môi trường Internet hiện nay. Chính vì vậy, nó thường được sử dụng khi nhắc đến những vấn đề liên quan đến Internet. Sau đây, em xin được dùng thuật ngữ “bản quyền” để sử dụng trong phần này của Khóa luận.
Theo khuynh hướng “bản quyền” (copyright), các tài liệu có bản quyền trên Internet bao gồm: những câu chuyện mới, phần mềm, tiểu thuyết, kịch, đồ họa, hình ảnh, các tin nhắn trên Internet và thậm chí cả thư điện tử, … Cụ thể những nội dung được bảo vệ đối với World Wide Web là:
- Các liên kết.
- Văn bản gốc.
- Đồ họa.
- Âm thanh.
- HTML, VRML, và các ngôn ngữ đánh dấu văn bản khác.
- Danh sách của những trang Web được biên soạn bởi một cá nhân hay tổ chức.
- Và tất cả những yếu tố độc đáo khác tạo nên bản chất gốc của tài liệu.
Những thông tin đưa lên một trang Web phải thỏa mãn một số những yêu cầu về bản quyền. Vì vậy, tồn tại một số những nội dung có thể đưa lên Web và một số khác là không được phép.
Các hành vi không xâm phạm bản quyền trên Internet là:
- Liên kết tới những trang Web khác. Tuy nhiên, một số cá nhân và tổ chức có yêu cầu khi một ai đó muốn liên kết đến tài liệu Web của họ. Vì vậy, nếu muốn liên kết thì phải tìm hiểu thật rõ về trang Web của các cá nhân, tổ chức đó. Và tốt nhất là sự liên kết đó nên được sự đồng ý của chủ thể nguồn tài liệu.
- Sử dụng các đồ họa miến phí trên trang Web của mình. Nếu không phải là đồ họa được quảng cáo là miễn phí và tự do thì không nên sử dụng. Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
Các hành vi xâm phạm bản quyền trên Internet là:
- Đưa các nội dung của người khác hoặc trang Web của các tổ chức lên trang Web của bạn mà không được sự đồng ý.
- Sao chép và dán những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau trên Internet vào tài liệu cá nhân.
- Kết hợp tài liệu điện tử của người khác, chẳng hạn như e-mail, vào tài liệu của mình mà không được phép.
- Chuyển tiếp e-mail của ai đó cho người khác mà không được phép.
- Thay đổi nội dung của các thông tin trên Internet mà sự thay đổi này làm thay đổi ý nghĩa của thông tin.
- Sao chép và dán danh sách nguồn tài nguyên thông tin của người khác vào trang Web của mình.
- Sao chép và dán những logo, biểu tượng, đồ họa từ trang Web khác vào trang Web của mình mà những logo, biểu tượng, đồ họa đó không phải là miễn phí.
Bên cạnh những ý kiến cho rằng bản quyền là cần thiết và có tác dụng tích cực đối với xã hội, một số khác đã đề cập đến vấn đề cần phải xem xét lại bản quyền trên Internet ngày nay, đặc biệt là đối với các tổ chức kinh doanh. Bản quyền vẫn được coi là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi nhuận cho mô hình kinh doanh các sản phẩm có khả năng sao chép. Nhưng trong thời đại của Internet, liệu bản quyền có phải là một rào cản?
Tại Hội nghị về chính sách phân phối video trên Internet, được tổ chức tại Washington vào ngày 20/3/2008, Giáo sư Faulhaber, Đại học Pennsylvania đã mạnh mẽ tuyên bố: bản quyền là một khái niệm đã chết. Trong hội nghị này, nhiều nhà kinh tế cũng đã thống nhất quan điểm cho rằng, với việc kinh doanh nội dung số trên Internet, các chủ sở hữu nội dung đang phải đối mặt với những thách thức mà họ chưa bao giờ biết đến.
