Trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập và phát triển, các loại hình doanh nghiệp, công ty ngày càng đa dạng vì vậy rất cần thiết một bài mẫu có đề tài Pháp luật về công ty cổ phần và thực tiễn tại Công ty cổ phần Xăng dầu Dầu khí Thái Bình chẳng hạn. Trong thời gian qua, mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh về số lượng, có rất nhiều các loại hình công ty ra đời, tuy nhiên năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vẫn còn yếu. Chính vì vậy mà mình sẽ chia sẻ cho các bạn Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu Dầu khí Thái Bình, mời các bạn đọc giả cùng tham khảo nhé!
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nội dung pháp luật liên quan đến công ty cổ phần có nhiều vấn đề, khía cạnh cần bàn bạc. Quản trị công ty nói chung và việc quản trị công ty cổ phần nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nên sự hài hòa các mối quan hệ trong Hội đồng quản trị, Hội đồng cổ đông, Ban giám đốc và các bên có quyền lợi liên quan đến công ty. Nó còn tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động và tăng cường khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với các nguồn vốn bên ngoài, góp phần tích cực vào việc tăng cường giá trị doanh nghiệp, tăng cường đầu tư và phát triển bền vững cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
Công ty cổ phần là một mô hình kinh doanh điển hình nhất về loại công ty đối vốn, ở đó các cổ đông góp vốn bằng cách mua cổ phần để trở thành đồng chủ sở hữu của công ty. Là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, cấu trúc vốn của công ty cổ phần cũng rất linh hoạt, có thể đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh có khả năng huy động một số lượng vốn lớn ngầm chảy trong các tầng lớp dân cư, khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô khổng lồ, có thể coi là lớn nhất trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay. Có thể nói, cùng với quá trình đổi mới kinh tế đất nước là sự không ngừng ra đời và phát triển các loại hình doanh nghiệp, nhất là công ty cổ phần.
Với việc ban hành Luật Doanh nghiệp 2014, hệ thống cơ cấu tổ chức, quản lý của ty cổ phần đã hình thành cơ bản các yếu tố đòn bẩy khuyến khích những người trong nội bộ doanh nghiệp; hạn chế những hành vi lợi dụng quyền hạn và chức vụ để thu lợi cho cá nhân tổn hại tới lợi ích chung; tạo điều kiện để những người trong nội bộ bao gồm cả chủ sở hữu thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn của mình góp phần tiết kiệm chi phí, thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận và nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. Cho đến nay khung pháp Luật liên quan đến công ty cổ phần đã từng bước được đẩy mạnh bổ sung và hoàn thiện. Để công ty cổ phần giữ vững vai trò là trung tâm trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường, để đảm bảo tư cách, quyền lợi cổ đông – một thành tố đóng vai trò nòng cốt trong CTCP là một trong những giải pháp góp phần thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật tại công ty cổ phần, với tất cả các lý do trên, tác giả sẽ phân tích việc thi hành các quy định pháp luật trên thực tế tại Công ty cổ phần Xăng dầu Dầu khí Thái Bình. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật qua đề tài nghiên cứu cho đồ án tốt nghiệp “Pháp luật về công ty cổ phần và thực tiễn tại Công ty cổ phần Xăng dầu Dầu khí Thái Bình”.
2. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về pháp luật tại công ty cổ phần
Chương 2: Thực trạng về pháp luật tại Công ty cổ phần xăng dầu dầu khí Thái Bình
Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về pháp luật tại Công ty cổ phần xăng dầu dầu khí Thái Bình
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái quát về công ty cổ phần.
1.1.1. Lịch sử hình thành công ty cổ phần.
Như bất kỳ một hiện tượng kinh tế nào khác, công ty ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Các công ty với tư cách pháp nhân độc lập cùng với các thành viên có chế độ trách nhiệm hữu hạn xuất hiện với số lượng lớn từ năm 1870. Nhưng những mầm mống của một công ty hiện đại có thể nhận thấy trong việc thừa nhận trách nhiệm hữu hạn ở Luật La mã, các công ty thương mại và ngân hàng ở thế kỷ XIV, các công ty ở Anh thế kỷ XVII.
Một trong những CTCP đầu tiên được biết đến là ở Anh năm 1600 tên là East India Company (Công ty Đông Ân) công ty này là sự phối kết hợp giữa chính quyền và các thương gia để chinh phục những vùng đất mới được khám phá, phục vụ cho chủ nghĩa thực dân ở Châu Âu. Mặc dù xuất hiện sớm như vậy nhưng cho đến tận đầu thế kỷ XIX loại hình CTCP vẫn còn rất hiếm. Chính quá trình tập trung tư bản, đặc biệt là sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp vào khoảng giữa thế kỷ XIX làm cho loại hình CTCP phát triển mạnh. ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Sự ra đời của công ty nói chung, CTCP nói riêng đã làm phát sinh nhu cầu cần phải có pháp luật điều chỉnh đối với nó. Luật công ty nhìn chung gắn liền với sự phát triển của các quan hệ thương mại, các quy định về hợp đồng và vay nợ. Năm 1807, Pháp thiết lập nền tảng cho công ty là hội hợp tư cổ phần được điều chỉnh bằng Bộ luật Thương mại, thể hiện quan điểm tự do hoạt động kinh doanh. Mặc dù vậy, việc thành lập công ty vẫn cần giấy phép của Nhà nước. Năm 1863, Pháp ban hành luật công ty trách nhiệm hữu hạn. Lúc này việc công ty ra đời ở Pháp cũng như tại các nước khác không cần đến giấy phép của Nhà nước, mà thay vào đó Nhà nước chỉ đưa ra những quy định bắt buộc, các công ty có nghĩa vụ đăng ký theo quy định của pháp luật. Đức là một trong những nước mà ở đó xuất hiện công ty sớm, do vậy pháp luật về công ty khá hoàn thiện. Luật CTCP đầu tiên của Đức được ban hành năm 1870. Tại Anh, cuối thế kỷ XVI, thương mại phát triển mạnh mẽ, các doanh nhân kinh doanh theo kiểu làm ăn riêng hoặc góp vốn cùng hoạt động. Đến năm 1844, Quốc hội Anh cho ra đời luật về CTCP, sang năm 1855 thì có luật về tính trách nhiệm hữu hạn, cuối cùng hai luật này sáp nhập làm một vào năm 1862. Luật công ty của Mỹ chịu ảnh hưởng phần lớn luật của Anh do nguồn gốc hình thành nước Mỹ, vì vậy nó khá giống với luật công ty của Anh.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp luật về công ty. Đó là: Hệ thống pháp luật công ty Châu Âu lục địa và hệ thống pháp luật công ty Anh – Mỹ. So sánh giữa hai hệ thống pháp luật công ty này thì công ty của các nước Pháp và Đức bị luật quy định chặt chẽ hơn và không được mềm dẻo, uyển chuyển như công ty theo luật của Anh – Mỹ.
