Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của trọng tài thương mại và thực tiễn thi hành dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1 Sơ lược về sự hình thành và phát triển của các quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại giai đoạn trước Luật trọng tài thương mại năm 2010.

Ở hầu hết các nước trên thế giới, để điều chỉnh hoạt động của trọng tài thương mại nói chung và thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài nói riêng ban đều ban hành một đạo luật khá sớm. Ví dụ, Trung Quốc có Luật Trọng tài 1994, Singapore có Luật trọng  tài 2001, ở Nhật có Luật trọng tài 2003, Malaysia có Luật trọng tài 1952 (sửa đổi năm 1972 và 1980), ở Đức có Luật trọng tài năm 1998, ở Anh có Luật trọng tài năm 1996…Các đạo luật này là cơ sở pháp lý nền tảng cho hoạt động trọng tài.

Còn ở Việt Nam, với lịch sử hình hành và phát triển hơn 50 năm, pháp luật về trọng tài thương mại cũng đánh dấu sự tiến bộ và hoàn thiện hơn của pháp luật về trọng tài nói chung cũng như pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp trọng tài nói riêng. Qua các giai đoạn khác nhau, chịu sự ảnh hưởng của chế độ chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau thì chế định thẩm quyền của trọng tài thương mại cũng có những bước phát triển theo hướng hoàn thiện cho tương thích với pháp luật quốc tế nhưng đặt trong bối cảnh phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị trong nước.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.1 Giai đoạn sơ khai (Trước năm 2003)

Giai đoạn trước 1954

Chế định trọng tài du nhập vào hệ thống pháp luât nước ta từ cuối thế kỉ XIX, trong một tranh chấp đất đai năm 1897, toà thượng thẩm Sài Gòn xét rằng: “trọng tài được thừa nhận trong pháp luật An Nam”. Trong thời gian này, các bộ luật dân sự rồi Toà án thương mại lần lượt ra đời. Như vậy cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chế định trọng tài là một phần trong pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên bối cảnh xã hội đương thời không thuận lợi cho sự phát triển của mô hình trên. Do đó, về cơ bản trọng tài không có tác động đáng kể đến xã hội Việt Nam trong giai đoạn này.

Giai đoạn 1954- 1994: 

Bước vào thời kì hội nhập, diện mạo pháp luật nước ta có sự thay đổi. Lúc này tồn tại song song hai hệ thống cùng có chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế các cơ quan trọng tài kinh tế và trọng tài phi nhà nước:

Trọng tài kinh tế Nhà nước: Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Đầu năm 1960, khi công cuộc khôi phục và cải tạo kinh tế (1955- 1960) sắp hoàn thành, miền Bắc chuẩn bị bước vào thời kỳ quá độ tiến lên Chủ nghĩa xã hội bằng kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965), để đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế theo kế hoạch, nhà nước ban hành “Điều lệ tạm thời về Hợp đồng kinh tế”( Ban hành kèm theo Nghị định số 04/TTg ngày 04/01/1960 ). Ngày 14/11/1960, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/TTg về Tổ chức Trọng tài kinh tế Nhà nước.  

Theo nghị định này, trọng tài được tổ chức ở ba cấp, đó là trọng tài kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh và trọng tài kinh tế với chức năng chủ yếu là xử lý các tranh chấp hợp đồng kinh tế. Có thể thấy trọng tài kinh tế nhà nước vừa là cơ quan xét xử vừa là cơ quan quản lý nhà nước. Là cơ quan quản lý nhà nước đương nhiên trọng tài kinh tế nhà nước phải thi hành mệnh lệnh của nhà nước, tuy vậy bản thân trọng tài kinh tế nhà nước cũng có quyền ra mệnh lệnh hành chính đối với các đối tượng có liên quan trong phạm vi điều chỉnh của pháp lênh hợp đồng kinh tế.

Thành viên Hội đồng trọng tài làm việc theo tính chất kiêm nhiệm (chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng trọng tài các cấp đều do các đồng chí lãnh đạo chính quyền kiêm nhiệm). Hoạt động của Hội đồng trọng tài chủ yếu là giải quyết các vụ tranh chấp trên cơ sở hoà giải và dựa trên các đơn khiếu nại của các bên. Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng trọng tài là đề ra những biện pháp kịp thời ngăn ngừa, hạn chế những tổn thất có thể xảy ra vì không chấp hành đúng hợp đồng xử lý những vụ tranh chấp về từ chối kí kết hợp đồng hoặc vi phạm hợp đồng đã kí kết theo kế hoạch nhà nước. Nếu không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài Bộ, địa phương thì các bên có quyền khiếu nại tới Hội đồng trọng tài trung ương. Hội đồng trọng tài Trung ương là cơ quan xử lý tối cao, các bên sau khi có quyết định của Hội đồng trọng tài Trung ương không còn khiếu nại dến cơ quan chín quyền nào khác.

 Để phân định thẩm quyền giữa toà án và hội đồng trọng tài tại Thông tư số 244-DS ngày 10/02/1960 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Từ nay, toà án các cấp không nên thụ lý giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa các cơ quan nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh với nhau, vì loại việc này thuộc về phạm vi quyền hạn của Hội đồng trọng tài các cấp”

Tiếp theo, sau khi thay thế Nghị định số 04-TTg bằng Nghị định số 54CP ngày 10/03/1975 về chế độ hợp đồng kinh tế thì ngày 14/04/1975, Chính phủ đã ra Nghị định số 75-CP để ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Trung tâm Trọng tài kinh tế. Theo bản điều lệ này, trọng tài kinh tế được thành lập như một cơ quan nhà nước có chức năng quản lý công tác hợp đồng kinh tế. Đó là chức năng giữ vững tính kỷ luật nhà nước về hợp đồng kinh tế, giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế và xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Cùng với sự chuyển đổi cơ chế, hoạt động của hoạt động của ngành trọng tài cũng phải chuyển đổi để phù hợp với cơ chế mới, cơ chế kinh tế nhiều thành phần. Sau khi pháp lệnh hội đồng kinh tế ban hành 25/09/1989, ngày 10/01/1990 pháp lệnh trọng tài kinh tế đã xác định rõ vai trò, vị trí chức năng nhiệm vụ quyền hạn của trọng tài kinh tế.Điều 2 Pháp lệnh quy định trọng tài kinh tê có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:

  • Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế
  • Kiểm tra, kết luận và xử lý các Hợp đồng kinh tế trái pháp luật
  • Tuyên truyền hướng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế
  • Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế.

Trọng tài kinh tế có thể được giao nhiệm vụ quyền và hạn khác khi cần thiết

Như vậy cùng một lúc, trọng tài kinh tế nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý các doanh nghiệp nhà nước, vừa giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau. Do đó, dù với tư cách là một tổ chức trọng tài hay với tư cách là một cơ quan hành chính, trọng tài kinh tế nhà nước khó có thể hoạt động hiệu quả vì  nó phải đảm đương cùng một lúc hai trọng trách.

Trọng tài phi nhà nước:

Đối với trọng tài phi nhà nước, tồn tại hai mô hình khác nhau. Mô hình thứ nhất ra đời từ năm 1963 bằng Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng Trọng tài ngoại thương. Tiếp sau đó, ngày 05/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 153/CP về việc thành lập Hội đồng Trọng tài Hàng hải. Tuy nhiên hai tổ chức trên chỉ thực sự hoạt động từ năm 1989 khi quan hệ ngoại thương bắt đầu phát triển.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài ngoại thương được quy định tại Điều 2- Điều lệ tổ chức Hội đồng trọng tài ngoại thương ngày 30 tháng 4 năm 1963: “Hội đồng trọng tài ngoại thương xét xử các vụ tranh chấp giữa các tổ chức kinh tế Viêt Nam và tổ chức kinh tế nước ngoài trong khi giao dịch giao dịch về ngoại thương hay phạm vi thi hành các hiệp định, hợp đồng ký kết giữa các đương sự”.

Như vậy, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài ngoại thương được xác lập trong hai trường hợp sau:

Thứ nhất: hội đồng trọng tài ngoại thương xét xử các tranh chấp giữa các tổ chức kinh tế Việt Nam và các tổ chức kinh tế nước ngoài trong phạm vi thi hành các hiệp định.

Thứ hai: Khi giữa Việt Nam và các nước không có điều ước quốc tế ràng buộc về thẩm quyền của trọng tài thì việc tiến hành trọng tài hoàn toàn dựa trên nguyên tắc ý chí tự nguyện của các bên tranh chấp. Hội đồng trọng tài ngoại thương chỉ có thẩm quyền xét xử khi giữa các bên đương sự đã thỏa thuận với nhau đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại Hội đồng trọng tài ngoại thương. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Trong điều lệ tổ chức của Hội đồng trọng tài hàng hải không có điều khoản quy định thẩm quyền xét xử của Hội đồng trọng tài hàng hải bắt nguồn từ các điều ước quốc tế mà điều này được quy định trong quy tắc tố tụng của hội đồng trọng tài hàng hải. Hội đồng trọng tài hàng hải có thẩm quyền xét xử ngay cả khi hai bên đương sự là tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài. Với quy định này, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài hàng hải được mở rộng hơn nếu so sánh với thẩm quyền của Hội đồng trọng tài ngoại thương.

Giai đoạn từ sau năm 1993 đến năm 2003:

Từ năm 1986 nhà nước Việt Nam chủ trương chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó đáng chú ý là chủ trương bình đẳng giữa các thành phần trong nền kinh tế, khuyến khích và phát triển kinh tế tư nhân; phát triển đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế… Như vậy, bên cạnh số lượng lớn các doanh nghiệp nhà nước, số lượng các công ty tư nhân cũng ngày càng gia tăng. Vấn đề đặt ra là phải cải tạo môi trường dân chủ và công bằng cho các thành phần kinh tế. Điều đó có nghĩa là cần phải có một cơ chế pháp lý thích hợp để bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp nhà nước.

Để đáp ứng yêu cầu của thực tế của hội nhập kinh tế quốc tế, Thủ tướng Chính phủ quyết định hợp nhất Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải để thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC) theo Quyết định số 204g/TTg ngày 28/03/1993. Khi mới thành lập, VIAC chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế quốc tế như hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng liên quan đến đầu tư, vận tải quốc tế nhưng sau đó thẩm quyền của VIAC đã được mở rộng bằng quyết định 114/TTg ngày 16/2/1996, theo đó VIAC có quyền giải cả các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh trong nước.

Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu cải tổ hệ thống trọng tài kinh tế nhà nước, ngày 05/09/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116-CP về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm Trọng tài kinh tế. Theo các quy định của nghị định này, Trọng tài kinh tế thực sự được xác định là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tức là tổ chức phi chính phủ có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn tách rời với chức năng quản lý nhà nước như trước. Tuy nhiên trên thực tế, các trung tâm trọng tài vẫn chịu sự quản lý trực tiêp của nhà nước về vấn đề xét đơn xin thành lập trung tấm, chỉ định Hội đồng tuyển chọn trọng tài viên, cấp và thu hồi thẻ trọng tài viên .Về thẩm quyền, trọng tài kinh tế có thẩm quyền tương tự tòa án kinh tế trừ quyền tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Theo đó trọng tài kinh tế chỉ được giải quyết ba loại tranh chấp sau đây: (1) Tran chấp hợp đồng kinh tế;(2) Tranh chấp trong nội bộ công ty; (3) Tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu,trái phiếu. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy: Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Nhóm tranh chấp thứ nhất: số lượng các tranh chấp liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế có thể đưa ra giải quyết tại trọng tài kinh tế so với tổng thể các tranh chấp phát sinh trong lưu thông hàng hàng hóa là không đáng kể vì hợp đồng kinh tế theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 chỉ được ký kết giữa các chủ thể rất hạn chế đó là giữa pháp nhân với pháp nhân; hoặc giữa pháp nhân với cá nhân đăng ký kinh doanh (được hiểu là doanh nghiệp tư nhân). Như vậy tuyệt đại đa số các hợp đồng ký kết không giữa các chủ thể trên đều không được coi là hợp đồng kinh tế do đó các tranh chấp phát sinh giữa chúng cũng không thuộc phạm trù tranh chấp hợp đồng kinh tế. Khi đã không được coi là tranh chấp hợp đồng kinh tế thì các tranh chấp này dù có được các bên thỏa thuận đưa ra trọng tài cũng không được quyền thụ lý và giải quyết.

Nhóm tranh chấp thứ hai thuộc thẩm quyền của trọng tài kinh tế đều là các tranh chấp trong nội bộ công ty, phát sinh giữa thành viên của công ty với nhau trong quá trình thành lập, hoạt động công ty. Số lượng những tranh chấp này không nhiều và thường được giải quyết bằng con đường thương lượng giữa bên có liên quan theo các phương thức đã được quy định trong điều lệ công ty. Thực tiễn vừa qua chứng minh cho điều này vì trong suốt những năm hoạt động, chưa có trung tâm trọng tài kinh tế nào thụ lý và giải quyết dạng tranh chấp này.

Nhóm tranh chấp thứ ba lại càng hiếm trong điều kiện chúng ta chưa có thị trường chứng khoán hoạt động sôi nổi, có hiệu quả. Cũng chính vì vậy, các tranh chấp này chỉ mới được gọi tên trong văn bản pháp luật mà chưa hề được đưa ra giải quyết ở bất cứ cơ quan tài phán kinh tế nào ở nước ta, kể cả tòa kinh tế.

Ngoài việc thành lập mới các trung tâm trọng tài như trên, năm 1995, Việt Nam còn gia nhập Công ước New york về việc công nhận và cho thi hành  phán quyết trọng tài. Việc gia nhập công ước nghĩa là bất kì phán quyết trọng tài nào tại bất kỳ nước nào là thành viên công ước mà có một bên của phán quyết ở Việt Nam hoặc hoặc tài sản ở Việt Nam thì đều được Nhà nước Việt Nam công nhận và bảo hộ thi hành. Ngược lại, bất kỳ phán quyết nào của trọng tài Việt Nam cũng có thể được công nhận và cho thi hành ở bất kỳ nước thành viên nào của công ước.