Một số ví dụ về việc đối lập giữa Internet với những vấn đề về bản quyền, một loạt các hoạt động trên Internet sử dụng từ mã nguồn mở đến nội dung mở đã tạo ra những lợi ích kinh tế quan trọng. Trong khi những lời than phiền về vị trí độc quyền của Microsoft ngày càng nhiều thì hệ điều hành mã nguồn mở Linux đã thay đổi hẳn suy nghĩ của giới phần mềm hiện nay. Theo thecounter.com – dịch vụ phân tích website của công ty Jupitermedia, hiện có khoảng ½ số máy trên thế giới và 18% các trình duyệt đang sử dụng phần mềm mã nguồn mở. Các hãng cung cấp dịch vụ Internet hàng đầu như Google, Yahoo phát triển toàn bộ hạ tầng của họ dựa trên các nền tảng mã nguồn mở như LAMP (LINUX, Apache, MySQL, PHP), Haadoop. 90% các công ty Internet mới thành lập sử dụng LAMP vì các nền tảng này vượt trội hơn các phần mềm bản quyền trên phương diện chi phí, linh hoạt, và tự do đổi mới sáng tạo. 80% trong số các Website hàng đầu đang chạy trên các nền tảng mã nguồn mở. Bởi vì phần mềm mã nguồn mở là miễn phí, một lập trình viên có thể bắt đầu phát triển một Website của mình chỉ với 2000 USD thay vì việc phải trả vài trăm ngàn USD để mua phần mềm bản quyền. Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
Phong trào sử dụng nguồn tư liệu giáo dục mở bắt đầu từ những năm 1990, có một phần tác động từ phong trào “mã nguồn mở”. Năm 2001, Viện Công nghệ Massachussetts (MIT) đã trở thành nơi tiên phong cung cấp tài liệu miễn phí về khoa học trên Internet. Dự án chương trình học liệu mở (Open Course Ware) của trường hiện nay đang cung cấp các bài giảng, bài thi và nhiều tài liệu khác từ trên 1800 khóa học trong chương trình giảng dạy của trường.
Kho tri thức bách khoa toàn thư Wikipedia cũng được xây dựng trên nguyên tắc nội dung mở, cho phép người sử dụng tự do sao chép, sửa đổi, trích dẫn, đóng góp vào nội dung với mục đích thương mại hoặc phi thương mại. Đi ngược lại với nguyên tắc bản quyền nội dung truyền thống với việc mỗi khi ai đó muốn bổ sung, sao chép, trích dẫn đều phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả. Nội dung mở đã tạo điều kiện cho hàng trăm ngàn chuyên gia cùng đóng góp, hàng triệu người cùng xem xét và sửa đổi kho tri thức này. Cho tới nay, Wikipedia với nguyên tắc nội dung mở đã làm được điều mà đế chế tri thức Britanica không làm được, đế chế tài chính Microsoft không làm được: hơn 10 triệu bài viết được bổ sung, cập nhật, chỉnh sửa, đi sâu vào các lĩnh vực xã hội, kinh tế, văn hóa, công nghệ,… Điều mà bản quyền, chuyên gia và tiền bạc của Microsoft không làm được thì Wikipedia cùng với cộng đồng và triết lý nội dung mở đã làm được.
Như vậy, rõ ràng những ví dụ trên đã cho thấy quan điểm: trên Internet, nội dung mở là động lực, bản quyền là rào cản. Một điều thú vị là triết lý nội dung mở tương đồng một cách kỳ lạ với triết lý về một xã hội mơ ước: “Đóng góp nội dung theo năng lực, tiêu dùng nội dung theo nhu cầu”.
Hiện nay, những trường phái và quan điểm đi ngược lại với luật bản quyền (copyright) còn được gọi là copyleft. Hai quan điểm này vẫn tồn tại song song và gây ra nhiều tranh cãi. Đặc biệt trong thời đại mà Internet đang ở trong đỉnh cao của sự phát triển, và khối lượng thông tin cũng như vật lưu giữ, truyền tải ngày càng đa dạng, tranh cãi này càng xảy ra gay gắt.
Một hướng đi đúng đắn cho một xã hội công bằng và phát triển phải là sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể, không kìm hãm sự phát triển của nhau và cùng nhau phát triển. Khi đó, dù với luật bản quyền hay một đạo luật khác, con người cũng sẽ giải quyết được những vướng mắc của các quan hệ xã hội có liên quan. Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Quyền tác giả trong hoạt động thông tin – thư viện

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>> Khóa luận: Pháp luận về quyền tác giả tại Việt Nam […]