1.1.2. Khái niệm về công ty cổ phần.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường vô cùng phong phú đa dạng. Vì vậy có rất nhiều loại hình liên kết thành lập công ty. Người ta có thể phân loại công ty theo nhiều tiêu chí khác nhau nhưng nói chung xét theo tiêu chí về tính chất của sự liên kết, công ty thường được chia thành hai nhóm cơ bản là các công ty đối nhân và các công ty đối vốn. Khái niệm đối nhân hay đối vốn là tiền đề để xác định tính chất của các quan hệ giữa các thành viên trong công ty về tổ chức quản lý công ty. Công ty đối nhân là những công ty mà mối quan hệ giữa thành viên trong công ty với nhau cũng như nguyên tắc tổ chức, quản lý công ty được thiết lập hoàn toàn dựa trên cơ sở độ tin cậy về nhân thân của các cá nhân tham gia, sự hùn vốn là yếu tố thứ yếu. Công ty đối nhân có đặc trưng là không có sự tách bạch tài sản thành viên công ty và tài sản công ty. Ngược lại, ở công ty đối vốn nguyên tắc chủ đạo để xây dựng quan hệ giữa các thành viên công ty và cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ của mỗi thành viên là tỷ lệ vốn góp vào công ty. Với các công ty đối vốn, yếu tố vốn luôn được đặt lên hàng đầu, lấy nó làm nền tảng để hình thành nên nguyên tắc tổ chức quản lý công ty. Đặc điểm quan trọng của loại hình công ty này là công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty. Các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đã tham gia vào công ty.
Thông thường, theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa có hai loại công ty đối vốn là CTCP và công ty trách nhiệm hữu hạn, hai loại hình công ty này tồn tại phổ biến ở Châu Âu lục địa và có quy chế pháp lý khác nhau tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công chúng phân biệt giữa từng loại, tránh được nhầm lẫn nhưng ngược lại cũng có nhược điểm là không thuận lợi khi cần chuyển đổi hình thức hoạt động. Trong khi đó hệ thống luật Anh – Mỹ, luật công ty chia công ty đối vốn thành công ty mở (Public Corporation) phát hành cổ phiếu rộng rãi trong công chúng và công ty đóng (Close Corporation) không phát hành cổ phiếu ra công chúng, cổ phần được chuyển nhượng hoặc huy động trong nội bộ thành viên. Công ty mở gần giống với CTCP, còn công ty đóng có đặc điểm gần giống với công ty trách nhiệm hữu hạn trong hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa.
CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay cho nên để tìm hiểu khái niệm CTCP trước tiên cần tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của một doanh nghiệp nói chung.
Theo khoản 1 Điều 4 LDN 2020, Doanh nghiệp được định nghĩa là “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Như vậy, một doanh nghiệp nói chung có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau đây:
Thứ nhất, là tổ chức kinh tế, có tư cách chủ thể pháp lý độc lập;
Thứ hai, được xác lập tư cách (thành lập và đăng ký kinh doanh) theo thủ tục do pháp luật quy định;
Thứ ba, có nghề nghiệp kinh doanh.
Do CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp theo LDN 2020 nên ngoài mang các đặc điểm nói chung của một doanh nghiệp thì trên cơ sở các dấu hiệu đặc trưng về số lượng thành viên, cơ cấu góp vốn, trách nhiệm pháp lý của cổ đông, tư cách pháp nhân của công ty, việc chuyển nhượng vốn và phát hành chứng khoán, CTCP theo điều 77 LDN 2020 còn được định nghĩa như sau:
“CTCP là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác và hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày CTCP được cấp giấy chứng nhận ĐKKD đối với các cổ đông sáng lập theo quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của LDN 2020;
- Có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
- Có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”. ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Quản lý công ty cổ phần là vấn đề xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các nhóm lợi ích, các thành viên khác nhau trong công ty cổ phần. Các nhóm lợi ích này là các cổ đông, hội đồng quản trị, ban điều hành, ban kiểm soát và những người liên quan khác của công ty cổ phần như người lao động, nhà cung cấp. Việc quản lý công ty cổ phần là tổ chức hình thành nên các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra quyết định trong công ty, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro liên quan đến hoặc nguồn gốc từ những giao dịch với các bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc không có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin và không minh bạch. Việc quản lý công ty cổ phần còn là mối quan hệ giữa ban giám đốc công ty, hội đồng quản trị, các cổ đông và các bên có quyền lợi liên quan, từ đó tạo nên định hướng và sự kiểm soát công ty.
Công ty cổ phần có sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền sở hữu, điều hành công ty bởi các cổ đông không tham gia trực tiếp điều hành các hoạt động thường nhật của công ty. Việc quản lý công ty cổ phần khác và phức tạp hơn so với việc quản lý các công ty khác. Do đó quản lý công ty cổ phần luôn luôn được sự quan tâm không chỉ của các thương nhân, người đầu tư, các nhà kinh tế mà còn cả các luật gia. Quản lý công ty cổ phần được hiểu theo nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo nghĩa rộng nhất nó bao gồm tất cả các mối quan hệ liên quan tới sự ra quyết định của công ty như mối quan hệ giữa cổ đông, các chủ nợ, người lao động, người cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, khách hàng, nhà nước với công ty. Quản lý công ty cổ phần là một trong những nội dung quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam cũng như các nước có nền kinh tế phát triển.
Thành viên CTCP chính là các cổ đông, người góp vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của công ty. Tất nhiên mỗi cổ đông luôn mong muốn có được lợi nhuận khi bỏ vốn đầu tư. Một hệ thống quản lý tốt sẽ tạo ra sự tin tưởng, làm cho cổ đông gắn bó với công ty. Quản lý và tổ chức trong CTCP không chỉ là sự đảm bảo về mặt kinh tế cho các thành viên của công ty mà còn là yếu tố đảm bảo tiếng nói của các cổ đông trong công ty, đặc biệt là với các cổ đông thiểu số. Một hệ thống quản lý và tổ chức tốt luôn đáp ứng được quyền lợi của mỗi cổ đông trong việc đưa ra những quyết định về hoạt động kinh doanh, nói cách khác đó chính là tạo điều kiện cho cổ đông thực sự được sử dụng vốn góp của mình thông qua điều hành công ty.
Hoạt động của mọi doanh nghiệp nói chung và với CTCP nói riêng đều vì mục tiêu lợi nhuận. Mọi thành viên của công ty luôn muốn phát triển ưu thế, đem lại lợi ích cho họ. Vai trò của quản lý vì thế lại được thể hiện. Quản lý tốt không chỉ là giúp cho công ty hoạt động ổn định với nguồn vốn bỏ ra mà càng làm cho nguồn vốn đó tăng lên, đó mới thực sự là quản lý có hiệu quả.
Khi lựa chọn đối tác, bộ máy quản lý cũng là một yếu tố cần xem xét. Vì vậy, hoàn thiện quản lý cũng là tăng sức hấp dẫn của doanh nghiệp. Có nhiều đối tác cũng có nghĩa là cơ hội phát triển dành cho công ty lớn hơn. Còn với người tiêu dùng, vai trò quản lý công ty mờ nhạt hơn. Trong thương mại hàng hóa, quản lý và tổ chức công ty chủ yếu thể hiện vai trò với khách hàng thông qua phân phối sản phẩm: người tiêu dùng luôn lựa chọn sản phẩm từ điểm mua bán uy tín, muốn vậy cần phải có bộ máy quản lý tốt. Trong thương mại dịch vụ thì quản lý nội bộ của một công ty có ý nghĩa lớn hơn với khách hàng bởi tiêu dùng dịch vụ là một quá trình, muốn chọn được dịch vụ tốt, người tiêu dùng cũng cần xem xét nhà cung cấp có hoạt động ổn định hay không.
Doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng là một bộ phận của nền kinh tế. Chính vì vậy sự tăng trưởng của chúng góp phần ổn định và phát triển cho cả nền kinh tế. Số lượng CTCP là ít hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác nhưng đóng góp của chúng không nhỏ, bởi CTCP thường là các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn vốn dồi dào. Một hệ thống quản lý yếu kém sẽ đưa công ty đến suy yếu, hơn thế nữa còn ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng, kết quả tất yếu là sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế. Nội dung của công tác quản lý và tổ chức CTCP bao gồm: Cơ cấu bộ máy quản lý nội bộ CTCP. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy quản lý nội bộ CTCP. Nguyên tắc hoạt động và thủ tục thông qua các quyết định.
1.1.3. Đặc điểm pháp lý của công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; cổ đông của công ty có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa. Theo đó, công ty cổ phần có một số đặc điểm pháp lý sau:
Đặc điểm về vốn góp và cách góp vốn: Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ phần là đơn vị vốn nhỏ nhất trong công ty. Cổ phần có thể được tự do chuyển nhượng. Vì vậy, có thể tham gia công ty cổ phần bằng cách mua cổ phần dưới hình thức cổ phiếu được chào bán trên thị trường.
Vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá số cổ phần là tổng giá trị mệnh giá số cổ phần đã phát hành. Số cổ phần đã phát hành là số cổ phần mà các cổ đông đã thanh toán đủ cho công ty. Tại thời điểm đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp, vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá các cổ phần do các cổ đông sáng lập và các cổ đông phổ thông khác đã đăng ký mua và được ghi trong Điều lệ công ty; số cổ phần này phải được thanh toán đủ trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Số cổ phần được quyền phát hành của công ty cổ phần là số cổ phần mà Đại hội đồng cổ đông quyết định sẽ phát hành để huy động thêm vốn. Số cổ phần được quyền phát hành của công ty cổ phần tại thời điểm đăng ký kinh doanh là tổng số cổ phần do cổ đông sáng lập và các cổ đông phổ thông khác đã đăng ký mua tại thời điểm đăng ký kinh doanh và số cổ phần sẽ phát hành thêm trong thời hạn 03 năm, kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và được ghi tại Điều lệ công ty. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp áp dụng đối với cổ đông sáng lập (khoản 3 Điều 119 Luật Doanh nghiệp 2020) và Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần (khoản 1 Điều 126 của Luật Doanh nghiệp 2020). Cổ phần là đơn vị vốn nhỏ nhất trong công ty và cơ bản được tự do chuyển nhượng. Theo đó, tổ chức, cá nhân có thể tham gia góp vốn vào công ty cổ phần bằng cách mua cổ phần dưới hình thức cổ phiếu được chào bán trên thị trường. Theo LDN 2014, cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Trong khi đó, LDN 2020 thì cổ phần phổ thông được dùng làm tài sản cơ sở để phát hành chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết được gọi là cổ phần phổ thông cơ sở. Chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết có lợi ích kinh tế và nghĩa vụ tương ứng với cổ phần phổ thông cơ sở, trừ quyền biểu quyết. ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Đặc điểm về thành viên: Thành viên của công ty cổ phần là các chủ sở hữu cổ phần, được gọi là cổ đông, là đồng chủ sở hữu của công ty. Công ty cổ phần phải lập và lưu giữ Sổ đăng ký cổ đông từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông của công ty cổ phần bao gồm 2 loại chính: cổ đông sáng lập và cổ đông khác với những quy định về điều kiện tham gia khác nhau. Cổ đông sáng lập phải thỏa mãn những điều kiện quy định tại điều 13
Luật DN. Số lượng cổ đông được quy định tối thiểu là ba và không hạn chế tối đa. Các cổ đông góp vốn khi gia nhập CTCP, ngoài việc mua cổ phần còn phải tán thành Điều lệ của công ty. Cũng có thể trở thành cổ đông thông qua việc được thừa kế cổ phần của công ty. Mỗi cổ đông có thể sở hữu nhiều cổ phần, mức độ sở hữu cổ phần tạo thành sự cách biệt về mức vốn, về quyền và nghĩa vụ giữa các cổ đông trong công ty. Cổ đông có càng nhiều cổ phần thì càng có nhiều quyền và nghĩa vụ. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình trừ một số trường hợp pháp luật quy định hạn chế chuyển nhượng. Luật DN không có quy định hạn chế cổ phần đối với mỗi cổ đông. Tuy vậy, pháp luật hoặc Điều lệ công ty có thể quy định về giới hạn tối đa cho phép một cổ đông hoặc một nhóm cổ đông có thể sở hữu để không xảy ra tình trạng một cá nhân hoặc một nhóm cổ đông có thể khống chế được công ty do có lượng cổ phần lớn. Chẳng hạn, hiện nay, theo cam kết của Việt Nam khi tham gia WTO, tổng số cổ phần do các cá nhân và pháp nhân nước ngoài nắm giữ tại mỗi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam không vượt quá 30% vốn Điều lệ của ngân hàng. Theo khoản 4, điều 86 Luật DN, nếu một cổ đông có tổng số cổ phần đạt đến 5% tổng số cổ phần trở lên của công ty thì phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền.
Công ty cổ phần có quyền phát hành các loại chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn từ công chúng. Khả năng này tạo thành ưu thế đặc biệt của CTCP so với các loại công ty khác. Khi có đủ điều kiện theo quy định của Luật Chứng khoán, công ty cổ phần có thể phát hành cổ phần để tăng vốn điều lệ hoặc trái phiếu để vay vốn.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong giới hạn phần vốn góp đã góp vào công ty. Là một pháp nhân, công ty cổ phần có tài sản riêng, được ghi rõ trong Điều lệ, là khối tài sản độc lập tách khỏi tài sản riêng của các cổ đông. Trong quá trình hoạt động, công ty dùng tài sản riêng này để tham gia vào các giao dịch và chịu trách nhiệm về các giao dịch đó. Tài sản riêng của công ty đồng thời là giới hạn trách nhiệm của công ty. Cổ đông cũng chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty giới hạn trong phạm vi phần vốn của họ đã góp vào công ty.
Công ty cổ phần gắn bó rất mật thiết với thị trường chứng khoán. Công ty cổ phần là tổ chức phát hành chủ yếu trên thị trường này với tư cách là những công ty đại chúng.
Theo quy định tại Điều 25 Luật Chứng khoán, công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau đây:
- Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng;
- Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán (Công ty niêm yết).
- Công ty có cổ phiếu được ít nhất 100 nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên.
Những công ty đại chúng là những công ty có cơ chế tổ chức và quản lý chịu sự điều chỉnh song song của Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán.
Công ty cổ phần là công ty đối vốn. Trên phương diện pháp lí, Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2020 quy định công ty cổ phần có các đặc điểm như sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản của các thành viên trong công ty. Điều đó cũng có nghĩa là có sự phân biệt giữa thành viên công ty và công ty. Do việc thành lập chỉ quan tâm đến phần vốn góp, do đó, thành viên công ty thường rất đông, những người không hiểu biết về kinh doanh cũng có thể tham gia vào công ty. Công ty phải đóng thuế cho nhà nước, các thành viên phải đóng thuế thu nhập. Có rất nhiều quy định pháp lý về tổ chức, hoạt động đôi với công ty đối vốn, thành viên công ty dễ dàng thay đổi.
1.1.4. Mô hình tổ chức quản lý công ty cổ phần ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Theo Luật doanh nghiệp 2020, cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần được thiết kế tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình sau đây:
Mô hình có Ban kiểm soát: Đối với mô hình 1, việc tổ chức quản lý công ty có sự phân công, phân nhiệm và chế ngự lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý, điều hành và kiểm soát. Về mặt lý thuyết, đây là mô hình truyền thống và điển hình của các công ty cổ phần. Đây là bộ máy tổ chức quản lý phù hợp và hiệu quả trong trường hợp công ty cổ phần mang tính “đại chúng”, tức là có sự tham gia đông đảo của các cổ đông khác nhau. Trong những trường hợp khác, bộ máy này sẽ trở nên cồng kềnh, khiên cưỡng. Có lẽ xuất phát từ cách nhìn nhận đó mà Luật Doanh nghiệp 2020 quy định đối với những công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân phải có Ban kiểm soát. Tuy nhiên, cũng theo Luật Doanh nghiệp 2020 thì cả trong trường hợp công ty cổ phần có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty thì cũng bắt buộc phải có Ban kiểm soát. Đây là một điểm mới và khác biệt của Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014.
Theo Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 69), việc xác định công ty cổ phần có bắt buộc phải có Ban kiểm soát hay không là căn cứ vào yếu tố “số lượng” cổ đông, theo đó đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông thì phải có Ban kiểm soát. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 137 Luật Doanh nghiệp 2020, việc xác định tính bắt buộc phải có Ban kiểm soát trong công ty cổ phần phụ thuộc vào một trong hai yếu tố sau:
- Yếu tố số lượng, theo đó công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân phải có Ban kiểm soát. Ở đây, cũng có điểm khác với luật Doanh nghiệp 1999, yếu tố số lượng chỉ tính đối với cổ đông là cá nhân mà thôi.
- Yếu tố sở hữu cổ phần công ty, theo đó công ty cổ phần có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát. Như vậy, yếu tố sở hữu cổ phần công ty trong việc bắt buộc phải có Ban kiểm soát chỉ đặt ra đối với cổ đông là tổ chức.
Chỉ cần công ty cổ phần có một trong hai yếu tố đó thì đã rơi vào trường hợp bắt buộc phải có Ban kiểm soát mà không cần phải có cả hai yếu tố cùng một lúc.
Mô hình không có Ban kiểm soát: Ở mô hình 2 thì không còn sự xuất hiện của Ban kiểm soát. Hội đồng quản trị có ít nhất ba người nhưng không được quá 12 người. Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ủy ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng quản trị. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban kiểm toán quy định tại Điều lệ công ty hoặc quy chế hoạt động của Ủy ban kiểm toán do Hội đồng quản trị ban hành.
Có thể bạn quan tâm:
1.2. Pháp luật Việt Nam về công ty cổ phần
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần tại Việt Nam
Nếu như CTCP ra đời và phát triển ở các nước tư bản khá sớm thì ở Việt Nam lại xuất hiện tương đối muộn. Thời Pháp thuộc, do Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên có thời kỳ Luật Thương mại của Pháp được áp dụng trên từng vùng lãnh thổ khác nhau của Việt Nam. Thời kỳ này có nhiều loại công ty được tổ chức dưới hình thức các hội buôn, đó là hình thức công ty đơn giản. Luật lệ về công ty được quy định lần đầu tiên tại Việt Nam trong “Dân luật được thi hành tại các Tòa án Bắc kỳ năm 1913”, trong đó có nói về hội buôn. Đạo luật này chia các công ty (hội buôn) ra làm hai loại: Hội người và Hội vốn. Trong hội người chia thành Hội hợp danh (công ty hợp danh), Hội hợp tư (công ty hợp vốn đơn giản) và Hội đồng lợi. Trong Hội hợp vốn chia thành Hội vô danh (công ty cổ phần) và Hội hợp cổ (công ty hợp vốn cổ phần đơn giản). Trong luật này không có công ty trách nhiệm hữu hạn. Cũng trong thời kỳ này, khoảng năm 1944, chính quyền Bảo Đại xây dựng Bộ luật thương mại Trung phần.
Sau 1954, đất nước chia làm hai miền. Ở miền Bắc bắt đầu xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể. Thời kỳ này có khái niệm về công ty nhưng công ty không được hiểu theo đúng bản chất pháp lý của nó. Hay có thể nói trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung không tồn tại các công ty cũng như luật về công ty. ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Từ năm 1986, Đảng và nhà nước ta đề ra đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Với việc thừa nhận đa hình thức sở hữu, ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân trong Hiến pháp 1992 đã mở đường cho sự ra đời các loại hình doanh nghiệp. Năm 1990 Quốc hội ban hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Đây là cơ sở pháp lý cho việc thành lập công ty nói chung và CTCP nói riêng. Cả hai đạo luật trên đã được bổ sung, sửa đổi một lần vào năm 1994 nhưng vẫn chưa khắc phục được những thiếu sót, bất cập. Để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của hoạt động kinh doanh, ngày 12/6/1999 Quốc hội ban hành LDN, thay thế cho các quy định pháp luật về công ty trước đó, tạo khung pháp lý vững chắc hơn cho hoạt động kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, trước yêu cầu nội tại để đẩy nhanh phát triển kinh tế, yêu cầu toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hệ thống pháp luật về doanh nghiệp nói trên đã bộc lộ những khiếm khuyết không còn phù hợp, do đó Quốc hội đã thông qua LDN 2005 vào ngày 29/11/2005, thực tế đánh giá thi hành LDN 2005 cho thấy nhiều tác động tích cực của Luật trong tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; thúc đẩy huy động vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần gia tăng tốc độ tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội.
Bên cạnh đó, thực tế cũng cho thấy việc triển khai thực hiện LDN 2005 trong hơn 8 năm cũng đã gặp phải không ít vướng mắc, hạn chế đối với hoàn thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh nói chung và phát triển doanh nghiệp nói riêng cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật. Chính vì vậy, ngày 26/11/2014 Quốc hội đã thông qua LDN 2014 đây là khung pháp lý quan trọng trong việc tổ chức hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nói chung và của CTCP nói riêng đáp ứng tình hình phát triển mới.
1.2.2. Đặc điểm pháp lý của công ty cổ phần theo LDN 2020
1.2.2.1 Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản do các thành viên công ty, chủ sở hữu công ty đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty. Vốn điều lệ của Công ty cổ phần theo khoản 1 Điều 112 Luật doanh nghiệp 2020 là tổng mệnh giá cổ phần các loại đã bán. Vốn điều lệ của công ty cổ phần khi đăng ký thành lập doanh nghiệp là tổng mệnh giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua và được ghi trong Điều lệ công ty.
Luật Doanh nghiệp 2020 cũng đã quy định cụ thể các loại tài sản được sử dụng để góp vốn vào công ty, doanh nghiệp. Theo đó, tài sản góp vốn có thể là đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng đồng Việt Nam. Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu. Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần.
Vốn điều lệ đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Thứ nhất, là cơ sở để xác định tỷ lệ phần vốn góp hay sở hữu cổ phần của thành viên, cổ đông trong công ty. Thông qua đó làm cơ sở cho việc phân chia quyền, lợi ích và nghĩa vụ giữa các thành viên, cổ đông trong công ty; Cụ thể theo Luật Doanh nghiệp 2020, chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn điều lệ của công ty. Thành viên, cổ đông chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ một số trường hợp quy định tại Luật Doanh nghiệp. Thứ hai, là một trong những cơ sở để xác định điều kiện kinh doanh đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; Cuối cùng, vốn điều lệ thể hiện cam kết trách nhiệm bằng tài sản của doanh nghiệp với khách hàng, đối tác. Do đó, vốn điều lệ càng cao, thì độ tin cậy của khách hàng, đối tác với doanh nghiệp càng lớn.