Trong thời kỳ này, không có một luật về trọng tài thống nhất điều chỉnh hệ thống trọng tài trong nước và trọng tài quốc tế. Thêm vào đó, quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài không được đảm bảo thi hành. Vì thế, mô hình trọng tài thương mại trong giai đoạn này chưa thật sự đạt được những thành tựu đáng kể trên hành trình tiếp cận những chuẩn mực của trọng tài thương mại hiện đại.

2.1.2 Giai đoạn chuyển tiếp ( 2003-2010) Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật thời kì trước, sau sáu năm chuẩn  bị, ngày 25/2/ 2003, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại gồm 8 chương và 37 điều, thể hiện nỗ lực to lớn của Việt Nam hoà cùng xu thế hội nhập.

Pháp lệnh thương mại đã mở rộng thẩm quyền đáng kể cho trọng tài so với Nghị định 116/CP ngày 05/09/1994 về tổ chức và hoạt động của Trung tâm trọng tài kinh tế.Theo đó, trọng tài thương mại có thẩm quyền: “giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định” (Khoản 1, Điều 2, Pháp lệnh trọng tài 2003).

Như đã phân tích ở trên, theo Nghị định 116/CP , do thẩm quyền của trọng tài kinh tế trong nước khá hẹp nên có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cho dù có muốn chăng nữa thì các bên cũng không thể đưa ra trọng tài giải quyết như quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tranh chấp sở hữu trí tuệ …Để khắc phục nhược điểm này đảm bảo sự tương thích về vấn đề thẩm quyền của trọng tài Việt Nam với trọng tài của nhiều nước trên thế giới, Pháp lệnh đã đưa ra khái niệm mới về “hoạt đông thương mại” cho phép trọng tài giải quyết mọi tranh chấp phát sinh từ khái niệm thương mại này.  Theo đó, hoạt động thương mại được hiểu theo nghĩa rộng phù hợp với khái niệm “kinh doanh” trong luật doanh  nghiệp và được hiểu là: “là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li – xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”.

Trong bối cảnh Pháp lệnh đã được ban hành vào thời điểm Luật thương mại 1997 vẫn đang có hiệu lực nhưng các nhà lập pháp đã mạnh dạn đưa khái niệm thương mại theo hướng mở, tương thích với Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, mà không bó buộc trong 14 hành vi quy định trong Luật thương mại 1997. Đây được coi là bước “đột phá” trong công tác lập pháp vào thời điểm đó. Theo đó, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh trọng tài thương mại mà các bên tranh chấp là cá nhân, tổ chức kinh doanh (Điều 2 Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 15 tháng 1 năm 2004 hướng dẫn thi hành pháp lệnh trọng tài thương mại)

Như vậy, các tranh chấp được giải quyết tại trọng tài phải thỏa mãn ba điều kiện:

  • Thứ nhất, tranh chấp đó phải là tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại theo quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.
  • Thứ hai: giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.
  • Thứ ba: các bên tranh chấp ở đây là tổ chức, cá nhân kinh doanh.

Tuy nhiên, sau hơn 6 năm thi hành, quy định trên của Pháp lệnh cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định:

Thứ nhất, đã có cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “thương mại” trong Pháp lệnh. Điều này dẫn đến tranh cãi trong việc xác định phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài.

Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp 2005, mỗi năm có thêm hàng nghìn doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập điều đó cũng có nghĩa là sẽ có rất nhiều tranh chấp phát sinh liên quan đến việc góp vốn, quản lý và điều hành các doanh nghiệp này. Vấn đề đặt ra là những tranh chấp phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp, tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu có được giải quyết bằng trọng tài không?

Có ý kiến cho rằng các loại tranh chấp này đương nhiên thuộc thẩm quyền của trọng tài bởi vì việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu cũng như việc góp vốn chính là hoat động đầu tư, tài chính vì có bản chất kinh doanh thu lợi nhuận. Hơn nữa, cần phải hiểu tính “mở” của khái niệm thuật ngữ thương mại trong pháp lệnh. Theo đó, ngoài việc liệt kê các hành vi thương mại, pháp lệnh còn quy định các hành vi khác theo quy định của pháp luật. Do vậy, bất kỳ quy định nào của pháp luật xác định lĩnh vực hoạt động là thương mại thì trọng tài đều có thẩm quyền giải quyết.

Tuy nhiên, có ý kiến khác cho rằng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp này không được liệt kê cụ thể tại khoản 3 Điều 2 của pháp lệnh. Do đó, chỉ có tòa án mới có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này.

Như vậy, quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đã dẫn đến việc hiểu và áp dụng khác nhau và sẽ tạo ra hậu quả pháp lý không giống nhau. Cụ thể, dựa theo quan điểm “mở” trọng tài có thể thụ lý giải quyết tranh chấp nêu trên. Tuy nhiên, nếu áp dụng một cách “máy móc” và dựa theo nguyên tắc “chỉ được làm những gì pháp luật cho phép”, tòa án sẽ cho rằng trọng tài vượt quá thẩm quyền. Điều này dẫn đến hậu quả là các quyết định trọng tài có nguy cơ không được tòa công nhận và cho thi hành.

Thứ hai, về phạm vi chủ thể của vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài.

Khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh quy định: “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định” . Theo quy định trên, thuật ngữ “các bên” sẽ có hàm ý rất rộng. Các bên có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Trong khi đó, Nghị định số  25/2004/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh lại giới hạn phạm vi chủ thể chỉ bao gồm: “cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh”. Cụ thể Điều 2 của Nghị định quy định “Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại quy định tại Khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh mà các bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh”. Như vậy, trong khi tinh thần pháp lệnh thì “mở” nhưng văn bản hướng dẫn thi hành,tuy có hiệu lực thấp hơn lại đưa ra quy định đóng. Điều này khiến các trung tâm trọng tài đã phải từ chối rất nhiều vụ tranh chấp do chủ thể ký thỏa thuận trọng tài không phải là “tổ chức, cá nhân kinh doanh”. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Thứ ba, việc quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi nó “không xác định rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp” là không hợp lý. Điều này mâu thuẫn với chính Pháp lệnh khi nó quy định công nhận sự tồn tại của hai hình thức trọng tài: trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế. Trên thực tế, sẽ không bao giờ có tên tổ chức trọng tài nếu cụ thể nếu các bên lựa chọn hình thức trọng tài vụ việc.  

Thứ tư, ngoài ra, Pháp lệnh đã bỏ sót một chế định rất cơ bản đó là vấn đề thỏa thuận trọng tài “không thực hiện được hoặc không thể thực hiện được”. Trong thực tế áp dụng pháp luật trọng tài cho thấy có những trường hợp thoa thuận trọng tài có hiệu lực nhưng không thể thực hiện được. Ví dụ đơn giản như, khi tranh chấp xảy ra thì trung tâm trọng tài mà các bên lựa chọn đã giải thể hoặc trọng tài viên duy nhất được các bên lựa chọn không có khả năng làm trọng tài viên để hòa giải vụ việc (ví dụ như: người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hay rơi vào các trường hợp không được làm trọng tài viên ..) khi đó vụ việc cần được giải quyết như thế nào? Vì giữa các bên đã có một thỏa thuận đã có hiệu lực pháp luật nên tòa án sẽ không thụ lý giải quyết tranh chấp nếu một bên khởi kiện. Điều này dẫn đến nhiều vụ tranh chấp phát sinh nhưng không được cơ quan nào giải quyết, các bên phải tự gánh chịu.       

