Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ đặc biệt là quyền tác giả và quyền liên quan ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm. Tại Việt Nam, sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 đã đánh dấu sự phát triển, tiến bộ của hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong vấn đề bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan.
Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả và quyền liên quan ngày càng có giá trị cao, đặc biệt khi chủ sở hữu quyền có nhận thức được về giá trị quyền. Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế bảo hộ khả thi và hiệu quả, đảm bảo quyền và các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan đã trở thành một vấn đề cấp thiết. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng pháp luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam vẫn còn là một thách thức lớn dù Nhà nước đã có nhiều nỗ lực cải cách chính sách và pháp luật. Hiện tượng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan vẫn còn diễn ra phổ biến, tràn lan.
Từ đó, việc nghiên cứu, phát hiện những tồn tại để đề ra giải pháp khắc phục các bất cập của pháp luật trong việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan sẽ góp phần cải thiện thực tiễn áp dụng và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo cơ chế và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Xuất phát từ tình hình đó, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam”.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, phân tích các vấn đề pháp lý về quyền tác giả và một số bài báo, luận văn nghiên cứu các khía cạnh của quyền liên quan. Tuy nhiên đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp, các phân tích cụ thể về các vấn đề còn tồn tại hiện nay và giải pháp hoàn thiện chính sách, quy định pháp luật vẫn là một vấn đề cần thêm nhiều đóng góp để cải thiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Phân tích các quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, để từ đó đánh giá hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn. Các tranh chấp thực tế cũng được phân tích nhằm làm nổi bật các vấn đề thực tế gặp phải trong quá trình thực thi pháp luật và từ đó đề ra các biện pháp cải thiện cụ thể.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bởi giới hạn về thời gian và dung lượng của khoá luận tốt nghiệp, tác giả tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam cùng các điều ước quốc tế để từ đó tìm ra những mâu thuẫn và các hạn chế trong việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Phạm vi nghiên cứu đề tài gồm những nội dung như sau: – Nghiên cứu sâu các quy định pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ.
- So sánh quy định pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam là thành viên.
- Phân tích những vụ việc cụ thể để làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng pháp luật, nhận biết các tồn tại và đề ra phương hướng giải quyết.
5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, … Luận văn sử dụng thêm phương pháp nghiên cứu tình huống thực tế tiêu biểu liên quan tới tranh chấp quyền tác giả, quyền liên quan với mong muốn có thể rút ra kinh nghiệm cho chủ sở hữu quyền trong việc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp đối với sản phẩm trí tuệ của mình.
6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài
Luận văn bao gồm một số kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan, với mong muốn góp phần hoàn thiện chính sách và quy định pháp luật Việt Nam, cũng như hỗ trợ chủ sở hữu quyền trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về pháp luật, giúp ích cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan và đóng góp nhỏ trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
7. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam
- Chương 2: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam hiện nay
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam
1.1. Lý luận chung về quyền tác giả và quyền liên quan
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan
- Khái niệm quyền tác giả trên thế giới
Khái niệm quyền tác giả đã nhen nhóm được hình thành từ khi phát minh in ra đời, khi con người nhận thấy sự bất công khi tác phẩm của mình sáng tạo bị sao chép, in lại và chào bán với giá rẻ hơn. Nhằm bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo ra tác phẩm, luật về quyền tác giả đã dần được hình thành. Văn bản pháp luật đầu tiên trên thế giới về quyền tác giả là Đạo luật Anne, được ban hành tại Anh vào năm 1710. Đạo luật này lần đầu tiên giới thiệu quyền của tác giả cho tác phẩm của riêng mình và đề ra những điều khoản để bảo vệ quyền đó. Cũng theo đạo luật này, lần đầu tiên quyền của tác giả đối với tác phẩm được coi trọng và bảo vệ hơn quyền của những nhà xuất bản, cho phép tác giả kiểm soát được việc tái sản xuất tác phẩm của họ sau khi xuất bản. Quyền tác giả trong Liên minh châu Âu được thống nhất trong Chỉ thị phần mềm ra đời vào năm 1991, theo đó thì các chương trình máy tính được bảo vệ như là các tác phẩm văn học theo ý nghĩa về quyền tác giả. Còn theo công ước Berne, quyền tác giả là tự động, không cần phải đăng ký tác quyền, không cần phải viết trong thông báo tác quyền.