1.2.2.2 Thành viên ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Hầu hết pháp luật các nước đều quy định số lượng thành viên tối thiểu mà không giới hạn số lượng tối đa đối với CTCP. Ở nước ta, Luật công ty năm 1990, quy định số lượng thành viên tối thiểu trong suốt quá trình hoạt động của CTCP là 7. Theo Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp năm 2005 và LDN 2014 thì số lượng là 3. Luật Doanh nghiệp 2020 quy định, công ty cổ phần phải có ít nhất 03 cổ đông và phải duy trì trong suốt quá trình hoạt động. Nếu ban đầu có 3 thành viên, sau đó 1 thành viên không góp đủ số vốn đã cam kết thì không được coi là thành viên công ty theo khoản 1, điểm a khoản 3 điều 112, cụ thể: Các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm giám sát, đôn đốc thanh toán đủ và đúng hạn các cổ phần các cổ đông đã đăng ký mua. Nếu sau thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này có cổ đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua, thì thực hiện theo quy định sau đây: Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác; Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác; Số cổ phần chưa thanh toán được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị được quyền bán; Công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần phải là cá nhân, từ đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực, hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lý và thành lập doanh nghiệp. Công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Nếu công ty cổ phần có 1 người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc/Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp Điều lệ chưa có quy định thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc/Tổng Giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Với cơ chế quản lý hết sức mềm dẻo và năng động như trên, công ty cổ phần là sự biểu hiện của sự dân chủ trong hoạt động quản lý kinh tế. Quyền lực ở đây không nằm trong tay một cá nhân mà thuộc về Đại hội đồng cổ đông, thuộc về tập thể các thành viên trong Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị thực hiện quyền lực của công ty theo những quy chế nhất định. Số lượng cổ đông của Công ty cổ phần thường rất lớn nên điều hành công ty cổ phần phức tạp hơn nhiều so với các loại hình công ty khác như: Công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. Tính đa sở hữu cùng với một số lượng lớn các cổ đông là một trong những tiền đề của sự tách bạch giữa sở hữu và quản trị điều hành công ty. CTCP là sự biểu hiện rõ nét nhất của mô hình quản 3 cấp: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban điều hành công ty. Mỗi cấp quản lý có nhiệm vụ và chức năng riêng biệt hoàn thiện bộ máy quản trị công ty
1.2.2.3 Góp vốn
Công ty nói chung và công ty cổ phần nói riêng được hình thành trên cơ sở góp vốn (hay góp tài sản). Công ty cổ phần có cách thức tạo lập vốn rất đặc biệt như đã trình bày ở trên, đó là phát hành cổ phiếu. Khi thành lập công ty, các sáng lập viên kêu gọi mọi người mua cổ phiếu. Dựa trên cơ sở mệnh giá cổ phần, pháp luật xác định vốn điều lệ của công ty cổ phần.
Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu, người mua cổ phiếu gọi là cổ đông lợi nhuận có được hàng năm từ cổ phần được gọi là cổ tức. Việc góp vốn vào công ty cổ phần được thực hiện bằng hình thức mua cổ phiếu. Đặc điểm này cũng thể hiện đặc trưng cơ bản của CTCP là loại hình công ty đối vốn, nghĩa là khi thành lập và trong suốt quá trình hoạt động, các thành viên công ty hoàn toàn không quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp của họ. Bởi vì đối với loại hình công ty này tư cách thành viên công ty và các quyền của cổ đông trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty được quyết định trước hết bởi số lượng các cổ phiếu của công ty mà người đó nắm giữ. Trong quá trình hoạt động của mình, công ty cổ phần được quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn theo quy định của pháp luật về phát hành chứng khoán. Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức đặc biệt, năng động, có thể sử dụng để huy động vốn thông qua các giao dịch trên thị trường Chứng khoán. ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Bản chất của góp vốn xét dưới góc độ kinh tế là góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, phần vốn góp của các cổ đông trở thành tài sản của công ty. Nhờ đó mà công ty mới tiến hành được các hoạt động kinh doanh cũng như bảo đảm quyền lợi cho các đối tác của công ty. Về phương diện pháp lý, góp vốn là nghĩa vụ pháp lý quan trọng nhất của các thành viên, khi các thành viên cam kết góp vốn là họ đã tự ràng buộc mình trở thành con nợ của công ty do chính họ tạo lập nên, và công ty là pháp nhân đã trở thành chủ nợ của chính người chủ của mình. Nếu một thành viên đã đăng ký góp vốn mà không góp hoặc góp không đủ, không đúng hạn thì công ty sẽ đòi. Việc góp chậm, thành viên phải trả lãi mà không cần phải có điều kiện là đã bị thúc nợ, và có thể phải bồi thường thiệt hại mà không cần phải chứng minh sự gian tình (Điều 113 Luật Doanh nghiệp năm 2020). Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: Các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, và nếu Điều lệ công ty có quy định hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần có quy định khác thì cũng chỉ được quy định ngắn hơn 90 ngày. Từ phương diện pháp lý, hành vi góp vốn là hành vi chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty để đổi lấy quyền lợi công ty. Về phương diện lý luận sở hữu, thì công ty là chủ sở hữu tài sản, còn các cổ đông là chủ sở hữu công ty. Các cổ đông cùng nhau khai thác công ty (đưa công ty vào hoạt động) để kiếm lời chia nhau. Hành vi góp vốn để đổi lấy quyền lợi từ công ty, khác với các hành vi mua bán tài sản, cho thuê tài sản. Nếu như hành vi bán tài sản, hay cho thuê tài sản thì người bán hay người cho thuê tài sản sẽ nhận được ngay số tiền bán hoặc tiền cho thuê tài sản khi chuyển giao tài sản đó. Còn hành vi góp vốn khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho công ty, thì người góp vốn sẽ nhận được “quyền lợi” từ công ty. Quyền lợi đó vừa có tính hữu hình vừa có tính vô hình và có thể chuyển đổi thành tiền, thông qua hoạt động của công ty bằng hình thức trả cổ tức, cùng với các quyền lợi khác như, quyền được tham gia quản lý công ty, quyền được biết thông tin về hoạt động của công ty… Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng tài sản đó để góp vốn.
1.2.2.4 Chế độ trách nhiệm của doanh nghiệp
Trong kinh doanh, công ty cổ phần phải chịu trách nhiệm về các vấn đề tài chính, đặc biệt là các khoản nợ với bên cho vay. Hiện nay tồn tại hai chế độ là trách nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vô hạn. Trách nhiệm tài sản hữu hạn là trách nhiệm trả nợ, nghĩa vụ và các chi phí phát sinh khác của chủ doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp của mình. Doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm cho đến khi hết toàn bộ tài sản của mình. Nghĩa là tài sản của chủ sở hữu và doanh nghiệp tách bạch với nhau. Doanh nghiệp thua lỗ hoặc phá sản thì không cần phải mang tài sản ra thực hiện nghĩa vụ nữa. Hạn chế của chế độ trách nhiệm tài sản hữu hạn là khả năng vay vốn thấp hơn so với chế độ tài sản vô hạn. Trách nhiệm tài sản vô hạn là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các khoản nợ, nghĩa vụ và chi phí phát sinh khác, khi doanh nghiệp không đủ khả năng chi trả thì chủ sở hữu phải dùng tài sản của mình để thực hiện cho doanh nghiệp. Như vậy, không có sự tách bạch giữa tài sản của chủ sở hữu và tài sản doanh nghiệp. Điều này có thể dẫn tới rủi ro doanh nghiệp phá sản hay làm ăn thua lỗ; chủ doanh nghiệp phải sử dụng tài sản cá nhân để thanh toán nợ.
Đối với doanh nghiệp có tư cách pháp nhân như công ty cổ phần, một trong những đặc tính quan trọng nhất là sự tách biệt về trách nhiệm bằng tài sản của công ty với trách nhiệm bằng tài sản của cổ đông, vì cổ đông có trách nhiệm hữu hạn đối với nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp hoạt động theo loại hình công ty cổ phần thì doanh nghiệp sẽ có tư cách pháp nhân và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của doanh nghiệp đối với nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp. Tài sản của công ty được hình thành từ hai nguồn chủ yếu là vốn vay và vốn do thành viên và cổ đông đóng góp vào công ty. Về cơ bản, ngoài tài sản đóng góp hoặc cam kết đóng góp vào công ty, cổ đông trong công ty cổ phần không chịu trách nhiệm cá nhân bằng tài sản riêng của mình đối với nghĩa vụ tài chính của công ty. Có thể thấy, nghĩa vụ tài chính của công ty có tư cách pháp nhân và nghĩa vụ tài chính của cổ đông trong doanh nghiệp đó có sự tách biệt.
1.2.2.5 Tăng giảm vốn điều lệ ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Tăng giảm vốn điều lệ công ty cổ phần là việc thay đổi số vốn điều lệ đã đăng ký trước đó của công ty. Việc tăng, giảm vốn nhằm mục đích phát triển kinh doanh hoặc mục đích khác theo mong muốn và nhu cầu của mỗi doanh nghiệp. Theo khoản 1 Điều 51 Luật Doanh nghiệp 2020, công ty cổ phần có thể đăng ký thay đổi vốn điều lệ.
Tăng vốn điều lệ của công ty cổ phần là việc huy động, bổ sung thêm nguồn vốn bằng cách chào bán cổ phần của công ty. Chào bán cổ phần là việc công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán và bán các cổ phần đó trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp để tăng vốn điều lệ công ty. Việc chào bán cổ phần có thể thực hiện bằng các hình thức như sau:
- Chào bán cho cổ đông hiện hữu
- Chào bán cổ phần ra công chúng
- Chào bán cổ phần riêng lẻ
Công ty cổ phần có thể giảm vốn điều lệ trong từng trường hợp cụ thể. Trường hợp thứ nhất, theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông, công ty hoàn trả một phần vốn góp cho cổ đông theo tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ trong công ty nếu công ty đã hoạt động kinh doanh liên tục từ 02 năm trở lên kể từ ngày đăng ký thành lập doanh nghiệp và bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác sau khi đã hoàn trả cho cổ đông. Công ty cũng có thể mua lại cổ phần đã bán theo quy định tại Điều 132 và Điều 133 của Luật Doanh nghiệp 2020. Trường hợp cuối cùng là vốn điều lệ không được các cổ đông thanh toán đầy đủ và đúng hạn theo quy định tại Điều 113 của Luật Doanh nghiệp 2020.
Thực hiện mua lại những cổ phần đã phát hành theo quyết định của công ty. Công ty cổ phần có quyền mua lại không vượt quá 30% trên tổng số các cổ phần dạng phổ thông đã được bán ra. Công ty có quyền được mua lại một phần hoặc tất cả số cổ phần ưu đãi cổ tức đã được bán ra trong những trường hợp sau: Khi Hội đồng quản trị đưa ra quyết định giá để mua lại các cổ phần. Khi Hội đồng quản trị đưa ra quyết định mua lại với tỉ lệ không quá 10% trên tổng số các cổ phần của mỗi loại đã được mở bán trong vòng 12 tháng. Đối với các trường hợp khác thì việc mua lại những cổ phần sẽ do quyết định từ Đại hội đồng các cổ đông.
Với những cổ phần loại khác thì khi mua lại giá trị sẽ không được thấp hơn so với giá thị trường. Công ty có thể được mua lại số cổ phần của mỗi cổ đông tương đương với tỉ lệ của phần mỗi người trong công ty. Với cổ phần thuộc loại phổ thông thì khi mua lại giá sẽ không được phép cao hơn giá của thị trường ở thời điểm mua. Mua lại những cổ phần đã phát hành theo sự yêu cầu của các cổ đông. Khi vốn điều lệ không được đóng góp đầy đủ.
Theo đó công ty cổ phần có quyền mua lại cổ phần từ những cổ đông chưa góp vốn trong vòng 90 ngày tính từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
1.2.2.6 Chuyển nhượng vốn
Trong công ty cổ phần, phần vốn góp của các cổ đông được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ đông muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số cổ phiếu của mình trong công ty cổ phần cho các cổ đông khác đều được thực hiện nếu đáp ứng theo yêu cầu của Điều lệ công ty. Trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được quyền chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác và hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong 3 năm kể từ ngày doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với các cổ đông sáng lập. So với các loại hình công ty khác thì công ty cổ phần có nhiều ưu thế hơn, những ưu thế này xuất phát từ chính đặc điểm của công ty cổ phần. Công ty cổ phần thường có quy mô lớn, số lượng thành viên đông nên việc quản lý, điều hành sẽ gặp nhiều phức tạp hơn. Kết quả hoạt động của công ty ảnh hưởng nhiều đến sự ổn định xã hội vì công ty được công khai phát hành cổ phiếu để huy động vốn từ xã hội và số đông người góp vốn có thể là người lao động trong công ty. Chính vì vậy, quản trị công ty cổ phần có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mà chính những người lãnh đạo công ty cần phải nghiêm túc thực hiện để đảm bảo sự ổn định phát triển cho công ty.
Như vậy, so sánh với các loại hình công ty khác thì CTCP có nhiều ưu điểm hơn, khắc phục được những hạn chế của loại hình công ty đối nhân và CTY TNHH, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Với loại hình CTCP, công ty có thể huy động được nguồn vốn lớn thỏa mãn nhu cầu kinh doanh miễn là sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, mức cổ tức đủ sức hấp dẫn những người có vốn, đồng thời chia sẻ rủi ro cho các thành viên. Tuy vậy, do CTCP thường có quy mô kinh doanh lớn, số lượng thành viên đông nên việc quản lý, điều hành sẽ gặp nhiều phức tạp. Kết quả hoạt động của công ty ảnh hưởng nhiều đến sự ổn định xã hội vì công ty được công khai phát hành cổ phiếu huy động vốn trong xã hội và số đông các thành viên góp vốn có thể là người lao động.
1.2.2.7 Huy động vốn ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
So sánh với các loại hình doanh nghiệp khác, thì có thể nói công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có khả năng huy động vốn công ty cao và linh hoạt nhất. Bởi, công ty cổ phần không bị không giới hạn số lượng cổ đông góp vốn và được phát hành cổ phần các loại, phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác để huy động vốn. Hơn nữa thủ tục chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần cũng rất dễ dàng, các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình theo quy định của Luật này. Trong quá trình hoạt động của mình, CTCP được quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn theo quy định của pháp luật về phát hành chứng khoán. Luật Công ty năm 1990, LDN năm 2020 đều quy định rõ: đối với CTTNHH khi muốn tăng vốn điều lệ của mình thì chỉ được thực hiện bằng cách hoặc tăng thêm phần vốn góp của các thành viên, hoặc kết nạp thêm thành viên mới. Trong khi đó khả năng huy động vốn để tăng thêm vốn điều lệ của CTCP là rất lớn, bất cứ lúc nào khi hội đủ các điều kiện theo luật định thì CTCP cũng có quyền phát hành cổ phiếu mới để kêu gọi vốn đầu tư từ các cổ đông mới. Với tính chất này, CTCP là một hình thức tổ chức đặc biệt, năng động có thể sử dụng để huy động vốn thông qua các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Các hình thức huy động vốn của công ty cổ phần là: chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu; chào bán cổ phần riêng lẻ; chào bán cổ phần ra công chúng (theo Khoản 2 Điều 123 Luật Doanh nghiệp 2020).