Nhìn một cách tổng quát, mặc dù đã có những quy định khá tiến bộ so với trước đây, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 vẫn chưa đủ khả năng tạo ra những cơ sở pháp lý thực hiện chủ trương của nhà nước ta khuyến khích các bên sử dụng trọng tài trong giải quyết các tranh chấp thương mại và các tranh chấp khác.

2.2 Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương thương mại theo Luât trọng tài thương mại 2010

Mặc dù Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã thể hiện sự thành công đáng kể trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của trọng tài, song qua sáu năm thực hiện, Pháp lệnh cũng bộc lộ không ít bất cập. Do đó thực hiện chiến lược cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, luật trọng tài thương mại được ban hành với mục tiêu ghi nhận chủ trương mở rộng các hình thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại và một số quan hệ dân sự khác, đáp ứng nhu cầu và khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng hình thức trọng tài, góp phần giảm tải hoạt động xét xử của hệ thống toà án hiện nay.

Luật Trọng tài thương mại 2010 được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2011, đã có quy định rõ về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại. Theo đó, tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài nếu thỏa mãn đồng thời hai điều kiện sau:

2.2.1  Các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài hợp lệ và có thể thực hiện được trên thực tế. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Khoản 1 Điều 5 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định rõ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Như vậy, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát sinh thẩm quyền của trọng tài. Quy định này khác với tố tụng tòa án, theo đó khi xảy ra tranh chấp thì bất kỳ bên nào cũng có quyền yêu cầu tòa án xem xét giải quyết mà không cần được bên kia đồng ý vì thẩm quyền của tòa án là đương nhiên. Nhưng với trọng tài thì không phải như vậy, nếu các bên không có thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thì trọng tài tuyệt nhiên không có thẩm quyền gì.  Có thể thấy các loại việc quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại chỉ là điều kiện cần còn điều kiện đủ để tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của trọng tài là phải có thỏa thuận trọng tài hay nói cách khác là các bên trong quan hệ tranh chấp đã thỏa thuận lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp.

  • Thoả thuận trọng tài:

Trước hết, có thể hiểu thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi phải có sự thoả thuận của các bên. Về nguyên tắc “Không có thoả thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, khôn có tố tụng trọng tài”  Về thời điểm lập thỏa thuận trọng tài: Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Khi giao dịch với nhau các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng là trường hợp xảy ra tranh chấp sẽ đưa ra trọng tài giải quyết. Tuy nhiên, điều này không phải là bắt buộc. Có thể lúc đầu các bên thỏa thuận tòa án giải quyết tranh chấp hoặc không thỏa thuận nhưng khi xảy ra tranh chấp, các bên thỏa thuận lại trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp thì trọng tài vẫn có thẩm quyền. Ngoài ra, nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài thì một bên không thể đơn phương hủy bỏ thỏa thuận đó. Ví dụ, bên đó không thể nói rằng mình không muốn thực hiện theo thỏa thuận trọng tài nữa và khởi kiện ra tòa. Tòa án sẽ phải từ chối thụ lý một yêu cầu như vậy.

Về hình thức của thoả thuận trọng tài: Theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 thì thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Đây là một điều kiện rất quan trọng về mặt hình thức cua thỏa thuận trọng tài. Nếu các bên có trao đổi, thỏa thuận  thống nhất với nhau về thỏa thuận trọng tài nhưng mới chỉ dừng lại ở lời nói mà chưa hình thành một dạng văn bản phù hợp với quy định của pháp luật thì sẽ không được coi là có thỏa thuận trọng tài. Việc các bên có thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới dạng văn bản là rất đa dạng. Khoản 2 Điều 16 Luật trọng tài thương mại 2010 đã liệt kê một số hình thức thỏa thuận trọng tài bằng văn bản:

  • Các thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.
  • Các thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
  • Các thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
  • Một số văn bản thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác mà các bên dẫn ciêu đến trong giao dịch.
  • Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận

Thỏa thuận trọng tài hợp lệ:

 Như đã phân tích ở trên, một tranh chấp muốn giải quyết bằng trọng tài thương mại, trước hay sau khi xảy ra tranh chấp giữa hai bên phải tồn tại một thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi được xác lập trên cơ sở tự nguyện theo ý chí của các bên đương sự và không nằm trong các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.

Trong các trường hợp sau đây, thỏa thuận trọng tài vô hiệu:

  • Tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài: là trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại.
  • Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật: là người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền.Về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.
  • Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự: là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này thì Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
  • Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định của pháp luật;
  • Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu; là trường hợp một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép theo quy định tại Điều 4, Điều 132 của Bộ luật dân sự.
  • Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật: là thỏa thuận thuộc trường hợp quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự.

Ngoài ra, cần lưu ý điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về các trường hợp thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được, bao gồm: Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

  • Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng tài cụ thể nhưng trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.
  • Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc trung tâm trọng tài, tòa án không thể tìm được trọng tài viên như các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn trọng tài viên khác để thay thế.
  • Đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên, nhưng vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể tham gia giải quyết, hoặc trung tâm trọng tài, tòa án không thể tìm được trọng tài viên như các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn trọng tài viên khác để thay thế;
  • Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên trọng tài vụ việc nhưng trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định trọng tài viên và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn trọng tài viên khác để thay thế;
  • Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa thuận áp dụng quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài khác với quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
  • Doanh nghiệp và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung do doanh nghiệp soạn sẵn nhưng khi tranh chấp phát sinh, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.

Thông thường nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận đó là hoàn toàn hợp pháp, phù hợp với quy định của pháp luật thì các bên phải tôn trọng thỏa thuận đó. Khi có tranh chấp, nếu một bên khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết, tòa án sẽ từ chối đơn và không thụ lý.Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dung thì dù trong giao dịch hợp đồng đã ghi nhận về thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận này không trái pháp luật,  nhưng khi có tranh chấp thì pháp luật dành quyền quyết định cho người tiêu dùng lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là tòa án hay trọng tài. Sở dĩ pháp luât dành quyền ưu tiên cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là vì người tiêu dùng thường ở vị thế yếu hơn so với nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ về cả phương tiện kinh tế, xã hội lẫn điều kiện cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình;  dù về địa vị pháp lý, sự bình đẳng trước pháp luật là như nhau. Do đó, việc quy định dành quyền lựa chọn phương thức giải quyết khi có tranh chấp là nhằm tạo thuận lợi cho người tiêu dùng bảo vệ lợi ích của mình một cách tốt nhất. Pháp luật của Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới  luôn chọn phương án bảo vệ người yếu thế.

  • Trường hợp nội dung thỏa thuận trọng tài không rõ ràng hoặc các bên có nhiều tỏa thuận trọng tài,hoặc nội dung thỏa thuận trọng tài không rõ ràng Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Trường hợp các bên có nhiều thỏa thuận trọng tài ở các thời  điểm khác nhau;hoặc có sự chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong giao dịch; nội dung tỏa thuận không rõ ràng…là những trường hợp gây khó khắn lung túng trong quá trình xử lý trên thực tế. Dự liệu được điều này điều 7 Nghị quyết 01/2014/NĐ-HĐCP đã có hướng dẫn chính xác xử lý như sau:

  • Trường hợp các bên có nhiều thỏa thuận trọng tài:

Trên thực tế không phải lúc nào các bên trong tranh chấp cũng chỉ có một thỏa thuận trọng tài mà có có nhiều thỏa thuận được lập ở các thời điểm khác nhau trước khi kí hợp đồng, trong quá trình thực hiện hợp đồng, hoặc sau khi thực hiện hợp đồng. Có những thỏa thuận có nội dung giống nhau hoặc bổ sung cho nhau nhưng cũng có những trường hợp thỏa thuận trọng tài có nội dung hoàn toàn khác nhau.

Trường hợp có nhiều thỏa thuận trọng tài xác lập đối với cùng một nội dung tranh chấp thì thỏa thuận trọng tài được xác lập hợp pháp sau cùng theo thời gian sẽ là thỏa thuận có giá trị áp dụng.

  • Trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng:

Trường hợp thỏa thuận trọng tài có nội dung không rõ ràng, có thể theo nhiều nghĩa khác nhau thì áp dụng quy định để Bộ luật dân sự để giải thích:

Việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây(Điều 121 Bộ luật dân sự 2015):

  • Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
  • Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
  • Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập.

Việc giải thích hợp đồng được thực hiện theo quy định tại Điều 404 của Bộ luật Dân sự 2015 theo đó:

  • Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì việc giải thích điều khoản đó không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí của các bên được thể hiện trong toàn bộ quá trình trước, tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp đồng.
  • Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với mục đích, tính chất của hợp đồng.
  • Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.
  • Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng.
  • Trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để giải thích hợp đồng.
  • Trường hợp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên kia. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Tùy theo từng thỏa thuận trọng tài và điều khoản, nội dung được coi là không rõ ràng trong thỏa thuận trọng tài đó mà áp dụng quy định nói trên trong Bộ luật dân sự để lựa chọn phướng án giải thích hợp lý, được coi là phù hợp nhất.

  • Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong trường hợp chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch.

Như đã nói ở trên, thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với nội dung mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng, trong giao dịch kinh tế, thương mại. Do đó trường hợp có sự quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, hợp đồng mà trong giao dịch, hợp đồng đó các bên có xác lập thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì thỏa thuận trọng tài trong giao dịch, hợp đồng vẫn có hiệu lực đối với bên được chuyển giao và bên nhận chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

  • Kế thừa thỏa thuận trọng tài

Thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực kể cả khi một trong các bên của thỏa thuận không còn tồn tại hoặc không còn khả năng tham gia giao dịch. Nếu một bên là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó. Tương tự, nếu một bên là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức nào tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó. Quy định này áp dụng trừ khi các bên có thỏa thuận khác.

2.2.2 Quy định tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài thương mại.

Việc xác định những trường hợp tranh chấp nào sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài có ý nghĩa hết sức to lớn. Nhận thức đúng đắn về thẩm quyền của của trọng tài sẽ giúp cho thẩm phán, trọng tài viên hạn chế được sự nhầm lẫn với thẩm quyền của tòa án trong quá trình thụ lý, giải quyết, sẽ giúp cho hoạt động trọng tài ngày càng tốt hơn, vừa đem lại niềm tin cho thương nhân vùa góp phần giảm tải cho tòa án.

Theo quy định tại Điều 2 Luât trọng tài thương mại thì trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp sau:  

  • Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại:

Đối với loại “tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại ” thì các bên tranh chấp đó đều phải là các chủ thể tiến hành hoạt động thương mại. Trái với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 quy định cụ thể các loại “hoạt động thương mại” theo hình thức liệt kê. Luật trọng tài thương mại 2010 không định nghĩa khái niệm hoạt động thương mại, mà sử dụng khái niệm hoạt động thương mại tại Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005:  “ Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” 

Theo Luật thương mại 2005, các hoạt động thương mại bao gồm:

  • Hoạt động mua bán hàng hóa: ở đây được hiểu là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.
  • Hoạt động cung ứng dịch vụ: Là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
  • Hoạt động xúc tiến thương mại: là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa,dịch vụ và hội chợ,triển lãm thương mại.
  • Các hoạt động trung gian thương mại: là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại.

Một số hoạt động thương mại cụ thể khác:

  • Gia công thương mại: là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao ( Điều 178 Luật thương mại 2005) 
  • Đấu giá hàng hóa,dịch vụ: là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất (Khoản 1 Điều 185 Luật thương mại năm 2005)
  • Đấu thầu hàng hóa dịch vụ:“ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá, dịch vụ thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu)” (Điều 214 Luật Thương mại 2005)
  • Dịch vụ logistics: “là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.” (Điều 233 Luật thương mại 2005)

Quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh hàng hóa:

Quá cảnh hàng hóa là việc vận chuyển hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam, kể cả việc lưu kho, chia tách lô hàng thay đổi phương thức vận tải hoặc các công việc khác được thực hiện trong thời gian quá cảnh (Điều 241 Luật Thương mại 2005) Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Còn dịch vụ quá cảnh hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân thực hiện việc quá cảnh cho hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam để hưởng thù lao (Điều 249 Luật thương mại 2005)

  • Dịch vụ giám định hàng hóa và kết quả cung ứng dịch vụ : “Dịch vụ giám định là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân thực hiện những công việc cần thiết để xác định tình trạng thực tế của hàng hoá, kết quả cung ứng dịch vụ và những nội dung khác theo yêu cầu của khách hàng” (Điều 254 Luật thương mại 2005)
  • `Cho thuê hàng hóa: “Cho thuê hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó một bên chuyển quyền chiếm hữu và sử dụng hàng hoá (gọi là bên cho thuê) cho bên khác (gọi là bên thuê) trong một thời hạn nhất định để nhận tiền cho thuê”  (Điều 269 Luật thương mại 2005)
  • Nhượng quyền thương mại: là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau do pháp luật quy định. ( Điều 284 Luật thương mại 2005)

Như vậy, có thể thấy phạm vi của hoạt động thương mại rất rộng. Bên cạnh những hoạt động đã được liệt kê cụ thể trong luật thì bất kỳ hoạt động nào khác chỉ cần thỏa mãn điều kiện nhằm “mục đích sinh lợi” cũng được coi là hoạt động thương mại và tranh chấp phát sinh từ các hoạt động này có thể được trọng tài giải quyết.

Chủ thể tiến hành hoạt động thương mại:

  • Chủ thể tiến hành hoạt động thương mại trước hết là thương nhân, bao gồm thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài. Thương nhân Việt Nam là các chủ thể như được quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.” Còn thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận ( Khoản 1 Điều 16 Luật thương mại 2005 ).
  • Bên cạnh đó hoạt động của các cá nhân dưới hình thức tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân” cũng được xem là hoạt động thương mại.

Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại;

Quy định này mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài. Nếu như trước đây , theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh thì Luật trọng tài thương mại 2010 đã mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài.

Quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật trọng tài thương mại chủ yếu đề cập đến yếu tố chủ thể, đó là đòi hỏi ít nhất phải có một chủ thể trong quan hệ tranh chấp có hoạt động thương mại, còn các chủ thể khác không đòi hỏi phải có hoạt động thương mại vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Có thể hiểu quy định này theo hai hướng:

Cách hiểu thứ nhất, chỉ căn cứ vào yếu tố chủ thể, chỉ cần trong vụ tranh chấp có một chủ thể đang hoạt động thương mại bất kể quan hệ tranh chấp thuộc loại quan hệ gì (quan hệ dân sự, hành chính,hôn nhân gia đình, lao động..) không liên quan đến hoạt động thương mại cũng vẫn thuộc thẩm quyền của trọng tài. Đây là hướng giải thích rất rộng, mở ra cho trọng tài thẩm quyền trong nhiều loại việc không chỉ còn gói gọn trong các hoạt động thương mại mà còn ở rất nhiều lĩnh vực khác, đây cũng là xu thế phát triển chung của toàn thế giới. Tuy nhiên nếu chỉ xem xét trong phạm vi tên gọi của luật và hệ thống các quy định trong Luật trọng tài thương mại của Việt Nam thì cách hiểu này lại chưa hoàn toàn phù hợp, vì mới chỉ dựa vào yếu tố chủ thể, yếu tố hàm chứa hình thức trong quan hệ chứ chưa đi vào bản chất vấn đề đó là nội dung quan hệ hoạt động của các chủ thể trong quan hệ tranh chấp đó. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Hướng giải thích thứ hai, dù quan hệ tranh chấp không phát sinh từ hoạt động thương mại của cả hai bên, nhưng trong quan hệ tranh chấp đó có một bên hoạt động thương mại và hành vi trong giao dịch của chủ thể này là hành vi thương mại hoặc tranh chấp đó có liên quan đến hoạt động thương mại của họ thì thuộc thẩm quyền của trọng tài. Cách hiểu như trên khá hợp lý vừa không làm cho thẩm quyền trọng tài bị thu hẹp nhưng cũng không quá rộng như hướng giải thích thứ nhất.

Theo đó, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp mà trong đó chỉ cần một bên tranh chấp đó là thương nhân ( thực hiện hoạt động thương mại ) còn các bên còn lại có thể tham gia quan hệ với các mục đích phi lợi nhuận như tiêu dùng, nhu cầu cá nhân. Như vậy, tranh chấp giữa một thương nhân và các cá nhân, tổ chức không kinh doanh (có thể bao gồm cả các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của nhà nước) cũng có thể được giải quyết bởi trọng tài thương mại. Trong quan hệ với các bên có hoạt động thương mại thì các bên này có thể đóng vai trò là người tiêu dùng. Người tiêu dùng ở đây được hiểu là “ người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ có mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức”. Các giao dịch này có thể được giải quyết bởi trọng tài thương mại nếu giữa các bên có một thỏa thuận trọng tài hợp pháp. Đây là trường hợp trong quan hệ tranh chấp có một bên hoạt động thương mại ngay trong quan hệ tranh chấp đó.

Trọng tài cũng có quyền giải quyết đối với quan hệ tranh chấp mà hai bên không có hoạt động thương mại nào trong quan hệ tranh chấp nhưng nó có liên quan đến hoạt động thương mại của một trong hai bên tranh chấp đó, như tranh chấp ngoài hợp đồng.  Khi một bên tranh chấp có hoạt động thương mại và hoạt động đó có liên quan đến quan hệ tranh chấp. Ví dụ A là doanh nhân đang trên đường vận chuyển hàng hóa thì bị xe ô tô của B ( không hoạt động thương mại) đâm và làm hỏng xe cũng như hàng hóa vận chuyển làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của A.Thì theo cách hiểu thứ hai tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại này trọng tài hoàn toàn có quyền giải quyết.

Tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết tại trọng tài.

Trong trường hợp này, tiêu chí hoạt động thương mại thậm chí còn không được đặt ra, đây là những loại việc mà tranh chấp giữa các bên không phát sinh từ hoạt động thương mại, hoặc giữa các bên tranh chấp không có bên nào có hoạt động thương mại, không liên quan đến hoạt động thương mại, nhưng  luật chuyên ngành có quy định tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài thương mại. Đây là quy định mở nhằm bảo đảm các luật ban hành sau này có thể quy định các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của luật đó có thể được giải quyết bằng trọng tài mà không cần phải sữa đổi Luật trọng tài thương mại  2010. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Từ năm 2000 trở về trước rất hiếm luật chuyên ngành quy định trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên bước vào thời kì hội nhập kinh tế, cũng những đòi hỏi khách quan về sự đa dạng phương thức giải quyết tranh chấp cho phù hợp với xu hướng của các nước trên thế giới do đó ngày càng nhiều luật chuyên ngành quy định khi có tranh chấp các bên có thể chọn phương án giải quyết tranh chấp bằng tòa án hoặc trọng tài. Khi có sự ghi nhận nhận thẩm quyền của trọng tài trong một số luật chuyên ngành, trọng tài sẽ có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ như:

  • Luật Doanh nghiệp (2014) Điều 147 quy định: Cổ đông, thành viên công ty có quyền yêu cầu trọng tài xem xét hủy bỏ quyết định hoặc một phần nội dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông công ty.
  • Bộ luật Hàng hải (2005) quy định: trong hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải, các bên có quyền yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp ( khoản 1 Điều 159 Bộ luật Hàng hải ). Trong trường hợp một trong hai bên tham gia hợp đồng là người nước ngoài, có thể chọn trọng tài một trong hai nước mà các bên mang quốc tịch hoặc trọng tài nước thứ ba ( Khoản 1Điều 5)
  • Luật đầu tư ( 2005) cũng quy định cho phép giải quyết tranh chấp bằng trọng tài những tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam theo Điều 12.

Ngoài ra Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006  được sửa đổi bổ sung năm 2014 (Điều 172, Điều 173); Luật các công cụ chuyển nhượng ( Điều 79) ; Luật chứng khoán 2006, sửa đổi bổ sung 2010 ( Điều 131); Luật chuyển giao công nghệ 2005 (Điều 55); Luật xây dựng 2014 (điểm b khoản 8 Điều 146); Luật sở hữu trí tuệ ( Điều 198); Luật bảo vệ môi trường 2014( Điều 161)… đều quy định cho phép sử giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

Khi gặp các trường hợp này nếu xác định đúng là thuộc thẩm quyền trọng tài thì cơ quan có thẩm quyền vừa phải viện dẫn quy định trong các văn bản pháp luật khác, hoặc các điều ước quốc tế… vừa viện dẫn Khoản 3 Điều 2 Luật trọng tài thương mại để xác định thẩm quyền của trọng tài.

Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại. Theo đó, các tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh được giải quyết tại trọng tài thương mại không chỉ giới hạn giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh với nhau như Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.Với phạm vi thẩm quyền rộng hơn, trọng tài có thể tập trung giải quyết hầu hết các tranh chấp thương mại thực tế. Cách tiếp cận này của Luật Trọng tài thương mại cũng đã tương thích với quy định của pháp luật nội dung về hợp đồng trong kinh doanh (hợp đồng thương mại)

2.3 Phân định thẩm quyền của Trọng tài thương mại và Toà án theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Việc xác định đúng thẩm quyền của tòa án và thẩm quyền của trọng tài sẽ không chỉ tránh được việc hai tổ chức tài phán dẫm chân lên nhau, mà còn giúp cho tòa án vừa phối hợp hỗ trợ, vừa giám sát hoạt động của trọng tài thông qua việc thực hiện thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

Theo tinh thần của Luật trọng tài thương mại và Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP thì khi đã có thỏa thuận trọng tài và thuộc các trường hợp quy định tại Điều 2 của Luật trọng tài thương mại thì luôn luôn dành quyền quyền ưu tiên cho trọng tài có thẩm quyền giải quyết, thể hiện sự tôn trọng tự do thỏa thuận của các bên trong tranh chấp. Điều 6 Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định, một khi các bên đã thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại thông qua một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực, thì khi đó tòa án phải từ chối thụ lý đơn khởi kiện khi một trong các bên khởi kiện tại tòa án để giải quyết tranh chấp. Lúc này, dù không trực tiếp giải quyết, nhưng tòa án có vai trò hỗ trợ và giám sát hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại khi một trong các bên hoặc Hội đồng trọng tài có yêu cầu.

Tuy nhiên, Tòa án vẫn có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại trong các trường hợp sau:

  • Có quyết định của Tòa án huỷ phán quyết trọng tài/quyết định của Hội đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên;
  • Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng/Trung tâm trọng tài trong các trường hợp pháp luật quy định sau:
  • Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;
  • Nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức mà không có cơ quan, tổ chức nào tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó;
  • Các bên thoả thuận chấm dứt việc giải quyết tranh chấp;
  • Tòa án đã quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, trong trường hợp này Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp. Nếu không có thỏa thuận khác, các bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Tòa án.

Ngoài các trường hợp nêu trên, các tranh chấp thuộc trường hợp “thỏa thuận trọng tài không thực hiện được” và “thỏa thuận trọng tài vô hiệu”  quy định tại Điều 6 và Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010 cũng sẽ do Tòa án giải quyết

Như đã nói ở trên khi đã có đủ căn cứ xác định thỏa thuận trọng tài không thuộc thẩm quyền giải quyết, không thể thực hiện được hoặc vô hiệu thì tranh chấp đó sẽ do Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, không phải khi nhận được đơn khởi kiện của đương sự trong các trường hợp nêu trên là Tòa án được thụ lý ngay. Các thẩm phán cần hết sức lưu ý về thời điểm tòa án thụ lý các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thẩm quyền Hội đồng trọng tài, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được… nhằm bảo đảm quyền lựa chọn của đương sự và thực hiện thẩm quyền của Trọng tài.

Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại thì tòa án yêu cầu một hoặc các bên cho biết tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Tòa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện để xác định vụ tranh chấp đó có thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này hay không. Tùy từng trường hợp cụ thể mà tòa án xử lý như sau: Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

  • Trường hợp tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc quyết định, phán quyết có hiệu lực pháp luật của trọng tài xác định vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài thì tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.
  • Trường hợp tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp phán quyết trọng tài bị tòa án hủy, hoặc hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài đình chỉ giải quyết, không thuộc trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được…( tức là vụ tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài) nếu tòa chưa thụ lý thì căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) để trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện, Trường hợp sau khi thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài hoàn toàn phù hợp với pháp luật, oàn toàn có thể thực hiện được thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217  Bộ luật tố tụng dân sự 2015  ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
  • Trường hợp đã có yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp và Hội đồng trọng tài đang giải quyết vụ tranh chấp thì dù tòa án nhận thấy tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài hoặc tuy đã có thoả thuận trọng tài nhưng thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này mà người khởi kiện có yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp thì tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp tòa án đã thụ lý thì ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trừ trường hợp tòa án thụ lý vụ tranh chấp trước khi có yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp.

Trường hợp Tòa án xác định đã  thụ lý vụ tranh chấp trước khi đương sự có yêu cầu”  trọng tài giải quyết  thì phải đưa ra được các tài liệu,chứng cứ rõ ràng thì mới không bị coi là đã vi phạm thẩm quyền giải quyết tranh chấp.  Sau khi tòa án trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết đối với trường hợp vừa được nêu ở trên mà có quyết định, phán quyết của Hội đồng trọng tài theo quy định tại Điều 43,58.59 và 61 Luật trọng tài thương mại và người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì lúc này Tòa án nơi có thẩm quyền mới được xem xét thụ lý, và giải quyết theo thủ tục chung.

Trường hợp vừa có thỏa thuận trọng tài, vừa có thỏa thuận tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp mà các bên không có thỏa thuận lại hoặc thỏa thuận mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và không thuộc trường hợp tòa án có thẩm quyền giải quyết khi có thỏa thuận trọng tài mà phát sinh tranh chấp thì xử lý như sau:

  • Trường hợp người khởi kiện yêu cầu trọng tài giải quyết trước khi yêu cầu tòa giải quyết hoặc trước khi tòa thụ lý thì tòa phải từ chối thụ lý, giải quyết. Khi nhận được đơn khởi kiện, tòa phải trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp đã thụ lý, tòa phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện; Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.
  • Trường hợp người khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết tranh chấp trước, trong khi tòa án chưa thụ lý thì đương sự lại gửi đơn yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp.Trên tinh thần của Luật trọng tài thương mại và Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP thì phải ưu tiên thẩm quyền giải quyết cho trọng tài. Do đó, ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện, tòa án phải hỏi rõ, kiểm tra, xác định một trong các bên đã yêu cầu trọng tài giải quyết hay chưa.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện nếu tòa xác định người bị kiện, người khởi kiện đã yêu cầu Trọng tài giải quyết thì tòa án không được thụ lý vụ án và trả lại đơn cho người khởi kiện. Trường hợp người bị kiện, người khởi kiện chưa yêu cầu trọng tài giải quyết thì tòa xem xét thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.

Nếu tòa đã thụ lý mà phát hiện đã có yêu cầu trọng tài giải quyết trước thời điểm tòa thụ lý thì tòa ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện.

2.4 Thực tiễn thi hành các quy định về thẩm quyền của Trọng tài thương mại tại Việt Nam trong thời gian qua:

Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và khá thông dụng trên thế giới. Song ở Việt Nam, do đặc thù của nền kinh tế, chính trị, xã hội nên hình thức này phát triển muộn hơn.

Thứ nhất, về hoạt động trọng tài thương mại.

Trước khi Luật trọng tài thương mại Việt Nam có hiệu lực, theo thống kê của VIAC, Tòa Kinh tế Hà Nội hằng năm phải xử gần 9000 vụ án, trong đó có khoảng 300 vụ án kinh tế và Tòa Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phải xử gần 42.000 vụ án các loại, trong đó có 1000 vụ án kinh tế; trong khi đó VIAC chỉ tiếp nhận khoảng 30 vụ. VIAC có 140 Trọng tài viên; như vậy trung bình mỗi mỗi trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0,5 vụ một năm; trong khi mỗi một thẩm phán Tòa kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ mỗi năm và mỗi thẩm phán tại Tòa kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh  xử trên 50 vụ một năm. Theo thống kê năm 2007 về giải quyết các vụ tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương mại và lao động thì tòa án các tỉnh đã thụ lý 108.060 vụ; đã xử được 80.773 vụ; ngoài ra còn có 1.280 vụ được kháng cáo lên Tòa án nhân dân tối cao. Những con số này cho thấy tòa án vẫn là phương thức giải quyết tranh chấp được sử dụng phổ biến.

Sau khi Luật  trọng tài thương mại Việt Nam ra đời, hoạt động trọng tài  đã có những chuyển biến tích cực cả về lượng và chất. Trong những năm gần đây việc sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp thương mại ngày càng phổ biến tại Việt Nam, thể hiện không chỉ qua số lượng các vụ tranh chấp được giải quyết mà còn qua sự đa dạng của các lĩnh vực tranh chấp. Thật vậy, tính từ sau luật Trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực đến  năm 6/2015 tổng số vụ tranh chấp được giải quyết tại các trung tâm trọng tài Việt Nam là 879 vụ và ban hành 586 phán quyết trọng tài trong đó  180 phán quyết đã được thi hành xong với số tiền là 3,612 triệu USD và 300 tỷ đồng. Riêng với trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, từ năm 2011 đến tháng 6/2015, các trung tâm trọng tài đã thụ lý 879 vụ việc và ban hành 586 phán quyết trọng tài, trong đó 180 phán quyết đã được thi hành xong với số tiền là 3,612 triệu USD và 300 tỷ đồng. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Đặc biệt theo thống kê mới nhất trong năm 2016 vừa qua, VIAC đã tiếp nhận 155 vụ tranh chấp, tiếp tục giữ vững đà tăng trưởng của 5 năm trở lại đây, trong số đó, 34% là tranh chấp trong lĩnh vực mua bán, xuất nhập khẩu; 15% là tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng, 11% là các tranh chấp trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, các tranh chấp lĩnh vực bảo hiểm, thuê,vv.vv Cơ cấu các lĩnh vực tranh chấp tại VIAC tiếp tục cho thấy VIAC là tổ chức trọng tài tiếp nhận và giải quyết tranh chấp từ đa dạng các lĩnh vực hoạt động kinh doanh thương mại.

Tuy nhiên, bức tranh về trọng tài thương mại tại Việt Nam vẫn chưa thật sự khởi sắc . Hiệu quả hoạt động của các trung tâm trọng tà i vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp thương mại hiện nay của các doanh nghiệp. Có thể dễ dàng nhận thấy, phần lớn các vụ tranh chấp chỉ được giải quyết tại VIAC. Các trung tâm trọng tài khác tiếp nhận rất ít vụ việc.  Hơn thế nữa các con số thống kê  trên khá khiêm tốn so với hàng trăm nghìn vụ việc mà tòa án các cấp đang thụ lý, xét xử. Cá biệt, có trung tâm trọng tài được thành lập từ lâu, nhưng chưa ban hành một phán quyết nào. Ở một số nước có hoạt động trọng tài phát triển như Singapore, Hồng Kông…chỉ có một hoặc hai trung tâm trọng tài, tuy nhiên mỗi năm xử lý hàng nghìn vụ việc.

Nguyên nhân là do những quy định của pháp luât hiện hành còn nhiều thiếu sót, chồng chéo, chưa rõ ràng cụ thể. Luật trọng tài thương mại năm 2010 mặc dù đáp ứng phần nào yêu cầu thực tế song sau một thời gian đi vào hoạt động đã bộc lộ nhiều thiếu sót, bất hợp lý. Chưa kể, thói quen, tập quán của thương nhân Việt Nam tin tưởng tòa án hơn trọng tài. Hơn nữa, trình độ trọng tài viên ở Việt Nam đều là những người kiêm nhiệm trong lĩnh vực thương mại. Cho nên, một số trọng tài viên còn chưa chuyên nghiệp. Trong khi đó, các tranh chấp thương mại ngày càng phức tạp, nhất là tranh chấp có yếu tố nước ngoài.

Thứ hai, đội ngũ trọng tài viên:

Tính đến 31/ 07/2015, trong cả nước có 350 Trọng tài viên, trong đó, VIAC có 14 trọng tài viên, chiếm gần 50% tổng số trọng tài viên trong cả nước; số lượng trọng tài viên có trình độ tiến sỹ chiếm 30,7% số lượng trọng tài viên có trình độ thạc sỹ chiếm 17,3%. Về trình độ chuyên môn, hầu hết các trọng tài viên đều có bằng tốt nghiệp đại học thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Phần lớn số trọng tài viên là giáo sư, tiến sĩ vừa kiêm nhiệm công việc trong cơ quan nhà nước vừa thực hiện hoạt động Trọng tài ở các Trung tâm trọng tài, đặc biệt VIAC có đội ngũ trọng tài viên là người nước ngoài đang hành nghề tại trung tâm hiện nay.

Từ bảng thống kê trên có thể thấy, nhìn chung đội ngũ trọng tài viên đều có kiến thức pháp luật và có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực đực biệt là các lĩnh vực sôi động trong bôi cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như thương mại quốc tế, bảo hiểm, tài chính ngân hàng, kỹ thuật xây dựng.

Thứ ba, Về trung tâm trọng tài:

Theo số liệu thống kê tính đến 31/7/2016, cả nước có 15 Trung tâm trọng tài, trong đó tại Hà Nội 04 có Trung tâm, tại Thành phố Hồ Chí Minh 10 có trung tâm và 02 chi  nhánh Trung tâm, tại Cần Thơ có 01 trung tâm, tại Đà Nẵng có 01 chi nhánh Trung tâm Trọng tài quôc tế Việt Nam .

Thứ tư, Về việc thi hành phán quyết Trọng tài:

Theo số liệu thống kê, tính đến thời điểm năm 2011 đến ngày 30/06/2015 các cơ quan thi hành án dân sự đã thụ lý 325 đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài trên tổng số 586 phán quyết trọng tài được ban hành với số tiền thi hàn gần 8.880.000 USD và 592.000.000 đồng. Số lượng phán quyết trọng tài đã được thi hành xong là 180 phán quyết với số tiền gần 3.612.000 USD và 300.000.000 đồng. Như vậy, trong thời gian qua, số lượng phán quyết trọng tài được thi hành chiếm hơn 60% số lượng phán quyết cần được thi hành.Việc phán quyết trọng tài được thi hành trên thực tê có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao sự tin tưởng cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, qua đó thu hút khuyến khích việc lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết. Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp.

Thực tế trên cho thấy một điều tổ chức và hoạt động của trọng tài đã và đang được các chủ thể tranh chấp lựa chọn và xem xét là một phương thức hữu hiệu để giải quyết tranh chấp lựa chọn và xem là một phương thức hữu hiệu để giải quyết tranh chấp; tòa án với vai trò là thiết chế tài phán công cũng đã có vai trò không nhỏ để góp phần thi hành hiệu quả các phán quyết trọng tài.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật trọng tài trong giải quyết tranh chấp

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Pháp luật về thẩm quyền trọng tài giải quyết tranh chấp […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993