Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi trên địa bàn thành phố Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước

Trong những năm gần đây, việc quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam được cải thiện đáng kể về mặt pháp lý, cấu trúc thể chế và các cơ chế, góp phần vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Luật Tài nguyên nước đã được chính thức ban hành từ năm 1998 và các văn bản hướng dẫn pháp quy tiếp theo, đã cung cấp các quy định về quản lý, điều hành, lưu trữ, khai thác và sử dụng tài nguyên nước trên toàn quốc. Sự thay đổi về thể chế trong quản lý tài nguyên nước đã khuyến khích được quá trình phi tập trung hóa, đẩy mạnh sự tham gia rộng rãi của các thành phần ngoài nhà nước trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước, cung cấp nước sinh hoạt và nước tưới tiêu. Đặc biệt, Luật Tài nguyên nước đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012. Luật này quy định việc điều tra cơ bản tài nguyên nước; bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên lãnh thổ Việt Nam. Tài nguyên nước quy định trong Luật này bao gồm nước mưa, nguồn nước mặt và nguồn nước dưới đất. Riêng nước biển, nước khoáng và nước nóng thiên nhiên được điều chỉnh bằng pháp luật khác.

Theo luật này, tài nguyên nước ở Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân, được nhà nước thống nhất quản lý nhằm đảm bảo tất cả mọi người có quyền hưởng lợi từ các nguồn nước. Hiện Bộ TN&MT được Chính phủ giao trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước nói chung, trong khi Bộ NN&PTNT và Bộ Công Thương… có trách nhiệm quản lý tài nguyên nước theo hoạt động của ngành, cho các mục đích tương ứng như thủy lợi, nuôi trồng thủy sản và sản xuất điện.

Gần đây, cách tiếp cận quản lý tài nguyên nước tổng hợp và dựa trên lưu vực đã được đẩy mạnh ở Việt Nam. Về nguyên tắc, tài nguyên nước không chỉ được xem như “tài sản chung” mà còn là “hàng hóa có giá trị thương mại và kinh tế.” Do đó, Chính phủ đã áp dụng một số cơ chế nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nước ở các khía cạnh khác nhau về chính sách, kỹ thuật thực hiện, năng lực và cơ sở hạ tầng. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Kinh nghiệm quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam đã ghi nhận và đánh giá cao vai trò quan trọng của cộng đồng địa phương, với tư cách vừa là người trực tiếp sử dụng nước, vừa là người quản lý và bảo vệ tài nguyên nước. Quản lý bởi cộng đồng hay quản lý dựa vào cộng đồng, đã được giới thiệu và áp dụng ở nhiều vùng theo các cách khác nhau trong lĩnh vực cấp nước sinh hoạt và thủy lợi. Mặc dù còn nhiều bất cập về mặt pháp luật, thể chế và năng lực, nhưng cộng đồng địa phương đã chứng minh được tài nguyên nước sẽ được quản lý tốt hơn, nếu có sự tham gia của cộng đồng trong quá trình ra quyết định.

Trong thời gian tới, pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở nước ta tiếp tục được hoàn thiện theo định hướng:

  • Tăng cường sự tham gia của các nguồn lực ( các cơ quan quản lý Nhà nước, cộng đồng, các tổ chức độc lập) vào việc kiểm soát ô nhiễm nước dựa trên nguyên tắc công bằng lợi ích giữa các bên liên quan
  • Ưu tiên xử lý các điểm công nghiệp và đô thị đang ô nhiễm trầm trọng.
  • Ưu tiên công đoạn “ngăn ngừa” trong quy trình ba công đoạn “ngăn ngừa- phát hiện- ngăn chặn”

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam

Hiện nay tuy đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước nhưng luật pháp và các quy định liên quan tới nguồn tài nguyên này vẫn còn được soạn thảo một cách riêng rẽ. Hệ thống văn bản pháp luật về tài nguyên nước chưa hoàn chỉnh. Luật tài nguyên nước đi vào thực tiễn chưa phát huy được tác dụng điều chỉnh. Công tác quản lý tài nguyên nước còn phân tán, chồng chéo, đan xen giữa quản lý và khai thác, sử dụng. Sự phối hợp giữa các ngành, giữa trung ương và địa phương, giữa các tỉnh trong việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tài nguyên nước vẫn chưa thực sự chặt chẽ.

Bên cạnh đó cũng còn một số nhược điểm như: cơ cấu tổ chức của bộ máy tài nguyên môi trường chưa được hoàn thiện, mạng lưới điều tra cơ bản về tài nguyên nước và môi trường chưa được hoàn chỉnh, chưa thiết lập được đầy đủ cơ sở dữ liệu, tài liệu cơ bản về tài nguyên nước, về sử dụng và ô nhiễm để phục vụ cho hoạt động lập pháp nhằm quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên này. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Sự phối hợp, lồng ghép giữa các cơ quan còn nhiều hạn chế. Giữa các Bộ, Ngành, Đoàn thể quần chúng chưa có sự phối hợp tổ chức thực hiện chặt chẽ. ở một số tỉnh chưa phân định cụ thể nhiệm vụ của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Kế hoạc và Đâu tư, Sở Tài nguyên và Môi trường trong quá trình theo dõi thực hiện cũng như áp dụng pháp luật kiểm soát về ô nhiễm môi trường. Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng.

Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước là loại ô nhiễm môi trường gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Đội ngũ cán bộ quả lý môi trường nước còn thiếu về số lượng và chất lượng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợ lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (như chưa có các quy định và quy trình kĩ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). Tất cả những lý do trên cho thấy sự cần thiết phải có những giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát tài nguyên nước trong thời gian tới.

Từ thực tiễn ô nhiễm nước trong thời gian qua đã phản ánh một số bất cập,  thách thức trong kiểm soát ô nhiễm theo hệ thống luật pháp. Một trong những thách thức lớn nhất là kiểm soát ô nhiễm nước chưa được chú ý đúng tầm quan trọng và cần thiết trong sự nghiệp phát triển kinh tế mà chỉ được đưa vào như một phần nhỏ tích hợp trong công tác bảo vệ môi trường. Vì vậy công tác kiểm soát các hành vi xả thải, các nguồn ô nhiễm còn mang tính gián tiếp, hình thức. Các công cụ thực thi kiểm soát ô nhiễm nước bị tản mạn nằm trong nhiều luật và có quan hệ chéo phức tạp trong hệ thống quản lý hành chính, dẫn đến tính thực thi chưa có hiệu quả cao. Việc thực thi các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nước trong hệ thống luật hiện nay cũng đối mặt với các thách thức như nền tảng công nghệ xử lý nước thải còn yếu và thiếu, các nguồn nước thải bị quản lý bởi nhiều bên khác nhau.

Từ những yêu cầu thực tế trên, rút ra được một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở nước ta hiện nay như sau: Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Một là, nâng cao thẩm quyền và năng lực quản lý của các cơ quan Nhà nước.

Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo vệ quyền con người bằng pháp luật, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong lành. Nhưng hiện nay chúng ta chưa có sự nhận thức rõ ràng, đầy đủ, thống nhất về quyền được sống trong môi trường trong lành. Quyền được sống trong môi trường trong lành được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 nên hiểu theo nghĩa tự nhiên của nó (tức là chỉ có trong lành về mặt tự nhiên) hay theo nghĩa phát triển bền vững bao hàm cả trong lành về mặt xã hội. Bên cạnh đó, tại Điều 43 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành đồng thời phải có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Nhà nước là chủ thể đống vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Nhà nước đặt ra các thiết chế cần thiết và các cơ quan trực tiếp tác động đến việc thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Từ đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Cần thiết phải nâng cao thẩm quyền của các Nhà nước trong việc thực thi các thiết chế về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Cần phân rõ nhiệm vụ chắc năng, trách nhiệm của các cơ quan trong từng trường hợp cụ thể ứng với từng loại nguồn nước cụ thể. Hiện nay, thẩm quyền các hoạt động chủ yếu thuộc Bộ Tài nguyên môi trường và UBND cấp tỉnh tuy nhiên quy định thẩm quyền nhiều khi còn chung chung dẫn đến khi thực hiện chưa được rõ ràng.

Bên cạnh đó cần có sự bố trí, làm rõ, tạo cơ chế phối hợp giữa các chức năng quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý, cấp phép. Do môi trường nước có phạm vi rộng, ảnh hưởng đến nhiều vùng, miền và ngành nghề khác nhau, nên kiểm soát các cơ quan có thẩm quyền trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước hiện đang khá chồng chéo giữa các bộ ngành. Để khắc phục tình trạng này, cần có sự rà soát, thống nhất các chức năng với nhau. Cần cải cách, thu gọn cơ quan có thẩm quyền về một mối để đảm bảo thực hiện có hiệu quả. Vì ở nước ta, Bộ tài nguyên môi trường chưa phải cơ quan duy nhất kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, các bộ ban ngành và các cơ quan chuyên môn khác có những trách nhiệm kiểm soát khác nhau tạo ra sự cồng kềnh. Ở điểm này, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm một số quốc gia có quy định Bộ TN&MT là cơ quan tập trung trách nhiệm nhất đối với hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Hai là, hoàn thiện quy định về giấy phép tài nguyên nước Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Về thẩm quyền cấp giấy phép, thống nhất cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xả thải vào hệ thống nước tự nhiên (Bộ và Sở Tài nguyên và Môi trường đảm nhiệm) với cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xả thải vào hệ thống tưới tiêu ( Bộ và Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn đảm nhiệm) về một mối để đảm bảo tính kết nối tự nhiên và tính luân chuyển của nguồn nước. Hiện nay, hệ thống cấp giấy phép xả thải dàn trải từ các cơ quan trung ương đến địa phương mà không nhất quán. Chính vì thế cần xây dựng hệ thống cấp giấy phép xả thải tập trung để dễ dàng quản lý.

Về căn cứ cấp giấy phép. Đầu tiên, cần làm rõ khả năng tiếp nhận nước thải vào nguồn nước, bổ sung các quy định để có thể tính toán một cách có hệ thống trên phạm vi một đoạn sông, một lưu vực có xét đến tác động tích lũy của tất cả các nguồn thải vào nguồn nước tiếp nhận, không chỉ căn cứ vào nguồn nước tiếp nhận tại một điểm xả thải như tình trạng chung hiện nay mà phải có sự kiểm soát bao quát trên tất cả các điểm có liên quan, ảnh hưởng đến nhau. Tiếp đó, xây dựng bộ tiêu chí cấp giấy phép xả thải trong các quy chuẩn xả thải phải tương ứng với công nghệ.

Về nội dung của giấy phép. Nội dung của giấy phép xả thải phải được cải thiện để làm rõ sự gắn kết  giữa giấy phép và kiểm soát ô nhiễm nước (kết hợp với việc đưa ra những quy chuẩn và các biện pháp giám sát hoặc yêu cầu báo cáo hoặc các biện pháp khác nhằm đảm bảo việc xả thải không làm hư hại đến chất lượng nước).

Về thời hạn của giấy phép. Hiên nay, thời hạn của giấy phép xả thải ở nước ta khá dài khoảng 10 năm chưa kể các lần gia hạn. Điều này gây khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước. Nên xem xét giảm thời hạn giấy phép, chúng ta có thể xem xét học tập kinh nghiệm của Nhật Bản (10 năm) hoặc Hoa Kỳ (5 năm)

Việc giám sát thực thi giấy phép xả thải. Do công tác báo cáo của các đơn vị thực thi giấy phép xả thải còn kém và công tác quản lý lại chủ yếu phụ thuộc vào các báo cáo đó nên chưa phát huy được hiệu quản. Do vậy, bên cạnh việc có cơ chế tăng cường hệ thống báo cáo thường xuyên của các đơn vị xả thải, cần chú trọng đào tạo cán bộ có chuyên môn về kiểm soát việc thực thi hoặc tăng quyền giám sát của một bên thứ ba nếu cần thiết. Thành lập cơ quan chuyên môn không thuộc Nhà nước để có những đánh giá khách quan, tránh tình trạng tham nhũng, quan liêu.

Ba là, hoàn thiện quy định về bồi thường thiệt hại trong xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước

Trước tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nói riêng đang ngày càng gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao. Thêm vào đó nguồn nước đang ngày càng trở thành nhân tố có tính quyết định đến an ninh, sự sống, kinh tế- xã hội toàn cầu. Tất cả càng thúc đẩy pháp luật phải có những điều chỉnh hợp lý để kiểm soát một cách có hiệu quả ô nhiễm nguồn nước. Quy định về hình thức xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước cần được chú trọng và sát với tình hình thực tế hơn nữa. Trong đó, hình thức bồi thường thiệt hại đóng vai trò rất lớn và phù hợp với tình hình nhiều quốc gia trên thế giới và được thế giới vận dụng khá hiệu quả trong kiểm soát ô nhiễm môi trường. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Về quy định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một điều cần thiết, nhất là quy định xác định mức bồi thường. Tuy nhiên, để chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật gây ô nhiễm môi trường dưới góc độ pháp lý là rất khó khăn. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, theo quy định của pháp luật, người dân phải tự thu thập các chứng cứ về hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường của người gây thiệt hại và tự xác định mức độ thiệt hại của mình để khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trên thực tế, người dân khó có thể tự thu thập được chứng cứ do không có đủ thời gian, tài chính, trang thiết bị cũng như trình độ. Điều này ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của họ.

Cụ thể, việc xác định giá trị và mức tính bồi thường thiệt hại về tính mạng, tài sản là rất khó khăn, đặc biệt là mức tính bồi thường thiệt hại về tinh thần, tính mạng bị xâm hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường tạo ra. Theo đó, bồi thường về tinh thần trong trường hợp sức khỏe bị xâm hại cao nhất không quá 30 tháng lương tối thiểu và bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người thân của người bị thiệt hại về tính mạng do ô nhiễm môi trường là cao nhất không quá 60 tháng lương tối thiểu. Việc xác định mức bồi thường thiệt hại cần phải dựa vào các căn cứ như hậu quả của hành vi xâm phạm đối với chính bản thân người bị hại. Tức là người bị hại không chỉ bị thương tích hoặc bị tổn hại nặng đến sức khỏe (chịu đau đớn về thể xác), mà còn phải chịu thiệt hại về tinh thần (thẩm mỹ, quan hệ xã hội, nghề nghiệp…). Thiệt hại tinh thần còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, độ tuổi, vị trí công việc, dung mạo… Đây cũng là những trường hợp thiệt hại về tinh thần khó có thể định lượng được. Thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước gây ra trên diện rộng và ảnh hưởng tới nhiều chủ thể bị thiệt hại. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện nay, người dân không có quyền được khởi kiện tập thể để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Cho nên cần bổ sung quy định tăng tính tham gia của người dân vào công tác kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Bốn là, tăng cường sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Sự tham gia của cộng đồng có một vai trò lớn trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước chính vì thế cần khuyến khích sự tham gia của cộng đồng. Chẳng hạn trong hoạt động của các làng nghề. “Với những quy định về trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam, bước đầu đã tạo được những chuyển biến đáng kể về hành vi kiểm soát ô nhiễm ở cộng đồng dân cư. Tại nhiều làng nghề, hương ước, quy ước đóng vai trò rất tích cực trong việc đề cao các chuẩn mực đạo lý, truyền thống của làng nghề, đồng thời cũng là công cụ tích cực nhằm vận động, tuyên truyền phổ biến, giáo dục về kiểm soát ô nhiễm ở làng nghề. Ngoài ra còn thúc đẩy phát triển sản xuất, giải quyết các mâu thuẫn, xung đột thường ngày trong khu vực làng nghề. Ý thức tự giác của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường tại các làng nghề”[27]. Tuy nhiên trong pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở nước ta hiện nay , sự tham gia của cộng đồng chưa được quy định rõ ràng. Do đó, bổ sung các quy định ở một số nội dung như sau: Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Trách nhiệm cung cấp thông tin và khuyến khích sự tham gia của cá nhân, tổ chức, kể cả tổ chức phi chính phủ, các tổ chức nghiên cứu khoa học có nguồn tài trợ từ nước ngoài vào hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Cho phép các tổ chức độc lập được cung cấp thông tin, tiến hành thanh tra nếu phát hiên hành vi vi phạm. Có những quy định về hình thức tham vấn ý kiến của người dân, quy trình xử lý các đơn thư yêu cầu của cá nhân, tổ chức, nâng cao quyền được tham gia thảo luận của người dân. Để khuyến khích sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có thể có chính sách động viên, khen thưởng đối với các tổ chức, cá nhân đã cam kết và tích cực thực hiện đúng cam kết bảo vệ nguồn nước hoặc có các nỗ lực không ngừng đóng góp cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Vấn đề kiểm soát ô nhiễm nguồn nước muốn đạt được hiệu quả cao nhất thì không thể phụ thuộc vào sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền, biện pháp hữu hiệu và lâu dài nhất là nâng cao ý thức của cộng đồng. Một khi công việc chung có sự chung tay của tất cả các nguồn lực sẽ đơn giản và hiệu quả rõ rệt hơn nhiều.

Năm là, xây dựng văn bản pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước

Tài nguyên và môi trường là một ngành đa lĩnh vực mới được hình thành trên cơ sở hợp nhất nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước. Bộ TN&MT đã được giao quản lý 08 lĩnh vực chuyên ngành gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên địa chất, khoáng sản; môi trường; khí tượng thủy văn; biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo và một số nhiệm vụ khoa học công nghệ tổng hợp gồm viễn thám, công nghệ thông tin. Các lĩnh vực quản lý của ngành hầu hết đều có tính phức tạp, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân, doanh nghiệp, tổ chức, có tác động lớn đến bảo đảm an ninh, quốc phòng, sự phát triển kinh tế, xã hội; là ngành điều tra cơ bản, dự báo gắn liền với các hoạt động điều tra, thăm dò, quan trắc với mạng lưới tổ chức rộng khắp cả nước và gắn liền với yêu cầu nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ; thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ TN&MT, là yếu tố quan trọng của một trong ba trụ cột của phát triển bền vững.

Hiện nay vẫn chưa có một văn bản thống nhất nào quy định cụ thể về cơ sở hạ tầng phục vụ cho kiểm soát nguồn nước nhất là nguồn nước mặt. Luật bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên nước năm 2012, hay cụ thể hơn là Nghị định 80/2014/ NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải vẫn còn quy định khá chung chung chưa đáp ứng được tình hình hiện nay nhất là hệ thống thoát nước cơ sở ở các đô thị lớn như Hà Nội. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Ngay từ khi được thành lập, xác định việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, Bộ TN&MT  đã luôn luôn nỗ lực đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật , nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về tài nguyên và môi trường, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, bảo đảm việc khai thác tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường và quyền lợi, nghĩa vụ của người dân; thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Hệ thống chính sách pháp luật tài nguyên và môi trường đi vào cuộc sống; tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý tài nguyên và môi trường ngày càng hiệu quả hơn.

Hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nước hiện nay thiếu tính thực thi, có quá nhiều văn bản luật liên quan nhưng khoảng cách từ văn bản đến công cụ thực thi rất xa, gần như bị vô hiệu hóa và ô nhiễm nước vượt tầm kiểm soát. Bất cập trong văn bản luật pháp về ngăn ngừa và kiểm soát nguồn nước còn tồn tại trong nhiều khâu như “ngăn ngừa” chưa được quan tâm đúng mức, chủ yếu thực hiện ở mức xử lý vi phạm kiếm tra cuối nguồn. Bên cạnh đó khâu xử lý triệt để còn thiếu hướng dẫn, chưa có một quy định cụ thể về công nghệ xử lý. Vai trò của cộng đồng trong giám sát còn mờ nhạt. Nội dung ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nguồn nước chưa quy định rõ trách nhiệm, chưa phân định chi tiết nhiệm vụ của các bên tham gia. Chính vì thế cần có một luật thống nhất điều chỉnh về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước để tạo hành lang pháp lý đảm bảo hơn.

3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước tại địa bàn thành phố Hà Nội Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Thứ nhất, Hà Nội cần chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói chung, quản lí môi trường nói riêng. Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí nước thải , phân tích môi trường tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.

Thứ hai, Hà Nội nên chú trọng phát huy tính nghiêm túc của quy hoạch môi trường nước và đánh giá tác động môi trường nước. Thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.

Song song với nó là nâng cao cơ chế giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác nước, xả nước thải vào nguồn nước. Bởi trên thực tế những hoạt động này của nước ta còn chưa rõ ràng, thiếu sự thống nhất. Các cơ quan chức năng và có trách nhiệm trong việc giám sát, quản lý xả thải từ khâu cấp phép đến khâu tham gia, giám sát và xử lý hậu quả còn lúng túng, thiếu nguồn lực, thiếu công nghệ và thiếu sự phối hợp với địa phương, nhất là thiếu sự tham gia của người dân nên không phát hiện, kiểm soát kịp thời chất thải và công nghệ thải… Vì vậy, để tăng cường năng lực giám sát xả thải của các cơ sở sản xuất, các cơ quan liên quan cần xây dựng chính sách để người dân tham gia. Bởi người dân chính là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp và nhiều nhất trước tác hại từ môi trường. Bên cạnh đó, cần có mức xử phạt cao và nghiêm khắc các tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm…

Thứ ba, Hà Nội nên xây dựng văn bản hướng dẫn chi tiết nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường và kinh phí sự nghiệp kinh tế của Trung ương và địa phương. Cụ thể ưu tiên cho các dự án đầu tư cho lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy; Báo cáo Chính phủ bố trí kinh phí triển khai thực hiện Đề án theo Quyết định số 57/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể Bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy đến năm 2020; Lập Quy hoạch mạng lưới quan trắc chất lượng nước sông Nhuệ – sông Đáy; Phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tập trung nghiên cứu việc xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề một cách đồng bộ từ cơ chế, chính sách và công nghệ xử lý, làm cơ sở cho các địa phương tiếp tục hoàn thiện để triển khai thực hiện trong những năm tới. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Ngoài các biện pháp trên cần kết hợp cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường nước: Đây là vấn đề cốt lõi để định hướng phát triển và bảo vệ môi trường bền vững, do đó thường xuyên tổ chức các chương trình truyền thông, chiến dịch, sự kiện thường niên về môi trường: Ngày Môi trường thế giới, Chiến dịch “Làm cho thế giới sạch hơn”, “Ngày chủ nhật không sử dụng túi nilông”,….; Tổ chức hội nghị, tập huấn, thực hiện chương trình tuyên truyền và nâng cao nhận thức về bảo vệ nguồn nước; Phối hợp với các cơ quan truyền thông (truyền hình, báo chí), Ban Tuyên giáo Thành ủy và các tổ chức chính trị xã hội thực hiện các chương trình tuyên truyền về bảo vệ nguồn nước.

KẾT LUẬN  

Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước đã và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam. Bất chấp những lời kêu gọi bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước, tình trạng ô nhiễm càng lúc càng trở nên trầm trọng. Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất thải, nước thải nên ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu đô thị đang ở mức báo động. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đang có nhiều bất cập nhất là trong việc đồng bộ hóa và cự phối kết hợp giữa các bộ ngành với nhau. Thông qua việc phân tích một số điểm bất cập cũng như đưa ra một số phương án hoàn thiện pháp luật có thể giúp cho việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước . Đề tài nghiên cứu đã giúp ta đạt được:

Thứ nhất, nhận thức rõ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.

Thứ hai, hiểu được tình hình áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước trong thực tiễn tại thành phố Hà Nội

Thứ ba, đưa ra được những bài học kinh nghiệp cho việc thực thi pháp luật và kiễn nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước trong tương lai.

Trên cơ sở nghiên cứu, khóa luận đã đưa ra được một số lập luận xuất phát từ thực tiễn về vai trò của pháp luật kiểm soát nguồn nước, tính cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, phân tích việc áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam nói chung và liên hệ thực tiễn tại Thành phố Hà Nội nói riêng để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

Hi vọng đề tài này sẽ giúp ích phần nào cho việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nói chung và bảo vệ tài nguyên nước nói riêng đạt hiệu quả cao, góp phần bảo vệ loại tài nguyên vô cùng quý giá – là yếu tố cơ bản cấu thành sự sống và sự phát triển của muôn loài, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của nhân loại. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước tại Hà Nội

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993