Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam
Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng, quan tâm đến đến vấn đề bảo vệ môi trường , bảo vệ nguồn nước, càng ngày càng xác định rõ bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trọng tâm của cả đất nước. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm Việt Nam trải qua quá trình hình thành và phát triển từ những năm cuối của thập niên 80 của thế kỷ XX cho tới ngày nay, từ những nhen nhóm ban đầu để phục vụ quá trình đổi mới của đất nước cho tới ngày nay khi đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và mở ra hướng đi trong tương lai của việc phát triển pháp luật pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đã không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Giai đoạn trước năm 1986
Sau nhiều năm đất nước bị nhấn chìm trong các cuộc chiến tranh liên miên, hậu quả chiến tranh để lại là hết sức nặng nề. Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, các cấm vân từ Mỹ và các nước phương Tây, đối phó với nguy cơ chiến tranh ở phía Tây Nam và phía Bắc cùng với các thiên tai xảy ra liên tục khiến Việt Nam phải suy nghĩa đến hướng đi mới cho đất nước . Những năm 80, nước ta rơi vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế, thêm việc bị cô lập về quan hệ ngoại giao, thêm vào đó là nước ta vận hành theo hệ thống quan liêu bao cấp. Khó khăn chồng chất khó khăn dẫn đến hoạt động bảo vệ môi trường không được quan tâm đúng mức. Trong giai đoạn này, chính sách phát triển kinh tế- xã hội của đất nước dường như không đi đôi với bảo vệ môi trường. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Hệ thống pháp luật nước ta trước năm 1986 cũng chưa hoàn chỉnh. Cơ chế bao cấp với sự chi phối của hệ thống chi tiêu kế hoạch trong mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội kìm hãm sự phát triển của pháp luật. Các luật về kinh tế, tài chính thậm chí cũng không có điều kiện phát triển vì thế phát triển pháp luật về môi trường còn là một điều chưa được suy nghĩ đến một cách thấu đáo.
Về văn bản pháp luật, Điều 36, Hiến pháp năm 1980 có đề cập đến nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ môi trường một cách chung chung như sau: “Các cơ quan Nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống”. Ngoài ra, có một số sắc lệnh, nghị quyết khác liên quan đến bảo vệ môi trường như sắc lệnh số 142/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 21/12/1949 quy định về kiểm soát lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường, Nghị quyết số 36/CP của Hội đồng chính phủ ngày 11/03/1961 về Quản lý, bảo vệ tài nguyên dưới lòng đất. Trong thời kỳ này, Việt Nam cũng chưa tham gia bất kỳ một công ước quốc tế nào về môi trường, nên pháp luật về môi trường chỉ đơn thuần xuất phát từ yêu cầu quản lý của nhà nước. Như vậy, pháp luật về bảo vệ môi trường trong thời kỳ này chưa được quan tâm, mà chỉ có một số những quy định ban đầu hình thành cho nên pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước cũng chưa có điều kiện hình thành và phát triển.
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1998
Sau khi đất nước đã có nhiều thay đổi, nhờ chủ trương đổi mới đất nước sau Đại hội Đảng lần thứ VI, bảo vệ môi trường đã được coi là một lĩnh vực cần coi trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Năm 1992, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường được thành lập. Cục Môi trường là cơ quan đầu tiên chuyên trách về môi trường có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thống nhất quản lý các hoạt động bảo vệ môi trường trong cả nước.
Trong bối cảnh tại thời điểm năm 1993, việc nhà nước ta ban hành Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác bảo vệ môi trường. Năm 1993 đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nói riêng. Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 gồm có 55 điều được chia làm 7 chương, quy định những vấn đề có tính cốt lõi nhất trong công tác bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn này, chưa có luật tập trung quy định về bảo vệ nguồn tài nguyên nước mà chỉ được quy định tại một số điều trong luật môi trường. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Luật Tài nguyên nước đầu tiên được Quốc hội khoá X thông qua tại kỳ họp thứ 3 (ngày 20 tháng 5 năm 1998), có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1999, đánh dấu một bước tiến quan trọng nữa trong công tác quản lý tài nguyên nước ở nước ta. Đây là văn bản pháp luật cao nhất về quản lý tài nguyên nước, trong đó các quan điểm, đường lối của Đảng, chiến lược phát triển đất nước có liên quan đến tài nguyên nước đã được thể chế hoá; bước đầu tiếp cận quan điểm hiện đại của thế giới về quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Luật ra đời đã góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; ý thức, nhận thức của người dân trong khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước đã được cải thiện đáng kể.
Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2012
Sau nhiều năm thi hành Luật, nhiều quy định của Luật đã được triển khai trên thực tế và đạt nhiều kết quả khả quan, đặc biệt là đã khai thác, sử dụng tốt hơn các nguồn nước để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước có nhiều tiến bộ và từng bước đi vào nề nếp, nhất là từ sau khi thành lập Bộ TN&MT: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã được bổ sung, hoàn thiện thêm một bước để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý và đòi hỏi từ thực tiễn; công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực tài nguyên nước được tăng cường hơn trước; công tác cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước dưới đất cũng được triển khai đồng bộ ở cả trung ương và địa phương…
Với những lý do cơ bản nêu trên, việc xây dựng để ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) thay thế Luật Tài nguyên nước năm 1998 nhằm bảo vệ tài nguyên nước có hiệu quả; sử dụng nước hợp lý, tiết kiệm; phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra được tốt hơn; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về tài nguyên nước là thực sự cần thiết.
Từ vai trò quan trọng của nước với cuộc sống và từ những thách thức trong quản lý tài nguyên nước đặt ra yêu cầu cấp bách tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên nước. Theo đó, cần phải quản lý bền vững và hiệu quả hơn các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phòng chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra. Để bảo đảm tính đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý tài nguyên nước trong tình hình mới, ngày 21/6/2012, Quốc hội đã thông qua Luật
Tài nguyên nước số 17/2012/QH13. Hệ thống văn bản pháp luật về tài nguyên nước đã được Bộ TN&MT tập trung xây dựng, từng bước hoàn thiện, đặc biệt là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật Tài nguyên nước năm 2012, tạo lập hành lang pháp lý cơ bản cho công tác quản lý tài nguyên nước từ trung ương đến địa phương. “Quy định về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [21,Điều 1]. Trong đó, liên quan đến yếu tố môi trường, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đề cập sâu hơn đến các biện pháp phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, bảo đảm an toàn nguồn nước và bảo vệ khả năng phát triển tài nguyên nước, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Khi quy định trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ chất lượng nước, Luật Tài nguyên nước năm 2012 thường dẫn chiếu đến các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là dẫn chiếu đến các quy chuẩn môi trường được điều chỉnh theo pháp luật môi trường. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Giai đoạn từ năm 2012 đến nay
Tích cực phát triển những quy định từ luật Tài nguyên nước năm 2012, các cơ quan có thẩm quyền đã triển khai xây dựng, ban hành 06 Nghị định của Chính phủ, 21 Thông tư của Bộ TN&MT, riêng từ đầu năm 2017 đến nay đã ban hành Nghị định số 33/2017/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản; Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định mức thu, phương pháp tính, phương thức thu, chế độ quản lý, sử dụng tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước,..
Trên cơ sở tinh thần đó, Việt Nam đề cao việc bảo vệ và quản lý nguồn nước, coi đây là một nội hàm quan trọng của “Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 2011-2020” và triển khai “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020.” Chiến lược đề ra yêu cầu quản lý tài nguyên nước theo phương thức tổng hợp, sử dụng đa mục tiêu và gắn với các tài nguyên thiên nhiên khác: “quản lý tài nguyên nước phải được thực hiện theo phương thức tổng hợp và thống nhất trên cơ sở lưu vực sông. Cơ cấu sử dụng nước phải phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tài nguyên nước phải được phát triển bền vững; khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tổng hợp và đa mục tiêu. Phải coi sản phẩm nước là hàng hoá; sớm xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện xã hội hoá các hoạt động bảo vệ, phát triển nguồn nước và cung ứng dịch vụ nước”. Phương thức quản lý này được thể hiện thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như trong việc triển khai chính sách quản lý tài nguyên nước ở các cấp.
Như vậy cho tới nay, hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam đã phần nào bao quát được các vấn đề về nước. Tuy luật còn quy định lẻ tẻ ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, và một số văn bản tính thống nhất chưa cao, nhưng đã phần nào động chạm đến tất cả các vấn đề về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở nước ta hiện nay.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
2.2.1. Quy hoạch, chiến lược môi trường trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Đối với hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, quy hoạch, kế hoạch môi trường cùng với đánh giá chiến lược, đánh giá tác động môi trường là những công cụ pháp lý quan trọng quy định quy tắc xử sự của các chủ thể trong việc định hướng nội dung, cách thức của hành vi của các chủ thể với nguồn nước.
Quy hoạch bảo vệ môi trường là việc phân vùng môi trường để bảo tồn, phát triển và thiết lập hệ thống hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường gắn với hệ thống giải pháp bảo vệ môi trường trong sự liên quan chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội nhằm bảo đảm phát triển bền vững. [23,Khoản 21, Điều 3]
Đối với lĩnh vực liên quan đến tài nguyên nước, Luật Tài nguyên nước năm 2012 có đề cập đến kế hoạch tài nguyên nước. Theo đó quy hoạch tài nguyền nước bao gồm có quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước; quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh, nguồn liên tỉnh; quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. [21,32,Điều 15].Đối tượng của tất cả các hoạt động quy hoạch trên là nguồn nước mặt và nước dưới đất. Mỗi kỳ quy hoạch là 10 năm, tầm nhìn 20 năm.
Về việc xây dựng kế hoạch kiểm soát nguồn nước cần đảm bảo phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước, và các cùng. [21,Điều 18-20].Tùy vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội của từng lưu vực sông, tiềm năng cơ bàn của nguồn nước và dự báo biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước, quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về nguồn nước đã ban hành để lập quy hoạch tài nguyên nước cho phù hợp. Sự ảnh hưởng của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến nguồn nước liên quốc gia cũng ảnh hưởng đến việc định hướng trong quy hoạch. Quy hoạch về tài nguyên nước phải thể hiện được sự phân bổ nguồn nước, phân vùng chức năng nguồn nước và xác định những biện pháp khắc phục hậu quả do tác hại của nguồn nước gây ra.
Quy hoạch về tài nguyên nước cũng chính là quy hoạch về các nguồn nước, nó góp phần to lớn trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ngay từ những khâu ban đầu. Nó giúp đánh giá tổng quát đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội song song với đánh giá hiện trạng nguồn nước (xác định chức năng, nhiệm vụ của nguồn nước, trữ lượng, chất lượng nguồn nước, mục đích sử dụng của nguồn nước…), đồng thời cũng xác định được khoản kinh phí để kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Mang ý nghĩa định hướng chung cho các quy hoạch về nguồn nước, chiến lược về kiểm soát nguồn nước là những cơ sở cơ bản để phát huy những cach thức lập quy hoạch sao cho phù hợp. Thuật ngữ “chiến lược” xuất phát từ quân sự để chỉ phương pháp, cách thức để chiến thắng một cuộc chiến tranh. Hiện nay, thuật ngữ “chiến lược” được sử dụng rộng rãi để thể hiện các kế hoạch hành động được thiết kế để hoàn thành một mục tiêu nhất định. Đối với pháp luật về môi trường, “chiến lược môi trường” được hiểu là tổng hợp các kế hoạch hành động tác động đến môi trường trong một thời kỳ nhất định để nhằm mục tiêu bảo vệ, cải thiện môi trường. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Chiến lược môi trường liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước được xây dựng dựa trên đặc điểm của nguồn nước, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước và quốc tế. Đối với vấn đề nguồn nước trong nước , chiến lược tài nguyên nước cần đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt cho người dân, nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất, phát triển kinh tế, đảm bảo cho quốc phòng – an ninh và phòng chống hiệu quả, tác hại do nước gây ra. Đối với nguồn nước quốc tế, phải đáp ứng được khả năng hợp tác quốc tế và các quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Nhà nước ta đã xây dựng và phê duyệt nhiều chiến lược có nội dung kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, chẳng hạn như: “Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn” (Theo quyết định phê duyệt của thủ tướng Chính phủ số 237/1998/QĐ-TTg ngày 03/12/1998), “Định hướng phát triển thoát nước đô thị Việt Nam đến năm 2020” (Theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ số 35/1999/QĐ-TTg ngày 5/3/1999)… và trong giai đoạn gần đây có “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” (Theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ số 256/2003/QĐ-TTg ngày 20/12/2003). Về lĩnh vực kiểm soát nguồn nước trong giai đoạn hiện nay, định hướng của Nhà nước được quy định trong “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020” theo quyết định phê duyệt số 81/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020, một trong những mục tiêu về bảo vệ tài nguyên nước là: “Kiểm soát được tình hình ô nhiễm nguồn nước. Chấm dứt việc sử dụng các loại hóa chất độc hại trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản gây ô nhiễm nguồn nước và làm suy giảm đa dạng sinh học”.