Công ty cổ phần là công ty duy nhất có khả năng huy động vốn bằng cách phát hành cổ phần và cổ phần phổ thông được chuyển nhượng một cách tự do trên thị trường (ngoài một số trường hợp luật hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông). Bất cứ tổ chức cá nhân nào mua cổ phần của công ty đều trở thành cổ đông của công ty. Những yếu tố này một mặt là thuận lợi cho việc huy động vốn cho công ty nhưng mặt khác chính là hạn chế trong việc cơ cấu quản lý công ty. Vì các thành viên có thể tự do chuyển nhượng cổ phần của mình nên các cổ đông rất dễ gia nhập hoặc rút khỏi công ty. Trong khi đó, bộ máy quản lý công ty phải hết sức ổn định thì mới quản lý và điều hành được tốt công việc sản xuất kinh doanh của công ty.
1.2.2.8 Phân chia lợi nhuận và rủi ro
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2020, trong văn bản điều lệ công ty thỏa thuận giữa các thành viên về việc thành lập công ty và nguyên tắc trong quá trình hoạt động của công ty phải có nội dung về nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh. Do đó, ngay từ thời điểm thành lập công ty, nguyên tắc phân chia lợi nhuận đã được ghi nhận trong Điều lệ, các thành viên sẽ được chia lợi nhuận theo nguyên tắc trong Điều lệ. Quy định tại Khoản 5 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2020 “Cổ tức là khoản lợi nhuận ròng được trả cho mỗi cổ phần bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản khác từ nguồn lợi nhuận còn lại của công ty cổ phần sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài chính”. Theo đó lợi nhuận để chia trong công ty cổ phần chính là việc phân chia cổ tức.
Việc trả cổ tức giữa các cổ đông không giống nhau, cụ thể là giữa cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi cổ tức sẽ được trả các mức cổ tức khác nhau.
Đối với cổ đông phổ thông, cổ tức được trả theo quyết định của Đại hội đồng thành viên. Công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức của cổ phần phổ thông khi công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật, đã trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty và ngay sau khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn.
Đối với cổ đông ưu đãi cổ tức là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả mức cổ tức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia hằng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng, cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi cụ thể trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức. Tuy nhiên, cổ đông ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
1.2.2.9 Tổ chức quản lý CTCP
* Đại hội đồng cổ đông
ĐHĐCĐ gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của CTCP. Cổ đông là tổ chức có quyền cử một hoặc một số người đại diện theo ủy quyền tham gia vào ĐHĐCĐ để thực hiện các quyền cổ đông của mình theo quy định của pháp luật.
Cổ đông có quyền biểu quyết là cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông (được gọi là cổ đông phổ thông) và cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết. Cổ đông không có quyền biểu quyết là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
LDN 2020 quy định quyền và nhiệm vụ của ĐHĐCĐ gồm:
- Quyết định số phận của công ty: Bao gồm (i) Quyết định thông qua định hướng phát triển của công ty; (ii) Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ; (iii) Quyết định tổ chức lại, giải thể công
- Quyết định tài chính của công ty: Bao gồm (i) Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán, quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần, trừ trường hợp Điều lệ có quy định khác; (ii) Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, nếu Điều lệ không quy định một tỷ lệ khác; (iii) Thông qua báo cáo tài chính hàng năm; (iv) Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại.
– Quyết định người lãnh đạo công ty: (i) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên HĐQT, thành viên BKS, xem xét và xử lý các vi phạm của HĐQT, BKS gây thiệt hại cho công chúng và cổ đông công ty; (ii) Xem xét và xử lý các vi phạm của HĐQT, BKS gây thiệt hại cho công ty và cổ đông của công ty.
ĐHĐCĐ phải tổ chức họp thường niên hoặc bất thường, ít nhất mỗi năm họp một lần. Các cuộc họp bất thường có thể được triệu tập bởi HĐQT trong các trường hợp quy định sau: (i) HĐQT xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty; (ii) Số thành viên HĐQT còn lại ít hơn số thành viên theo quy định của pháp luật; (iii) Theo yêu cầu của một cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, và Theo yêu cầu của Ban Kiểm soát.
Điều kiện tỷ lệ triệu tập cuộc họp: ĐHĐCĐ được tiến hành khi có (i) số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết đối với triệu tập lần đầu; (ii) số cổ đông đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết đối với triệu tập lần 2; hoặc (iii) các cổ đông có mặt tại cuộc họp (không phụ thuộc số cổ đông dự họp) đối với triệu tập lần 3 (Điều 102).
Thông qua quyết định của ĐHĐCĐ: Quyết định của ĐHĐCĐ sẽ được thông qua tại cuộc họp trong các trường hợp sau đây: (a) Được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận đối với các quyết định – về: (i) loại cổ phần và tổng số cổ phần; (ii) sửa đổi, bổ sung điều lệ CTCP, hoặc (iv) đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản (trừ khi điều lệ CTCP có quy định một tỷ lệ khác); (b) Được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp nhận đối với các quyết định ngoài quyết định nêu tại điểm (a) nêu trên. ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Trường hợp thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận
* Hội đồng quản trị
HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ.
HĐQT có không ít hơn 3 thành viên, không quá 11 thành viên, được ĐHĐCĐ bổ nhiệm và bãi nhiệm. Thành viên HĐQT không nhất thiết phải là cổ đông của CTCP. Nhiệm kỳ của HĐQT không quá 5 năm. Thành viên HĐQT có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Chủ tịch HĐQT được bổ nhiệm bởi ĐHĐCĐ hoặc HĐQT theo điều lệ và người này có thể kiêm GĐ công ty nếu Điều lệ công ty không cấm. Quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch HĐQT bao gồm: (i) Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của HĐQT; (ii) Chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ cuộc họp; triệu tập và chủ tọa cuộc họp HĐQT; (iii) Tổ chức việc thông qua quyết định của HĐQT;
- Giám sát quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của HĐQT; (v) Chủ tọa họp ĐHĐCĐ.
Quyền hạn và nhiệm vụ của HĐQT
- Quyền kiến nghị: Bao gồm: (i) Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; (ii) Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên ĐHĐCĐ; (iii) Kiến nghị mức cổ tức được trả, quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh; (iv) Kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty; (v) Duyệt chương trình, nội dung tài liêu phục vụ họp ĐHĐCĐ, triêu tập họp ĐHĐCĐ hoặc lấy ý kiến để ĐHĐCĐ thông qua quyết đính.