Định nghĩa về quyền tác giả của WIPO – Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới có thể được coi là định nghĩa chung và chuẩn xác nhất: “Quyền tác giả là phần cốt lõi của pháp luật nhằm trao cho tác giả, nghệ sỹ và các nhà sáng tạo khác sự bảo hộ cho những sáng tạo văn học và nghệ thuật của họ – gọi chung là tác phẩm. Các tác phẩm đủ điều kiện bảo hộ quyền tác giả là các sáng tạo trí tuệ gốc. Chúng được bảo hộ bất kể chất lượng của chúng và bao gồm các hướng dẫn kỹ thuật hoặc các hình vẽ kỹ thuật đơn thuần. Nhìn chung, pháp luật về quyền tác giả không liệt kê danh mục đầy đủ các loại tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, nhưng trên thực tiễn pháp luật của tất cả quốc gia đều quy định sự bảo hộ cho các đối tượng: Tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc, Tác phẩm nghệ thuật, Bản đồ và các bản vẽ kỹ thuật, Các tác phẩm nhiếp ảnh, Tác phẩm điện ảnh, Chương trình máy tính, Các sản phẩm đa phương tiện”. Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Hiệp định TRIPS khẳng định phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm sự thể hiện và không bao gồm các ý tưởng, trình tự, phương pháp tính hoặc các khái niệm toán học [5, Điều 9.2]. Các chương trình máy tính, dù dưới dạng mã nguồn hay mã máy, đều phải được bảo hộ quyền tác giả như những tác phẩm văn học [5, Điều 10.1]. Các cơ sở dữ liệu, bộ sư tập dữ liệu hoặc tư liệu khác đều phải được bảo hộ quyền tác giả thậm chí cơ sở dữ liệu chứa đựng dữ liệu không được bảo hộ quyền tác giả [5, Điều 10.2]. Ít nhất là đối với chương trình máy tính và tác phẩm điện ảnh, các nước thành viên phải dành cho tác giả và người thừa kế hợp pháp của họ quyền cho phép hoặc cấm việc cho công chúng thuê bản gốc hoặc bản sao các tác phẩm của họ nhằm mục đích thương mại [5, Điều 11].
Điều 4 Chương II Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ quy định như sau: “Mọi loại chương trình máy tính đều được coi là các tác phẩm viết theo nghĩa quy định tại Công ước Berne và bảo hộ các đối tượng này như tác phẩm viết. Mọi sưu tập dữ liệu hoặc sưu tập tư liệu khác, bất kể dưới dạng có thể đọc được bằng máy hoặc dưới dạng khác, mà việc lựa chọn và sắp xếp nội dung là sự sáng tạo trí tuệ, đều được bảo hộ như tác phẩm”.
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra “quyền tác giả” là quyền được pháp luật, xã hội, quần chúng, … công nhận cho cá nhân, tập thể, tổ chức đối với một tác phẩm văn học, khoa học, phần mềm, … do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Các tác phẩm đó phải là sản phẩm trí óc của tác giả mà không đơn thuần là sự sao chép từ nguồn đã biết.
- Định nghĩa quyền tác giả tại Việt Nam
Khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.”
Như vậy, Việt Nam cũng thống nhất quan điểm với các nước trên thế giới về quyền tác giả là quyền của cá nhân, tổ chức được xã hội, pháp luật công nhận cho các tác phẩm do chính mình sáng tạo ra và sở hữu, dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hoá không bị vi phạm bản quyền, bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm.
- Khái niệm quyền liên quan trên thế giới Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Ngày nay, lĩnh vực mới về các quyền liên quan đến quyền tác giả đã phát triển rất nhanh chóng. Những quyền được gọi là “Quyền liên quan” ngày càng gia tăng xung quanh các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả và tạo ra các quyền tương tự. Theo WIPO, quyền này dành cho Nghệ sỹ biểu diễn trong hoạt động ghi âm của họ, Nhà sản xuất bản ghi âm trong hoạt động ghi âm của họ, Tổ chức phát sóng trong các chương trình phát thanh và truyền hình của họ. “Quyền liên quan” khác với “quyền tác giả” vì chúng thuộc sở hữu của những người được coi là trung gian trong quá trình sản xuất, ghi âm và phổ biến tác phẩm. Sự liên quan đến quyền tác giả được thể hiện ở ba loại quyền liên quan là sự tương hỗ trong quá trình sáng tạo và phổ biến trí tuệ vì chúng hỗ trợ các tác giả sáng tạo trong quá trình quyền tải tác phẩm đến với công chúng. Một nhạc công thể hiện một tác phẩm âm nhạc do một nhạc sỹ sáng tác; một diễn viên vào vai trong vở kịch được sáng tác bởi một nhà viết kịch, một nhà sản xuất bản ghi âm – hay thường được gọi là “ngành công nghiệp ghi âm” – ghi âm hoặc sản xuất bài hát và bản nhạc do nhà thơ và nhạc sỹ sáng tác, được nhạc công hoặc ca sỹ thể hiện; tổ chức phát sóng phát sóng các tác phẩm và bản ghi âm trên các đài phát thanh và/hoặc truyền hình của họ.
Theo hiệp định TRIPS, người biểu diễn có quyền ngăn cấm ghi thu, lưu định cuộc biểu diễn bằng phương tiện ghi âm. Quyền ghi thu, lưu định của người biểu diễn chỉ liên quan đến âm thanh chứ không liên quan đến cả âm thanh và hình ảnh. Người biểu diễn c n có quyền ngăn cấm tái tạo, nhân bản bản ghi âm. Người biểu diễn cũng có quyền ngăn cấm phát qua phương tiện vô tuyến và truyền cho công chúng buổi biểu diễn trực tiếp của họ [5, Điều 14.1]. Hiệp định TRIPS yêu cầu các nước thành viên WTO cho phép nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền sao chép các bản ghi âm của họ [5, Điều 14.2]. Thêm vào đó, theo Điều 14.4, nhà sản xuất bản ghi âm còn có độc quyền cho thuê bản ghi âm. Các tổ chức phát thanh, truyền hình phải có quyền ngăn cấm các hành vi sau đây nếu thực hiện mà không được họ cho phép: ghi, sao chép bản ghi, phát lại qua phương tiện vô tuyến chương trình, cũng như truyền hình cho công chúng các chương trình [5, Điều 14.3].
- Định nghĩa quyền liên quan tại Việt Nam
Khái niệm quyền liên quan đến quyền tác giả được pháp luật Việt Nam đề cập đến một cách gián tiếp bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, khái niệm này được đưa ra tại Khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) như sau: “Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”.
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan cũng đã giải thích theo hướng liệt kê tương tự tại Khoản 2 Điều 3 về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, theo đó, quyền liên quan được hiểu là “các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn; các quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình; các quyền của tổ chức phát sóng đối với chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được quy định tại Điều 745, 746, 747 và Điều 748 của Bộ luật Dân sự và Điều 29, 30 và 31 của Luật Sở hữu trí tuệ ”. Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Như vậy, so với những quyền liên quan được bảo hộ ở cấp độ toàn cầu theo các điều ước quốc tế như Công ước Rome hay Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm năm 1996 (WPPT), khái niệm quyền liên quan được quy định trong pháp luật Việt Nam có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả quyền của nhà sản xuất bản ghi hình và quyền của tổ chức phát sóng đối với tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Điều này không trực tiếp phản ánh năng lực bảo hộ của pháp luật sở hữu trí tuệ quốc gia trong mối tương quan với điều ước quốc tế mà là vấn đề quan điểm lập pháp cũng như đặc điểm của hệ thống pháp luật mỗi nước.
1.1.2. Các điều kiện bảo hộ đối với quyền tác giả và quyền liên quan
- Điều kiện bảo hộ quyền tác giả
Điều 13, 14, 15 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định về điều kiện bảo hộ quyền tác giả cụ thể như sau:
“Điều 13. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
- Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 42 của Luật này.
- Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại khoản 1 Điều này gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng h a xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
- a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
- Tác phẩm báo chí;
- Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
- Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
- Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
- Tác phẩm nhiếp ảnh;
- Tác phẩm kiến trúc;
- Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
- Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
- Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
- Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
- Chính phủ hướng dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 15. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả
- Tin tức thời sự thuần túy đưa tin.
- Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.
- Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.”
Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian và khoa học. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.
Như vậy, sản phẩm lao động trí tuệ của con người trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được công nhận là tác phẩm khi thỏa mãn 2 điều kiện: (a) mang tính sáng tạo; (b) được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Khi ý tưởng sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học có chứa đựng yếu tố sáng tạo và được thể hiện dưới hình thức vật chất được công nhận là tác phẩm và được bảo hộ tự động chứ không bắt buộc phải thông qua thủ tục đăng ký như các đối tượng sở hữu công nghiệp. Do đó đây cũng chính là hai điều kiện để tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.
- Điều kiện bảo hộ quyền liên quan
Điều 16, 17 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định rõ điều kiện bảo hộ quyền liên quan như sau:
“Điều 16. Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan
- Diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm văn học, nghệ thuật (sau đây gọi chung là người biểu diễn).
- Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu cuộc biểu diễn quy định tại khoản 1 Điều 44 của Luật này.
- Tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác (sau đây gọi là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình). Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
- Tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng (sau đây gọi là tổ chức phát sóng).
Điều 17. Các đối tượng quyền liên quan được bảo hộ
- Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài;
- Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam;
- Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo quy định tại Điều 30 của Luật này;
- Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã phát sóng được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật này;
đ) Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch Việt Nam;
- Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của tổ chức phát sóng có quốc tịch Việt Nam;
- Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của tổ chức phát sóng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa chỉ được bảo hộ theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả.” Từ điều 16 cũng như các quy định cụ thể khác về quyền liên quan, có thể thấy pháp luật Việt Nam phân biệt chủ thể quyền liên quan thành ba loại cơ bản:
Người biểu diễn: So với những chủ thể quyền liên quan khác, có thể nói người biểu diễn là nhóm chủ thể được ghi nhận và bảo vệ quyền liên quan sớm nhất, và dường như cũng là nhóm chủ thể được quan tâm chú ý nhiều nhất. Trước đây, pháp luật Việt Nam định nghĩa trực tiếp người biểu diễn. Cụ thể, Điều 773 Bộ luật dân sự 1995 quy định: “Người biểu diễn bao gồm các cá nhân, tổ chức biểu diễn, người dàn dựng, đạo diễn chương trình ca, múa nhạc, chương trình phát thanh – truyền hình, đạo diễn, diễn viên sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác”. Tuy nhiên, hiện nay, Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) không có quy định nào nêu ra khái niệm người biểu diễn với tư cách chủ thể quyền liên quan, cũng không chỉ rõ người đạo diễn, dàn dựng chương trình cũng được coi là người biểu diễn. Dựa trên Khoản 1 Điều 16 nói trên, có thể hiểu người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam hiện hành là những người “trình bày tác phẩm văn học nghệ thuật”, bao gồm diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công… Như vậy, người biểu diễn được hiểu là những người sử dụng tác phẩm của người khác một cách sáng tạo trong sự thể hiện các tác phẩm văn học nghệ thuật, truyền đạt tác phẩm tới công chúng. Cách quy định này tỏ ra phù hợp với Công ước Rome và các điều ước quốc tế khác về quyền liên quan.
“Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình” được hiểu là “tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác”. Một điểm cần lưu ý là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình không đồng nhất với chủ sở hữu đối với bản ghi âm, ghi hình đó. Theo Khoản 2 Điểu 44 Luật sở hữu trí tuệ, “tổ chức, cá nhân sử dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để sản xuất bản ghi âm, ghi hình là chủ sở hữu đối với bản ghi âm, ghi hình đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với bên liên quan”. Như vậy, nếu tổ chức, cá nhân là người “định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc âm thanh, hình ảnh khác” nhưng công việc này của họ được tiến hành trên cơ sở một hợp đồng với chủ thể khác, họ chỉ thực hiện việc định hình với các thao tác mang tính chất kỹ thuật và được nhận thù lao từ việc định hình của mình theo hợp đồng đó, thì không được coi là chủ sở hữu bản ghi âm, ghi hình đó – chủ sở hữu ở đây chính là đối tác đã thuê và trả thù lao cho việc định hình nói trên. Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Tổ chức phát sóng: Quyền liên quan chỉ dành sự bảo hộ cho những chủ thể là tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng, bao gồm các tổ chức phát thanh, tổ chức truyền hình, phát tín hiệu vệ tinh. Sự giới hạn này là kết quả của việc cân nhắc đến tính “nguyên gốc” của chương trình phát sóng. Bởi chỉ có tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng mới là chủ thể có quyền lợi cần được bảo hộ trong việc chống lại việc phát sóng lại, tái tạo, nhân bản, và truyền đạt tới công chúng những chương trình phát sóng tốn kém của họ. Việc phát sóng lại hay việc ghi thu các chương trình vô tuyến tại những nơi công cộng có thể đem lại rất nhiều lợi nhuận, đặc biệt là khi chủ đề của chương trình phát sóng gốc là một sự kiện nổi bật. Tuy nhiên, tổ chức phát sóng không luôn luôn là chủ sở hữu chương trình phát sóng. Khoản 3 Điều 44 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Tổ chức phát sóng là chủ sở hữu đối với chương trình phát sóng của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với bên liên quan”, và Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định tại Điều 36: “Chủ sở hữu chương trình phát sóng quy định tại khoản 3 Điều 44 của Luật sở hữu trí tuệ là tổ chức phát sóng đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để phát sóng”. Như vậy vẫn có thể tồn tại khả năng tổ chức phát sóng và chủ sở hữu đối với chương trình phát sóng là hai chủ thể riêng biệt, nhưng trên thực tế trường hợp này không nhiều.
Từ đó, ta có thể hiểu các điều kiện bảo hộ quyền liên quan như sau: – Điều kiện bảo hộ đầu tiên: Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng được định hình hoặc thực hiện lần đầu (điều kiện về định hình hoặc thực hiện). Định hình bản ghi âm, ghi hình là sự biểu hiện bằng âm thanh, hình ảnh hoặc sự tái hiện âm thanh, hình ảnh dưới dạng vật chất nhất định để từ đó có thể nhận biết, sao chép hoặc truyền đạt. Chương trình phát sóng phát sinh quyền khi được thực hiện phát sóng lần đầu bởi chính tổ chức phát sóng có quyền phát sóng chương trình phát sóng đó. Điều này thể hiện tính nguyên gốc của tác phẩm, được xem xét trên hai phương diện chủ yếu sau.