Chiến lược khác với quy hoạch môi trường ở chỗ, chiến lược giúp vạch ra các quan điểm, định hướng của Nhà nước về môi trường trong tương lai, còn quy hoạch môi trường là sự hiện thực hóa các định hướng đã được quy định trong chiến lược môi trường bằng những biện pháp cụ thể hơn. Chiến lược và quy hoạch môi trường là văn bản pháp lý quan trọng, là cơ sở cho các hoạt động kiểm soát nguồn nước.
Liên hệ đến một công cụ đắc lực khác đó là đánh giá tác động môi trường có ý nghĩa đáng kể trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Đánh giá tác động môi trường là “việc phân tích, dự báo tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó”[23,khoản 23, Điều 3]. Trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, việc đánh giá tác động môi trường nhằm phân tích, đánh giá, dự báo những ảnh hưởng của hoạt động phát triển kinh tế- xã hội đến trữ lượng, chất lượng nguồn nước; đánh giá, phân tích ảnh hưởng của nước thải đến chất lượng nguồn nước, từ đó xây dựng và thực hiện các giải pháp kiểm soát ô nhiễm nguồn nước được hiệu quả.
Đánh giá tác động môi trường là một công cụ hiệu quả đển kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Bộ TN&MT tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Báo cáo đánh giá tác động môi trường phải hoàn thành trước khi ban hành quyết định chủ trương đầu tư dự án. Trong trường hợp của Formosa, đánh giá tác động môi trường cũng là một lỗ hổng của pháp luật. Bởi khi quy định báo cáo đánh giá tác động môi trường phải hoàn thành trước khi ban hành quyết định, chủ trương đầu tư dự án, ở những thời điểm ban đầu dự án thì hầu như các thông số ảnh hưởng tới môi trường không nhiều và không thể đánh giá đúng sự tác động của dự án đến môi trường. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Một nhân tố khác góp phần kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có hiệu quả là kế hoạch môi trường. Kế hoạch môi trường chưa được định nghĩa trong pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Kế hoạch môi trường là một công cụ của pháp luật, là một hồ sơ pháp lý ràng buộc trách nhiệm giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường dành cho các dự án không thuộc báo cáo đánh giá tác động môi trường. Để xây dựng được kế hoạch môi trường đặc biệt về lĩnh lực kiểm soát nguồn nước cần phải có quá trình đánh giá, phân tích, dự báo các tác động đến môi trường trong các giai đoạn thực hiện dự án. Các chủ thể phải thực hiện theo đúng kế hoạch môi trường đã đặt ra, đặc biệt quan tâm đến vấn đề xử lý chất thải trước khi xả ra nguồn nước.
Kế hoạch môi trường tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp trong việc xác định ứng xử của doanh nghiệp đối với môi trường phù hợp với hoàn cảnh của từng doanh nghiệp cụ thể và từng dự án cụ thể. Kế hoạch môi trường về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước cho thấy ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc bảo vệ nguồn nước; sự tôn trọng và hiểu biết các tiêu chuẩn, quy chuẩn về nguồn nước đã được ban hành; sự hiểu rõ những nguồn nước mà doanh nghiệp sẽ sử dụng. Đồng thời, vì kế hoạch môi trường là do doanh nghiệp tự chủ động hoàn thành nên sẽ nâng cao ý thức trách nhiệm một cách thực chất hơn trong các doanh nghiệp, tạo điều kiện để cơ quan quản lý nhà nước quản lý dễ dàng hơn trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
2.2.2. Chủ thể tham gia pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Chủ thể pháp luật là cá nhân, tổ chức có khả năng có quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. Chủ thể pháp luật khác với chủ thể quan hệ pháp luật. Chủ thể pháp luật chỉ cần có năng lực pháp luật, nhưng để trở thành chủ thể của một quan hệ pháp luật cụ thể thì phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật, tức là phải có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Nội dung phần này chủ yếu đề cập đến chủ thể quan hệ pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Xuất phát từ đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội đặc biệt là các đòi hỏi
về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có ý nghĩa to lớn không chỉ trong việc bảo vệ nguồn nước mà còn bảo vệ các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Có hai chủ thể chính tham gia vào quan hệ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đó là: cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân. Mỗi chủ thể được pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ phù hợp với đặc thù tính chất, hoạt động của từng chủ thể. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Cơ quan quản lý nhà nước
Nhà nước là chủ thể tham gia nhiều quan hệ pháp luật. Nhằm thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường nước, Nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ quản lý tài nguyên nước, trong đó hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là hoạt động quan trọng. Pháp luật quy định rõ nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Có thể chia hệ thống cơ quan Nhà nước về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước thành hai loại:
Thứ nhất là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chung (bao gồm: Chính phủ và UBND các cấp)
Chính phủ là cơ quan đầu não ban hành những Nghị định, Thông tư liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Chính phủ quy định cụ thể việc lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước; quy định cụ thể việc thăm dò, khai thác nước dưới đất; quy định cụ thể việc đăng ký, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước; quy định cụ thể các trường hợp khai thác tài nguyên nước phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền như: phê duyệt quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước, ban hành danh mục lưu vực sông liên tỉnh…
Thẩm quyền cấp, thu hồi giấy phép liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước do các cơ quan Nhà nước, cụ thể như sau: Chính phủ quy định cụ thể việc cấp giấy phép xả thải vào nguồn nước[ 32,Điều 37], Chính phủ quy định cụ thể việc đăng ký, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước [32, Điều 44]. Bên cạnh đó thẩm quyền quy định trình tự, thủ tục và quy định cụ thể quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước thuộc về Chính phủ [32,Điều 73]
Chính phủ cũng là cơ quan có thẩm quyền thành lập hội đồng quốc gia về tài nguyên nước (tư vấn cho Chính phủ và thủ tướng Chính phủ trong những quyết định quan trọng về tài nguyên nước).
Như vậy, chủ yếu các hoạt động như lập quy hoạch, kế hoạch về nguồn nước đều do Thủ tướng chính phủ phê duyệt và Chính phủ là cơ quan quản lý chung, ban hành những quy định cụ thể mang tính định hướng hành động trong các hoạt động liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
UBND các cấp là cơ quan ở địa phương có thẩm quyền trong các hoạt động liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở tại địa phương mình. Theo đó, UBND cấp tỉnh tổ chức lập quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhưng vẫn phải có ý kiến bằng văn bản của Bộ TN&MT. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện điều tra, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước đối với các nguồn nước nội tỉnh, nguồn nước liên tỉnh trên địa bàn của mình theo hướng dẫn của các bộ ngành liên quan đặc biệt là Bộ TN&MT. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Thứ hai là các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn (bao gồm: Bộ TN&MT, các Sở Tài nguyên và Môi trường, Chi cục bảo vệ môi trường, Phòng Tài nguyên môi trường…)
Bộ TN&MT đứng vai trò là cơ quan đầu não đảm nhận trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ về đánh giá hiện trạng tài nguyên nước. Theo đó, Bộ TN&MT phải đưa ra những bộ dữ liệu, chuẩn dữ liệu, xây dựng hệ thống thông tin về tài nguyên nước và tiến hành chia sẻ thông tin về tài nguyên nước. Bộ TN&MT cũng có trách nhiệm trong việc quy định nội dung, biểu mẫu điều tra hiện trạng xả thải vào nguồn nước. Đồng thời, Bộ TN&MT có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan xây dựng các đề án, kế hoạch kiểm kê tài nguyên nước trong phạm vi cả nước, với đối tượng kiểm kê là các nguồn nước khác nhau như nguồn nước liên quốc gia, nguồn nước liên tỉnh …
Thẩm quyền xây dựng, phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước thuộc thẩm quyền của Bộ TN&MT phối hợp với các bộ ngành liên quan tùy vào loại nước ( tài nguyên nước chung cho cả nước, tài nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh…).
Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh thực hiện việc cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước
Bộ tài nguyên môi trường có nghĩa vụ chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên quan và UBND cấp tỉnh lập chiến lược tài nguyên nước trình thủ tướng chính phủ.[32,Điều 14,21,24]. Như vậy ta có thể thấy rằng thẩm quyền xây dựng các kế hoạch, quy hoạch vè chiến lược khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển tài nguyên nước chủ yếu thuộc về Bộ TN&MT. Là cơ quan đầu ngành trong các hoạt động liên quan đến lĩnh vực về môi trường, Bộ TN&MT vừa có chức năng tham mưu cho Chính phủ về chiến lược nước quốc gia vừa xây dựng và giám sát các hoạt động trong kế hoạch, quy hoạch sử dụng, khai thác, bảo vệ nguồn nước. Khác với pháp luật Hà lan như đã đề cập trước đó, Hà Lan lập ra các ủy ban về nước chuyên trách từng vấn đề, thậm chí có ủy ban tham mưu riêng cho các vấn đề về nước thì trong pháp luật Việt Nam hầu hết thẩm quyền các hoạt động về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và các hoạt động khác về môi trường vẫn chủ yếu do Bộ TN&MT trực tiếp nắm thẩm quyền; Bộ TN&MT có thể phối hợp với các bộ ngành liên quan khác hoặc cùng với UBND cấp tỉnh thực hiện các hoạt động.
Pháp luật quy định nghĩa vụ xây dựng dự thảo đề nghị thẩm định, thẩm định tiêu chuẩn quốc gia về môi trường là của Bộ trưởng Bộ TN&MT; Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm tổ chức thầm định dự thảo và công bố tiêu chuẩn quốc gia về môi trường [35, Điều 120].Đối với quy chuẩn về tài nguyên nước, Bộ TN&MT là cơ quan có trách nhiệm xây dựng, ban hành theo thẩm quyền quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước[20,điểm d, khoản 6, Điều 2]. Hiện nay danh sách các quy chuẩn quốc gia về môi trường chủ yếu có trong quyết định 16/2008/QĐ-BTNMT về Ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Các nghĩa vụ chung của các cơ quan Nhà nước chủ yếu được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên nước năm 2012, Nghị định của Chính phủ số 201/2013/NĐ-CP về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tài nguyên nước. Nghĩa vụ của nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước gồm những nội dung cơ bản như sau:
Một là, đánh giá hiện trạng tài nguyên nước
Đánh giá hiện trạng tài nguyên nước là quá trình hoạt động nhằm xác định trữ lượng, chất lượng nước, tình hình khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực tới trữ lượng nước, chất lượng nước của quốc gia[26]. Phục vụ cho việc đánh giá hiện trạng tài nguyên nước được hiệu quả cần đánh giá tổng quan tiềm năng tài nguyên nước trên cơ sở điều tra cơ bản địa chất, sử dụng các kết quả của nó làm căn cứ khoa học cho việc định hướng các hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển nguồn nước. Các hoạt động này được gọi là điều tra cơ bản về nguồn nước.
Các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ điều tra cơ bản tài nguyên nước, được ghi nhận tại Điều 10, Luật tài nguyên nước năm 2012 [21, Điều 10 đến Điều 13]. Theo đó, hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước phải được thực hiên theo quy hoạch, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bộ TN&MT tổ chức lập quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Sau khi quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước đã được phê duyệt, bộ, cơ quan ngang bộ và UBND cấp tỉnh trong phạm vi quyền hạn nhiệm vụ có trách nhiệm tổ chức xây dựng kế hoạch điều tra cơ bản tài nguyên nước cho chính địa phương mình để phù hợp với thực tế tại từng địa phương. Cùng với việc điều tra cơ bản và đánh giá hiện trạng tài nguyên nước, nhà nước còn có trách nhiệm khác như kiểm kê tài nguyên nước, điều tra hiện trạng khai thác, sử dụng, xả nước thải vào nguồn nước, quan trắc tài nguyên nước, xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước.
Ngoài quy định về nghĩa vụ bao quát các hoạt động liên quan đến đánh giá tài nguyên nước của Bộ TN&MT, công tác này cần có sự phối hợp thực hiện giữa các bộ ngành có liên quan. Các bộ ngành liên quan trong phạm vi, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ TN&MT trong hoạt động kiểm kê tài nguyên nước và xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước (Bộ NN&PTNT, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng và các bộ ngành có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình)
Thực tế đã cho thấy tầm quan trọng của hoạt động đánh giá hiện trạng tài nguyên nước. Đối với công tác kiểm soát ô nhiễm, việc đánh giá hiện trạng tài nguyên nước giúp các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, các nhân có tác động đến nguồn nước biết được tình trạng của nước và các vùng địa chất xung quanh nguồn nước. Nó cung cấp được cơ sở dữ liệu khoa học về thực trạng tài nguyên nước ở mỗi địa phương cụ thể trong thời gian cụ thể, để từ đó làm tiền đề, cơ sở cho các hoạt động lên kế hoạch, quy hoạch kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Các tổ chức, cá nhân dựa vào thông tin được chia sẻ trên cơ sở dữ liệu của Bộ TN&MT sẽ điều chỉnh các hành vi tác động đến nguồn nước một cách hiệu quả, khoa học hơn, tránh được các nguy cơ có thể gây ô nhiễm nguồn nước. Trong thời kỳ kinh tế thị trường, việc thu hút đầu tư ngày càng nhiều là điều tất yếu xảy ra, việc các nhà đầu tư tham khảo và tìm hiểu đầu tư tại Việt Nam bao gồm có việc tìm hiểu hiện trạng môi trường, trong đó có hiện trạng nguồn nước ở khu vực đó, về cả trữ lượng, xuất xứ, chất lượng nguồn nước để cân nhắc có đầu tư hay không. Cơ sở dữ liệu về đánh giá hiện trạng tài nguyên nước chắc chắn sẽ góp phần giúp các nhà đầu tư có được những lựa chọn phù hợp, góp phần vừa phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ nguồn nước. Việc pháp luật quy định nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc đánh giá hiện trạng tài nguyên nước vì thế có ý nghĩa quan trọng trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Hai là, xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường nước Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Pháp luật xác định rõ nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường tức là việc Nhà nước quy định các chuẩn mực, giới hạn về hóa học, vật lý, sinh học được quy định bởi pháp luật nhắm xác định tính chất của nguồn nước. Các tiêu chuẩn nhà nước ban hành bắt buộc phải áp dụng. Hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường về nguồn nước bao gồm nhiều nhóm quy chuẩn với từng nguồn nước khác nhau (quy chuẩn nước mặt, quy chuẩn nước dưới đất, quy chuẩn nước thải…).
Việc xây dựng, tổ chức thực hiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường là nghĩa vụ cơ bản của các cơ quan nhà nước trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Pháp luật đặt ra các quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường về nguồn nước để lấy cơ sở cho các quy định liên quan đến các hoạt động cấp giấy phép liên quan đến sử dụng, khai thác nguồn nước; xác định các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và các biện pháp xử lý vi phạm phù hợp với từng mức độ.
Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch về khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển tài nguyên nước
Kế hoạch, quy hoạch khai thác sử dụng tài nguyên nước là những hoạt động được đ chủ động thực hiện theo một một mục tiêu đã vạch sẵn. Chiến lược về khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển nguồn tài nguyên nước là những nhiệm vụ lớn. mục tiêu mang tính tổng thể, được nhà nước chỉ đạo thực hiện trong một thời gian dài. Việc xây dựng, thực hiện các chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chính sách bảo vệ nguồn nước tùy vào tiềm năng, yêu cầu và mục đích sử dụng của từng nguồn nước. Chẳng hạn như quy hoạch lưu vực sông, quy hoạch khu vực xả nước thải… Nhà nước khi xây dựng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch kiểm soát nguồn nước cần tính đến các yếu tố có ảnh hưởng đến nguồn nước một cách tổng thể, dựa trên kết quả khảo sát tiêu chuẩn các nhóm nguồn nước để đưa ra những hành động, định hướng cho chính xác.
Xây dựng và sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Chi phí cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là rất lớn xuất phát từ tính phức tạp và khó khăn của hoạt động này. Các cơ quan quản lý nhà nước với vai trò là chủ thể chính trong quan hệ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có nghĩa vụ phải xây dựng và có kế hoạch sử dụng hợp lý các nguồn tài chính cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước [23,Điều 147-149]. Các nguồn tài chính tài chính để kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung như: ngân sách nhà nước, phí bảo vệ môi trường, quỹ bảo vệ môi trường… Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Trong khi đó, nguồn tài chính để phục vụ cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước chủ yếu là nguồn thu ngân sách từ hoạt động tài nguyên nước bao gồm: Thuế tài nguyên nước và các khoản thuế khác theo quy định của pháp luật; các loại phí, lệ phí; tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; tiền bồi thường thiệt hại cho Nhà nước, tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước[21,Điều 64]. Ta có thể thấy rằng, nguồn tài chính để phục vụ cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước chủ yếu là nguồn thu ngân sách nhà nước ( từ thuế, phí và tiền nộp phạt), thiếu đi sự đóng góp của quỹ bảo bệ môi trường. Các cơ quan nhà nước cũng chú trọng đến hoạt động thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, để nó trở thành công cụ đắc lực giúp cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước được hiệu quả. Theo đó, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là một khoản thu thuộc ngân sách Nhà nước, được quản lý và sử dụng như sau: trích lại một phần phí thu được cho cơ quan, đơn vị trực tiếp thu phí để trang trải chi phí cho việc thu phí; chi phí cho các chi phí lấy mẫu, đánh giá phân tích mẫu nước thải vục vụ cho kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất. Phần còn lại của khoản phí thu được sẽ nộp vào ngân sách nhà nước (một phần cho ngân sách trung ương để bổ sung vào quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam, một phần cho ngân sách địa phương để phục vụ việc bảo vệ, phát triển tài nguyên nước ở địa phương). Nhờ nghĩa vụ xây dựng và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính phục vụ cho kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, các cơ quan Nhà nước cũng tự tạo ra điều kiện thuận lợi cho mình để tiếp tục phát triển các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước khác một cách có hiệu quả hơn.
Cấp, thu hồi giấy phép liên quan đến việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Là một công cụ hữu hiệu, giấy phép tài nguyên nước có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Thẩm quyền liên quan đến việc cấp, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước đều thuộc về các cơ quan quản lý Nhà nướ, cụ thể chịu trách nhiệm chính là Chính phủ, Bộ TN&MT và UBND cấp tỉnh. Việc quy định thẩm quyền như vậy giúp nhà nước kiểm soát nguồn nước một cách hiệu quả, hạn chế những nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước.
Tổ chức thực hiện phòng chống, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước do sự vận động bất thường của nước
Ô nhiễm nguồn nước xuất phát từ nhiều nguyên nhân, các nguyên nhân do hoạt động của con người thì các cơ quan Nhà nước có nghĩa vụ phải thực hiện một số hoạt động như trên đã đề cập. Tuy nhiên, không thể không kể đến các nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước thuộc về tự nhiên, chẳng hạn như xâm nhập mặ, hạn hán, lũ lụt cũng là nguyên nhân làm thay đổi cấu trúc vật lý, hóa học, sinh học của nước, là nguyên nhân dẫn tới ô nhiễm nguồn nước. Vì thế nghĩa vụ của chủ thể Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện phòng chống và khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước do sự vận động bất thường của nước cũng là một nội dung mà pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước quy định. Đối với từng nguồn nước và tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước sẽ quy định trách nhiệm riêng của các cơ quan. Cụ thể gồm các nghĩa vụ như: nghĩa vụ phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; phòng , chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do thiên tai gây ra; phòng, chống lũ lụt, ngập úng nhân tạo; phòng, chống xâm nhập mặn; phòng chống sạt, lở bờ bãi, sông [21, Điều 58-63]. Việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước thông qua hoạt động phòng, chống và khắc phục hậu quả do sự vận động bất thường của nước gây ra có vai trò quan trọng trọng việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước một cách toàn diện. Từ đó giúp bảo vệ được trữ lượng, chất lượng nguồn nước, hạn chế mức thấp nhất những tác hại về mặt tự nhiên có thể gây ra đối với nguồn nước.
Thanh tra thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Cơ quan nhà nước có nghĩa vụ thanh tra việc thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, tức là hoạt động của nhà nước theo thủ tục nhất định nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lý những hành vi vi phạm về ô nhiễm nguồn nước. Thanh tra chuyên ngành của Bộ TN&MT và các Sở tài nguyên và môi trường là cơ quan thực hiện chức năng thanh tra đối với hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.[21,Điều 75]. Các cơ quan nhà nước thực hiện nghĩa vụ thanh tra việc thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước cần xác định rõ mục tiêu của hoạt động này đó là phát hiện và ngăn chặn được những hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Trong quá trình thực hiện công tác thanh tra, cần dựa trên cơ sở khoa học kỹ thuật và công nghệ, các chuyên gia có trình độ pháp lý để tiến hành hoạt động thanh tra có chất lượng. Nhà nước thông qua nghĩa vụ thanh tra việc thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có thể phát hiện ra những bất cập của chính pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước để có giải pháp hoàn thiện pháp luật trong tương lai để phù hợp hơn với tình hình cụ thể.
Thêm vào đó, các cơ quan nhà nước còn có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Giải quyết tranh chấp về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước quan trọng nhất phải đảm bảo buộc bên vi phạm phải khôi phục lại trữ lượng và chất lượng nước. Đây là mục tiêu cơ bản và cần thiết nhất của giải quyết tranh chấp về ô nhiễm nguồn nước. Tuy nhiên, hoạt động này chỉ là một trong những nghĩa vụ mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thực thi để kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Nếu xét riêng về nội dung của pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước thì riêng giải quyết tranh chấp về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là một phần riêng biệt.
Như vậy, trên đây là tất cả nghĩa vụ của chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước được quy định trong pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Ta thấy nổi bật lên trong các cơ quan nhà nước về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là thẩm quyền rất lớn và bao trùm hầu hết các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước của Bộ TN&MT. Chính phủ chỉ đóng vài trò trong việc phê duyệt Chiến lược nước quốc gia và một số vấn đề liên quan đến quy định trình tự, thủ tục của cấp và thu hồi giấy phép tài nguyên nước. Các bộ ngành liên quan, như bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ NN&PTNT … chủ yếu đóng vai trò phối, kết hợp với Bộ TN&MT trong việc thực hiện các kế hoạch, quy hoạch liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. UBND cấp tỉnh là cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các hoạt động do Bộ Tài nguyên môi trường giao phó, và có nghĩa vụ trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở địa phương nhất là nguồn nước liên tỉnh và nguồn nước nội tỉnh, đảm bảo việc phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở mỗi địa phương với nhau để hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đạt được kết quả tốt nhất.
Chủ thể là tổ chức, cá nhân Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Các tổ chức, cá nhân là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Chủ thể này tham gia quan hệ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước với vai trò là chủ thể trực tiếp tác động đến đến nguồn nước thông qua các hoạt động sản xuất, sinh hoạt, khai thác …nguồn nước của mình. Và tổ chức, cá nhân cũng là chủ thể quyết định được những quyết sách của Nhà nước có được thực hiện tốt hay không. Các hoạt động của con người rất đa dạng, mỗi hoạt động lại có ảnh hưởng khác nhau đến nguồn nước. Chính vì thế pháp luật cũng dựa vào tính chất, mức độ của từng hoạt động để quy định nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước sao cho hợp lý. Sau đây là một số nghĩa vụ cơ bản của chủ thể là các tổ chức cá nhân tham gia quan hệ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Thứ nhất là bảo vệ chất lượng, trữ lượng nguồn nước. Các tổ chức, cá nhân không được thực hiện các hành vi gây tổn hại tới trữ lượng và chất lượng nguồn nước. Pháp luật nghiêm cấm các hành vi: làm suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, ngăn cản trái phép sự lưu thông của nguồn nước ( bồi, lấp ao, hồ công cộng trái phép…). Ngoài ra, về các chất thải vào nguồn nước, pháp luật cũng nghiêm cấm thải dầu, mỡ, hóa chất độc hại, chất phóng xạ, nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn vào nguồn nước. Xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại gây dịch bệnh vào nguồn nước. [23,Điều 7][ 21, Điều 9].
Để thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ chất lượng, trữ lượng nguồn nước, các chủ thể là tổ chức, cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ nộp phí bảo vệ môi trường đối với chất thải. Chẳng hạn: Nghị định 25/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc diện phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt hàng tháng cho đơn vị cung cấp nước sạch. Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt được tính theo tỉ lệ % trên giá bán 1m3 nước sạch nhưng tối đa không quá 10% giá bán nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Ngoài ra, nước thải công nghiệp cũng là đối tượng phải nộp phí bảo vệ môi trường.
Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước còn phải đảm bảo các nghĩa vụ khác như: cung cấp thông tin về tài nguyên nước cho các cơ quan có thẩm quyền khi có yêu cầu kiểm tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng nguồn nước, không gây cản trở hoặc làm thiệt hại lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Khi phát hiện thấy những hành vi vi phạm kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, gây mất an toàn nguồn nước phải kịp thời báo ngay cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết.Các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tùy vào mục đích của các chủ thể mà pháp luật có những quy định riêng. Chẳng hạn như đối với các chủ thể sử dụng nước vào mục đích sản xuất nông nghiệp như làm muối, nuôi trồng thủy sản phải đảm bảo sử dụng hóa chất phù hợp với chủng loại, mức độ tùy theo quy định về thuốc bảo vệ thực vật…[21,Điều 33]. Pháp luật quy định nhiều trường hợp khác nhau tùy vào muc đích sử dụng nước của các tổ chức, cá nhân như: khoan, thăm dò địa chất, xử lý nền móng công trình, xây dựng công trình ngầm; xây dựng công trình thủy điện; thực hiện hoạt động giao thông đường thủy hay sử dụng nguồn nước vào mục đích nghiên cứu khoa học, nghỉ ngơi, du lịch, thể thao đều dựa trên những yêu cầu đặc thù của từng hoạt động. Hơn ai hết, các tổ chức, cá nhân chính là chủ thể có đa dạng các hoạt động ảnh hưởng đến nguồn nước hơn cả so với các chủ thể khác. Quy định nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân dựa trên cơ sở quy định nội dung mở ra tính tự giác, ý thức trong động cơ hành động chủ thể là chính. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Thứ hai về bảo vệ các công trình thủy lợi, khí tượng thủy văn và các công trình khác liên quan tới việc bảo vệ, phát triển, sử dụng tài nguyên nước. Khái niệm công trình thủy lợi được quy định như sau: “Công trình thủy lợi là công trình hạ tầng kỹ thuật thủy lợi bao gồm đập, hồ chứa nước, cống, trạm bơm, hệ thống dẫn, chuyển nước, kè, bờ bao thủy lợi và công trình khác phục vụ quản lý, khai thác thủy lợi”[24, khoản 3, Điều 2]. Sở dĩ có trong hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có quy định về nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ các công trình thủy lợi, khí tượng thủy văn, các công trình phục vụ cho việc phát triển, sử dụng tài nguyên nước bởi nhận thức được tầm quan trọng của các công trình thủy lợi đối với việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Cơ sở hạ tầng về nguồn nước có tốt thì công tác kiểm soát ô nhiễm nguồn nước mới đạt được hiệu quả cao. Pháp luật ghi nhận rằng mọi tổ chức cá nhân có trách nhiệm trực tiếp bảo vệ công trình thủy lợi, khí tượng thủy văn [23,Điều 57][24, Điều 8].Các tổ chức, các nhân không được thực hiện các hành vi bị cấm trong quá trình quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, thủy văn như: lấn chiếm sử dụng đât đai, xây dựng công trình trái phép trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, khí tượng thủy văn; các hoạt động gây mất an toàn thủy lợi, khí tượng thủy văn, trái với quy trình kỹ thuật được quy định.
Thứ ba, về phòng chống, khắc phục hậu quả, tác hại do vận động của nước gây ra. Nước vận động rất bất thường vè dễ gây ra sự cố môi trường. Khi xảy ra sự cố môi trường, các tổ chức, cá nhân phải tuần thủ các quy định của pháp luật và chấp hành nghiêm chỉnh các biện pháp khắc phục hậu quả. Pháp luật còn quy định các trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác hồ chứa phải có quy hoạch phòng chống lũ lụt được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Hoặc vid dụ như các tổ chức cá nhân xả chất thải có khả năng gây mưa axit phải có biện pháp xử lý khí thảo theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Bảo vệ nguồn nước sạch là quá trình lâu dài và khó khăn. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ngoài việc quy định trách nhiệm của chủ thể nhà nước, còn quy định nghĩa vụ của chủ thể là các tổ chức, cá nhân để hoạt động kiểm soát nguồn nước thật sự hiệu quả. Bởi kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là quá trình phức tạp cần sự chung tay của cả nhà nước và cộng đồng. Nhà nước là chủ thể có thẩm quyền, có chức năng quản lý các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Các cá nhân là chủ thể trực tiếp tác động vào nguồn nước, cần có những quy định ứng xử riêng đối với từng hoạt động của chủ thể này tác động đến nguồn nước. Các chủ thể trong pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp cùng nhau trong các hoạt động nhằm mục đích kiểm soát được tình trạng ô nhiễm nguồn nước đang ngày càng đáng báo động hiện nay. Nghĩa vụ của các chủ thể hiện nay chưa được quy định thống nhất, các quy định còn lẻ tẻ ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Tuy nhiên về nội dung pháp luật quy định về quyền hạn và nghĩa vụ của các chủ thể đã phần nào theo sát được tình hình thức tế vầ hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Để việc thực hiện hiệu quả các nghĩa vụ đã được pháp luật quy định, các chủ thể cần nắm được động cơ của pháp luật muốn hướng đến, các quy tắc ứng xử chung mà pháp luật muốn thể hiện, xuất phát từ tinh thần của pháp luật, kết hợp với các quy định được cụ thể hóa thành các điều luật, các chủ thể sẽ tự cảm nhận được trách nhiệm và nâng cao tính tự giác của mỗi chủ thể trong việc thực hiện các nghĩa vụ của mình với hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Từ đó, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp, sự gắn kết trong công cuộc thực hiện những mục tiêu chung tối quan trọng của toàn xã hội.
2.2.3. Xây dựng, ban hành, công bố quy chuẩn kỹ thuật môi trường nước Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Bất kì pháp luật kiểm soát về ô nhiễm môi trường đều phải dựa vào một cơ sở vững chắc để xác định thế nào là ô nhiễm và ô nhiễm ở mức độ nào. Và pháp luật cũng cần có cơ sở khoa học rõ ràng được cụ thể hóa thành các chuẩn mực để dựa vào đó quy định các biện pháp, chế tài xử phạt thích đáng. Công cụ hữu hiệu nhất được pháp luật quy định đó chính là tiêu chuẩn và quy chuẩn môi trường nước, được vừa là công cụ kỹ thuật vừa là công cụ pháp lý quan trọng để kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Quy chuẩn kỹ thuật môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản bắt buộc áp dụng để bảo vệ môi trường.[23,Khoản 5, Điều 3,] Phân biệt với tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế – xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng.
Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế – xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác [19, khoản 3, Điều 3].Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng.
Xuất phát từ định nghĩa trên, trong lĩnh vực môi trường quy định quy chuẩn môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được các cơ quan nhà nước và các tổ chức công bố dưới dạng văn bản tự nguyện áp dụng để bảo vệ môi trường. Các quy chuẩn kỹ thuật môi trường nước là giới hạn mức thông số về chất lượng nguồn nước, hàm lượng các chất gây ô nhiễm có trong nước và các yêu cầu kỹ thuật và quản lý. Qua đó, là cơ sở để kiểm soát chất lượng nguồn nước từ các hoạt động của con người như hoạt động sản xuất kinh doanh, từ hoạt động công nghiệp, làng nghề, các hoạt động sinh hoạt… Pháp luật quy định các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường theo các nguồn nước khác nhau bới tính chất riêng có của mỗi nguồn nước.
Việc xây dựng các quy chuẩn môi trường về nguồn nước dựa trên cơ sở các căn cứ khoa học đã được Bộ Khoa học về Công nghệ kiểm định. Bên cạnh đó các quy chuẩn này phải dựa trên mục đích bảo vệ các hệ sinh thái, bảo vệ sức khỏe con người. Các quy chuẩn được xây dựng dựa trên tính khả thi thực hiện, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất phục vụ công tác kiểm soát, đánh giá chất lượng nguồn nước và phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước. Quy chuẩn kỹ thuật phải đáp ứng yêu cầu về an toàn, an ninh quốc gia, phù hợp quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan. Việc xây dựng tiêu chuẩn phải bảo đảm sự tham gia và đồng thuận của các bên có liên quan. Tuy nhiên, sự tham gia đóng góp về tiêu chuẩn, quy chuẩn của cộng đồng tại Việt Nam còn hạn chế, do trình độ không đáp ứng và do khuôn khổ pháp lý cũng không cho phép sự can thiệp quá nhiều của cộng đồng. Hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phải bảo đảm công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử và không gây trở ngại không cần thiết đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại. Nhờ tính công khai, minh bạch mà quyền lợi các chủ thể được đảm bảo hơn. Điểm hay trong Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 đó là ghi nhận quyền của tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng quy chuẩn kỹ thuật, đó là có quyền đề nghị, góp ý kiến xây dựng quy chuẩn kỹ thuật. Điều này góp phần nâng cao tính phối hợp giữa cộng đồng và các cơ quan quản lý Nhà nước vì công việc chung. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Việc ban hành quy chuẩn môi trường nước. Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản. Hiện nay, thẩm quyền ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước là do Bộ TN&MT đảm nhận. UBND cấp tỉnh ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường ở địa phương. Sau đó, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ thẩm định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do Bộ TN&MT xây dựng.
Đảm bảo các điều kiện cần thiết thù quy chuẩn ký thuật quốc gia sẽ được Bộ TN&MT ban hành công khai. Hiện nay, Bộ đã ban hành 45 quy chuẩn quốc gia, trong đó có 7 quy chuẩn quốc gia về chất lượng nước, 13 quy chuẩn quốc gia về nước thải. Theo đó, Bộ trưởng Bộ TN&MT có trách nhiệm ra quyết định ban hành quy chuẩn quốc gia về môi trường. Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật về nguồn nước ở Việt Nam hiện nay về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước gồm có một số quy chuẩn cơ bản sau:
Về nguồn nước mặt và nước ngầm: QCVN 08:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt, QCVN 10:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước biển ven bờ; QCVN 38:2011/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt bảo vệ đời sống thủy sinh; QCVN 09:2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ngầm Về nước thải: Quy chuẩn về nước thải gồm: QCVN 11:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp chế biến thủy sản; QCVN 12:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp giấy và bột giấy; QCVN 13:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp dệt may; QCVN 14:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt; QCVN 15:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật trong đất; QCVN 01-MT:2015/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sơ chế cao su thiên nhiên; QCVN 13-MT:2015/BTNMT
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp dệt nhuộm;
Về nguồn nước sinh hoạt: QCVN 01:2009/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống (đối với nước dùng để ăn uống, nước dùng cho các cơ sở chế biến thực phẩm; QCVN 02:2009/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt (sử dụng cho mục đích sinh hoạt thông thường không sử dụng để ăn uống trực tiếp hoặc dùng cho chế biến thực phẩm tại các cơ sở chế biến thực phẩm).
Về công bố quy chuẩn kỹ thuật. Bộ TN&MT hoặc UBND là các cơ quan ban hành quy chuẩn có trách nhiệm thông báo công khai việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật và việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ quy chuẩn kỹ thuật trong thời hạn ít nhất là ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định. Đồng thời, có các hoạt động tổ chức, phổ biến, hướng dẫn triển khai áp dụng quy chuẩn kỹ thuật, một trong số đó có việc xuất bản phát hành quy chuẩn kỹ thuật. Quy định pháp luật là vậy nhưng khi thực thi trong thực tế vẫn chưa thể hiện rõ hiệu quả của nó. Hầu như, các quy chuẩn kỹ thuật chưa thật sự được sự quan tâm của quần chúng thậm chí là các doanh nghiệp cũng chưa thật sự hiểu biết về quy chuẩn kỹ thuật về nước. Nguyên nhân có thể do năng lực cán bộ quản lý nhà nước về môi trường còn yếu, bên cạnh đó ý thức trách nhiệm của đa số người dân chưa cao… Mục đích của việc công bố quy chuẩn quốc gia về nguồn nước phải dựa trên cơ sở phổ biến trong cộng đồng, do đó, cần có giải pháp để nâng cao sức ảnh hưởng của các quy chuẩn kỹ thuật về nước đến với người dân. Con người muốn nâng cao chất lượng cuộc sống thì trước hết phải hiểu rõ về chất lượng sống mà mình hướng đến. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Các quy chuẩn kỹ thuật môi trường về nguồn nước có vai trò quan trọng trong việc xác định khung pháp lý của các nội dung quy định khác trong pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Là cơ sở cho các chủ thể như nhà nước, các tổ chức, cá nhân thực hiện đúng nghĩa vụ của mình với nguồn nước. Cùng với sự phát triển, thay đổi của tình hình đất nước, các bộ quy chuẩn quốc gia về nguồn nước cũng cần vận động thay đổi để phù hợp với những yêu cầu đặt ra của tiến trình đó.
Trong thực tế, có nhiều lỗ hổng trong các quy định về quy chuẩn kỹ thuật về nguồn nước ở nước ta. Đơn cử là sự cố môi trường biển Formosa gây ra hiện tượng hải sản chết bất thường bắt đầu xuất hiện tại Hà Tĩnh vào ngày 6/4/2016, sau đó lần lượt xuất hiện tại các tỉnh: Quảng Bình (10/4/2016), Thừa Thiên – Huế (15/4/2016), Quảng Trị (16/4/2016). Lỗ hổng pháp lý lớn nhất trong sự cố môi trường Formosa là việc áp dụng các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về kiểm soát nguồn nước thải. Nhiều lỗ hổng trong việc đảm bảo thực thi các quy chuẩn dẫn đến hậu quả vô cùng xấu đến môi trường, gây thiệt hại rất lớn về sức khỏe, tài sản của con người và tác động khôn lường đến hệ sinh thái biển. Cùng với việc người dân, thậm chí và các cấp chính quyền chưa hiểu rõ về các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường về nguồn nước dẫn đến khâu thực hiện phần nhiều chỉ vì mặt hình thức, chưa đạt được kết quả cao. Người dân cũng không thể biết những căn cứ mình có thể dựa vào để nhận biết tình trạng ô nhiễm nguồn nước để có biện pháp thông báo, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền vì lợi ích của chính bản thân mình và toàn xã hội.