- Quyền quyết định: Bao gồm các quyết định: (i) Chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty; (ii) Chào bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; huy động thêm vốn theo hình thức khác; (iii) Giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty; (iv) Mua lại cổ phần; (v) Phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo luật hoặc Điều lệ công ty; (vi) Giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trí bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ; trừ một số hợp đồng và giao dịch bị hạn chế; (vii)
Cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác. Quyền quyết định về nhân sự: Bao gồm: (i) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức,
ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với GĐ và người quản lý quan trọng khác do Điều lệ quy định; quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý đó; cử người đại diện theo ủy quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những người đó; (ii) Giám sát, chỉ đạo GĐ và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty HĐQT có thể họp định kỳ hoặc bất thường, tại trụ sở chính của công ty hoặc ở
một nơi khác. Cuộc họp định kỳ của HĐQT do Chủ tịch triệu tập bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết, nhưng mỗi quý phải họp ít nhất một lần. Chủ tịch HĐQT phải triệu tập họp HĐQT bất thường theo yêu cầu của (i) Ban kiểm soát, (ii) GĐ hoặc ít nhất 5 người quản lý khác, (iii) ít nhất 2 thành viên HĐQT, hoặc (iv) các trường hợp khác quy định trong điều lệ. Chủ tịch HĐQT phải triệu tập họp bất thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị đã nêu, đồng thời phải gửi thông báo mời họp chậm nhất 5 ngày làm việc trước ngày họp cùng với tài liệu kèm theo cho các thành viên BKS và GĐ cũng như cho thành viên HĐQT. Điều kiện tiến hành cuộc họp HĐQT: Cuộc họp HĐQT được tiến hành khi có từ 75% tổng số thành viên HĐQT trở lên tham dự.
Thông qua quyết định HĐQT: HĐQT thông qua quyết định bằng biểu quyết tại cuộc họp, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác do Điều lệ quy định. Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết, tức là – khác với ĐHĐCĐ – HĐQT quyết định theo đầu người. Quyết định của HĐQT được thông qua nếu được đa số thành viên dự họp chấp thuận; trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định cuối cùng thuộc về phía có ý kiến của Chủ tịch HĐQT.
Như vậy, so với LDN 2014 thì LDN 2020 có bổ sung thêm một số đặc điểm như: hạn chế về việc Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty cổ phần là doanh nghiệp Nhà nước không được kiêm Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc. Chủ tịch Hội đồng quản trị bổ sung quyền và nghĩa vụ trong việc “triệu tập, chủ trì và làm chủ toạ” cuộc họp của Hội đồng quản trị. Bổ sung các trường hợp bầu người thay thế Chủ tịch Hội đồng quản trị.
* Giám đốc/Tổng Giám đốc
GĐ/TGĐ được HĐQT bổ nhiệm/bãi nhiệm hoặc cách chức, họ có thể là thành viên của HĐQT hoặc là một người khác do HĐQT thuê. GĐ/TGĐ là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Nhiệm kỳ của GĐ/TGĐ không quá năm năm và có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. GĐ/TGĐ không được đồng thời làm GĐ/TGĐ của doanh nghiệp khác.
Quyền và nhiệm vụ của GĐ/TGĐ bao gồm: Quyền kiến nghị lên HĐQT: Gồm kiến nghị (i) Phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh, và (ii) Phương án tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty. Quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hàng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của HĐQT: (i) Tổ chức thực hiện các quyết định của HĐQT; (ii) Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty; (iii) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của HĐQT; (iv) Quyết định mức lương và phụ cấp (nếu có) đối với người lao động trong công ty, kể cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của GĐ/TGĐ ; (v) Tuyển dụng lao động; (vi) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quyết định của HĐQT.
Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng Giám đốc và người quản lý khác có các nghĩa vụ sau đây: Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao theo đúng quy định của Luật này, pháp luật có liên quan, Điều lệ công ty, quyết định của Đại hội đồng cổ đông; Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty và cổ đông của công ty; Trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông của công ty; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về các doanh nghiệp mà họ và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, cổ phần chi phối; thông báo này được niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty. Ngoài các nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này, Hội đồng quản trị và Giám đốc/Tổng Giám đốc không được tăng lương, trả thưởng khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn. Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
* Ban Kiểm soát
Ban kiểm soát có từ ba đến năm thành viên nếu Điều lệ công ty không có quy định khác; nhiệm kỳ của Ban kiểm soát không quá năm năm; thành viên Ban kiểm soát có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Các thành viên Ban kiểm soát bầu một người trong số họ làm Trưởng ban kiểm soát. Quyền và nhiệm vụ của Trưởng ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Ban kiểm soát phải có hơn một nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam và phải có ít nhất một thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên. Trong trường hợp vào thời điểm kết thúc nhiệm kỳ mà Ban kiểm soát nhiệm kỳ mới chưa được bầu thì Ban kiểm soát đã hết nhiệm kỳ vẫn tiếp tục thực hiện quyền và nhiệm vụ cho đến khi Ban kiểm soát nhiệm kỳ mới được bầu và nhận nhiệm vụ. (Theo điều 121 Luật Doanh Nghiệp 2020)
Theo điều 122 Luật Doanh nghiệp 2020, thành viên Ban kiểm soát phải có tiêu chuẩn và điều kiện sau đây: Từ 21 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật này. Không phải là vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng Giám đốc và người quản lý khác. Thành viên Ban kiểm soát không được giữ các chức vụ quản lý công ty. Thành viên Ban kiểm soát không nhất thiết phải là cổ đông hoặc người lao động của công ty.
Ban kiểm soát thực hiện giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng Giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông trong thực hiện các nhiệm vụ được giao. Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính. Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị. Trình báo cáo thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hàng năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị lên Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên. Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc tỉ lệ nhỏ hơn theo quy định của Điều lệ. Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật này, Ban kiểm soát thực hiện kiểm tra trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Ban kiểm soát phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến Hội đồng quản trị và cổ đông hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu. Việc kiểm tra của Ban kiểm soát quy định tại khoản này không được cản trở hoạt động bình thường của Hội đồng quản trị, không gây gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng Giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty quy định tại Điều 119 của Luật này thì phải thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả. Thực hiện các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này, Điều lệ công ty và quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Ban kiểm soát có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông. ( Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu )
Theo điều 126 Luật Doanh nghiệp, nghĩa vụ của Ban kiểm soát viên được quy định như sau: Tuân thủ đúng pháp luật, Điều lệ công ty, quyết định của Đại hội đồng cổ đông và đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty và cổ đông của công ty. Trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông công ty; không được sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác. Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty. Trường hợp vi phạm nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này mà gây thiệt hại cho công ty hoặc người khác thì các thành viên Ban kiểm soát phải chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới bồi thường thiệt hại đó. Mọi thu nhập và lợi ích khác mà thành viên Ban kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp có được do vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này đều thuộc sở hữu của công ty. Trường hợp phát hiện có thành viên Ban kiểm soát vi phạm nghĩa vụ trong thực hiện quyền và nhiệm vụ được giao thì Hội đồng quản trị phải thông báo bằng văn bản đến Ban kiểm soát; yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả. So với LDN 2014, LDN 2020 đã làm rõ và bổ sung thêm tiêu chuẩn, điều kiện và quyền của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, như nguyên tắc miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng Ban kiểm soát, Mở rộng các chuyên ngành đào tạo đối với một cá nhân để có thể đảm nhiệm vị trí Trưởng Ban kiểm soát và Kiểm soát viên, thêm quyền của Ban kiểm soát trong việc “rà soát hợp đồng, giao dịch với người có liên quan thuộc thẩm quyền phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông và đưa ra khuyến nghị về hợp đồng, giao dịch cần có phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông”.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Khóa luận giải pháp áp dụng luật tại công ty xăng dầu Dầu khí Thái Bình
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Khóa luận Áp dụng Pháp luật tại công ty xăng dầu Dầu khí Thái Bình […]