Thứ nhất, tính nguyên gốc xác định trên cơ sở lao động sáng tạo mang dấu ấn cá nhân của chủ thể. Việc quyền liên quan phát sinh trên cơ sở hành vi sử dụng tác phẩm đã có từ trước không ảnh hưởng tới tính nguyên gốc của các đối tượng mà nó bảo hộ. Không khó để nhận ra rằng, sự trình diễn của người nghệ sĩ là kết quả của những cống hiến nghệ thuật mang tính chất sáng tạo của họ. Cùng là một tác phẩm, nhưng mỗi người biểu diễn sẽ thể hiện theo cách của riêng mình, thậm chí cũng chính người nghệ sĩ ấy nhưng mỗi lần biểu diễn lại đem đến những cảm nhận riêng cho khán giả. Chính sự sử dụng tác phẩm một cách sáng tạo và mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể quyền liên quan đòi hỏi việc sử dụng ấy cũng phải được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, tính nguyên gốc được thể hiện ở việc quyền liên quan chỉ được xác định theo các đối tượng của quyền liên quan được tạo ra lần đầu tiên. Việc xác định tính nguyên gốc từ góc độ này thường được áp dụng đối với các bản ghi, chương trình phát thanh truyền hình. Cụ thể, quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi hình chỉ được xác định cho người tạo ra bản ghi âm, ghi hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác; quyền liên quan đối với tổ chức phát sóng chỉ được xác định cho tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng. Theo đó, trong trường hợp: một công ty ghi âm ký hợp đồng thu âm phần biểu diễn của ca sĩ dưới dạng đĩa CD (compact disc), sau đó một công ty khác sao chép lại đĩa CD đó và cũng đưa ra thị trường, thì ta sẽ có hai dạng bản ghi âm cho cùng một phần trình diễn gốc, tuy nhiên, chỉ dạng bản ghi thứ nhất được coi là có tính nguyên gốc (là sự định hình lần đầu) và là đối tượng bảo hộ của quyền liên quan, dạng bản ghi thứ hai không đảm bảo tính nguyên gốc và không những không được bảo hộ mà c n bị coi là hành vi xâm phạm quyền liên quan và tuỳ theo tính chất, mức độ của sự xâm phạm mà sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật. Tương tự, một tổ chức phát sóng đã đầu tư tài chính và các điều kiện cần thiết để làm một chương trình truyền hình, hoặc đã mua bản quyền phát sóng trực tiếp một sự kiện văn hoá nào đó… thì việc phát sóng các chương trình đó của họ được xác định là thoả mãn điều kiện về tính nguyên gốc của đối tượng quyền liên quan, và nếu tổ chức phát sóng nào khác tiến hành tiếp sóng, phát sóng đồng thời, hoặc phát lại các chương trình này thì việc phát sóng của tổ chức thứ hai này là không có tính nguyên gốc và cũng như trường hợp trên, có thể bị xác định là hành vi xâm phạm quyền liên quan theo pháp luật sở hữu trí tuệ. Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Nếu như đặc trưng thứ nhất của quyền liên quan (tính chất sử dụng các tác phẩm đã có) là điểm quan trọng phân biệt nó với các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, thì tính nguyên gốc của quyền liên quan cho phép xác định đâu là quyền liên quan được pháp luật bảo hộ, và khi nào xảy ra sự xâm phạm quyền liên quan. Khi tính nguyên gốc được thoả mãn, ta có thể xác định được đối tượng được bảo hộ bởi quyền liên quan, chủ thể của quyền liên quan, và ngược lại, việc không đảm bảo tính nguyên gốc đó là căn cứ để nhận định đã có hành vi xâm phạm đến quyền liên quan.
Điều kiện bảo hộ thứ hai: cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được bảo hộ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được thực hiện bởi công dân, tổ chức mang quốc tịch Việt Nam [16, điểm a khoản 1,2,3 Điều 17].
Điều kiện bảo hộ thứ ba: đối tượng của quyền liên quan được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam khi đối tượng đó được phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam (cuộc biểu diễn). Cuộc biểu diễn được thực hiện tại Việt Nam sẽ được pháp luật Việt Nam bảo hộ là đối tượng của quyền liên quan [16, điểm a, b khoản 1 Điều 17], cho dù chủ thể thực hiện cuộc biểu diễn là công dân Việt Nam hay người nước ngoài.
Điều kiện bảo hộ thứ tư: cuộc biểu diễn của chủ sở hữu, cuộc biểu diễn bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá của tổ chức phát sóng còn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên nếu cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá đáp ứng được các qui định về điều kiện bảo hộ của các điều ước quốc tế [16, điểm đ khoản 1; điểm b khoản 2,3 Điều 17]
1.1.3. Nội dung, giới hạn quyền đối với quyền tác giả và quyền liên quan Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
- Đối với quyền tác giả
Nội dung: Theo quy định tại Điều 19, 20 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, nội dung quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
a. Quyền nhân thân
Quyền nhân thân là quyền của tác giả, mang lại giá trị tinh thần cho tác giả, được bảo hộ vô thời hạn (trừ quyền công bố tác phẩm), không được chuyển giao hay để lại thừa kế (trừ quyền công bố tác phẩm). Quyền nhân thân bao gồm:
- Quyền đặt tên cho tác phẩm: Tên tác phẩm có ý nghĩa cá biệt hóa tác phẩm, thể hiện dấu ấn sáng tạo cá nhân của tác giả, nên quyền đặt tên cho tác phẩm chỉ thuộc về tác giả của tác phẩm. Tác giả của tác phẩm dịch không có quyền đặt tên cho tác phẩm dịch mà phải tôn trọng tên của tác phẩm gốc.
- Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm: tác giả đứng tên trên tác phẩm bằng tên thật hoặc bút danh của tác giả.
- Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm: Công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng. Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.
- Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
b. Quyền tài sản
Quyền tài sản thuộc quyền tác giả là những quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, mang lại giá trị vật chất cho chủ sở hữu quyền tác giả, được bảo hộ có thời hạn; là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả hoặc hợp đồng sử dụng quyền tác giả. Quyền tài sản bao gồm:
- Quyền làm tác phẩm phái sinh: tác giả có quyền tạo ra sản phẩm phái sinh trên cơ sở tác phẩm gốc nhưng với hình thức, cách thức trình bày mới so với tác phẩm khác; như: dịch tác phẩm sang ngôn ngữ khác.
- Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng: tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện biểu diễn tác phẩm một cách trực tiếp hoặc thông qua ghi âm, ghi hình hoặc bất kì phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
- Quyền sao chép: tác giả thực hiện hoặc cho người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm.
- Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm: tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác dùng bất kì cách thức nào để bán, cho thuê, chuyển nhượng bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.
- Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác: tác giả thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng bằng bất kỳ cách thức nào.
- Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Không áp dụng quyền cho thuê đối với chương trình máy tính, … khi bản thân chương trình đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê như chương trình máy tính gắn với việc vận hành bình thường các loại phương tiện giao thông.
Giới hạn quyền tác giả: Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 xác định giới hạn quyền tác giả bằng việc quy định các trường hợp như sau:
Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao, bao gồm:
- Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân.
- Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa cho tác phẩm của mình.
- Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu.
- Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại.
- Sao chép một bản tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu.
- Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.
- Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy.
- Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó.
- Chuyển tác phẩm sang chứ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị.
- Nhập khẩu một bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Cụ thể như sau:
- Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kì hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận (không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh).
- Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm theo quy định trên không được làm ảnh hướng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
Giới hạn quyền tác giả giúp cho công chúng có khả năng khai thác, sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học vào mục đích phi thương mại dễ dàng hơn.
- Đối với quyền liên quan Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Nội dung: Điều 29, 30, 31 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung quy định rõ nội dung quyền liên quan như sau:
Quyền của người biểu diễn bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân gồm:
Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn [16, điểm a khoản 2 Điều 29]. Đây là quyền nhân thân gắn bó chặt chẽ với người biểu diễn, danh tiếng của một diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và các nghệ sĩ khác chỉ được công chúng biết đến khi tên của họ được giới thiệu thông qua các cuộc biểu diễn.
Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn [16, điểm b khoản 2 Điều 29]. Hình tượng người biểu diễn có thể được hiểu là hình ảnh được tạo nên bởi nhiều yếu tố khác nhau như phong cách biểu diễn, chất lượng, thái độ, cử chỉ, ….
Quyền tài sản gồm các quyền mà người biểu diễn được độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện, cụ thể:
- Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình [16, điểm a khoản 3 Điều 29]: Nghĩa là người biểu diễn được phép ghi âm, ghi hình cuộc biểu diễn của mình một cách trực tiếp
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình [16, điểm b khoản 3 Điều 29]: nghĩa là người biểu diễn được phép sao chép, tạo ra bản sao ghi âm, ghi hình cuộc biểu diễn của mình.
- Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng [16, điểm c khoản 3 Điều 29].
- Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được [16, điểm d khoản 3 Điều 29].
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
Theo Điều 30 Luật SHTT nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có các quyền như sau:
a) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình.
b) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kì phương tiện kĩ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Và nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình được phân phối đến công chúng.
Quyền của tổ chức phát sóng: Điều 31 Luật Sở hữu trí tuệ quy định quyền của tổ chức phát sóng gồm:
- a) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình;
- b) Độc quyền phân phối hoặc cho phép người khác phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của mình; 14
- c) Độc quyền định hình hoặc cho phép người khác định hình chương trình phát sóng của mình;
- d) Độc quyền sao chép hoặc cho phép người khác sao chép bản định hình chương trình phát sóng của mình.
Giới hạn quyền liên quan: Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Điều 32 Luật SHTT quy định các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học của cá nhân.
b) Tự sao chép một bản nhằm mục đích giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được công bố để giảng dạy.
c) Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung cấp thông tin. Theo qui định tại khoản 1 điều 24 Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006, trích dẫn hợp lý là việc sử dụng các trích đoạn nhằm mục đích thuần tuý đưa tin, phải phù hợp với các điều kiện sau: Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề trong việc cung cấp thông tin; Số lượng và thực chất của phần trích dẫn từ cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng không gây phương hại đến quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng được sử dụng để trích dẫn.
d) Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền phát sóng. Bản sao tạm thời là bản định hình có thời hạn, do tổ chức phát sóng thực hiện bằng các phương tiện, thiết bị của mình, nhằm phục vụ cho buổi phát sóng ngay sau đó của chính tổ chức phát sóng. Trong trường hợp đặc biệt thì bản sao đó được lưu trữ trong trung tâm lưu trữ chính thức.
Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền liên quan trong các trường hợp sau đây không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng:
a) Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ [16, khoản 1 Điều 35],
b) Tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng; trường hợp không thoả thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật [16, khoản 2 Điều 35].