Các cơ quan có thẩm quyền hiện nay thường chỉ lưu ý đến việc thực hiện cấp phép theo quy chuẩn kỹ thuật của từng trường hợp. Nếu như nguồn nước đó có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm xả vào thì tổng lượng nước thải dễ dàng vượt qua khả năng tiếp nhận của dòng nước. Ví dụ điển hình là việc nuôi cá lồng bè ở các vùng ven biển. Chẳng hạn như ở Cát Bà, việc nuôi cá lồng bè đã và đang gây ô nhiễm biển Cát Bà. Theo báo cáo Thực trạng giải pháp ô nhiễm Cát Bà của Ban quản lý đảo Cát Bà, các chỉ số chất lượng nước và chỉ số đa dạng loài đều cho thấy chất lượng nước và chất lượng hệ sinh thái Cát Bà xuống cấp nghiêm trọng.
Vậy, quy chuẩn kỹ thuật về nguồn nước là các căn cứ khoa học và pháp lý cơ bản và hữu hiệu để kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Việc xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường cần đảm bảo các nguyên tắc đã được quy định trong pháp luật để đảm bảo minh bạch, rõ ràng, phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước. Hơn hết, việc thực hiện các bộ quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về nguồn nước cần có sự phối kết hợp của các cơ quan nhà nước có liên quan và tăng cường sự đóng góp của người dân. Để làm được điều đó, cần nâng cao phổ biến, hướng dẫn thực hiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường về nguồn nước đến gần hơn với toàn xã hội, để hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước thực sự là trách nhiệm của toàn dân.
2.2.4. Cấp, thu hồi giấy phép tài nguyên nước Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Giấy phép tài nguyên nước là chứng thư pháp lý do cơ quan có thẩm quyền cấp cho các tổ chức, cá nhân trong đó xác định rõ các quyền, nghĩa vụ liên quan nhằm buộc các chủ thể này khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên nước. Giấy phép tài nguyên nước là một công cụ đắc lực trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Thông qua việc đăng ký, cấp, thu hồi giấy phép tài nguyên nước, các cơ quan Nhà nước sẽ kiểm soát được trữ lượng, chất lượng nguồn nước, các hoạt động tác động đến nguồn nước của các tổ chức, cá nhân hạn chế được việc sử dụng, khai thác bừa bãi, lãng phí nguồn nước, gây suy thoái, ô nhiễm nguồn nước. Hơn nữa, việc kiểm soát giấy phép tài nguyên nước còn giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
Giấy phép tài nguyên nước bao gồm: Giấy phép thăm dò nước dưới đất; giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt; giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất; giấy phép khai thác, sử dụng nước biển; giấy phép xả nước thải vào nguồn nước [12,Điều 15]. Nội dung của giấy phép tài nguyên nước ngoài việc ghi đẩy đủ thông tin của chủ thể xin cấp phép còn chú trọng vào nội dung về nguồn nước mà chủ thể muốn thăm dò, khai thác, hoặc xả thải cũng như quy mô, công suất, lưu lượng, thông số chủ yếu của công trình thăm dò, khai thác nước, xả nước thải; chế độ, phương thức mà chủ thể sẽ khai thác, sử dụng, xả nước thải và thời hạn của giấy phép.
Về thẩm quyền cấp, thu hồi giấy phép tài nguyên nước: Chính phủ cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm quy định cụ thể việc đăng ký, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Tùy vào từng loại giấy phép có thể đăng ký ở các cơ quan Nhà nước khác nhau. Nguyên tắc cấp phép là phải đảm bảo đúng thẩm quyền, đối tượng, trình tự, thủ tục đồng thời bảo đảm cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và các chủ thể tham gia khác; ưu tiên cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước để cấp nước sinh hoạt; đảm bảo phù hợp với quy hoạch tài nguyên nước đã được phê duyệt; tất cả nhằm mục tiêu bảo vệ nguồn nước. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Để được cấp giấy phép tài nguyên nước, các chủ thể phải đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật. Cụ thể là: đã thực hiện thông báo, lấy ý kiến đại diện của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật; đã có các phương án xử lý nước thải, đảm bảo không gây ô nhiễm nguồn nước theo kế hoạch quy hoạch đã định.
Ngoài ra pháp luật còn đặc biệt chú trọng việc quy định về điều kiện cấp giấy phép cho những trường hợp xả thải vào nguồn nước. Các điều kiện đối với các chủ thể xả nước thải ra nguồn nước khắt khe hơn: Có thiết bị, nhân lực hoặc có hợp đồng thuê tổ chức, cá nhân khác đủ năng lực thực hiện việc vận hành hệ thống xử lý nước thải và quan trắc hoạt động xả nước thải đối với trường hợp đã có công trình xả nước thải; Có phương án bố trí thiết bị, nhân lực để thực hiện việc vận hành hệ thống xử lý nước thải và quan trắc hoạt động xả nước thải đối với trường hợp chưa có công trình xả nước thải. Thậm chí, đối với các công trình xả nước thải vào nguồn nước có lưu lượng từ 10.000 m3/ngày đêm trở lên phải có phương án, phương tiện, thiết bị cần thiết để ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước và thực hiện việc giám sát hoạt động xả nước thải theo quy định.
Thời hạn giấy phép tài nguyên nước quy định trong Nghị định của Chính phủ số 201/2013/NĐ-CP về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước được tổng hợp theo bảng sau:
Bảng 2.1. Thời hạn cấp giấy phép tài nguyên nước
Pháp luật cũng thể hiện tính linh hoạt khi tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong trường hợp các tổ chức, cá nhân đề nghị cấp hoặc gia hạn giấy phép với thời hạn ngắn hơn thời hạn tối thiểu thì giấy phép được cấp theo thời hạn trong đơn. Ngoài ra, tùy từng trường hợp mà các chủ thể có thể điều chỉnh giấy phép. Chẳng hạn như: điều kiện mặt bằng không cho phép tho công một số hạng mục trrong đề án thăm dò đã được phê duyệt; có sự khác biệt giữu cấp trúc thủy văn thực tế vè dự kiến; khai thác gây sụt, lún mặt đất, biến dạng công trình, xâm nhập mặn, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng. Giấy phép tài nguyên nước cũng có thể bị đình chỉ hoặc thu hồi hoặc cấp lại được quy định cụ thể trong Nghị định của Chính phủ số 201/2013/NĐ-CP về Hướng dẫn luật Tài nguyên nước. Bộ TN&MT có thẩm quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh hiệu lực, thu hồi và cấp lại giấy phép đối với một số trường hợp liên quan đến ô nhiễm nguồn nước như: xả nước thải với lưu lượng từ 30.000 m3/ngày đêm trở lên đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản; xả nước thải với lưu lượng từ 3.000 m3/ngày đêm trở lên đối với các hoạt động khác… UBND cấp tỉnh cấp, gia hạn, điều chỉnh, điều chỉnh hiệu lực, thu hồi và cấp lại giấy phép đối với các trường hợp không được thuộc thẩm quyền của Bộ TN&MT.
Các quy định cụ thể về giấy phép tài nguyên nước được quy định từ điều 15 đến điều 38, Nghị định Chính phủ số 201/2013/NĐ-CP về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước.
Qua kiểm tra các doanh nghiệp khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên địa bàn các tỉnh đều có lỗi giống nhau là không có giấy phép khai thác, xả nước thải theo quy định hoặc nếu có thì việc khai thác cũng vi phạm hoặc vượt quy định cho phép. Việc chấp hành pháp luật về tài nguyên nước cho thấy còn chưa cao. Ngay cả công ty chuyên cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt, sản xuất, dịch vụ, thương mại cũng chưa có ý thức tuân thủ pháp luật. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Đơn cử, thanh tra của Cục Quản lý Tài nguyên nước mới đây tại Công ty Cổ phần cấp nước Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đã phát hiện nhiều sai phạm trong khai thác, sử dụng. Cụ thể: Công ty ký với Trung tâm Quản lý, khai thác công trình thủy lợi tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu với giá 900 đồng/m3 để khai thác nước hồ Đá Đen. Tuy nhiên, Trung tâm Quản lý, khai thác công trình thủy lợi tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không có giấy phép khai thác sử dụng nước mặt hồ Đá Đen và hồ Kim Long theo quy định của pháp luật về tài nguyên nước hiện hành, vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều 44 Luật Tài nguyên nước 2013. Đó là chưa kể, các đơn vị trực thuộc của công ty là Nhà máy nước Bình Châu và Nhà máy nước Phước Bửu cũng không có giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt và giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, khai thác nước vượt quá lưu lượng quy định là 12%.
Ví dụ về ô nhiễm nước tại kênh bốn xã (chiều dài 3100m) , chảy qua địa phận phường Khắc Niệm, Thành phố Bắc Ninh [16,tr.81] Trước đây con kênh này chỉ tiếp nhận nước thải từ một cơ sở sản xuất rất nhỏ, về cơ bản chất lượng nước nước ở con kênh này vẫn đảm bảo cho tưới tiêu của vùng. Nhưng nay con kênh phải tiếp nhận thêm nước thải từ cơ sở chăn nuôi, chế biến của Công ty DABACO. Mặc dù các cơ sở trên đều có giấy phép xả thải của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh cấp nhưng kênh Bốn Xã vẫn bị ô nhiễm trầm trọng nhiều năm.
Ví dụ trên đã thể hiện thực trạng việc cấp phép xả thải hiện nay hiện nay thiếu gắn kết với kiểm soát ô nhiễm nước. Việc cấp phép xả thải được phân ra theo nguồn nước tiếp nhận nước thải tức là nguồn nước tự nhiên và nguồn nước phục vụ tưới tiêu. Giấy phép xả thải vào hệ thống nước tự nhiên do Bộ và Sở Tài nguyên và Môi trường đảm nhiệm còn hệ thống nước tưới tiêu lại do Bộ và các sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn đảm nhiệm. Điều này xung đột với bản chất của nguồn nước là có sự dịch chuyển và kết nối tự nhiên. Từ đó gây khó khăn cho các thủ tục hành chính về xin cấp phép xả thải vào nguồn nước và công trình thủy lợi, các cơ quan chuyên môn về tài nguyên môi trường có thông tin đầy đủ về cấp phép xả thải từ phía các cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và phát triển nông thôn.
2.2.5. Xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiêm nguồn nước là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực chủ thể thực hiện, xâm hại các quan hệ pháp luật về khai thác, bảo vệ, sử dụng tài nguyên nước gây suy thoái, ô nhiễm tài nguyên nước. Các vi phạm trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước chủ yếu do các tổ chức, cá nhân gây nên đặc biệt là các tổ chức, cá nhân sử dụng nước và hoạt động kinh doanh. Thực tế cho thấy các vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước về nước thải sinh hoạt, đặc biệt ở các đô thị lớn, nhưng cơ chế kiểm soát còn hạn chế. Mặc dù, nó chỉ là những vi phạm mang tính chất nhỏ nhưng việc xử lý vi phạm có tính chất nhỏ vẫn chưa thực sự hữu ích và có tính răn đe với cộng đồng. Các vi phạm nhỏ tồn tại nhiều trong đời sống, tuy nhiên chưa được thống kê mà chủ yếu vẫn là những vi phạm mang tính chất lớn hơn thuộc về các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các cơ sở sản xuất kinh doanh thường có mức độ xả thải độc hại hơn rất nhiều và chiếm đa số các vi phạm về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Các vi phạm này thường dẫn tới hậu quả ô nhiễm nguồn nước, là suy thoái nguồn nước nghiêm trọng. Một số vi phạm chủ yếu trong lĩnh kiểm soát ô nhiễm nguồn nước như sau:
- Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
- Xả, thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường nước vượt quá tiêu chuẩn cho phép hoặc gây ô nhiễm nước
- Đổ nước thải trong vùng biển nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là quá trình bao gồm các biện pháp chấm dứt hành vi vi phạm kịp thời, thực hiện các biện pháp khôi phục, bảo vệ trữ lượng, chất lượng nguồn nước, hạn chế tới mức độ tối đa tình trạng lây lan ô nhiễm do tính vận động của nước; đồng thời có các chế tài xử phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Tùy vào tính chất, mức độ của các hành vi vi phạm phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm xác định và áp dụng các trách nhiệm pháp lý khác nhau cho chủ thể gây ô nhiễm nguồn nước. Hiện nay, pháp luật Việt Nam về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có thể xử lý vi phạm liên quan đến lĩnh vực này bằng trách nhiệm pháp lý như trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự. Thông qua xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, buộc các chủ thể có lỗi phải chịu trách nhiệm đồng thời có tính ảnh hưởng đến chủ thể khác trong xã hội, giúp họ có ý thức trách nhiệm, tự giác cao hơn trong việc bảo vệ nguồn nước.
Trách nhiệm pháp lý đối với vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước gồm:
Trách nhiệm hành chính
Trong các văn bản pháp luật hiện hành, hình thức xử phạt hành chính chủ yếu đối với vi phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chủ yếu quy định hành vi vi phạm về xả nước thải. Mức tối đa phạt tiền đối với cá nhân có các hành vi vi phạm quy định về xả nước thải vượt quá thông số kỹ thuật vào môi trường là 1.000.000.000 đồng và đối với tổ chức là 2.000.000.000 đồng. Cụ thể quy định pháp luật chẳng hạn như:
Phạt tiền từ 950.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với hành vi xả nước thải có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật cho phép, trừ các trường hợp hành vi tội phạm về môi trường. Phạt tăng thêm 10% của mức phạt tiền cao nhất đã chọn đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 1,1 đến dưới 1,5 lần; 20% đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 1,5 đến dưới 02 lần; 30% đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 02 đến dưới 03 lần hoặc giá trị pH từ 04 đến dưới cận dưới của quy chuẩn kỹ thuật cho phép hoặc từ trên cận trên của quy chuẩn kỹ thuật cho phép đến dưới 10,5 hoặc nước thải có chứa 01 trong 03 loại vi khuẩn (Salmonella, Shigella, Vibrio cholerae); 40% đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 03 đến dưới 05 lần hoặc giá trị pH từ 02 đến dưới 04 hoặc từ 10,5 đến dưới 12,5 hoặc nước thải có chứa từ 02 loại vi khuẩn (Salmonella, Shigella, Vibrio cholerae) trở lên; 50% đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 05 lần trở lên hoặc giá trị pH dưới 02 hoặc từ 12,5 đến 14. Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm không quá 1.000.000.000 đồng.
Ngoài cảnh cáo và phạt tiền các chủ thể vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy phép môi trường hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, tịch thu tang việt, phương tiện vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Nghị định số 33/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy đinh về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản chủ yếu quy định việc xử phạt các vi phạm liên quan đến quy định về điều kiện năng lực thực hiện đề án, dự án điều tra cơ bản, tư vấn lập kế hoạch tài nguyên nướ, các vi pham liên quan đến giấy phép tài nguyên nước, các hoạt động quan trắc… liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Theo đó, các hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền; mức phạt tiền đối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước là 250.000.000 đồng đối với cá nhân và 500.000.000 đồng đối với tổ chức. Ngoài ra biện pháp xử phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính như: tước quyền sử dụng giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước; giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất 01 tháng đến 24 tháng; Đình chỉ hoạt động lập, thực hiện đề án, dự án về tài nguyên nước; đình chỉ hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên nước 01 tháng đến 12 tháng; Tịch thu tang vật, mẫu vật là khoáng sản, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính, ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả để khắc phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước do các tổ chức, cá nhân vi phạm gây ra nhằm bảo vệ trữ lượng, chất lượng nguồn nước là mục tiêu cuối cùng và quan trọng hơn cả.
Pháp luật quy định các hình thức xử phạt trong trách nhiệm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là đã khá đầy đủ và hợp lý. Về nội dung xử phạt cũng đã khái quát được các hầu hết các vi phạm. Về mức độ xử phạt, một số mức phạt tiền còn thấp, chưa có tính răn đe. Chẳng hạn như
Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự mà chủ thể vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước chủ yếu là các trách nhiệm về khắc phục hậu quả ô nhiễm, phục hồi nguồn nước và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước gây ra. Trách nhiệm này được ghi nhận trong Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên nước năm 2012, và Bộ Luật Dân sự năm 2015. Theo đó:
Tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác, có trách nhiệm khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại xử lý theo quy định của Luật bảo vệ môi trường và pháp luật có liên quan [23,Khoản1, Điều 60]. Với lĩnh vực ô nhiễm nguồn nước. Pháp luật quy định “tổ chức, cá nhân gây ra sự cố ô nhiễm nguồn nước, ngoài việc bị xử phạt theo quy định của pháp luật còn có trách nhiệm khắc phục hậu quả ô nhiễm, suy thoái nguồn nước trước mắt, cải thiện, phục hổi chất lượng nước về lâu về dài và bồi thường thiệt hại do mình gây ra” [21,,điểm d, khoản 1, Điều 27]. Nổi bật lên trong trách nhiệm dân sự về xử lý vi phạm pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thường là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Điều 602, Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận: “Chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi” Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Cơ sở phát sinh trách nhiệm dân sự có hành vi vi phạm pháp luật môi trường, có thiệt hại xảy ra. Yếu tố lỗi không phải cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do quan hệ trong lĩnh vực môi trường có thể phát sinh giữa các chủ thể mà không cần đến cơ sở pháp lý làm tiền đề như quan hệ hợp đồng, đây là loại trách nhiệm phát sinh dưới sự tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật mà không có sự thỏa thuận trước của các chủ thể.
Một số loại thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm gây ra là: thiệt hại về tài sản của chủ thể có liên quan đến các hoạt động tác động đến nguồn nước đó; thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người; thiệt hại làm suy giảm chức năng, tinh hữu ích của môi trường. Việc xác định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường được tiến hành độc lập hoặc có sự phối hợp giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại. [23,Điều 130, 131].Việc xác định thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do gây ô nhiễm, suy thoái môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trường hợp mỗi bên hoặc các bên có yêu cầu thì cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường có trách nhiệm tham gia hướng dẫn cách tính toán, xác định thiệt hại hoặc chứng kiến việc xác định thiệt hại.Về mức độ bồi thường thiệt hại, trên thực tế việc bồi thường thiệt hại về môi trường khá phức tạp do chưa có định mức bồi thường thiệt hịa chưa rõ ràng, bởi việc định mức ô nhiễm nguồn nước khó cụ thể.
Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự liên quan đến vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước được ghi nhận trong các Bộ luật hình sự nhưng phải đến bộ luật hình sự năm 1999, tội phạm về môi trường mới được quy định thành một chương riêng biệt. Trong đó, có Điều 183 quy định về tội gây ô nhiễm nguồn nước nhưng Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009 đã quy định chung lại thành các tội gây ô nhiễm môi trường và chủ thể chịu trách nhiệm hình sự chỉ là cá nhân.
Cho tới Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 mới có hiệu lực vào ngày 01/01/2018 đã quy định cụ thể hơn về trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường. Hình phạt bao gồm các hình thức như: phạt tiền, phạt tù, phạt cải tạo không giam giữ. Điểm mới ở bộ luật này và đã quy định mức xử phạt dựa theo mức độ gây ô nhiễm được quy định định mức rõ ràng để tránh quy định mang tính chung chung về xác định mức độ lỗi của hành vi như các quy định ở các Bộ luật hình sự trước như là “ nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng” “đặc biệt nghiêm trọng”. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Chẳng hạn: Theo khoản 9, Điều 235, Bộ Luật Hình sự 2015, phạm tội thuộc một trong các trường hợp xả thải ra môi trường nước thải, chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất thải rắn hoặc phát tán khí thải có chứa chất phóng xạ vượt giá trị liều 400 milisivơ (mSv) trên năm trở lên hoặc giá trị suất liều 0,02 milisivơ (mSv) trên giờ trở lên thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Mức phạt tiền đối với cá nhân tối thiểu là 50.000.000 đồng và cao nhất là 3.000.000.000 đồng; mức phạt tù thấp nhất là 03 tháng, nhiều nhất là 07 năm.
Ngoài ra, lần đầu tiên trách nhiệm pháp nhân được đưa vào nội dung pháp luật về các tội phạm môi trường trong Bộ luật hình sự 2015 sửa đôi bổ sung năm 2017. Theo đó, pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự với các hành vi gây ô nhiễm môi trường được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015. [26].Mức phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 20.000.000.000 đồng, hoặc có thể bị đình chỉ hoạt động 1 đến 3 năm. Mức độ cao nhất là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Tuy nhiên, xử lý trách nhiệm hình sự về môi trường nước hiện nay rất ít, mặc dù có những vụ đã gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Chẳng hạn là vụ Công ty TNHH Vedan xả nước thải trực tiếp xuống sông Thị Vải (Đồng Nai), Công ty sửa chữa tàu biển Huyndai-Vinashin xả chất thải rắn (hạt nic) độc hại không qua xử lý ra môi trường ở Khánh Hòa, nhà máy Miwon (Việt Trì- Phú Thọ) xả nước thải chưa qua xử lý xuống sông Hồng; công ty cổ phần thuộc da Hào Phương xả nước thảo độc hại ra sông Đồng Điền ( huyện Nhà Bè- Thành phố Hồ Chí Minh)… đều không bị xử lý hình sự. Việc áp dụng xử phạt hành chính vào những sai phạm này là không đủ sức răn đe, thể hiện sự yếu kém về quản lý môi trường ở trung ương và địa phương.
Theo báo cáo của cục cảnh sát môi trường tại hội nghị tổng kết năm 2015 thì trong năm 2015, lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường toàn cuốc đã phát hiện 11.118 cá nhân, 2.474 tổ chức vi phạm pháp luật về môi trường, tặng 17% so với cùng kỳ năm 2014. Trong đó, xử phạt vi phạm hành chính 8.205 vụ với 6.863 cá nhân, 2.077 tổ chức, số tiền 110.77 tỉ đồng. Cơ quan cảnh sát điều tra các cấp đề nghị khởi tố 232 vụ, 314 đối tượng, trong đó đã quyết định khởi tố 153 vụ, 275 bị can. Mặc dù số lượng tăng lên theo năm hung số lượng các việc xử lý hình sự chiếm tỉ lệ nhỏ ( khoảng dưới 2%).[16,tr.85]. Các chế tài xử phạt hình sự về tội gây ô nhiễm môi trường nói chung trong đó có ô nhiễm nguồn nước là hậu quả pháp lý nghiêm khắc nhất mà các chủ thể phải chịu. Hiện nay, ở nước ta vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nói riêng và pháp luật về môi trường nói chung ngày càng nhiều. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là áp dụng hình thức xử phạt hành chính, hình thức xử phạt nặng hơn như hình sự hầu như rất ít. Một trong những nguyên nhân của tình trạng không áp dụng hiệu quả biện pháp xử phạt hình sự là việc xác định hậu quả của các hành vi tội phạm môi trường là rất khó khăn. Chẳng hạn như trong trường hợp của Vedan, khó có thể xác định được mức độ gây thiệt hại đối với đời sống người dân ở dọc sông Thị Vải trong khi cũng có rất nhiều doanh nghiệp khác và nhiều hộ dân cũng đổ nước thải xuống sông Thị Vải. Do vậy, việc xác định mức thiệt hại do Vedan gây ra với nguồn nước sông Thị Vải là rất phức tạp, vì thế khó xác định mức xử phạt hình sự.
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiềm nguồn nước trên địa bàn thành phố Hà Nội Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
2.3.1. Thực trạng ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội sau khi được mở rộng có diện tích tự nhiên 334.470,02 ha, lớn gấp hơn 3 lần trước đây và đứng vào tốp 17 Thủ đô trên thế giới có diện tích rộng nhất; dân số tăng hơn gấp rưỡi, hơn 6,2 triệu người, hiện nay là hơn 7 triệu người; gồm 30 đơn vị hành chính cấp quận, huyện, thị xã, 577 xã, phường, thị trấn.[ 36]
Tài nguyên nước của Hà Nội khá đa dạng, phong phú. Nước mặt bao gồm rất nhiều hệ thống sông, hồ, ao, kênh, mương… Nhờ nguồn nước mặt tự nhiên lớn nên nguồn nước ngầm của Hà Nội cũng khá phong phú. Hà Nội được hình thành từ châu thổ sông Hồng, nét đặc trưng của vùng địa lí thành phố Hà Nội là “Thành phố sông hồ” hay “Thành phố trong sông”. Nhờ các con sông lớn nhỏ đã chảy miệt mài hàng vạn năm đem phù sa về bồi đắp nên vùng châu thổ phì nhiêu này. Hiện nay, có 7 sông chảy qua Hà Nội: sông Hồng, sông Đuống, sông Đà, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đáy, sông Cà Lồ.
Trong đó, đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài tới 163km (chiếm 1/3 chiều dài của con sông này chảy qua lãnh thổ Việt nam). Trong nội đô ngoài 2 con sông Tô Lịch và sông Kim ngưu còn có hệ thống hồ đầm là những đường tiêu thoát nước thải của Hà Nội.
Đoạn sông Nhuệ chảy qua địa bàn thành phố Hà Nội khoảng 62 km -64 km từ cống Liên Mạc, quận Bắc Từ Liêm đến xã Châu Can, huyện Phú Xuyên. Sông Nhuệ có dòng chảy chính qua địa phận các quận, huyện: Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm, Hà Đông, Thanh Trì, Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa.
Sông Đáy: Có chiều dài gần 100 km chảy qua địa phận Hà Nội từ xã Cẩm Đình, huyện Phúc Thọ đến xã Yến Vĩ ,huyện Mỹ Đức. Sông Đáy có dòng chảy chính qua địa phận các quận, huyện Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức, Quốc Oai, Thanh Oai, Hà Đông, Chương Mỹ, Ứng Hòa, Mỹ Đức.
Hà Nội có rất nhiều hồ nước. Tuy rằng theo thời gian, nhiều hồ đã bị san lấp mặt bằng để xây dựng tuy nhiên số lượng hồ ở Hà Nội vẫn rất lớn, đến hàng tram hồ đầm lớn nhỏ ở khắp các phường, xã của Hà Nội như: Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Quảng Bá, Trúc Bạch, Thiền Quang, Bảy Mẫu, Thanh Nhàn, Linh Đàm, Yên Sở, Giảng Võ, Đồng Mô… Các hồ ở Hà Nội thường năm trong các đô thị đông đúc.
Chúng đóng vai trò là hệ thống điều hòa nhiệt tự nhiên cho vùng đô thị.
Về ô nhiễm nước mặt Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Thực tế cho thấy, nước ở các cống rãnh, sông ở Hà Nội ô nhiễm trầm trọng, màu nước đen kịt, thường xuyên bốc mùi hôi thối ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân. Tại các chợ, các tụ điểm có các hoạt động giết mổ, các rác thải thực phẩm thừa, nước thải sản xuất được đổ ra nguồn nước bừa bãi, trực tiếp khiến nguồn nước bị ô nhiễm và cũng là nguyên nhân gây ra các bệnh dịch nguy hiểm. Hà Nội hiện nay có 177 hồ nước lớn nhỏ. Về tình trạng ô nhiễm hồ, UBND thành phố cho biết địa bàn có 117 ao, hồ, đa số bị ô nhiễm bởi nước thải, trầm tích, bùn đáy.
Thực trạng ô nhiễm một số sông ở Hà Nội: (theo số liệu do Chi Cục Bảo vệ môi trường Hà Nội cung cấp)
Trong ba lưu vực sông đang bị ô nhiễm nghiêm trọng ở nước ta là sông Cầu, Sông Nhuệ – Đáy và sông Đồng Nai thì lưu vực sông Nhuệ đáy thuộc địa phận Hà Nội (Lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy là một trong 3 lưu vực sông đang bị ô nhiễm ở nước ta, chảy qua địa phận của 05 tỉnh, thành phố bao gồm: Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình) là một trong những phần ô nhiễm nặng.
Năm 2017, Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã lấy mẫu, quan trắc, phân tích chất lượng nước mặt sông Nhuệ, sông Đáy thuộc lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy (đoạn chảy qua địa phận Hà Nội) vào 02 đợt (mùa mưa và mùa khô). Kết quả đối chiếu với QCVN 08-MT:2015/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt (cột B1) cho thấy: Trong năm 2017, chất lượng nước sông Nhuệ, sông Đáy (vào mùa khô) tại các vị trí mà đoạn sông Nhuệ và sông Đáy chảy qua các khu vực đông dân cư và sau các điểm hợp lưu với các sông khác tại địa phận Hà Nội tuy chưa được cải thiện nhiều nhưng đã có xu hướng giảm mức độ ô nhiễm. Tuy nhiên các thông số liên quan đến nguồn nước vẫn chỉ ra rằng chất lượng nước ở các sông này vẫn ở lúc trung bình hoặc kém.
Ô nhiễm sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu
Sông Tô lịch dài 13.5, từ Cống Bưởi đến cầu Tó (Văn Điển); Sông Kim Ngưu dài 7.7 km từ Lò Đúc đến Văn Điển. Gần 90% lượng nước thải chưa được xử lý đổ ra hai sông này khiến mỗi năm lượng mùn dày thêm gần 10cm. Từ nhiều năm nay, nước sông luôn bốc mùi hôi thôi, nhiều loại rác thải được đổ sống sông bừa bãi. Các động thực vật thủy sinh hầu như không thể sinh sống.
Thực trạng ô nhiễm ao, hồ tại Hà Nội.
Tính riêng đầu năm 2016 đã có rất nhiều hồ rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Hồ Ngọc Khánh mới cải tạo nhưng tình trạng ô nhiễm vẫn tiếp diễn, nước đen bốc mùi nồng nặc. Ngoài ra hiện tượng cá chết hàng loạt ở hồ Hoàng Cầu (08/06/2016).
Cá chết hàng loạt tại Hồ Tây tháng 10/2016 Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Tình trạng cá chết hàng loạt tại hồ Tây cuối năm 2016 là sự cố nghiêm trọng nhất về môi trường nước ở Hà Nội những năm gần đây mà trước nay chưa bao giờ xảy ra. Theo Ban quản lý hồ Tây, mỗi ngày khoảng 4.000 m3 nước thải chưa qua xử lý từ các nhà hàng, quán ăn uống và người dân sinh sống xung quanh đổ xuống hồ. Kết quả phân tích mẫu nước gần đây cho thấy, hàm lượng amoniac cao gấp 3 lần tiêu chuẩn cho phép. Nước ô nhiễm sẵn nên chỉ cần thay đổi thời tiết là cá chết.[33] Thành phố chỉ ra bốn nguyên nhân khiến cá chết ở nhiều hồ. Thứ nhất, do hầu hết hồ của Hà Nội là hồ điều hòa, vẫn còn nước thải chảy vào, gây nên hiện tượng tái ô nhiễm nước. Thứ hai, thời tiết thay đổi dẫn tới thiếu oxy trong nước, hàm lượng DO thấp (DO là lượng oxy hòa tan trong nước cần thiết cho sự hô hấp của thủy sinh). Thứ ba, ý thức người dân kém, vẫn xả thẳng rác thải và xả thải trái phép vào hồ. Cuối cùng còn hiện tượng cho phép nuôi, thả cá kinh doanh làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường hồ.
Về tình trạng ô nhiễm hồ, lưu lượng nước thải chảy vào vượt quá khả năng tự làm sạch của hồ, gây ô nhiễm hữu cơ, dầu mỡ, kim loại nặng, vi sinh. Xung quanh các hồ thường có rất nhiều hàng quán và xả thải bừa bãi, gây mất vệ sinh môi trường. Tại nhiều nơi, việc đổ rác, phế thải xuống hồ còn khá phổ biến làm thu hẹp diện tích mặt nước và gây ô nhiễm.
Theo kết quả quan trắc tại một số hồ nội thành do Trung tâm quan trắc tài nguyên và môi trường Hà Nội thực hiện trong giai đoạn 2011-2016 cho thấy hầu hết các giá trị hàm lượng đều vượt quy chuẩn cho phép theo quy chuẩn Việt Nam. “Ngoài Fe nằm trong giới hạn cho phép, các thông số còn lại đều vượt quy chuẩn; dầu mỡ khoáng trong giai đoạn 2015-2016 tăng cao hơn giai đoạn 2012- 2013 và vượt quy chuẩn nhiều lần”, báo cáo cho hay.
Về ô nhiễm nước ngầm
Nguồn nước ngầm Hà Nội cũng đang ô nhiễm ở tình trạng đáng báo động.
Cụ thể như sau:
Ở Đồng bằng Bắc Bộ, mực nước ngầm hạ sâu, đặc biệt ở khu vực Mai Dịch (quận Cầu Giấy, Hà Nội). Vào mùa khô, 7/7 mẫu đều có hàm lượng amoni cao hơn tiêu chuẩn cho phép. UNICEF còn cho thấy, khu vực phía Nam Hà Nội, ô nhiễm asen nặng nhất, thậm chí đứng đầu danh sách các địa chỉ ô nhiễm asen trên toàn quốc, đặc biệt tại một số khu vực thuộc phường Quỳnh Lôi (quận Hai Bà Trưng), khu vực huyện Thanh Trì… Tại huyện Quốc Oai, hàm lượng asen cao gấp 3 lần tiêu chuẩn cho phép.[36] Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Mới đây, hàng trăm hộ dân thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm phát hiện ra nguồn nước sinh hoạt sử dụng trong nhiều năm nay bị nhiễm chất thạch tín (asen) vượt gấp 43 lần mức cho phép…
Qua phân tích, kết hợp với các tài liệu quan trắc cho thấy nguồn nước ngầm bị nhiễm bẩn và đang lan rộng ở nhiều nơi. Tại xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường lấy 123 mẫu nước ngầm để phân tích, kết quả có 86 mẫu bị nhiễm bẩn, trong đó 4 mẫu có màu lạ, 4 mẫu có độ đục cao gấp 5 lần quy chuẩn cho phép, 28 mẫu có hàm lượng amoni cao gấp 8,33 lần cho phép, 44 mẫu có chỉ số coliforms, cao gấp 2,68 lần cho phép, 3 mẫu có chỉ số ecoli cao gấp 1,3 lần cho phép.[36]
Theo số liệu nghiên cứu của Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT) về phân bố asen trong đất và nước tại Hà Nội, khoảng 1/4 số hộ gia đình sử dụng trực tiếp nước ngầm không xử lý ở khu vực ngoại thành bị ô nhiễm nặng, trong đó nước có chứa asen, tập trung tại các huyện Thanh Trì, Gia Lâm.
Một kết quả quan trắc khác của Trung tâm Quan trắc và dự báo tài nguyên nước (Bộ TN&MT) cũng khẳng định, mực nước ngầm tại Hà Nội đang suy giảm mạnh, chất lượng nước ở nhiều nơi không đạt quy chuẩn. Nguồn nước ngầm bị ô nhiễm nặng nhất là vùng gần lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, cụm công nghiệp, làng nghề và vùng Phú Xuyên, Ứng Hòa, Thanh Oai, Quốc Oai, Thạch Thất, Hoài Đức, Thanh Trì, Từ Liêm…
Theo PGS – TS Trần Hồng Côn, Chủ nhiệm bộ môn Công nghệ hóa học (Khoa hóa, Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội), nguồn nước ngầm trên địa bàn thành phố đang bị nhiễm asen với mức độ không đồng đều, có nơi nhiễm nặng, có nơi ít hơn mức cho phép.
Nguyên nhân ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội
Có rất nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước ngầm tại Hà Nội chủ yếu là do nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt không xử lý mà thải ra môi trường trong kho đó môi trường nước ngầm phải chịu quá nhiều lỗ khoan: khoan thăm dò, khai thác, lỗ khoan cho xây dựng và khai thác nước. Bị khai thác nhiều dẫn tới nước chảy mạnh, tốc độ thấm nước nhanh hơn kéo theo các chất bẩn ngấm vào nguồn nước và tình trạng lún cục bộ ở các khu vực. Những giếng khoan của tư nhân sau khi không sử dụng đã không được lấp đúng cách khiến các chất độc hại theo đường giếng chui vào mạch nước ngầm cũng là nguyên nhân nước ngầm gây ra ô nhiễm nguồn nước ngầm.
Tại Hà Nội có nhiều khu công nghiệp, khu Đô Thị, khu chung Cư khiến các hoạt động như công nghiệp, dịch vụ cũng gây ô nhiễm nguồn nước. Mật độ các khu công nghiệp tăng làm gia tăng nhu cầu về nước sinh hoạt và tất yếu dẫn tới tăng khai thác nguồn nước ngầm, việc khai thác nguồn nước ngầm không đúng cách cộng với rác thải công nghiệp gây ra ô nhiễm trầm trọng. Minh chứng rõ nhất cho điều này là tình trạng nước nhiễm chì, asen và một số chất tại các khu công nghiệp trên toàn quốc gây ra các làng ung thư, xã ung thư đáng xót xa. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Do công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước còn hạn chế. Nhiều hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước chưa được kiểm tra, xử lý đúng mức khiến ý thức của chủ thể tham gia sử dụng, khai thác nguồn nước càng được đà lấn tới, ý thức trách nhiệm về bảo vệ nguồn nước càng ngày càng giảm sút. Trong công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước nhiều khi chồng chéo, chưa rõ ràng. Sự phối hợp giữa các cơ quan còn thiếu hiệu quả.
Tất cả những vấn đề trên khiến chúng ta phải xem xét vấn đề thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tại Hà Nội để tìm ra những giải pháp hợp lý khắc phục tình trạng ô nhiễm ô nhiễm ngày càng trầm trọng như đã phản ánh ở trên để nâng cao chất lượng cuộc sống triệu con người đang làm việc và sinh sống tại Hà Nội, những nhân lực, trí lực hàng đầu và cả những mầm tương lai của đất nước.
2.3.2. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội
Về các văn bản pháp luật đã ban hành
Hà Nội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Cơ quan ban hành các văn bản pháp luật phần lớn đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Một số văn bản pháp luật tiêu biểu trong thời gian gần đây như: các quyết định về việc phê duyệt Bảng giá tính thuế tài nguyên trên địa bàn thành phố Hà Nội và quy định về đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước Quyết định về việc thu phí thẩm định báo cáo kết quả thăm dò đánh giá trữ lượng nước dưới đất trên địa bàn thành phố Hà Nội, quyết định về việc thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tiêu biểu:
- Quyết định số 487/QĐ-UBND phê duyệt Danh mục khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước
- Nghị định quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước
- Quyết định về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khí tượng thủy văn thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Tài nguyên và Môi trường/ UBND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Thông tư số 27/2014/TT-BTNMT Quy định việc đăng ký khai thác nước dưới đất, mẫu hồ sơ cấp, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại giấy phép tài nguyên nước
- Nghị định số 54/2015/NĐ-CP Quy định về ưu đãi đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả
- Quy định điều kiện về năng lực của tổ chức, cá nhân thực hiện điều tra cơ bản tài nguyên nước, tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước, lập đề án, báo cáo trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tài nguyên nước
Về thực hiện quy định về kế hoạch, quy hoạch tài nguyên nước Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
UBND thành phố Hà Nội đã đề ra nhiều kế hoạch và quy hoạch về tài nguyên nước với nội dung được yêu cầu đảm bảo các điều kiện : Phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch cấp nước 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam đến năm 2030; Định hướng phát triển cấp nước đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 và các quy hoạch chuyên ngành khác có liên quan đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hướng tới phát triển ổn định, bền vững trên cơ sở khai thác tối ưu các nguồn lực, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch với chất lượng bảo đảm, đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của Thủ đô. Bảo đảm khai thác sử dụng nguồn nước hợp lý, tiết kiệm có xem xét đến các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường; ưu tiên nước mặt và dần thay thế nguồn nước ngầm. Đồng thời Hà Nội khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư và phát triển cấp nước.
Về thực hiện quy định về giấy phép tài nguyên nước
UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 35/2010/QĐ-UBND quy định về việc cấp phép khai thác tài nguyên nước, xả nước thải vào lưu vực nguồn nước trên địa bàn thành phố.
Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội là đơn vị được cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với các trường hợp thăm dò, khai thác nước dưới đất đối với công trình có lưu lượng từ 10m3/ngày đêm đến dưới 3.000m3/ngày đêm; khai thác và sử dụng nước mặt cho sản xuất nông nghiệp với lưu lượng từ 1m3/giây đến dưới 2m3/giây; khai thác, sử dụng nước mặt cho các mục đích không phải cho sản xuất nông nghiệp và phát điện với lưu lượng từ 5.000m3/ngày đêm đến dưới 50.000m3/ngày đêm; xả nước thải vào lưu vực nguồn nước với lưu lượng từ 10m3/ngày đêm đến dưới 5.000m3/ngày đêm; xả nước thải bệnh viện vào lưu vực nguồn nước với lưu lượng dưới 5.000m3/ngày đêm.
Đồng thời, Sở được cấp giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất quy mô vừa và nhỏ cho các tổ chức, cá nhân có địa chỉ thường trú trên địa bàn thành phố theo quy định. Ngoài mức quy định trên, các tổ chức và hộ cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên nước trên địa bàn cho mục đích không phải sinh hoạt sẽ do UBND các quận, huyện, thị xã cấp giấy phép.
Cũng theo quyết định này, giấy phép sẽ bị thu hồi trong trường hợp được cấp nhưng không sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép hoặc chủ giấy phép vi phạm nội dung quy định của giấy phép, gây cạn kiệt, ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước.
Về xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến ô nhiễm nguồn nước
Trong năm 2017, các cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường trên địa bàn thành phố đã kiểm tra, thanh tra tại 2.161 cơ sở, trong đó xử lý vi phạm hành chính 588 cơ sở với tổng tiền phạt trên 16.5 tỷ đồng. Kết quả thanh tra cho thấy các cơ sở đầu tư xây dựng hệ thống nước thải còn kém và ý thức chấp hành các quy định pháp luật thấp[36].
Các vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội chủ yếu được giải quyết bằng xử phạt hành chính. Về mức xử phạt hành chính chưa thực sự mang tính răn đe. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Ví dụ: Tình trạng xả thải gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp của người dân thôn Lũng Vị, xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ. Nguồn nước tại mương tiêu thoát nước ở cánh đồng Lũng Vị có màu sắc bất thường, có mùi lạ do xả thải đỏ như máu. Qua xác minh, UBND huyện kết luận, nguyên nhân do Công ty TNHH mây tre Lệ Tùng trước đó ngày 01/09/2016 đã bị sự cố gió bão tốc mái nhà xưởng, dẫn đến nước mưa chảy tràn vào khu vực sản xuất của công ty, cuốn theo một lượng nước nhuộm hàng mây tre đan màu đỏ, sau đó chảy ra khu vực mương thoát nước tạo thành màu đỏ như báo phản ánh. Bên cạnh xác minh nguyên nhân xả thải, báo cáo của UBND huyện cho biết, các hồ sơ pháp lý về bảo vệ môi trường của công ty cơ bản đầy đủ. Công ty đã xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải sản xuất từ năm 2014, kết quả phân tích môi trường nước sau xử lý do viện Hóa học thực hiện cho thấy các chỉ tiêu đạt quy chuẩn quy định.
Bên cạnh yêu cầu khắc phục hậu quả, UBND huyện tiến hành lập biên bản xử lý hành chính Công ty TNHH mây tre Lệ Tùng 7,5 triệu đồng về lỗi không thực hiện báo cáo về hoạt động xả thải vào nguồn nước cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và lỗi không thực hiện đầy đủ chế độ quan trắc, giám sát môi trường theo nội dung cam kết bảo vệ môi trường đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
Với mức phạt như vậy liệu tính răn đe có cao không? Hơn nữa, chưa kể đó là một tiền lệ khiến các cơ sở sản xuất khác tiếp tục coi thường sự quản lý của Nhà nước, sẵn sàng vi phạm các quy định về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Đó chỉ là một ví dụ điển hình trong rất nhiều trường hợp xử phạt hành chính mà tính răn đe quá thấp trong khi tình trạng vi phạm pháp luật môi trường ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ ảnh hưởng xấu đến môi trường. Đặt ra cho chúng ta câu hỏi, tại sao các chế tài đã được thực thi mà tình trạng ô nhiễm vẫn cứ gia tăng chóng mặt như vậy.
Về các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước khác
Thành phố Hà Nội đã triển khai các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước như bao gồm:
Triển khai đầu tư kinh phí, kêu gọi hợp tác nhằm từng bước khắc phục tình trạng ô nhiễm sông và cải thiện chất lượng môi trường nguồn nước sông. Đồng thời tăng cường tổ chức, vận động nhân dân tham gia tổng vệ sinh dọc tuyến đường bờ sông Tô Lịch và Kim Ngưu; tổ chức thu gom phế thải, nạo vét lòng sông; xử lý các trường hợp vi phạm hệ thống thoát nước đô thị, hành vi đổ trộm phế thải từ công trình xây dựng; triển khai lắp đặt thí điểm 38 cụm bè thủy sinh trên sông Tô Lịch đoạn từ Hoàng Quốc Việt đến cầu Mới nhằm tạo cảnh quan và góp phần cải thiện chất lượng nước.
Phê duyệt chỉ giới hành lang bảo vệ công trình thủy lợi sông Nhuệ trên địa bàn thành phố Hà Nội tỷ lệ 1/500 tại Quyết định số 5168/QĐ-UBND ngày 08/10/2014; chỉ đạo, xử lý kiên quyết vi phạm pháp luật về đất đai (lấn chiếm lòng sông, hành lang sông): Công tác quản lý mốc giới, chống lấn chiếm và xử lý vi phạm hành lang sông đã được UBND các quận/huyện thuộc hành lang bảo vệ lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy quan tâm, chỉ đạo quyết liệt; đồng thời tăng cường công tác kiểm tra xử lý nghiêm các trường hợp lấn chiếm, xây dựng trái phép trên hành lang sông.
Tập trung nguồn lực chỉ đạo các sở, ngành và đơn vị thực hiện đầu tư xây dựng và vận hành các Trạm, Nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt quy mô lớn; các trạm XLNT làng nghề, đảm bảo chất lượng nước thải sau xử lý đạt quy chuẩn môi trường; các dự án đầu tư cải tạo nạo vét và xây dựng hệ thống thủy lợi liên quan trong lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy; các dự án bổ sung nguồn nước sông, các công trình tiêu thoát nước. Các công trình XLNT và cải tạo hệ thống thủy lợi hiện đang vận hành và triển khai gồm: Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Đẩy nhanh tiến độ triển khai các trạm bơm tiêu và công trình đầu mối:
Đồng Bông 1, Đồng Bông 2, Yên Nghĩa (tiêu từ sông Nhuệ ra sông Đáy), Đông Mỹ (tiêu từ khu vực Thanh Trì ra sông Hồng), Cụm công trình đầu mối Liên Mạc, Trạm bơm Yên Thái, Đào Nguyên (huyện Hoài Đức) tiêu ra sông Đáy; Xây dựng, nâng cấp các trạm bơm: Đan Hoài, Bá Giang lấy nguồn nước sông Hồng bổ cập cho sông Đáy, trạm bơm Cao Xuân Dương lấy nguồn nước sông Đáy (có chất lượng đảm bảo) để phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp cho các xã trên địa bàn huyện Thanh Oai.
Tiếp tục triển khai, đẩy nhanh tiến độ đầu tư, xây dựng các dự án xử lý nước thải góp phần bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ- sông Đáy, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án “Cụm công trình tiếp nước”. Các dự án làm sạch sông Nhuệ, sông Đáy; thu gom, nạo vét sông Nhuệ, sông Đáy:
Sông Nhuệ: Dự án xây dựng cụm công trình đầu mối Liên Mạc, Từ Liêm, Hà Nội (giai đoạn I) tại Từ Liêm, Hà Nội với mục tiêu lấy nước sông Hồng vào sông Nhuệ; Các dự án: Nâng cấp trục chính sông Nhuệ kết hợp với làm đường giao thông cải thiện môi trường gắn với chỉnh trang sông Nhuệ từ cống Hà Đông đến đường vành đai 4 và Nâng cấp trục chính sông Nhuệ kết hợp với làm đường giao thông cải thiện môi trường gắn với chỉnh trang sông Nhuệ từ Liên Mạc đến cống Hà Đông; Nạo vét sông Nhuệ từ Liên Mạc đến Hà Đông.
Sông Đáy: Dự án nạo vét, cải tạo lòng dẫn sông Đáy thành phố Hà Nội (chiều dài nạo vét từ đập Đáy đến cầu Mai Lĩnh (phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông); Dự án tiếp nước, cải tạo khôi phục Sông Tích (là phụ lưu của sông Đáy) từ Lương Phú, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì.
Việc giải quyết ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt là nguồn nước sông Nhuệ, sông Đáy là việc làm khó, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, ngành. Do đó, cần sự đầu tư lớn và phải được giải quyết từng bước, đồng bộ và sự ủng hộ cao của các cấp, các ngành đặc biệt là nhân dân trong lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy. Các dự án trên một số đã và đang được triển khai thi công, một số gặp khó khăn do thiếu vốn hoặc khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên, khi các Dự án trên hoàn thành sẽ góp phần cải thiện đáng kể chất lượng nguồn nước của lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy đảm bảo phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh trên địa bàn các quận, huyện thuộc lưu vực sông. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Ngoài ra, các chương trình hành động về môi trường cũng được Hà Nội tích cực triển khai thực hiện. Tổng cục Môi trường vừa đề ra bốn Chương trình công tác năm 2018: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, đơn giá về môi trường; Triển khai công tác thanh tra, kiểm tra năm 2018; vận hành đường dây nóng về môi trường; Rà soát kiểm soát các dự án, nguồn thải lớn có nguy cơ gây sự cố môi trường, gây ô nhiễm môi trường; Thực hiện các chương trình quan trắc, lập các báo cáo về môi trường. Các chương trình bảo vệ môi trường của học sinh sinh viên như tổ chức ngày chủ nhật xanh để dọn rác ở các sông bị ô nhiễm chính. Công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường ở học đường cũng được Thành phố triển khai.
Bên cạnh trong thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tại Thành phố Hà Nội còn tồn tại một số vướng mắc. Nghị định phí nước thải có thể chưa lường trước được hậu quả của tình hình ô nhiễm sẽ mở rộng nhanh và hậu quả ngày càng trầm trọng hơn khi quy định “Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên giá bán của 1m3 nước sạch, nhưng tối đa không quá 10% (mười phần trăm) giá bán nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng” (theo khoản 1 điều 5 Nghị định 25/2013/NĐ-CP) việc thu phí sử dụng nước sạch thấp như vậy sẽ dẫn đến hệ quả người dân sử dụng nước lãng phí và lượng nước thải thải ra hàng ngày cũng cao hơn và khó kiểm soát hơn. Nghị định về thủy lợi phí (Nghị định số 67/2012/NĐ-CP): Việc thực hiện đang đứng trước nguy cơ khó khăn lớn do chủ trương mở rộng miễn giảm và bỏ phí thủy lợi. Trong tình hình nông nghiệp Việt Nam hiện sử dụng trên 80% nhu cầu dùng nước của cả quốc gia và trước thực trạng nhiều công trình thủy nông đang bị xuống cấp và chưa hoàn chinh chưa chuyển giao cho các tổ chức hợp tác xã trên diện rộng thì việc bỏ phí thủy lợi sẽ phải có những điều chỉnh về chính sách và tổ chức quản lý để sao sử dụng tiết kiệm nguồn nước tưới. Những điều còn tồn tại trên đặt ra vấn đề cần có những định hướng, thay đổi và giải pháp hoàn thiện pháp luật để hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đạt hiệu quả cao hơn. Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước […]