Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết, thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015 dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015

3.1.1.Đề nghị giao kết hợp đồng

Thứ nhất, về định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng 

Như đã trình bày ở trên, quy định khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng trong BLDS năm 2015 chưa thể hiện được tiêu chí đánh giá mức độ xác định của một đề nghị giao kết. Do đó, tác giả đề xuất Khoản 1 Điều 386 BLDS năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ “tính xác định cụ thể của người được đề nghị” để tránh trường hợp quy định này được hiểu theo nhiều nghĩa, gây khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật. Theo đó, cần bổ sung quy định “một bên được coi là xác định cụ thể khi bên đề nghị gửi đề nghị của mình bằng các tiêu chí khách quan xác định được rõ bên mà đề nghị sẽ được gửi tới” vào Điều 386 BLDS năm 2015 hoặc có thể học tập cách quy định giống Điều 14 của CISG, đó là: “Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định những yếu tố này”.

Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 cũng cần xác định cụ thể nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng nhằm phân biệt giữa giao kết hợp đồng với một số hành vi như: lời mời làm chào hàng, báo giá, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ… và ràng buộc trách nhiệm của bên đề nghị giao kết hợp đồng với đề nghị giao kết của mình. Theo quan điểm của tác giả, nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng cần có 3 yếu tố chính là: (1) Đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết hợp đồng; (2) Phải có các nội dung chủ yếu của loại hợp đồng mà các bên muốn xác lập; (3) Phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết với chủ thể khác đã được xác định cụ thể.

Về việc xác định ý chí của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng, cần bổ sung nguyên tắc nhằm giải thích ý chí của các bên tham gia hợp đồng: “Tuyên bố cách xử sự khác của một bên được giải thích theo nghĩa mà một người có lý trí, nếu người đó được đặt vào vị trí bên kia trong những hoàn cảnh tương tự cũng sẽ hiểu như thế”.

BLDS năm 2015 đã thừa nhận việc đề nghị được gửi đến với công chúng. Do đó, BLDS năm 2015 cũng nên bổ sung trường hợp “Đề nghị được đưa ra công khai thì cũng bị hủy bỏ cùng cách thức với cách thức đưa ra đề nghị”. Quy định này vừa bảo đảm rõ ràng, thuận tiện cho các bên trong quan hệ hợp đồng, vừa bảo đảm tính linh hoạt khi có các hình thức giao kết hợp đồng mới phát sinh trên thực tế. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

Thứ hai, về kết cấu và nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 386 LDS năm 2015.

Với tên điều luật là “Đề nghị giao kết hợp đồng”, Điều 386 chỉ nên giữ lại khoản 1 phần về định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng. Việc quy định thêm khoản 2 Điều 386 là không cần thiết, thậm chí là bất hợp lí vì nội dung khoản 2 Điều 386 quy định nghĩa vụ của bên đề nghị trong thời hạn ấn định. Đây có thể được coi là trường hợp hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng. Do vậy, vị trí của điều khoản này sẽ hợp lí hơn nếu được đưa vào điều khoản quy định về hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng. Theo đó, điều khoản này cần phải được quy định lại dưới góc độ là một ngoại lệ của quyền hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng. Cụ thể, bên đề nghị sẽ không được quyền hủy bỏ đề nghị (bằng việc giao kết hợp đồng với người khác) trong thời hạn ấn định cho bên được đề nghị trả lời.

Thứ ba, sửa đổi quy định về chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng cho phù hợp với thực tế.

Trên thực tế, có một số trường hợp không được quy định trong Điều 391 BLDS năm 2015 nhưng cũng làm chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng như: Trường hợp một bên hoặc hai bên đề nghị giao kết, bên được đề nghị giao kết chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị phá sản… Do đó, theo quan điểm của tác giả, các nhà làm luật có thể lựa chọn một cách quy định khác về các trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng, đó là bỏ Điều về chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng, đồng thời quy định thay vào đó trường hợp đồng, thay đổi, rút lại, hủy bỏ đề nghị giao kết hoặc có thể được hiểu qua việc bên được đề nghị trả lời không chấp nhận hoặc trả lời chấp nhận quá thời hạn được ấn định. Những hệ quả pháp lí này có thể được quy định tại các điều khoản tương ứng đó. Đối với trường hợp rút lại đề nghị, nếu như bên đề nghị rút lại đề nghị bằng việc tuân thủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 392 thì đề nghị giao kết đó được suy ra là sẽ không còn hiệu lực nữa. Đối với trường hợp thay đổi đề nghị giao kết, khi bên đề nghị thay đổi đề nghị ban đầu bằng việc tuân thủ điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 389 thì đề nghị giao kết hợp đồng ban đầu sẽ không còn hiệu lực nữa. Thay vào đó là sự xuất hiện và có hiệu lực của đề nghị giao kết mới. Tương tự đối với trường hợp hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng. Nếu bên đề nghị tuân thủ các điều kiện về hủy bỏ đề nghị, đề nghị giao kết sẽ không còn hiệu lực nữa. Do vậy, có thể quy định các hệ quả pháp lí này ngay tại các điều luật này. Thay vào vị trí điều khoản về chấm dứt đề nghị hợp đồng, bổ sung quy định trường hợp từ chối đề nghị giao kết. Có thể học cách quy định của PICC về từ chối giao kết hợp đồng như sau: “Đề nghị giao kết hợp đồng không còn hiệu lực khi từ chối đề nghị giao kết hợp đồng đến bên đề nghị”. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

3.1.2. Chấp nhận nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Thứ nhất, về nội dung chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời đồng ý của bên được đề nghị giao kết hợp đồng với toàn bộ nội dung được nêu trong đề nghị giao kết của bên đề nghị giao kết hợp đồng. Nội dung chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải đảm bảo hai yếu tố sau: Đồng ý toàn bộ nội dung như đã nêu trong đề nghị giao kết hợp đồng (tức là chấp nhận đầy đủ và không thiếu nội dung nào) và không bổ sung thêm nội dung nào khác so với đề nghị giao kết hợp đồng.

Tuy nhiên, các quy định về hợp đồng trong BLDS là quy định chung nhất, áp dụng được cho tất cả các loại hợp đồng, trong đó có lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Do đó, cũng cần nghiên cứu và quy định rõ đối với trường hợp trả lời có sửa đổi, bổ sung nhưng không ảnh hưởng nhiều đến các nội dung trong đề nghị giao kết hợp đồng thì được coi là sự chấp nhận, trừ khi bên đề nghị giao kết không đồng ý (tức là không quy định bắt buộc chấp nhận đề nghị phải đồng ý toàn bộ nội dung đề nghị) đã được nêu trong “Nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Quốc tế” do Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế soạn thảo và quy định của Công ước Viên 1980. Theo đó, trả lời đề nghị giao kết hợp đồng có sự sửa đổi, bổ sung nhưng không ảnh hưởng nhiều đến các nội dung trong đề nghị giao kết hợp đồng như: sửa đổi kết cấu điều khoản hợp đồng; nêu rõ pháp luật áp dụng khi có tranh chấp… mà được bên đề nghị giao kết hợp đồng đồng ý thì được coi là chấp nhận đề nghị giao kết. Như vậy, sẽ phù hợp hơn với quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại vốn rất linh hoạt, năng động và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ hai, sửa đổi quy định về đề thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng để đảm bảo tính thống nhất khi áp dụng.

Khoản 1 Điều 394 BLDS năm 2015 có quy định “khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì lời chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời”. Quy định này không thống nhất vì vừa theo “Thuyết tống phát” vừa theo “Thuyết tiếp nhận”.

Theo quan điểm của tác giả, để đảm bảo tính thống nhất khi áp dụng, BLDS năm 2015 có thể sửa lại là “Trong trường hợp bên đề nghị có ấn định thời hạn chờ trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn chờ trả lời thì lời chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời”. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

Về thời điểm xác định thời hạn: BLDS năm 2015 cần đưa ra cách xác định cụ thể thời điểm bắt đầu thời hạn trả lời chấp nhận, khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời chấp nhận mà không xác định thời điểm bắt đầu thời hạn này, giải pháp cho vấn đề có thể học tập quy định tại Điều 2.1.8 của PICC, theo đó, “thời hạn chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng do bên đề nghị ấn định bắt đầu tính từ lúc đề nghị được gửi đi. Ngày ghi trong đề nghị được cho là ngày gửi đi, trừ khi hoàn cảnh cho thấy điều ngược lại”.

Thứ ba, về hình thức trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Pháp luật dân sự chưa có quy định cụ thể về hình thức của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Thực tế cho thấy việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và có thể thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào. Các bên có thể trực tiếp (đối mặt) với nhau để trao đổi, thỏa thuận hoặc có thể thông qua điện thoại, bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện, thông qua phương tiện điện tử hoặc các phương tiện khác mà các bên giao kết hợp đồng không có mặt tại cùng một địa điểm để giao kết hợp đồng… để thỏa thuận, thống nhất ý chí của mình trong một hợp đồng cụ thể.

Như vậy, BLDS năm 2015 có thể quy định hình thức của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo hướng khái quát là: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có thể thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy định này vừa bảo đảm rõ ràng, thuận tiện cho các bên trong quan hệ hợp đồng, vừa bảo đảm tính linh hoạt khi có các hình thức giao kết hợp đồng mới phát sinh trên thực tế.

Bên cạnh đó, theo tác giả, như đã phân tích ở Chương 2, BLDS năm 2015 nên bổ sung quy định việc im lặng là đồng ý theo tập quán và do pháp luật quy định để tương thích với pháp luật quốc tế và phù hợp với thực tiễn theo hướng: “Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc có quy định của pháp luật hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên hoặc theo tập quán”.

Về chấp nhận đề nghị giao kết bằng hành vi cụ thể, trên cơ sở phân tích, so sánh các quy định về việc chấp nhận đề nghị bằng hành vi cụ thể, tác giả cho rằng BLDS năm 2015 cần quy định chi tiết về trường hợp này và nên học tập giải pháp được nêu tại Điều 18 của CISG và Điều 2.1.6 của PICC. Theo đó, khi bên được đề nghị biểu thị sự chấp nhận của mình bằng hành vi cụ thể (đặc biệt là các hành vi mà bản thân hành vi không tạo thành một thông báo chấp nhận đề nghị giao kết với bên đề nghị trong một thời hạn hợp lí, ví dụ: sự phát hành thư tín dụng) thì bên được đề nghị phải thông báo cho bên đề nghị được biết, hoặc nếu không thông báo thì phải thuộc một trong các ngoại lệ, các ngoại lệ này cũng nên quy định theo Khoản 3 Điều 18 của CISG hoặc Điều 2.1.6 PICC , theo đó tác giả kiến nghị bổ sung BLDS năm 2015 quy định như sau: “Nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, các thói quen đã được xác lập hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chỉ ra là mình đã chấp nhận giao kết hợp đồng bằng việc thực hiện một hành vi nào đó như hành vi liên quan đến việc gửi hàng hay trả tiền chẳng hạn dù họ không thông báo cho bên đề nghị biết, việc chấp nhận có hiệu lực khi hành vi đó được hoàn thành”.

3.1.3. Thời điểm giao kết hợp đồng Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

Như đã đánh giá về quy định của BLDS năm 2015 về thời điểm giao kết hợp đồng ở Chương 2, để đảm bảo sự minh bạch, rõ ràng và tránh mâu thuẫn trong quy định tại Điều 400 BLDS năm 2015, Điều 400 BLDS năm 2015 cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Thứ nhất, sửa đổi về nguyên tắc chung xác định thời điểm giao kết hợp đồng

Như đã phân tích ở trên, Điều 400 BLDS năm 2015 chỉ đề cập đến việc giao kết hợp đồng bằng một hình thức xác định, chứ không quy định việc giao kết hợp đồng bằng nhiều hình thức khác nhau, nguyên tắc xác định thời điểm giao kết hợp đồng cũng không được dựa vào phương thức giao kết hợp đồng. Bên cạnh đó, khi áp dụng khoản 3 và khoản 4 Điều 400 BLDS năm 2015 thì việc xác định các quy tắc riêng cho thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói và thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản theo quy định hiện nay là chưa phù hợp. Thực tế có nhiều trường hợp vướng mắc bởi vì có những trường hợp thời điểm chấp nhận giao kết (nhận được lời chấp nhận) và thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản là hai thời điểm khác nhau thì không biết căn cứ áp dụng xác định thời điểm nào. Vì vậy, tác giả kiến nghị khoản 1 Điều 400 BLDS năm 2015 cần được sửa đổi hoặc cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn bổ sung khoản 1 Điều 400 BLDS năm 2015 theo hướng như sau: “Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phải được giao kết theo hình thức, thủ tục xác định thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm hoàn tất hình thức, thủ tục đó”. Bỏ Khoản 3 Điều 400 BLDS năm 2015 vì không cần thiết và có thể áp dụng nguyên tắc chung tại Khoản 1 Điều 400 để xác định trong trường hợp được giao kết bằng lời nói. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

Thứ hai, sử đổi quy định đối với trường hợp giao kết hợp đồng bằng văn bản

Để làm rõ và cụ thể trường hợp xác định thời điểm giao kết bằng văn bản, cần xác định thời điểm giao kết hợp đồng dựa vào phương thức giao kết và hình thức giao kết. Theo đó, tác giả kiến nghị sửa đổi khoản 4 Điều 400 BLDS năm 2015 theo hướng: “Trong trường hợp việc giao kết hợp đồng được các bên xác lập trực tiếp, trên cùng một văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản; nếu hợp đồng được lập thành nhiều văn bản có nội dung giống nhau, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm mỗi bên đã ký vào văn bản của bên kia. Văn bản được lập chỉ cần các bên hoặc người đại diện hợp pháp của các bên ký tên và ghi rõ họ tên là đủ mà không cần phải có thêm thủ tục nào khác. Nếu các bên giao kết hợp đồng bằng văn bản được gửi qua bưu điện, hoặc phương tiện thông tin, liên lạc khác hoặc nếu chỉ có trả lời chấp nhận là được làm bằng văn bản, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên đề nghị nhận được văn bản trả lời chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Thứ ba, bổ sung quy định thời điểm giao kết hợp đồng khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết bằng hành vi cụ thể

BLDS năm 2015 không có quy định cụ thể về các trường hợp giao kết hợp đồng và trả lời chấp nhận giao kết bằng hành vi cụ thể trong khi đây là hình thức giao dịch khá phổ biến trong đời sống hiện nay. Theo quan điểm của tác giả, BLDS năm 2015 nên bổ sung nguyên tắc để xác định thời điểm giao kết hợp đồng trong những trường hợp này để giải quyết những tranh chấp có liên quan trên thực tế.

Việc trả lời chấp nhận giao kết bằng hành vi có ba khả năng: bên được đề nghị trả lời ngay bằng hành vi cụ thể; bên được đề nghị trả lời sau một thời gian xác định và có thông báo về việc thực hiện hành vi cụ thể; bên được đề nghị trả lời sau một thời hạn xác định nhưng không thông báo. Về nguyên tắc, việc giao kết là sự gặp gỡ, ý chí giữa các bên, nên khi các bên không trao đổi bằng lời nói hay văn bản, mà được thực hiện bằng hành vi cụ thể, thì sự chấp nhận đó phải được thông tin cho bên đề nghị biết, trừ trường hợp bên kia có thể biết được điều này do tập quán thương mại hoặc do thói quen giao dịch giữa các bên. Việc xác định thời điểm giao kết cũng có hai giải pháp có thể lựa chọn: khi bên được đề nghị đã thực hiện hoàn thành hành vi hoặc khi bắt đầu thực hiện hành vi. Thiết nghĩ, cần phân biệt các trường hợp khác nhau như sau:

Trong trường hợp trả lời bằng hành vi cụ thể được thực hiện ngay thì thời điểm giao kết trong trường hợp này là thời điểm bắt đầu hành vi cụ thể. Ví dụ như đi gửi xe, mặc dù người giữ xe không trả lời nhưng vẫn ghi vé và trông xe như bình thường. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là trong một số trường hợp do thỏa thuận của các bên hoặc do pháp luật có quy định khác, bên được đề nghị phải thực hiện xong những hành vi cụ thể thì hợp đồng mới được giao kết. Ví dụ: bên được hứa thưởng phải đạt được kết quả và bàn giao kết quả đó cho bên hứa thưởng thì sẽ được trả thưởng: “Trong trường hợp một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành người thực hiện công việc đó được nhận thưởng” (Khoản 1 Điều 572 BLDS năm 2015). Bởi vậy, trong trường hợp này cần phải quy định theo hướng: nguyên tắc chung là giao kết tại thời điểm bắt đầu thực hiện công việc, trừ những ngoại lệ do pháp luật quy định hoặc các bên có thỏa thuận khác.

Trong trường hợp hành vi cụ thể trả lời sau một thời hạn, trong hoàn cảnh bình thường thì hợp đồng giao kết tại thời điểm bên được đề nghị đã bắt đầu thực hiện công việc và bên đề nghị đã nhận được thông báo về thời điểm bắt đầu công việc. Nhưng nếu bên thực hiện công việc không chịu thông báo về việc bắt đầu thực hiện công việc thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm công việc được thực hiện hoàn thành. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

Trong trường hợp nếu do ấn định trước trong đề nghị hoặc do thói quen được xác lập giữa các bên, hoặc do tập quán mà việc chấp nhận bằng hành vi cụ thể không cần phải thông báo, thì hợp đồng giao kết lúc bắt đầu công việc.

Như vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi hoặc bổ sung Điều 400 BLDS năm 2015 theo hướng như sau: “Trong trường hợp bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng bằng một hành vi cụ thể thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên được đề nghị bắt đầu thực hiện hành vi đó. Trường hợp giao kết hợp đồng với người ở xa thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên đề nghị nhận được thông báo của bên được đề nghị về việc bắt đầu thực hiện hành vi cụ thể đó. Nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận bằng việc thực hiện một công việc cụ thể nhưng không thông báo về việc này thì hợp đồng giao kết vào thời điểm hoàn thành công việc hoặc vào thời điểm có căn cứ chứng minh bên được đề nghị biết về hành vi đó, trừ trường hợp theo đề nghị giao kết hợp đồng hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên, hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chấp nhận đề nghị bằng một hành vi cụ thể mà không cần phải thông báo cho bên đề nghị thì hợp đồng được giao kết khi bên được đề nghị bắt đầu thực hiện hành vi này”.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015 Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

3.2.1 Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng

Để có thể xác định được các loại thiệt hại mà bên bị vi phạm có thể yêu cầu bồi thường từ các quy định tại Điều 419 BLDS năm 2015, tác giả kiến nghị cần bổ sung và hướng dẫn cụ thể Điều 419 nhằm tạo điều kiện cho việc xác định thiệt hại trên thực tế để yêu cầu bồi thường một cách dễ dàng. Theo đó, có thể bổ sung khoản 2 Điều 419 theo hướng học tập cách quy định của pháp luật quốc tế, bổ sung và hướng dẫn về việc xác định các lợi ích mà lẽ ra bên có quyền sẽ được hưởng theo hướng: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm, những tổn thất này bao gồm những tổn thất phải gánh chịu và những lợi ích đáng lẽ phải có từ việc thực hiện hợp đồng, có tính đến những chi phí tổn thất mà bên vi phạm tránh được”.

Về những tổn thất tinh thần được bồi thường, theo quan điểm của tác giả thì đối với những tổn thất bên có quyền phải chịu do không thực hiện đúng hợp đồng thì chúng ta xác định căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và trong một chừng mực có thể vận dụng tương tự như việc xác định thiệt hại trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà BLDS năm 2015 quy định khá chi tiết. Cách tính thiệt hại khi sức khỏe bị xâm phạm, xác định thiệt hại khi danh dự, uy tín bị xâm phạm trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có thể được khai thác và vận dụng tương tự.

3.2.2 Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế thế giới, việc bổ sung cụ thể, rõ ràng căn cứ, điều kiện, phạm vi áp dụng và hậu quả pháp lý của việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi tại Điều 420 BLDS năm 2015 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho ứng xử của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng như cho Tòa án trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan, đồng thời làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng trở nên hiện đại, tương thích với pháp luật của các nước và của các tổ chức quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và trình độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nước ta. Tuy nhiên, để đảm bảo quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản được áp dụng một cách có hiệu quả, tác giả kiến nghị một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, pháp luật có thể xem xét bổ sung về việc bên có lợi ích bị ảnh hưởng có nghĩa vụ phải thông báo về tình trạng thay đổi hoàn cảnh cơ bản gây ảnh hưởng nghiêm trọng trước khi yêu cầu bên còn lại đàm phán điều chỉnh hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, đồng thời bên được đề nghị có nghĩa vụ phải phản hồi lại yêu cầu đàm phán trong thời hạn nhất định kể từ ngày nhận được đề nghị. Do hoàn cảnh thay đổi cơ bản có tác động đáng kể đến lợi ích chính đáng của một bên nên việc giới hạn thời gian giải quyết hệ quả của hoàn cảnh thay đổi cơ bản rất quan trọng. Nghĩa vụ thông báo giúp cho các bên nhận thức được về ảnh hưởng của hoàn cảnh thay đổi một cách kịp thời và rõ ràng, giúp các bên có thể chuẩn bị sẵn những phương án sửa đổi nội dung hợp đồng, có thể phải sử dụng đến hoặc cân nhắc về việc chấm dứt hợp đồng.

Thứ hai, bổ sung quy định bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để tránh tình trạng bên còn lại có thể cố tình trì hoãn giải quyết vụ việc tại Tòa án nhằm thu được nhiều lợi ích hơn và tiếp tục thực hiện hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia.

Thứ ba, bổ sung vai trò của trọng tài trong việc sửa đổi nội dung hợp đồng khi các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý để quy định được rõ ràng và đảm bảo quyền lợi của các bên.

Thứ tư, việc sửa đổi hợp đồng cần được hướng dẫn cụ thể hơn nữa nhằm xác định các nghĩa vụ và trách nhiệm trước, trong, và sau khi sửa đổi hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Theo đó, việc sửa đổi hợp đồng phải đảm bảo các yêu cầu sau: (i) Các điều khoản mới có hiệu lực thay thế cho các điều khoản đã bị sửa đổi; (ii) Việc sửa đổi hợp đồng tuân theo hình thức của hợp đồng nếu hình thức là bắt buộc, và việc sửa đổi hợp đồng có thể nằm trong phần phụ lục của hợp đồng; (iii) Việc sửa đổi không được gây thiệt hại cho người thứ ba, trường hợp người thứ ba có lợi ích liên quan từ hợp đồng thì việc sửa đổi phải được người thứ ba đồng ý; (iv) Việc sửa đổi hợp đồng phải tuân thủ các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; (v) Không làm thay đổi việc chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp cũng như thời hiệu khởi kiện.

Thứ năm, các quy định trong BLDS năm 2015 về hoàn cảnh thay đổi cơ bản còn một số thuật ngữ mang tính chất tương đối như khái niệm “thiệt hại”, “các chi phí để thực hiện hợp đồng”, “thời gian hợp lý”, “hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác”, thiết nghĩ Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao cần sớm ban hành Nghị quyết hướng dẫn đường lối giải quyết, giải thích các thuật ngữ để tránh được sự áp dụng tùy tiện, cảm tính của thẩm phán.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

Pháp luật về hợp đồng là một trong những chế định quan trọng của hệ thống pháp luật dân sự, tạo cơ sở pháp lý để điều chỉnh các quan hệ dân sự – kinh tế phát sinh trong đời sống xã hội. Bộ luật Dân sự năm 2015 với nhiều sự thay đổi, bổ sung về giao kết, thực hiện hợp đồng đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản trong việc điều chỉnh quan hệ pháp luật hợp đồng, tạo điều kiện cho các chủ thể xử sự với nhau phù hợp hơn, các thỏa thuận được các bên tôn trọng và thực hiện ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, thực tiễn nhận thức và áp dụng các quy định này cho thấy nội dung của chúng còn những mâu thuẫn bất hợp lý và cần được khắc phục trong thời gian tới. Trên cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm từ quy định pháp luật của các quốc gia tiên tiến và trong các Bộ nguyên tắc về hợp đồng quốc tế, tác giả đã nêu lên quan điểm chủ quan của mình trong việc dự liệu một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hiện hành về giao kết, thực hiện hợp đồng. Việc tiếp thu vận dụng các quy định trong phần giải pháp đã được tính đến yếu tố tổng thể và thực tiễn tình hình áp dụng pháp luật hợp đồng ở Việt Nam với mục đích tương thích với pháp luật của các nước và các tổ chức quốc tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.

KẾT LUẬN

Hợp đồng là chế định quan trọng của Bộ luật Dân sự Việt Nam, trong đó, giao kết hợp đồng tạo ra hình thức pháp lý cho quan hệ trao đổi, còn quyền và nghĩa vụ mà các bên đặt ra có đạt được hay không là nhờ vào quá trình thực hiện hợp đồng. Chính vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản, nghiên cứu tìm hiểu những quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng là vô cùng quan trọng, đặc biệt là khi Bộ luật Dân sự năm 2015 vừa mới có hiệu lực cùng với những thay đổi đáng kể về quy định của giao kết, thực hiện hợp đồng.

Xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật chắc chắn phải trên cơ sở đặc điểm chính trị, điều kiện và trình độ phát triển kinh tế – xã hội cũng như văn hóa của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, những giá trị ưu việt mang tính phổ quát, những kinh nghiệm thành công của các quốc gia khác cũng cần được tham khảo và vận dụng. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 đã tiếp thu nhiều tư tưởng mới mà các quốc gia văn minh đã và đang áp dụng nhằm làm cho pháp luật về hợp đồng của Việt Nam ngày càng phù hợp với pháp luật hợp đồng của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, việc tiếp thu phải tính đến những điểm bất cập và chưa hoàn thiện của các quy định trong pháp luật các nước, từ đó loại bỏ được những khiếm khuyết của các quy định của pháp luật các nước đã được ban hành trước đây, đồng thời làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng trở nên hiện đại, tương thích với pháp luật của các nước và của các tổ chức quốc tế, nhưng cũng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và trình độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nước ta. Trên cơ sở phân tích về những điểm bất cập, chưa hợp lý của pháp luật thực định Việt Nam, kết hợp với các kinh nghiệm quốc tế, tác giả đã kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về giao kết, thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Giao kết thực hiện hợp đồng theo bộ luật Dân sự

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật về giao kết thực hiện hợp đồng […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993