1.1.4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
- Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả như sau:
- Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này được bảo hộ vô thời hạn.
- Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:
- Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;
- Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
- Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.” Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản – theo điều 18 – Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung. Tuy nhiên, đối với từng loại quyền khác nhau thì thời hạn bảo hộ là khác nhau kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu. Các quyền sẽ được bảo hộ vô thời hạn đó là:
Quyền đặt tên cho tác phẩm;
- Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng
- Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Các quyền được bảo hộ có thời hạn là: Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
- Quyền nhân thân: quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm đây sẽ là quyền được bảo hộ trong thời hạn 50 năm. Đây cũng là điểm khác so với các quyền nhân thân còn lại của quyền tác giả.
- Quyền tài sản: bao gồm nhiều loại khác nhau nhưng thời hạn bảo hộ là khác nhau. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các quyền tài sản mà pháp luật quy định thời hạn bảo hộ dài ngắn là khác nhau:
Thứ nhất, tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình thì:
Nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được định hình.
Đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính như sau: suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo, trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết [16, điểm b, khoản 2, điều 27]. Đối với những tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh được công bố thời hạn bảo hộ sẽ dài hơn so với tác phẩm không được công bố. Khi được công bố thì sẽ tính từ thời điểm tác phẩm được công bố, còn không được công bố tính từ thời điểm tác phấm được hình thành. Đây chính là thời điểm khác nhau xác định thời điểm bảo hộ ở trường hợp này.
Thứ hai, tác phẩm không thuộc loại hình nêu trên thì có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết. Trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.
Những tác phẩm có đặc điểm khác nhau về quá trình hình thành, giá trị khác nhau nên thời hạn bảo hộ cũng khác nhau. Như vậy đảm bảo thời hạn bảo hộ hiệu quả cho từng loại tác phẩm.
- Thời hạn bảo hộ quyền liên quan
Điều 34 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định về thời hạn bảo hộ quyền liên quan như sau:
- Quyền của người biểu diễn được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình.
- Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố.
- Quyền của tổ chức phát sóng được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm chương trình phát sóng được thực hiện. Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
- Thời hạn bảo hộ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ các quyền liên quan.”
Quyền của người biểu diễn bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Các quyền của người biểu diễn được bảo hộ theo qui định tại khoản 1 Điều 34 Luật SHTT “Quyền của người biểu diễn được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình”. Tuy nhiên, cả hai quyền này pháp luật hiện hành qui định thời hạn bảo hộ là cùng là năm mươi năm [16, khoản 1 Điều 34]. Vì giả sử rằng khi người biểu diễn chỉ có quyền nhân thân mà không có quyền tài sản thì cũng chỉ có thể áp dụng thời hạn bảo hộ qui định tại khoản 1 Điều 34. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan không có sự phân biệt như trong các qui định về thời hạn bảo hộ của quyền tác giả. Đây là điểm khác so với quyền tác giả vì trong quyền tác giả thời hạn bảo hộ quyền nhân thân là không chuyển dịch và vô thời hạn [16, khoản 1 Điều 27]. Quy định này thể hiện sự chưa phù hợp với thực tiễn hiện nay và quy định về thời hạn bảo hộ quyền nhân thân trong quyền tác giả. Bởi quyền nhân thân trong quyền tác giả, ví dụ như quyền “Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả” được pháp luật bảo vệ vô thời hạn theo khoản 1 điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ, thì quyền liên quan lại chỉ được bảo hộ năm mươi năm.
1.2. Xử lý vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
1.2.1. Khái niệm vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan
Các văn bản pháp luật được ban hành trước Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 không quy định riêng về hành vi xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan. Trước đây, việc xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan dựa vào các quy định về quyền tác giả, quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp, việc xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan gặp khó khăn, vướng mắc do thiếu cơ sở pháp lí rõ ràng. Do đó, quy định về hành vi xâm phạm và yếu tố xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trong Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung và Nghị định 105/2006/NĐ-CP tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lí các hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Theo quy định tại Điều 28 Luật sở hữu trí tuệ, các hành vi sau đây bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả:
- Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
- Mạo danh tác giả.
- Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.
- Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó.
- Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
- Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật này.
- Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật này.
- Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật này.
- Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
- Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
- Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm.
- Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình. Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
- Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.
- Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.”
Yếu tố xâm phạm quyền tác giả có thể thuộc một trong các dạng sau đây: (Theo Khoản 1 điều 7 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP):
- Bản sao tác phẩm được tạo ra một cách trái phép;
- Tác phẩm phái sinh được tạo ra một cách trái phép;
- Tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt quyền tác giả;
- Phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép;
đ) Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền tác giả bị vô hiệu hoá trái phép. Sản phẩm có yếu tố xâm phạm quy định tại khoản này bị coi là sản phẩm xâm phạm quyền tác giả.
Theo quy định tại Điều 35 Luật sở hữu trí tuệ, hành vi xâm phạm quyền liên quan bao gồm:
- Chiếm đoạt quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
- Mạo danh người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
- Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
- Sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào đối với cuộc biểu diễn gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
- Sao chép, trích ghép đối với cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
- Dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.
- Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền liên quan thực hiện để bảo vệ quyền liên quan của mình.
- Phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng cuộc biểu diễn, bản sao cuộc biểu diễn đã được định hình hoặc bản ghi âm, ghi hình khi biết hoặc có cơ sở để biết thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử đã bị dỡ bỏ hoặc đã bị thay đổi mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.
- Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó giải mã trái phép một tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
- Cố ý thu hoặc tiếp tục phân phối một tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa khi tín hiệu đã được giải mã mà không được phép của người phân phối hợp pháp.”
Yếu tố xâm phạm quyền liên quan có thể thuộc một trong các dạng sau đây, dựa theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP:
- Bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn được tạo ra một cách trái phép;
- Bản sao bản định hình cuộc biểu diễn, bản sao bản ghi âm, ghi hình, bản sao chương trình phát sóng được tạo ra một cách trái phép;
- Một phần hoặc toàn bộ cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng bị sao chép, trích ghép trái phép; một phần hoặc toàn bộ chương trình phát sóng bị thu, giải mã và phân phối trái phép;
- Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền liên quan bị vô hiệu hoá trái phép; bản định hình cuộc biểu diễn bị dỡ bỏ hoặc bị thay đổi một cách trái phép thông tin về quản lý quyền liên quan.
Sản phẩm có chứa yếu tố xâm phạm quy định như trên bị coi là sản phẩm xâm phạm quyền liên quan.
1.2.2. Chế tài với vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật hiện hành của Việt Nam Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
Quy trình và thẩm quyền xử lý vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan phụ thuộc vào mức độ và hành vi vi phạm bản quyền tác giả của bên vi phạm. Theo đó, xử lý vi phạm quyền tác giả, vi phạm quyền liên quan được quy định tại Nghị định 131/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và Bộ luật Hình sự 2015.
1.2.2.1. Chế tài hành chính
Thẩm quyền: Thẩm quyền xử lý hành chính theo quy định tại Nghị định 131/2013/NĐ-CP gồm nhiều cơ quan ban ngành khác nhau như: Chủ tịch UBND các cấp, Thanh tra văn hóa, thể thao và du lịch và Thanh tra chuyên ngành khác, Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan và Quản lý thị trường.
Các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan sẽ bị xử lý hành chính là:
- Hành vi vi phạm quy định về đăng ký, quy định về hoạt động của tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, quy định về giám định quyền tác giả, quyền liên quan, quy định về hoạt động của tổ chức tư vấn, dịch vụ;
- Hành vi vận chuyển, tàng trữ hàng hóa sao chép lậu,
- Hành vi xâm phạm quyền đứng tên, đặt tên tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, quyền công bố tác phẩm, quyền làm tác phẩm phái sinh, quyền cho phép biểu diễn tác phẩm trước công chúng, quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, quyền phân phối tác phẩm, quyền nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng, quyền sao chép tác phẩm;
- Hành vi giả mạo chữ ký của tác giả trên tác phẩm,
- Hành vi xâm phạm quyền áp dụng biện pháp công nghệ để tự bảo vệ quyền tác giả, quyền được giới thiệu tên của người biểu diễn, quyền bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, quyền định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của người biểu diễn, quyền sao chép cuộc biểu diễn, quyền phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình, quyền phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao cuộc biểu diễn, quyền sao chép bản ghi âm, ghi hình, quyền phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao bản ghi âm, ghi hình;
- Hành vi sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại, – Hành vi xâm phạm quyền phát sóng, tái phát sóng, phân phối, định hình, sao chép chương trình phát sóng, Hành vi trích ghép bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, quyền áp dụng biện pháp công nghệ để tự bảo vệ quyền liên quan.
Các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể được quy định từ điều 4 đến điều 35 nghị định số 131/2013/NĐ-CP. Tuỳ từng hành vi vi phạm mà mức phạt có thể từ 2.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng. Vì giới hạn độ dài của khoá luận và mục đích của khoá luận nên người viết không đề cập rõ từng mức phạt hành chính cụ thể cho từng hành vi vi phạm.
1.2.2.2. Chế tài hình sự Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
T a án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự đối với các hành vi vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của Bộ luật hình sự. Cụ thể các hành vi sẽ bị xử lý vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan được quy định tại điều 225 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
- b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Có tổ chức;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
- Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên;
- Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
- Pháp nhân thương mại thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
- Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;
- Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.”
Như vậy, qua chương 1, các khái niệm, định nghĩa liên quan đến quyền tác giả, quyền liên quan; các điều kiện bảo hộ, nội dung, giới hạn quyền, thời hạn bảo hộ và các chế tài xử lý vi phạm quyền đã được nêu và phân tích. Chương 1 bao gồm những kiến thức cơ bản, là cơ sở lý luận để phân tích sâu hơn ở các chương sau. Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Thực trạng bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>> Khóa luận: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật […]