Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Nâng cao hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Du lịch văn hóa là một trong những loại hình du lịch được biết đến sớm nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động lữ hành – du lịch. Theo số liệu điều tra của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO), hiện nay hơn 80% số du khách đi du lịch nhằm mục đích để hưởng thụ các giá trị văn hóa độc đáo, khác biệt với nền văn hóa của dân tộc họ.

Việt Nam là một quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, sự phát triển của du lịch Việt Nam không nằm ngoài xu thế phát triển chung của khu vực. Năm 1990 ngành du lịch Việt Nam chỉ mới đón được 250 nghìn lượt khách quốc tế và 1 triệu lượt khách nội địa, đến năm 1994 đã đón hơn 1 triệu lượt khách quốc tế và 3,5 triệu lượt khách nội địa. Tính đến tháng 12 năm 2010 ước tính khách quốc tế đến Việt Nam đạt 5.049 triệu lượt, khách du lịch nội địa đạt 28 triệu lượt, tổng doanh thu của ngành du lịch năm 2010 đạt 96 nghìn tỷ đồng. Du lịch đã trở thành mũi nhọn chiến lược trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Với truyền thống văn hóa hàng ngàn năm lịch sử, giàu bản sắc dân tộc, hàng ngàn di tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng, trong đó có mười di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới, Việt Nam có rất nhiều thuận lợi để phát triển du lịch theo hướng du lịch văn hóa. Đóng góp vào thành công chung của du lịch Việt Nam, cần phải nhắc đến vai trò của một trong những trung tâm văn hóa – du lịch lớn nhất của cả nước, đó là cố đô Huế.

Với tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, là vùng đất giàu văn hóa, Huế có đầy đủ điều kiện để phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch văn hóa, nghỉ mát, du lịch biển, du lịch sinh thái. Năm 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân khách du lịch đến Huế tăng 20-25%/năm, doanh thu từ du lịch đạt 1.130 tỷ đồng. Đến với Huế là đến với thành phố của Festival, thành phố của lễ hội; đến với Huế du khách sẽ được thỏa mãn nhu cầu hiểu biết về những giá trị văn hóa, những giá trị lịch sử lâu đời của một chốn cố đô thâm nghiêm. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Trong số các di sản văn hóa của kinh thành Huế, chúng ta không thể không nhắc đến Ca Huế – một loại hình nghệ thuật đặc sắc của vùng đất và con người nơi đây. Cùng với sự phát triển của ngành du lịch, Ca Huế trên sông Hương đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu của khách du lịch khi đến Huế. Đứng trước tiến trình hội nhập để phát triển, nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống của cả nước đang lâm vào tình trạng bế tắc, thì Ca Huế trên sông Hương đang là một trong những loại hình nghệ thuật truyền thống hoạt động có hiệu quả. Đó là loại hình nghệ thuật truyền thống duy nhất nối kết một cách tài tình giữa các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống với đời sống đương đại. Bác học, tinh tế, nhưng Ca Huế lại mang đậm sắc thái địa phương, phát sinh từ tiếng nói của người dân xứ Huế. Từ chốn dân gian, Ca Huế đã được đưa vào khai thác, biểu diễn về đêm trên sông Hương để phục vụ nhu cầu thưởng thức nghệ thuật truyền thống của khách du lịch, làm phong phú thêm cho các dịch vụ du lịch của Huế. Dần dần, Ca Huế đã trở thành một “thương hiệu văn hóa” gắn bó chặt chẽ với hoạt động du lịch, đóng góp vào sự phát triển của ngành du lịch Huế nói chung như một “sản phẩm du lịch đặc biệt”, đồng thời thông qua hoạt động du lịch loại hình nghệ thuật truyền thống này không chỉ được lưu giữ, bảo tồn mà còn được giới thiệu một cách rộng rãi với du khách tạo nét đặc trưng riêng cho sản phẩm du lịch Huế.

Phải khẳng định rằng Ca Huế trên sông Hương là một sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn và đậm nét đặc trưng của Huế. Tuy nhiên, cũng vì quá chú trọng đến yếu tố phát triển du lịch mà trong những năm gần đây việc biểu diễn nghệ thuật Ca Huế có phần bị thương mại hóa, công tác tổ chức hoạt động của dịch vụ Ca Huế trên sông Hương vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như diễn viên thiếu chuyên nghiệp, chất lượng biểu diễn kém, vào mùa cao điểm cung không đáp ứng đủ cầu, công tác tổ chức quản lý thả nổi… làm ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa nghệ thuật đích thực của bộ môn nghệ thuật này, làm giảm đi sức hấp dẫn và giá trị của bộ môn nghệ thuật này trong lòng du khách đồng thời làm phương hại đến uy tín của Huế và tạo ra sự lộn xộn trong hoạt động kinh doanh du lịch. Chính vì vậy việc nghiên cứu để tìm hiểu các giá trị nguyên gốc của nghệ thuật Ca Huế, từ đó đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác Ca Huế trong du lịch là một yêu cầu cấp thiết không chỉ với ngành du lịch Huế nói riêng mà còn với ngành du lịch Việt Nam nói chung.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2. Mục tiêu nghiên cứu

Thông qua các tài liệu và các số liệu thu thập được để:

  1. Tìm hiểu các giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc của Ca Huế.
  2. Đánh giá về thực trạng khai thác Ca Huế trong hoạt động du lịch những năm gần đây.
  3. Đề ra một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác nghệ thuật Ca Huế trong du lịch.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Dưới góc độ một bộ môn nghệ thuật, Ca Huế được khá nhiều học giả dày công nghiên cứu. Có thể kể tên một số công trình và tác giả tiêu biểu như:

  • “Ca Huế và ca kịch Huế”của tác giả Văn Lang (1993), đưa ra một số nhận định về nguồn gốc ra đời của ca Huế, đặc điểm của ca Huế, giới thiệu một số làn điệu ca Huế, mối quan hệ giữa ca Huế và các loại hình nghệ thuật khác.
  • Bài viết “Tìm hiểu nguồn gốc và sự hình thành Ca Huế” của Tôn Thất Bình, đăng trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 8 – năm 2001, trong đó tác giả trình bày lịch sử hình thành và các giai đoạn phát triển của Ca Huế.
  • Năm 2004, Sở văn hóa thông tin thành phố Huế cũng đã xuất bản cuốn sách “Những điều cần biết về hoạt động biểu diễn Ca Huế trên sông Hương” nhằm giới thiệu các làn điệu, các đặc điểm của Ca Huế trên sông Hương, các quy định của UBND Tỉnh và của Sở văn hóa thông tin về công tác tổ chức và biểu diễn Ca Huế trên sông Hương đến với công chúng.

Phản ánh về dịch vụ Ca Huế trên sông Hương, thời gian gần đây cũng đã xuất hiện một số bài viết đăng trên các báo địa phương và báo điện tử gồm:

  • Bài viết của tác giả Hạnh Nhi với tựa đề “Nhộn nhạo ca Huế: chấm dứt được không?” đăng trên báo Văn hóa chủ nhật số 911 năm 2003.
  • Bài viết của tác giả Nhật Huy trên báo Tiền phong năm 2005 với tựa đề “Tuyên chiến với “loạn” Ca Huế trên sông Hương”.
  • Bài viết của tác giả HVH trên báo điện tử: “Để ca Huế trường tồn với sông Hương”.

Như vậy, với những góc độ khác nhau, các tác giả của các bài viết và các công trình nghiên cứu nói trên đã phản ánh một số vấn đề liên quan đến sự hình thành của nghệ thuật Ca Huế cũng như bước đầu đề cập đến những bất cập của hoạt động dịch vụ biểu diễn Ca Huế trên sông Hương.

4. Ý nghĩa của đề tài

Ca Huế là một bộ môn nghệ thuật nằm trong thể loại âm nhạc thính phòng và dân ca Việt Nam. Chính vì vậy đã có nhiều học giả bỏ công nghiên cứu tìm hiểu về loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên, phần lớn những công trình đó đều tập trung trình bày về các đặc điểm âm nhạc thuần túy. Ngoài ra với việc Ca Huế được chú trọng khai thác trong du lịch những năm gần đây cũng thu hút sự quan tâm của công luận, thể hiện qua một số bài báo mạng đã nêu lên một số vấn đề bất cập trong thực trạng khai thác Ca Huế trên sông Hương. Song có thể khẳng định rằng, việc nghiên cứu một cách tổng thể về Ca Huế với tư cách là một sản phẩm du lịch vẫn là một vấn đề vẫn đang còn bỏ ngỏ. Chính vì vậy, với đề tài này người viết mong muốn sẽ đem lại một cái nhìn đa chiều và tương đối đầy đủ về Ca Huế, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm góp phần thấu hiểu, bảo tồn và phát triển Ca Huế trong điều kiện tốt nhất, vừa để gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, vừa để khai thác phát triển trong du lịch một cách hiệu quả nhất.

5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Trong đề tài đã sử dụng các phương pháp sau: phương pháp thu thập và xử lý số liệu; phương pháp thực địa; phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp.

Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Là phương pháp chính được sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, người viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, có được tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu.

Phương pháp thực địa: Quá trình thực địa giúp sưu tầm thu thập tài liệu, nhằm nhận được thông tin xác thực cần thiết để thành lập ngân hàng số liệu cho việc hoàn thiện đề tài .

Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp: Phương pháp này giúp định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hưởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các chương trình phát triển, các định hướng, các chiến lược và giải pháp phát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài được chia làm 3 chương:

  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT CA HUẾ
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC NGHỆ THUẬT CA HUẾ TRONG ĐỜI SỐNG VÀ TRONG DU LỊCH
  • CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM BẢO TỒN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC NGHỆ THUẬT CA HUẾ TRONG DU LỊCH Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT CA HUẾ

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật Ca Huế

1.1.1. Về tên gọi và nguồn gốc hình thành Ca Huế

Theo sử liệu thì tên gọi Ca Huế xuất hiện từ năm 1687, khi chúa Nguyễn Phúc Tần chọn vùng Thừa Thiên làm kinh đô Huế. Tác giả Ưng Bình Thúc Giạ (1877-1961), đã viết: “Gọi là Ca Huế, vì thanh âm người Huế hợp với điệu ca này, mà xứ Huế như người Quảng Trị với Quảng Bình cũng ca được, còn từ Linh Giang dĩ Bắc, Hải Vân quan dĩ Nam đều có người ca, mà ca giỏi thế nào cũng có nơi trạy bẹ, ấy là câu chuyện ai cũng biết rồi. Điệu ca khởi điểm từ thời nào, thời khởi điểm từ thời Hiếu Minh (chúa Nguyễn, về hệ bảy, thế kỷ 17)[32].

Ca Huế, hiểu theo nghĩa hẹp, gồm đàn Huế và ca Huế. Ngoài ra còn có thể gọi là Ca nhạc Huế. Về xuất xứ trực tiếp của ca nhạc Huế, có thể thấy đó là một loại âm nhạc mang nhiều màu sắc địa phương. Nhạc điệu và nhất là giọng Ca Huế rõ ràng là phát sinh từ tiếng nói, giọng nói của người xứ Huế. Không thể Ca Huế với giọng Bắc, giọng Nghệ, giọng Quảng, hay giọng Nam Bộ, mà nhất thiết phải với giọng Huế của người Huế – Trị Thiên. Vậy tên gọi của nó đã nói lên rằng quê hương của ca nhạc Huế chính là xứ Huế, tức là vùng Thuận Hóa cũ, vùng kinh đô của Phú Xuân ngày trước. Sau này, vì cùng trong một vùng phát âm, người Quảng Trị cũng có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Ca Huế, nâng Ca Huế trở thành một nghệ thuật mang tính địa phương sâu sắc, đóng góp vào vườn hoa nghệ thuật đầy sắc màu rực rỡ của dân tộc. Theo nhận xét của Hoàng Thị Châu về việc phân vùng ngôn ngữ, thì về cơ bản, Huế nói “giọng miền Trung”. Tuy nhiên “giọng miền Trung” của Huế có những đặc điểm riêng, do nguồn gốc xuất phát của những lưu dân đi đến những vùng đất mới. Vùng Bình Trị Thiên về cơ bản là dân Nghệ Tĩnh vào theo con đường thẩm thấu dần từ đời Trần. Chính thế mà phương ngữ Nghệ Tĩnh và phương ngữ Bình Trị Thiên có những đặc điểm giống nhau. Riêng tiếng Huế mang nhiều sắc thái mới của phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Về âm vực, có nhà nghiên cứu nhận xét rằng, hai vùng Quảng Trị và Thừa Thiên có âm vực thuộc loại cạn và hẹp nhất nước. Do ảnh hưởng của các giọng nói địa phương nên khi hò người ta cũng phát âm theo giai điệu riêng của từng vùng. Một nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng: Người Việt ở miền Bắc vốn quen dùng các ngũ cung đúng ( đo, ré, fa, sol, la), người miền Nam quen dùng giai điệu nằm trong ngũ cung hơi Nam giọng oán ( do, mi, fa ( già), sol, la) người Thừa Thiên Huế dùng ngũ cung “ hơi Nam giọng ai” ( do, re ( non), fa ( già), sol, la ( non). Ngũ cung hơi Nam giong ai là nét đặc trưng của nghệ thuật diễn xướng Thừa Thiên Huế. Nó toát ra một âm hưởng xa xôi, huyền bí, đầy tính trữ tình và có thể nói với đặc tính “cạn và hẹp” giọng nói Huế đã để lại dấu vết trong đường nét giai điệu Ca Huế một tính chất đặc hữu, khác với dân ca nhạc cổ từ đèo Ngang trở ra và từ Hải Vân trở vào.

Tuy nhiên, dù có nhiều tên gọi khác nhau, dù có cả Ca cả Đàn trong đó, các nhà nghiên cứu vẫn thống nhất rằng: không cần thiết phải gọi là “Ca nhạc Huế” thay cho tên gọi đã trở thành quen thuộc là “Ca Huế”. Ca Huế đã tồn tại trong truyền thống như tên gọi ca Trù (hay là hát Ả đào), là một thể tài chuyên nghiệp luôn đi kèm với nhạc cụ. Ca nhạc Huế cũng không thể bị hiểu nhầm là toàn bộ nền ca nhạc tại Huế, cả quá khứ lẫn đương thời, cả nhạc cổ truyền (dân ca, ca Huế, ca nhạc cung đình, âm nhạc tín ngưỡng) lẫn tân nhạc (một khối lượng lớn các bài hát mới sáng tác về Huế, sáng tác trên chất liệu âm nhạc Huế).

Có  thể khẳng định, Ca Huế là loại nhạc Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Tuy nhiên, tìm hiểu nguồn gốc và thời điểm phát sinh thì có nhiều ý kiến khác nhau.

Nhà nghiên cứu Văn Lang trong “Ca Huế và ca kịch Huế” nêu ý kiến về nguồn gốc và thời điểm phát sinh ca Huế: “Nếu xác định rằng dưới triều Lý, hát tuồng đang trên đường hình thành mà nhạc  nhạc cung đình, thì chúng ta có thể nói nhạc

Do vậy cho phép chúng tôi được nói ca nhạc Huế (tức ca nhạc [32].

Cứ thế, ca nhạc nói đến.

Nguyễn Hoàng, con trai Nguyễn Kim – phải vận động xin vào trấn thủ Thuận Hóa (năm 1558) và kiêm trấn thủ Quảng Nam (năm 1570).  đẩy mạnh công cuộc khai hoang với điều kiện kinh tế ở Thuận Hóa ngày càng được phát triển, đồng thời gặp mảnh đất giàu có về thơ ca đầy chất trữ tình, ca nhạc cổ sau khi quy tụ ở đây càng có điều kiện phát triển phong phú, dần dần được hình thành rõ nét và trở nên hoàn chỉnh.

Thái Văn Kiểm trong “Cố đô Huế” cũng cho rằng: Chu, tức là Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế (1691 – 1725)”[32]

Lê Văn Hảo lại cho rằng: ca nhạc Huế là vào khoảng Giữa thế kỷ XVIII, ca múa nhạc đã phát triển phong phú tại đô thành Phú Xuân”[32].

Văn Thanh, trong thay lời tựa sách “Tìm hiểu ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên” khẳng định:, nhưng  vào khoảng những năm của thập niên 20 cho đến khi thế chiến thứ hai bùng nổ”[32].

Giáo sư Trần Văn Khê cũng cho rằng đây là loại quan nhạc chứ không phải là loại dân nhạc[32].

Qua các ý kiến trên, chúng ta nhận thấy đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất ca Huế hình thành vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu cầm quyền (1691 – 1725) và Ca Huế có nguồn gốc từ nhạc cung đình;

Nhưng dù ý kiến về thời điểm phát sinh có khác nhau, song có thể thấy rằng ngọn nguồn sâu xa của một thể loại âm nhạc nhạc của dân tộc đó. Ca nhạc Huế không ra ngoài quy luật ấy. Vì thế, ngọn nguồn hình thành đầu tiên của Ca Huế chính là dòng âm nhạc chuyên nghiệp của cư dân Việt, vốn manh nha trong các thời Lý, Trần, Lê, đã vào xứ Huế qua các cuộc di dân của người Việt ở Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa và miền đồ. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Có lẽ do ngọn nguồn này mà sau một thời kỳ phát triển mạnh mẽ ở cung đình trong các sinh hoạt ca hát vui chơi của tầng lớp thống trị, Ca Huế lại trở thành phổ biến ở dân gian. Nó trở về với dân gian do tự bản thân đã chan hòa tình cảm lắng đọng và tràn đầy dân tộc tính.

Ngọn nguồn thứ ba của Ca Huế chính là thú thưởng ngoạn âm nhạc cung đình mà các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã tiếp nối truyền thống thưởng thức âm nhạc ở Đàng Ngoài mà cho tổ chức các buổi ca nhạc ở phủ chúa hoặc gia đình của các bậc vương công. Nhưng như vậy chưa đủ để nói về nguồn gốc hình thành của Ca Huế. Trong Ca Huế người ta còn phảng phất thấy bóng dáng của âm nhạc Chăm Pa cũng như của âm nhạc Trung Hoa. Tóm lại, trong Ca Huế người ta thấy âm hưởng của nhiều loại hình âm nhạc, từ cung đình đến dân gian, từ dân dã đến bác học. Người ta cũng tìm thấy trong Ca Huế sự kết hợp tài tình của Ca từ, của nhạc cụ và của nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp, từ chỗ chỉ là thể loại ca nhạc thính phòng, ca nhạc Huế đã phát triển đến đỉnh cao, được truyền bá rộng trong dân gian, được nhân dân bổ sung những điệu Hò, điệu Lý… và được sân khấu hóa như các loại hình sân khấu khác. Do đó, có thể nói hiếm có bộ môn nghệ thuật truyền thống nào của dân tộc có được sự độc đáo, đặc sắc và phong phú như thế, và cũng hầu như không có bộ môn nghệ thuật nào có thể đáp ứng đa dạng thị hiếu của mọi tầng lớp người thưởng thức, như Ca Huế.

1.1.2. Vài nét về quá trình phát triển Ca Huế

Cho đến nay, vẫn chưa có học giả nào có thể khẳng định một cách chắc chắn Ca Huế ra đời từ bao giờ, song tất cả đều đồng ý với nhau ở một luận điểm: Cái tên Ca Huế chỉ có thể chính thức được biết đến bắt đầu từ thế kỷ XVII, và người ta cũng xem đây là khoảng thời gian quan trọng hình thành nên thể tài Ca Huế với những đặc điểm như chúng ta thấy hiện nay. Do đó, theo tác giả Tôn Thất Bình, có thể tạm thời phân chia quá trình phát triển của Ca Huế theo các giai đoạn sau:

1.1.2.1. Giai đoạn hình thành và phát triển ban đầu (cuối TK XVII – cuối TK XVIII)

T ú Xuân, nơi đặt thủ phủ của các chúa Nguyễn, thuộc phía Nam kinh thành Huế hiện nay, các điệu Ca Huế đã lần hồi xuất hiện. Ngay sau đó, các điệu nổi tiếng như: Cổ bản, Phú lục, Nam ai, Nam bình đã lưu hành rộng rãi trong dinh phủ chúa. Ca Huế là một bộ môn nghệ thuật độc đáo bởi lẽ không phải ai ca cũng đúng giọng.

Ở thời kỳ này, trong âm nhạc truyền thống của ta đã có điệu Bắc và điệu Nam, mà đó là hai hình thức chính của Ca Huế. Các nhạc khí cơ bản của Ca Huế như đàn tranh, đàn nguyệt, đàn nhị, đàn tỳ bà, đàn tam, sáo và sênh đều có mặt.

Vào giữa thế kỷ XVIII, Luân Quốc Công Nguyễn Phúc Tứ – em của Nguyễn Phúc Khoát  ba cây đàn cầm, đàn sắt và đàn tỳ bà, mà chế ra một cây  đàn nam cầm 4 dây, thùng dày và vuông, cầm dài 120cm để nhấn nhịp cho đúng với các điệu nam. Ở thế kỷ XIX, đàn nam cầm là một nhạc khí quan trọng trong ca nhạc Huế, về sau cây đàn này đã thất truyền, chỉ còn biến thể dưới dạng 2 dây và thường được biết đến dưới tên đàn nguyệt. Cùng với đàn nhị, đàn tranh và đàn tỳ bà, đàn nguyệt là một trong những nhạc khí tiêu biểu trong dàn nhạc của ca nhạc Huế; âm thanh, âm sắc của nó rất phù hợp với ca nhạc Huế. Có thể xem đàn nguyệt là một trong những cây đàn “Huế” nhất trong các nhạc khí Việt Nam truyền thống.

Như vậy, có thể nói trong giai đoạn hình thành và phát triển ban đầu này, Ca Huế đã có những bài ca cơ bản về điệu thức Bắc và Nam, đàn Huế và đàn dân tộc đã khá đầy đủ để đệm hơi cho ca kỹ; báo hiệu cho giai đoạn phát triển và thịnh đạt của Ca Huế vào thế kỷ kế tiếp. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

1.1.2.2. Giai đoạn phát triển thịnh đạt ( đầu TK XIX – 1885)

(1885). Lúc bấy giờ, ngoài dân gian cũng như chốn cung đình, Ca Huế đã phổ biến rộng rãi. Trong cung đình có một số bài Ca Huế có lời bằng chữ Hán (ví dụ mười bài ngự trong ca nhạc Huế vừa có lời chữ Hán thông dụng trong cung đình, vừa có lời Nôm thông dụng trong dân gian).

Đến năm 1863, một tác giả vô danh đã ghi một tập bài bản ca nhạc Huế khá hoàn chỉnh gồm 25 tác phẩm: 10 bản có kèm theo lời ca và 15 bản không có lời ca. Tên của một số bài bản đó là: Lưu Thủy, Kim Tiền, Xuân Phong, Hồ Quảng, Nam Xuân… là những bài bản giống tên với những bài bản còn thông dụng trong ca nhạc Huế. Bên cạnh đó là những bài bản ngày nay đã thất truyền như: Trường thán, Tự trào, Tư mã tương như, Tiên nữ tống Lưu Nguyễn, Bá Nha khấp Tử Kỳ…

Giai đoạn này có nhiều nghệ nhân nổi tiếng trong dân gian như Đẩu Nương, một ca nhi ở An Cựu, các nhạc công Biện Nhân, Trần Quang Phổ, Tống Văn Đạt. Trong cung đình, một số ông hoàng bà chúa con của Minh Mạng (1820-1840) có tài sáng tác, hay tổ chức các buổi sinh hoạt ca nhạc thính phòng như các ông hoàng Trấn Biên, Lãng Biên, các công chúa Ngọc Am, Lại Đức (tức Mai Am) đều có sáng tác lời cho bài bản nhạc Huế. Công chúa Huệ Phố vừa là nhà thơ, vừa giỏi đàn ca, có tập họp một ban nữ nhạc do chính bà huấn luyện.

Ông hoàng Nam Sách đàn nguyệt rất hay, đã soạn cuốn Nguyệt cầm phổ vào năm 1859. Cũng trong khoảng thời gian ấy, ông hoàng Miên Thẩm (nhà thơ Tùng Thiện Vương) soạn cuốn Nam cầm phổ. Ông hoàng Miên Bửu (nhà thơ Tương An quận vương) nổi danh về đàn tỳ bà và đã đặt lời cho nhiều bài bản ca nhạc Huế.

Năm 1850, ông hoàng Miên Trinh (nhà thơ Tuy Lý Vương) đã sáng tác một bài Ca Huế dài hơn nhan đề là Nam cầm khúc để tiễn bạn là Nguyễn Văn Siêu về Bắc. Khúc nam cầm này được ca nhi nổi tiếng là Đẩu Nương ca và tự đệm bằng cây nam cầm. Sau khi Đẩu Nương mất (vào khoảng cuối thế kỷ XIX) đàn Nam cũng thất truyền. (1848- 1883).

Trong giai đoạn này ta thấy rõ Ca Huế dần dần đã phổ biến ra ngoài dân gian. Các nhạc công, nghệ nhân giỏi về đàn của Ca Huế đình và các dinh phủ của các ông hoàng đến các gia đình quyền thế. Các vua triều Nguyễn cũng rất thích Ca Huế. Trường hợp vua Tự Đức để lại giai thoại về việc sử dụng các nghệ sĩ dân gian tài hoa làm chức suất đội trưởng điều khiển dàn nhạc như Đội Chín, Đội Phước con cháu Tống Văn Đạt là một trường hợp cụ thể.

Huế là địa điểm thuận lợi cho sự tập hợp cho một số nghệ nhân giỏi đàn ca xướng hát trong giai đoạn này. Ca Huế trở thành một nhu cầu văn hóa tinh thần không thể thiếu được ở chốn kinh đô.

1.1.2.3. Giai đoạn ngưng đọng và suy thoái (1886 – 1945) Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Đó là giai đo (1885) đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Thất thủ kinh đô (1885) là một cột mốc đánh dấu sự ngưng đọng, suy thóai của nhiều bộ môn nghệ thuật ở Huế. Tuồng và Ca Huế là hai ví dụ tiêu biểu.

Trong giai đoạn này, Ca Huế

Chúng đã biết Ca Huế là một sinh hoạt có tính chất thính phòng, người ca, người đàn cùng thưởng thức là những khách tri âm. Nhưng trong thời kỳ này, tính chất ấy đã bị biến đổi. Con sông Hương là nơi lý tưởng cho những lần tập họp khách tao nhân, tài năng thiên phú, nay cũng con sông ấy, những buổi tổ chức Ca Huế đã biến thành những cuộc ăn chơi trác táng của những người có tiền.

Các nhạc công, ca sĩ lâm vào cuộc sống lầm than bế tắc. Có người bán rẻ tài năng, có khi bán cả nhân phẩm của mình để mua vui cho bọn người quyền quý giàu sang, lại còn chịu nhục vì thành kiến “xướng ca vô loại”.

Trong hoàn cảnh ấy, một số lớn những nhạc công ngay thẳng, lương thiện muốn giữ gìn vốn cổ quý báu của cha ông. Họ nêu cao phẩm tiết chân chính của mình. Ta có thể kể tên các nhạc sĩ, ca sĩ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã có công bảo vệ ca nhạc Huế gồm: “Trợ quốc khách Ưng Dũng, gọi là Trợ Dõng, con trai ông hoàng Gia Hưng, giỏi đàn nguyệt. Ông cựu tri phủ Đoàn Diệu, gọi là Phủ Thông, giỏi tiết tấu và hòa điệu. Ông kiểm thảo Trần Trinh Soạn, thường gọi là Cả Soạn, người làng Minh Hương (Thừa Thiên) thiện nghệ về đàn tranh và nguyệt. Ông cửu phẩm Nguyễn Chánh Tâm, gọi là Cửu Tâm giỏi đàn tranh, đàn nguyệt. Ông tuần phủ Nguyễn Khoa Tân, người gốc An Cựu (Thừa Thiên) giỏi đàn tranh. Ông Ưng Ân, dòng dõi Tuy Lý Vương, ông Khóa Hài, tên thật là Ngô Phố người làng Bác Vọng (Thừa Thiên) ngụ ở An Cựu, thuộc nhiều điệu, nhiều bài. Ông Huyện hầu Ưng Biều gọi là Mệ Chín Thành, giỏi tất cả các loại đờn dây, nhưng nổi tiếng về đờn nhị và độc huyền. Ông Phan Đình Uyển gọi là cậu Ấm Ba, người Phú Lương (Thừa Thiên) giỏi đàn độc huyền và nổi tiếng về thổi tiêu.

Đối với nữ nhạc công, người ta có thể kể: Cô Phò, vợ góa của Trần Quang Phổ, gốc người An Cựu (Thừa Thiên) và bà Khỏe, con cậu Cung (người Kim Luông) và vợ của Đốc Soạn, là những nữ nhạc công giỏi đàn tranh. Ta còn có thể kể cô Phủ Sáu và cô Trà là những người Ca Huế hay. Về nghiên cứu lý luận, có những công trình của Di Sơn Ưng Dự như Văn thích lục, Âm nhạc luận lược…; của Hoàng Yến như Âm nhạc ở Huế, Cầm học tầm nguyên.

Chính trong giai đoạn đen tối nhất của lịch sử dân tộc, những con người ấy – bằng nhiệt đang trong thời kỳ chưa độc lập, tự chủ, Ca Huế có lúc đi chệch hướng, nhưng nhờ sự lưu tâm gìn giữ vốn quý của dân tộc, nên Ca Huế vẫn còn cơ hội hy vọng phục hồi. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

1.1.2.4. Giai đoạn tái sinh và phục hưng (Sau 1954)

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), Ca Huế lại có cơ hội phục hồi. Tiếp nối truyền thống yêu dân tộc, bảo vệ những di sản quý báu của cha ông, ở vùng bị tạm bảo vệ Ca Huế. Hành động này nhằm chống lại ảnh hưởng lai căng, đồi trụy, chống lại âm mưu thủ đoạn, lợi dụng mua chuộc, tha hóa nhằm biến Ca Huế thành một thú tiêu khiển trụy lạc hay một công cụ chiến tranh tâm lý. Họ đã thành lập những ban nhạc, hội âm nhạc, nhạc viện tư nhân góp phần duy trì bảo vệ Ca Huế như nhạc sĩ Bửu Lộc lập ban Hương Bình, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba lập viện Tỳ Bà ở Huế, và ở Sài Gòn, các nhạc sĩ Tôn Thất Toàn, Viễn Dung lập 1971.

Ở miền Bắc, nhiều nghệ nhân trước đây là những diễn viên, nhạc công ở các gánh hát Ca Huế, sau hòa bình lập lại năm 1954 đã tập kết ra Bắc. Họ bán tài sản riêng của mình để chiêu mộ lực lượng, thành lập ra đoàn ca kịch Huế vào hoạt động biểu diễn nghệ thuật phục vụ tại tuyến lửa Vĩnh Linh. Một trong những phương châm của đoàn là: Bảo vệ và phát huy vốn nghệ thuật truyền thống của dân tộc, mà Ca Huế là loại hình nghệ thuật độc đáo, là sản phẩm tinh thần của nhân dân tỉnh Thừa Thiên – Huế. Rất nhiều nghệ sĩ Ca Huế đã trưởng thành trong thời kỳ này.

1975, đoàn trở về quê hương, trở thành đoàn ca kịch Bình Trị Thiên (sau chia tỉnh 1989), nay là đoàn Ca kịch Huế.

1993, đoàn có chủ trương xé lẻ để các diễn viên có thể diễn Ca Huế trên sông, phục vụ khách du lịch bởi đáp ứng được yêu cầu sau khi Huế được thế giới công nhận là di sản văn hóa của nhân loại vào tháng 12-1993. Đến bây giờ, Ca Huế đang đứng trước cơ hội để tái sinh mạnh mẽ. Ca Huế

Đội ngũ ca sĩ, nhạc sĩ, nhạc công đã được phát triển trên nhiều mặt, vừa đông về số lượng, vừa được nâng cao về chất, lớp nghệ sĩ lão thành hòa âm cùng thế hệ trẻ. Người mộ điệu Ca Huế ngày càng tăng theo thời gian là người xứ Huế, là bạn tri âm trong nước, là khách du lịch từ mọi miền trên trái đất… Tất cả đã và đang tìm đến nhau cùng âm điệu Huế sâu lắng, trữ tình. Loại hình Ca Huế đã hòa nhịp trong đời sống văn hóa du lịch; đã làm phong phú thêm bản sắc Huế vốn đa dạng; mộng và thơ.

Mái chèo trăng, con thuyền mộng, ngàn sao khuya lấp lánh; nét mờ ảo sương sa cùng những vẻ đẹp thiên nhiên đang hội tụ cùng dòng sông Hương êm đềm là sự cộng hưởng thật tuyệt vời nâng tầm bay cho ca Huế.

1.2. Đặc trưng nghệ thuật của Ca Huế Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

1.2.1. Đặc điểm thang âm, thức điệu trong Ca Huế

Trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, hệ thống định âm của ta không trùng khớp với hệ thống bình quân luật trong âm nhạc cổ điển Tây phương, nghĩa là thang âm Việt không cấu thành từ hệ thống 12 bán cung của một quãng tám như trong nhạc Tây phương. Sự khác biệt về hệ thống định âm này chính là do sự thẩm âm riêng biệt mang bản sắc dân tộc của cư dân từng khu vực, từng quốc gia khác nhau. Một đặc điểm khác là cao độ của mỗi âm bậc trong nhạc Việt chỉ có tính cách tương đối, âm bậc chuẩn chỉ mang tính quy ước trong từng điệu thức, từng hơi nhạc, tùy bài bản và tùy ở mỗi vùng miền khác nhau. Các kỹ xảo trong diễn tấu (nhấn, rung, vuốt, mổ…) trên từng âm bậc của thang âm đã tạo nên hệ thống các hơi nhạc phong phú của âm nhạc Việt Nam[35].

Nhà nghiên cứu Lê Văn Hảo đã phân tích khá sâu sắc về vấn đề thang âm, điệu và hơi trong ca Huế. Hơi theo cách ông gọi là sắc thái của điệu: “Ca nhạc Huế có điệu thức Bắc và bốn sắc thái (quen gọi là hơi): hơi quảng, hơi đảo, hơi thiền, hơi nhạc, có điệu thức Nam và bốn sắc thái: hơi xuân, hơi thương, hơi ai, hơi oán. Giữa hai điệu thức Bắc và Nam có một sắc thái trung gian: hơi dựng”[35]. Nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất Ca Huế có hai điệu thức chính là điệu Bắc và điệu Nam, ngoài ra còn có điệu thức lưỡng tính nằm giữa hai điệu thức này. Về hơi nhạc trong Ca Huế có thể chia thành các hơi chính như: Hơi Ai, Hơi Xuân, Hơi Oán, Hơi Dựng, Hơi Thiền.

1.2.1.1. Điệu thức Bắc

Với âm nhạc Huế, chúng ta có một hệ thống thang âm ngũ cung khá độc đáo. Trước tiên là thang âm cơ bản, là sự kế thừa thang âm Đại Việt lâu đời từ trong lịch sử, đó là điệu Bắc (người Huế – người trên đất Thuận Hóa cũ – còn gọi là điệu Khách), tương đương với cung hoàng chung (cung thương giốc chủy vũ) trong âm nhạc Trung Hoa:

Chúng ta dễ dàng tìm thấy thang âm này trong phần lớn bài bản âm nhạc cung đình và ca nhạc thính phòng. Điệu Bắc chính là dấu ấn của ảnh hưởng Trung Hoa trong nhạc Việt, tuy vậy điệu thức của người Việt vẫn có ngôn ngữ riêng với cách nhấn nhá ở các âm bậc xự, cống với kỹ thuật rung đặc trưng và âm bậc cống cũng đàn hơi non. Điệu Bắc mang tính chất vui tươi, trang nghiêm, tốc độ thường là khoan thai hoặc nhanh, ít khi chậm, thường được dùng trong các buổi tế lễ long trọng[35]. Những cung bắc (khách) như có vẻ linh hoạt, mạnh mẽ, thích hợp với tính cách tiến thủ hăng hái của người Bắc Việt, cùng với cảnh đồn điền rộng rãi sông ngòi mãnh liệt ở miền trung châu. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Tiêu biểu có các làn điệu :

  • Cổ bản (bài xưa) gồm 64 nhịp.
  • Lộng điệp (bướm vờn trước gió): gồm 16 nhịp, được đưa vào điệu Cổ bản để sáng tác, với tính chất hưng phấn, rộn ràng.
  • Phú lục: có nét nhạc sang trọng với 206 nhịp (phú lục chậm), 27 nhịp (phú lục nhanh).
  • Mười bản Tàu (Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn, Bình bán, Tây mai, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã). Trong hệ thống điệu Bắc, mười bản Tàu còn gọi là 10 bản Ngự chỉ trình diễn khi lễ lạt, tuy nhiên nhiều nghệ sĩ Ca Huế đã lấy mỗi đoạn trong mười bản Tàu để sáng tác thành những tên bài khác nhau, làm phong phú thêm các làn điệu Ca Huế.

Theo giáo sư Trần Văn Khê, trong nhạc Việt, tất cả các bài thuộc điệu Bắc đều có các yếu tố cơ bản sau: có thang âm ngũ cung với âm bậc cơ bản là hò (do); bất kỳ âm bậc nào trong thang âm ngũ cung đều có thể dùng làm bậc khởi đầu, bậc kết thúc hoặc bậc ngơi nghỉ; nhạc công diễn tấu điệu Bắc đều có những nốt hoa mỹ để luyến láy; các nhạc cụ như đàn tranh hoặc đàn nguyệt đều lên dây theo hệ thống dây Bắc; tất cả bài bản điệu Bắc đều mang tính chất vui tươi[35].

1.2.1.2. Điệu thức Nam

Những cung nam như nam ai, nam bình, nam xuân có vẻ trầm bi oán vọng, hợp với tâm thuật của một dân tộc điêu tàn là dân tộc Chiêm Thành, cùng với cảnh non nước dịu dàng ở xung quanh kinh đô.

Điệu thức Nam thường là những điệu mang âm hưởng buồn, chất nhạc dàn trải, sâu lắng, trữ tình, gồm có :

  • Nam ai: Điệu ca chia làm 5 lớp, tính chất buồn, ai oán.
  • Nam bình: Tiết tấu, âm điệu đều đều, buồn man mác, nhẹ nhàng.
  • Quả phụ: Điệu ca thể hiện nổi sầu đời, cô đơn của người quả phụ.
  • Tương tư: Gợi lên sự nhớ thương da diết của hồn người trong cuộc tình yêu.
  • Nam xuân: Mùa xuân ở phương Nam, giai điệu lửng lơ, thương cảm một cách thuần khiết.

Điệu này xuất hiện từ khi dòng người Việt đi về phương Nam vào đất mới. Họ mang theo ngôn ngữ, phong tục, tập quán và cả âm nhạc. Tuy nhiên trong quá trình sinh hoạt và giao lưu văn hóa với người bản địa, người Việt đã chịu ảnh hưởng của người Chăm. Có thể trong dĩ vãng, người Việt ở miền Bắc vốn quen dùng ngũ cung đúng ( do re fa sol la), khi Nam tiến đã bị nhạc Chàm với ngũ cung oán (do mi fa sol la) quyến rũ rồi sáng tạo ra ngũ cung ai (do, re non, fa già, sol, la non) chăng?[35]. Điều dễ nhận ra là ảnh hưởng trong giọng nói, ngôn ngữ. Chẳng hạn thanh sắc và thanh ngã của người Huế khi phát âm đã hạ thấp hơn, thanh hỏi lại cao hơn so với miền ngoài, có người cho đó là giọng lơ lớ. Chính âm thanh lơ lớ này đã hình thành điệu Nam trong nhạc Huế. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Trong thang âm này hai âm bậc hò và xê không thay đổi so với điệu Bắc, các bậc còn lại đều có thay đổi để làm nên sắc thái riêng của điệu thức miền Trung, trong đó hò và xang dùng kỹ thuật rung.

1.2.1.3. Điệu thức lưỡng tính

Ngoài hai điệu thức Bắc, Nam trên, trong bài bản Ca Huế còn có một số làn điệu mang yếu tố lưỡng tính; vừa có nét nhạc vui, vừa có nét nhạc buồn hay nói cách khác, những bài bản thuộc cung Bắc mà chơi ngả sang cung Nam nghe không vui không buồn thì gọi là Hơi dựng, Hơi xuân (bâng khuâng, lưu luyến, gởi gắm tâm tình). Chất nhạc vì thế có nét riêng, làm phong phú thêm các bài bản của Ca Huế.

Bài thuộc hơi dựng mà đàn nhẹ nhàng, êm ái, tiếng to, tiếng nhỏ, nhịp chậm, nhịp mau, cho ta cái cảm tưởng như nghe người thỏ thẻ kể chuyện tâm tình vậy. Tiêu biểu có các làn điệu Cổ bản dựng, Nam bình dựng, Nam xuân, Tứ đại cảnh, Hành vân…

1.2.1.4. Các hơi nhạc

Nói đến hai điệu Bắc và Nam để khẳng định nguồn ảnh hưởng của Trung Hoa và Chăm trong nhạc Việt. Tuy nhiên trong âm nhạc Huế, với kỹ thuật rung hai bậc xự, cống, điệu Bắc đã được Việt hóa, không còn là của Trung Hoa nữa. Ngoài ra người Huế đã sáng tạo thêm một cách tinh tế và phong phú các sắc thái đặc thù trong âm nhạc của mình mà người Huế gọi là hơi nhạc. Đó là sự vận dụng tài tình ngôn ngữ âm nhạc để giãi bày các trạng thái tình cảm, nội tâm trữ tình và đa dạng của họ.

Âm nhạc Huế gồm có các hơi nhạc sau: hơi ai, hơi xuân, hơi oán, hơi dựng, hơi thiền.

Hơi ai dùng để diễn tả sự buồn thương, áo não, những tình cảm luyến tiếc, mất mát, thở than, tốc độ chậm rãi. Chính vì tính chất này, hơi ai không dùng trong âm nhạc cung đình mà thường được dùng trong ca nhạc thính phòng Huế, nhiều khi cũng được dùng trong âm nhạc cúng tế, trong tang lễ. Ví dụ các bài Nam ai,

Hơi xuân có thể tìm thấy trong âm nhạc cung đình Huế, âm nhạc tuồng và nằm trong hệ thống điệu Bắc. Thang âm của nó là:

Tuy nhiên hơi xuân Huế có thủ pháp nhấn rung đặc biệt là âm bậc xang liu thường rung nhấn lên khoảng một cung rồi trở về âm bậc chính. Âm bậc xựcống rung như điệu Bắc. Âm bậc dùng kỹ thuật mổ (nhấn rồi thả thật nhanh). Có khi hơi xuân lại xuất hiện âm bậc phàn cao hơn âm bậc cống một chút. Hơi xuân có trong bài Thài bát dật (đệm cho điệu múa Bát dật trong cung đình), bài Nam xuân (khác bài Nam xuân trong nhạc tài tử Nam bộ có thang âm là hò y xang xê phàn liu), thường mang tính chất đĩnh đạc, uy nghiêm và tươi vui hơn hơi ai Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Hơi oán diễn tả điệu buồn sâu xa, có tính chất oán thán. Oán tự nguồn gốc là âm cống (la) trong bài Chinh phụ, thuộc điệu Nam trong nhạc Huế. Trong bài này, tất cả âm cống phải đọc thành oán, theo Hoàng Yến trong bài viết La musique à Huê, B.A.V.H tháng 7-8.1919 [36]. Hơi oán phần lớn được sử dụng trong đờn ca tài tử Nam bộ, tuy vậy trong ca nhạc Huế cũng có hơi này nhưng thang âm có khác biệt, như trong các bài Tứ đại oán, Chinh phụ.

Hơi dựng là sự chuyển điệu từ hơi này sang hơi khác, nghĩa là trong khi diễn tấu điệu này lại chen vào những đoạn theo điệu khác, tuy vậy những đoạn chen vào đó chỉ là tạm thời để rồi trở về điệu chính. Hơi dựng có trong các bài Hành vân, Tứ đại cảnh, Cổ bản dựng, Quả phụ

Hơi thiền được tìm thấy ở những bài chịu ảnh hưởng các bài kệ, bài tán và tụng trong âm nhạc Phật giáo. Theo nhạc sĩ Vĩnh Phan, hơi thiền cũng là hơi khách (Bắc). Trong một bài hơi khách có hai cung y, phàn (mi, sib) thì dĩ nhiên có chuyển hệ; trong một bài hơi khách mà hai cung xự, cống luôn có mặt trong dứt câu hay ở đầu ô nhịp, lúc đánh cho ta cảm giác một âm giai thứ hoặc dùng cả hai cung y, phàn nữa thì hơi đó nhất định là hơi thiền. Có thể tìm thấy hơi thiền trong bài tán Dương chi tịnh thủy, ca ngợi Phật Quan âm[36].

1.2.2. Giới thiệu một số nhạc cụ trong Ca Huế và nghệ thuật kết hợp biểu diễn của nhạc cụ trong Ca Huế

Dàn nhạc Ca Huế rất gọn song đầy đủ, gồm các loại nhạc cụ sau: đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nguyệt, đàn nhị, đàn tam (ngũ nguyệt). Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sênh tiền để gõ nhịp.

Sau này khi Ca Huế trên sông Hương phát triển, các diễn viên đã sáng tạo một loại nhạc cụ rất thích hợp cho các bài hát có tiết tấu nhanh, mạnh bằng cách dùng những chiếc tách uống trà làm bộ gõ. Tiếng ly tách va vào nhau nghe rất vui tai, vang khắp mặt sông tĩnh lặng. Sau đây, xin giới thiệu một số loại nhạc cụ chính.

1.2.2.1. Đàn tranh (thập lục)

Đàn tranh là nhạc khí dây gẩy, có 16 dây. Cấu tạo của đàn hình hộp dài khoảng 110 cm. Một đầu rộng khoảng 22 cm, đầu kia hẹp hơn khoảng 15 cm. Mặt đáy phẳng và có lỗ khoét thóat âm hình chữ nhật. Mặt trên đàn làm bằng gỗ nhẹ xốp, uốn cong, để mộc. Hai bên thành cao 7 đến 8 cm. Trên mặt đàn ở đầu rộng có một cầu đàn bằng kim loại uốn nằm ngang theo mặt đàn, trên đó có 16 lỗ nhỏ, ở đầu hẹp xếp chéo 16 trục. Các dây đàn được mắc từ các lỗ trên cầu đàn đến các trục. ở giữa mặt đàn có 16 ngựa đàn (gọi là con nhạn) bằng gỗ, xương hoặc ngà, hình tam giác, trên đỉnh tam giác của ngựa đàn có bịt đồng để đặt dây, di chuyển điểu chỉnh độ cao của dây. Các ngựa đàn điều chỉnh lên dây theo thang âm ngũ cung, ví dụ: Điệu Bắc: Đô – Rê – Fa – Sol – La – Đô, hay Điệu Nam: Đô – Mib – Fa – Sol – Sib – Đô. Nhạc công ngồi chơi đàn, tay phải gẩy đàn, tay trái nhấn nháy trên dây. Đàn tranh có âm cao, trong sáng, vui tươi[31].

1.2.2.2. Đàn nguyệt (đàn kìm) Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Đàn nguyệt là nhạc khí dây gẩy, có 2 dây. Cấu tạo của đàn gồm hộp đàn hình trụ dẹt và một cần đàn dài. Mặt đàn và dây đàn bằng nhau, tròn đều ví như trǎng rằm nên gọi là Đàn Nguyệt. Đường kính mặt đàn khoảng 36 cm, thành đàn khoảng 6 cm. Trên mặt đàn có gắn ngựa đàn để mắc dây. Cần đàn làm bằng gỗ cứng dài khoảng 100 cm. Trên cần gắn 7 phím nối tiếp với 3 phím gắn trên mặt đàn để bấm. Các phím đàn gắn trên những khoảng cách không đều nhau. ở đầu trên của cần đàn có 4 trục gỗ, trong đó có 2 trục dùng để mắc dây, còn 2 trục dùng để trang trí cho cân đối, đẹp mắt. Dây đàn xưa kia làm bằng tơ se, nay được thay bằng dây ni lông, một dây to, một dây nhỏ. Hai dây đàn được lên theo tương quan quãng 5 và các phím đàn đặt theo điệu thức 5 âm.

Nhạc công ngồi chơi đàn, tay phải gẩy đàn bằng móng tay để dài của mình hoặc bằng một miếng nhựa, tay trái bấm phím, luyến láy, nhấn rung. Âm thanh của đàn nguyệt ấm áp, tươi sáng, rộn ràng[31].

1.2.2.3. Đàn Nhị (đàn cò)

Đàn nhị là nhạc khí dây kéo, có 2 dây. Cấu tạo của đàn Nhị gồm có cần đàn và bầu đàn. Cần đàn làm bằng gỗ cứng, không có phím, dài khoảng 70 – 80 cm đầu dưới xuyên qua bầu đàn, đầu trên hơi ngửa ra phía sau và có 2 trục để lên dây. Bầu đàn hình ống tròn được làm bằng gỗ cứng, hơi thắt ở phía đáy, phía kia bịt da trǎn hoặc da rắn làm mặt đàn. Đường kính mặt đàn khoảng 15 cm, trên mặt đàn có ngựa đàn. Dây đàn xưa kia làm bằng tơ se, ngày nay thay bằng dây kim loại. Cung vĩ kéo đàn làm bằng cành tre cong hoặc bằng thanh gỗ dài có đầu cong mắc lông đuôi ngựa. Lông đuôi ngựa của cung vĩ đặt lồng giữa hai dây đàn. Nhạc công lên dây đàn nhị theo quãng 5, ví dụ: Đô – Sol hoặc Fa – Đô Nhạc công ngồi kéo đàn, tay phải cầm cung vĩ kéo, tay trái bấm dây với những ngón rung, nhấn, láy, vuốt. Âm sắc đàn nhị da diết, tha thiết, đẹp, giàu khả nǎng diễn cảm[31].

1.2.2.4. Đàn tỳ bà

Đàn tỳ bà là nhạc khí dây gẩy, có 4 dây. Cấu tạo của đàn gồm hộp đàn và cần đàn. Hộp đàn hình nửa quả lê bổ dọc làm đôi. Mặt đàn phẳng làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Lưng đàn khum, làm bằng gỗ cứng. Trên mặt đàn có gắn một bộ phận để mắc dây đàn và 8 phím bấm phía trên. Cần đàn ngắn, gắn liền với hộp đàn, xưa kia không có phím, nay có gắn 4 phím. Phần trên cần đàn có 4 trục gỗ để lên dây. Xưa kia dây đàn làm bằng tơ se, nay thay bằng dây ni lông. Đàn Tỳ bà lên theo tương quan các quãng: Quãng 4 – quãng 2 – quãng 4, ví dụ: Đô – Fa – Sol – Đô.

Nhạc công ngồi chơi đàn, tay phải gẩy đàn bằng miếng nhựa hoặc bằng móng tay, tay trái bấm phím với các ngón nhấn, vuốt, rung… Âm sắc của đàn tỳ bà ấm, đục[31]. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

1.2.2.5. Đàn Bầu

Đàn Bầu thuộc họ dây gẩy, chỉ có một dây, còn gọi là đàn Độc huyền. Cấu tạo của Đàn Bầu độc đáo. Thân đàn hình hộp dài, đầu nhỏ hơn cuối. Thành đàn làm bằng gỗ cứng. Đáy đàn và mặt đàn làm bằng gỗ nhẹ. Mặt đàn hơi uốn cong phồng lên. Đáy đàn có 2 lỗ thoát âm. Bầu đàn làm bằng quả bầu khô cắt đáy hoặc bằng gỗ tiện theo hình bầu ở đầu đàn. Vòi đàn làm bằng tre hoặc bằng sừng cắm xuyên qua bầu đàn xuống thân đàn. Cuối đàn có 1 trục lên dây bằng gỗ hoặc bằng kim loại. Dây đàn được buộc vào vòi đàn, đi qua miệng loe của bầu đàn kéo chếch xuống cuối thân đàn. Dây đàn trước đây làm bằng tơ se, nay làm bằng kim loại. Que gẩy đàn làm bằng tre hoặc song vót nhọn.

Khi chơi nhạc công ngồi gẩy đàn. Tay phải cầm que gẩy, tay trái cầm vòi đàn. Ngoài ra, nhạc công còn dùng cạnh bàn tay phải tì nhẹ vào những điểm nút trên dây và khi gảy xong thì nhấc tay lên ngay, dây đàn sẽ phát ra những âm thanh có cao độ khác nhau tùy theo vị trí của bàn tay chặn đúng những điểm nút khác nhau, những âm này là âm bội. Kết hợp với tay phải gẩy, tay trái cầm và điều khiển vòi đàn khiến dây đàn hồi khi cǎng, khi chùng để tạo ra những âm thanh cao hơn hay thấp hơn theo ý muốn. Âm sắc của đàn bầu mượt mà, ngân nga, ngọt ngào gần với giọng nói người Việt[31].

1.2.2.6. Sáo

Sáo thuộc nhạc khí họ hơi. Sáo dùng để thổi ngang, làm bằng một ống trúc hoặc một ống nứa nhỏ, đường kính từ 1,5 – 2 cm, chiều dài từ 30 – 40 cm. Một đầu có mấu hoặc được nút kín. Sáo ngang có 1 lỗ để thổi hình bầu dục ở phía trái ống. Phía phải ống có 6 lỗ bấm hình tròn. Ngày nay người ta có thể khoét 10 lỗ bấm để có thể thổi được nhiều giọng.

Khi diễn tấu, nhạc công dùng 2 ngón tay cái đỡ sáo, các ngón còn lại đặt lên lỗ bấm, đưa sáo ngang lên môi thổi, hướng sáo về phía tay phải. Kỹ thuật thổi có: vuốt hơi, nhấn hơi, rung hơi… Kỹ thuật bấm có vuốt, lướt, láy… Sáo ngang có âm sắc mượt mà, khỏe, trong sáng và linh hoạt[31]. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

1.2.2.7. Nghệ thuật kết hợp biểu diễn của nhạc cụ trong Ca Huế

Ca Huế phải bao gồm cả hai yếu tố ca và đàn. Ði liền với Ca là dàn nhạc Huế với bộ ngũ tuyệt Tranh, Tỳ, Nhị, Nguyệt, Tam, xen với Bầu, Sáo và bộ gõ trống Huế, sanh loan, sanh tiền. Kỹ thuật đàn và hát Ca Huế đặc biệt tinh tế. Trong ca nhạc Huế có nhiều kỹ thuật đàn điêu luyện như: nhấn, vuốt, rung… và có nhiều cách lên dây đàn: dây bắc, dây nam, dây oán, dây thuận, dây nghịch, dây chẩn, dây thiệt, dây nguyệt điều, dây hò nhứt, dây hò nhì, dây hò ba, dây hò tư… Đánh bài bản điệu Bắc, phải lên dây Bắc, đánh bài bản điệu Nam phải lên dây Nam, đánh bài bản hơi oán phải lên dây oán, mỗi cách lên dây cho một hệ thống nốt riêng[37].

Dàn nhạc Thính phòng Huế sử dụng các nhạc cụ: Nguyệt, Nhị, Tranh, Tỳ Bà, Bầu, Sáo với nhiều hình thức hòa tấu và đệm cho hát. Những hình thức thường gặp hiện nay là:

  • Hoà tấu song thanh của 2 nhạc cụ: Tranh, Nguyệt; Tranh, Bầu; Nhị, Bầu; Nhị, Tỳ Bà hoặc Bầu, Nguyệt.
  • Hòa tấu tam thanh của 3 nhạc cụ: Nguyệt, Nhị, Tranh; Bầu, Nhị, Tranh hoặc Tỳ Bà, Nguyệt, Tranh.
  • Hòa tấu tứ tuyệt của 4 nhạc cụ: Bầu, Nhị, Tranh, Nguyệt hoặc Nhị, Tỳ Bà, Nguyệt, Sáo.
  • Hòa tấu ngũ tuyệt của 5 nhạc cụ: Nhị, Nguyệt, Tranh, Tỳ Bà, Sáo hoặc cộng thêm với đàn bầu và sênh tiền; hoặc thêm một nhạc công hay một ca công gõ sênh.

Đặc biệt khi đệm cho hát, người hát thường có 1 đôi phách nhỏ để gõ nhịp, tiếng phách vang lên hòa với dàn nhạc càng tạo ra âm hưởng độc đáo cho Ca Huế.

1.2.3. Một số làn điệu và bài bản tiêu biểu Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Ca Huế là một hệ thống bài bản phong phú gồm khoảng 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc, theo hai điệu thức lớn là điệu Bắc, điệu Nam và một hệ thống “hơi” diễn tả nhiều sắc thái tình cảm đặc trưng. Bài bản Ca Huế có cấu trúc chặt chẽ, nghiêm ngặt, trải qua quá trình phát triển lâu dài đã trở thành nhạc cổ điển hoàn chỉnh, mang nhiều yếu tố “chuyên nghiệp” bác học về cấu trúc, ca từ và phong cách biểu diễn. Sau đây là một số bài bản tiêu biểu của Ca Huế:

1.2.3.1. Cổ bản

Cổ bản là một điệu ca hát có sáu khổ, sáu vần. Sau đây là một vài câu trong bản “Tự tình” được sáng tác phỏng theo khúc “mộng trùng phùng”.

  • Duyên thắm duyên càng đượm, vì giống đa tình.
  • Thêm nhiều ngày, mặn nồng càng xinh.
  • Bực khuynh thành thực là tài danh,

Song duyên kia đừng phụ, nào trách chi mình. Chỉ non thề nguyện cùng trời xanh, ….Nguồn ân ái dám đâu vơi đầy Thương càng bận, làm bận lòng đây.

1.2.3.2. Kim tiền

Là một lối ca có hai khổ, hai vần gọi là song điệp. Theo Bùi Kỷ, điệu này phỏng theo khúc “Hành lộ nan” của Trung Hoa:

TRAI GÁI TỰ TÌNH

  • Xa xôi gửi lời thăm,
  • Lúc nhắn nhe đôi bạn sắt cầm.
  • Mong kết nghĩa đồng tâm
  • Với người tri âm.
  • Thương thì xin đó đừng phai (Thương thì xin đó đừng phai). Ấy ai tình tự, tạc dạ (tạc dạ) chớ phai.
  • Chớ phai, hỡi người tình tự!

1.2.3.3. Tứ đại cảnh Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Là một lối ca có bẩy khổ, bẩy vần gọi là thất điệp, nguyên tên là Tứ đại. Có người giải thích là cảnh bốn mùa, có người lại bảo là cảnh bốn đời, nhưng nghĩa được nhiều người chấp nhận nhất là bốn cảnh lớn. Các nhạc công âm nhạc cổ truyền không coi Tứ đại cảnh là một bản Nam. Nó chứa đựng một cách sâu kín, tế nhị một nỗi lòng, một tâm trạng, mà lại là một tâm trạng, đau buồn oán trách được ẩn sâu kín, nhìn ngoài khó thấy. Bài ca có 44 câu, 46 nhịp, chia thành 5 đoạn, một số câu lặp đi lặp lại như điệp khúc. Theo Bùi Kỷ, điệu này phỏng theo khúc “Đông phong án” của Trung Hoa.

1.2.3.4. Lưu thủy

Là một điệu hát có bốn khổ, bốn vần.

GỬI TÌNH NHÂN

  • Kể từ ngày (từ ngày) gặp nhau,
  • Trao lời hẹn cho vẹn vàng thau.
  • Dây tơ mành xe chặt lấy nhau;
  • Xe không đặng, đem tình thương nhớ,
  • Tình (tình) thương, tơ vương mọi đường. Xin cho trọn (cho trọn) cương thường.
  • Ai đơn bạc thì mặc lòng ai.
  • Xin cùng bạn (cùng bạn) trúc mai. Trăm năm lâu dài.

1.2.3.5. Hành vân

Là một điệu hát có bốn khổ, bốn vần, gọi là tứ điệp.

NHẮN TRI ÂN

  • Một đôi lời, (một đôi lời).
  • Nhắn bạn tình ơi!
  • Thề non nước, giao ước kết đôi.
  • Trăm năm tạc dạ.
  • Nghĩa sắt cầm, Hòa hợp trăm năm,
  • Bởi vì xa cách, nhắn nhe cùng bạn tri âm.

1.2.3.6. Vọng phu Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Là một lối hát mà khuê phụ chăn đơn gối chiếc tưởng nhớ đức lang quân cõi xa ngàn dặm hay của những con người tương tư xa vắng.

  • Ngảnh mặt ra bóng Nga đã xế!
  • Quay mặt vô tiếng dế kêu sầu
  • Trời, trời ôi! ối trời, trời ôi!
  • Quay mặt vô tiếng dế kêu sầu.
  • Thôi nghĩ đi mần chi mà nghĩ.
  • Nhắm mắt rồi rũ rĩ chiêm bao.
  • Trời, trời ôi! ối trời, trời ôi!
  • Nhắm mắt rồi rũ rĩ chiêm bao.

1.2.3.7. Nam Ai

Có nghĩa là lời than ở phương Nam, cũng còn có tên Ai giang nam. Bài ca chia làm 5 lớp, cũng có người chia 4 lớp, âm điệu nghe ai oán, nỉ non:

  • Khuyên ai gắn bó báo đền công trình thầy mẹ Ơn nặng nhường sông, nghĩa chất non cao Ơn cúc dục cù lao
  • Sinh thành lo sợ xiết bao
  • … trông năm trọn ngày qua
  • Da mồi tóc bạc mây xa
  • Khuyên trong cõi người ta
  • Thảo ngay mới là

1.2.3.8. Nam Bình Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Là điệu hát có ba khổ, ba vần. Trước đây còn có tên Vọng giang Nam (nghĩa là nhìn theo con sông ở phương Nam), sau này đều chỉ gọi tên Nam Bình. Đây là một bản nhạc có âm hưởng buồn, mà nhân vật trữ tình như âm thầm nén lại, cố giữ kín trong lòng, một nỗi buồn tê tái:

  • Nước non ngàn dặm ra đi
  • Cái tình chi
  • Mượn màu son phấn
  • Đền nợ Ô, Ly
  • Đắng cay vì đương độ xuân thì….

1.2.3.9. Mười bài ca liên hoàn

Về mặt cấu trúc, chúng được móc liền vào nhau, không có khoảng cách từ bài này sang bài khác. Đó là các bài: phẩm tiết, nguyên tiêu, Hồ Quảng, liên hoàn, bình bản, tây mai, kim tiền, xuân phong, tẩu mã và long hổ. Nói chung các bản này đều mang một âm điệu vui tươi, có bài mang đến cho người nghe một cảm xúc lành mạnh (Phẩm tiết), có bài tạo ra trong người nghe một sự rạo rực (bài Nguyên tiêu), có bài tạo ra sự trang trọng, thắm thiết (Hồ Quảng, Bình bản), có bài có nét nhạc náo nức dồn dập (Tấu mã)…[13].

1.2.4. Không gian – Thời gian diễn xướng và thưởng thức Ca Huế

1.2.4.1. Không gian trong nghệ thuật Ca Huế

Nghệ thuật ca Huế vốn đã từng kén chọn không gian biểu diễn (tịch bất chỉnh bất đàn), thời gian (hoàng hôn bất đàn), thời tiết (phong vũ bất đàn), người thưởng thức ca Huế cũng phải là người chuẩn mực, trang nghiêm (Y phục bất chỉnh bất đàn), là tay sành điệu mang tính tri âm, tri kỷ (nhân bất thính bất đàn). Song trải qua thời gian, từ mạch nguồn sinh động của quê hương, với cảnh quan, non nước Hương Bình hữu tình, mà Ca Huế đã được thăng hoa và tạo nên những không gian, thời gian nghệ thuật rất riêng.

Theo cách hiểu hiện nay, người ta vẫn thường nghĩ rằng, chỉ có hai không gian cho việc biểu diễn và thưởng thức Ca Huế là: ca salon (hay Ca Huế thính phòng) và Ca Huế trên sông (Ca Huế trên sông ở đây cũng vẫn thường được hiểu là lên thuyền nghe Ca Huế). Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Vốn có nguồn gốc từ nhạc cung đình, tới Huế, nguồn nhạc này đã rời xa môi trường diễn xướng quen thuộc để bước ra không gian dân dã. Ca Huế hình thành trên cơ sở âm điệu tiếng nói địa phương, nó thường được trình bày trên dòng sông Hương nước trong xanh, chảy lững lờ giữa vệt bóng cây in trên dòng nước lấp loáng ánh trăng khi mờ khi tỏ, cùng với tiếng chuông chùa vang vọng, dìu dặt thinh không, hoặc được trình diễn dưới những mái nhà trầm lặng giữa vườn cây xanh mát mà cô tịch.

Nhưng nếu tìm hiểu kỹ, chúng ta biết rằng, không gian diễn xướng của Ca Huế chính là một không gian nhỏ, ấm cúng và đầy tính tri âm, tri kỷ, nơi không có giới hạn giữa người ca, người đàn và người thưởng ngoạn. Ngoái nhìn xa hơn chút nữa, người ta sẽ nhận ra rằng, sẽ thật sự hấp dẫn nếu người nghe được thưởng thức và chiêm nghiệm những giai điệu của Ca Huế ngân vọng trong khoảng không gian vừa như thực lại vừa như mơ của sóng nước Hương giang. Chính vì vậy nghe Ca Huế trên sông Hương đang là không gian chủ yếu để biểu diễn Ca Huế.

Hơn nữa, Ca Huế cũng là một loại nhạc thính phòng phù hợp với hoàn cảnh trình diễn đơn giản “chiếu hoa trong một con thuyền” bồng bềnh trên dòng sông. Người ta đến với Ca Huế là để được đắm chìm trong cảm giác xao xuyến, buồn, vui đến lạ kỳ. Bước chân xuống mạn thuyền Rồng, trong không gian tĩnh mịch giữa trời, mây, sông, nước để cảm nhận hơn nữa cái chất Huế qua những âm điệu trầm bổng, du dương của giọng hát cô ca sĩ Huế hòa quyện với tiếng réo rắt của dàn nhạc. Dáng mảnh mai và hiền dịu của người phụ nữ Huế trong chiếc áo ngày thường, hay có khi, trong tà áo dài lam cũ như điệp cùng sóng nước khi họ cất lên một điệu mái nhì, mái đẩy hoặc lắng đọng khó phai trong một điệu lý.

Khi Ca Huế được lưu hành rộng rãi, ai ưa thích lối ca này đều có thể tổ chức, bất luận gia đình quyền quý hay dân dã, chỉ cần một nhóm bạn tri kỷ 5, 7 người họp lại, kẻ ca, người đàn trong một gian phòng nồng ấm hương trầm ngào ngạt hoặc trên một chiếc thuyền giữa dòng Hương. Lối chơi như vậy đã được dân gian hóa, ngay cả cung cách trình diễn cũng thay đổi tùy hứng.

Ca Huế salon bây giờ đang thiếu tri âm, tri kỷ, cũng có thể vì nó chưa trở thành (hoặc theo cách nghĩ của nhiều người, không còn là) giao điểm để tri âm, tri kỷ tìm đến. Còn Ca Huế trên sông đang được xem như một “đặc sản” để chiêu đãi khách phương xa đến Huế. Trên dòng sông Hương thơ mộng trời cho, người ca sĩ phải tập luyện khá công phu kỹ thuật nhả chữ tròn vành, những luyến láy ngân nga êm dịu, phải thật nhuần nhuyễn trong những chỗ lấy hơi thích hợp với tiếng đàn và lúc lấy đà đưa tiếng ca lên những cung bậc cao cho dễ dàng, khiến người nghe không chối tai, và đôi khi còn phải chuẩn bị “hơi dư” để đưa tiếng hát lên xuống êm ái cho người nghe xao động thực sự như những câu hò chan chứa.

Hiện nay, không gian biểu diễn Ca Huế đang ngày được mở rộng, Ca Huế không còn đóng khung trong những phòng nhạc thính phòng của Huế; trong những khoang thuyền nhỏ trên sông Hương thơ mộng trữ tình, trong các câu lạc bộ, các nhà hát, các lễ hội mà đã đến với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Sĩ , Hồng Kông, Đài Loan, Pháp, Bỉ … vừa để phục vụ cho đời sống, vừa để phục vụ phát triển du lịch, giao lưu văn hóa của đất nước.

1.2.4.2. Thời gian biểu diễn trong Ca Huế Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Đêm đêm, trên những chiếc thuyền rồng ngược xuôi dòng Hương ngân vang tiếng Ca Huế với những điệu Nam Ai, Nam Bình, Phú Lục nhẹ nhàng, thanh tao. Nghe Ca Huế là không chỉ nghe lời ca tiếng hát mà còn thưởng thức cảnh đẹp Huế về đêm lung linh huyền ảo những ngọn đen hoa đăng. Đây là nét riêng mà chỉ Huế mới có.

Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi về không gian biểu diễn mà thời gian biểu diễn của Ca Huế cũng có sự thay đổi. Thời gian biểu diễn chính của Ca Huế là buổi tối và ban đêm, tuy nhiên hiện nay thời gian biểu diễn Ca Huế có thể vào ban ngày, tùy thuộc vào yêu cầu của du khách hay kịch bản của nhà tổ chức.

Thời lượng của một buổi Ca Huế, một bài Ca Huế cũng có sự thay đổi phụ thuộc vào thời gian dài ngắn của show diễn.

Tuy nhiên, thứ tự trình diễn trong Ca Huế không hề thay đổi. Khi ca Ca Huế, các nghệ nhân không ca ngay vào bài bản mà bắt đầu bằng một điệu hò, một bài lý dân gian rồi nhẹ nhàng chuyển qua bản Ca Huế. Sau phần đầu của một đêm Ca Huế với tiết tấu âm nhạc rộn ràng, vui tươi của điệu Bắc, người ta thường hát những bài bản trang trọng, uy nghiêm như Long Ngâm, Tứ Ðại Cảnh… Ðêm càng về khuya, không gian càng yên tĩnh là lúc những điệu Nam Ai, Nam Bình, tương tư khúc… cất lên với nỗi buồn thương nhưng cũng rất gợi tình. Chính thứ tự trình diễn này trong Ca Huế mà thời gian của một buổi Ca Huế có thể được cố định hoặc thêm bớt nhờ thêm vào hoặc bỏ bớt các bài bản trong từng phần.

1.3. Giá trị của nghệ thuật Ca Huế Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

1.3.1. Giá trị lịch sử

Xứ Huế với phong cảnh hữu tình, non xanh nước biếc đã được chọn là kinh đô của Việt Nam suốt hơn 150 nǎm. Bên cạnh những kiến trúc, đền đài, lǎng tẩm độc đáo, hiển hiện hài hòa giữa cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng của sông Hương, núi Ngự, xứ Huế còn lưu lại một loại hình ca nhạc đặc trưng cho vùng đất cố đô này. Đó là Ca Huế. Ca nhạc Huế có một lịch sử lâu đời và tất cả các bài bản Ca Huế đã ra đời trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động và có thể nói nội dung của Ca Huế đã góp phần phản ánh từng thời kỳ lịch sử của dân tộc. Đánh giá về ca Huế, nhạc sỹ Lưu Hữu Phước viện trưởng viện Âm nhạc đã khẳng định: “Nghệ thuật ca nhạc Huế là một cột mốc lớn đánh dấu một giai đoạn phát triển của văn hóa dân tộc”[33]

Những biến chuyển của lịch sử đã tạo nên một luồng di dân về miền Nam từ thế kỷ 11 cho đến các chúa Nguyễn thế kỷ thứ 16. Điều đó đã ảnh hưởng đến tâm lý của những người ly hương cũng như những người thích phiêu lưu và những người nông dân. Vì vậy nền Văn học nghệ thuật thời kỳ này đã phản ảnh một phần của lịch sử. Tầng lớp nhân dân bị cướp đất, bị buộc tham gia vào những cuộc chiến bất tận, các tâm trạng chung là nỗi sầu nhớ nhà, nhớ quê hương của những chiến sĩ và nỗi cô đơn đau khổ vì chia ly, trông đợi của phụ nữ… Mặt khác, sự giao thoa của các nền văn hóa Việt – Chàm, Việt – Ấn, Việt – Hoa đã làm cho Ca Huế thêm phong phú. Nội dung của Ca Huế diễn tả tâm trạng của những ngày đầu tiên khi tiếp cận với vùng đất Thuận Hóa, cho nên các điệu nhạc của hệ thống Ca Huế đều âu sầu, bi ai, âu sầu vì những cái đã mất đi, không biết cái gì đến, bên cạnh đó lại có những bài bản vui, sôi động diễn tả tâm trạng mong đợi vào tương lai…

Tóm lại, Ca Huế là loại ca nhạc cổ điển, nó có cơ hội hình thành ở một vùng đất có điều kiện kinh tế văn hóa phát triển, giàu có về thơ ca, đầy tính chất trữ tình. Xét về những điều kiện ấy, Thuận Hóa quả là địa điểm thích hợp nhất hội đủ các yếu tố để ca Huế sống được và phát triển.

1.3.2. Giá trị văn hóa nghệ thuật

Đánh giá về Ca Huế, nhạc sỹ Lưu Hữu Phước viện trưởng viện Âm nhạc đã khẳng định: “Trong toàn bộ vốn ca nhạc cổ truyền của dân tộc, một kho tàng quý báu vô giá là nền nghệ thuật ca nhạc Huế của chúng ta”[33].

Cùng với ca trù miền Bắc, đờn ca tài tử Nam Bộ, Ca Huế là một trong ba thể loại nhạc thính phòng đạt trình độ phát triển bậc nhất trong kho tàng âm nhạc truyền thống Việt Nam, đứng thứ hai về bề dày lịch sử, và là thể loại duy nhất thực sự ra đời trong chốn cung đình. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Sau đó, với quá trình bình dân hóa dòng nhạc cung đình, ca nhạc Huế đã được hồi sinh bằng sức sống của ca hát dân gian, không những trở thành nơi hội tụ những tinh hoa của dòng nhạc bác học mà còn bảo tồn phát triển dòng nhạc dân gian Việt Nam. Nhiều người thống nhất với ý kiến cho rằng Ca Huế là đỉnh cao lối diễn xướng đơn lẻ của ca hát truyền thống của dân tộc. Âm nhạc của nó thu nạp tinh hoa của nhạc cung đình, nhạc cửa quyền, và tinh hoa của các làn điệu hò, lý ở miền Bắc và miền Trung. Và khi phát triển thịnh đạt, Ca Huế đã tác động trở lại trở thành một thành phần tương hợp trong hầu hết dân ca vùng Trung du và đồng bằng Bắc bộ. Chẳng hạn: hơi Huế, giọng Lý, giọng Kinh ở khối giọng Vặt, giọng Ngoại trong hát Quan họ, hát Xoan, hát Ghẹo, hát Chèo… Hướng phát triển về phía Nam của Ca Huế thì rõ ràng đã sản sinh ra lối nhạc tài tử như nhà nghiên cứu GS. Trần Văn Khê nhận xét: “lối “nhạc tài tử” trong Nam là con đẻ của lối “Ca Huế” miền Trung”[34].

Lê Văn Hảo đã nhận định, với một hệ thống bài bản phong phú, cấu trúc phức tạp nhưng chặt chẽ, hoàn chỉnh; những sắc thái tình cảm tinh tế cùng với những đòi hỏi khá phức tạp đối với ca công về cách hát, đối với nhạc công về kỹ thuật diễn tấu nhạc cụ, nên ca Huế thuộc về phạm trù âm nhạc cổ điển, bác học[12]. Ca nhạc Huế là một trong những thể loại nhạc cổ truyền còn chứa dựng những quan niệm nhạc lý rõ ràng, rành mạch nhất. Nếu định nghĩa nhạc thính phòng là loại nhạc viết cho một số ít nhạc khí, một số ít ca công và chỉ dành để biểu diễn cho một số người nghe hạn chế trong một căn phòng thì ca Huế nặng về tính chất thính phòng, tính chất tiêu khiển trong những lúc trà dư tửu hậu. Nhưng có trường hợp một số bài ca Huế tham gia vào phường bát âm, trình diễn trong các đám rước, các cuộc tế lễ. Một số bài ca Huế lại có mặt trong các dịp sinh hoạt công cộng của triều đình nhà Nguyễn trước Cách mạng tháng Tám với mười bài Ngự. Như thế có thể nói ca Huế không đơn thuần và nhất thiết là nhạc thính phòng.

Từ một số nhận xét trên, có thể nhận định: Do tính chất và đặc điểm của nó, ca nhạc Huế thuộc loại nhạc cổ điển do nhân dân sáng tạo ra. Tính cổ điển của Ca Huế thể hiện ở chỗ :

Có những hệ thống bài bản điêu luyện, hoàn chỉnh và mẫu mực, có cấu trúc rất chặt chẽ, nghiêm ngặt và tính khoa học cao. Ví dụ mỗi bài bản ca nhạc Huế thường được chia thành nhiều đoạn hay sáp, có khi sáp dưới lập lại giống sáp trên, hoặc biến thể đi ít nhiều, chẳng khác chi các hình thức đoạn đổi (couplets), đoạn điệp (refrains), chủ đề và biên tấu (thèmes ét variations) trong nhạc cổ điển phương Tây.

Một bài bản ca nhạc Huế, do những cách tấu nhạc và cách ca khác nhau, có thể sinh ra nhiều dị bản: như phú lục đường, phú lục chậm, phú lục nhanh, nam bình thường, nam bình dựng, nam ai cổ, nam ai nay, cổ bản thường, cổ bản xuân, cổ bản dựng, cổ bản xắp. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Ca nhạc Huế có hai điệu chính là những điệu nam và những điệu bắc (còn gọi là điệu khách), những điệu này lại gồm nhiều hơi (có khi còn gọi là giọng). Cái hơi đó, theo cách gọi của các nghệ nhân, gồm có: Hơi ai, Hơi oán, Hơi xuân, Hơi dựng, Hơi quảng (ví dụ những bài bản bị ảnh hưởng ít nhiều bởi âm nhạc miền Nam Trung Quốc), Hơi đảo (những bài điệu Bắc với nhiều đoạn chuyển hệ) có người gọi hơi đảo là nhịp đảo, Hơi nhạc (những bài bản mang phong cách trang trọng như bài Phú lục), Hơi thiền (những bài bản chịu nhiều ảnh hưởng các bài bản tán và tụng trong âm nhạc Phật giáo). Mỗi hơi nhạc đó nói lên một sắc thái tình cảm, một trạng thái tâm hồn, một phong cách, một nhạc cảnh khác nhau.

  1. Trong ca nhạc Huế có nhiều loại nhịp như: nhịp chính diện, nhịp nội, nhịp ngoại, nhịp chói; nhiều chỗ đảo phách (syncopes) – chuyển nhịp, chuyển điệu, chuyển hệ (métaboles).
  2. Trong ca nhạc Huế có nhiều loại nhịp độ (mouvements) khác nhau như: hoãn điệu (lento); bình điệu (moderato); ấp điệu (presto).
  3. Trong ca nhạc Huế có nhiều kỹ thuật đàn điêu luyện như: nhấn, vuốt, rung…

Với những đặc điểm trên, có thể nói đây là một loại nhạc cổ điển điêu luyện, tinh vi và phức tạp, nhưng do nhân dân sáng tạo ra vì nó phản ánh nguyện vọng, ước mơ, tư tưởng và tình cảm của nhân dân. Không giống như những bộ môn nghệ thuật cổ truyền khác, Ca Huế mang sắc thái địa phương rõ nét bởi nó gắn chặt với đặc điểm ngữ âm ngữ điệu của giọng nói xứ Huế, hoặc nói một cách khác mang tính hệ quả là do mối quan hệ gắn bó với nền âm nhạc dân gian dân ca xứ Huế. Đây là một đặc điểm trong tiến trình phát triển của Ca Huế và cũng là một đặc điểm của nền âm nhạc cổ truyền xứ Huế; nơi mà hai thành phần âm nhạc: chuyên nghiệp bác học (nhã nhạc Cung đình, ca Huế), thành phần dân gian (dân ca: hò, lý…) thường xuyên tác động qua lại, gắn bó, thâm nhập, thúc đẩy lẫn nhau với hiện tượng dân gian hóa ở âm nhạc bác học và bác học hóa ở âm nhạc dân gian xảy ra liên tục trong quá trình phát triển.

Tóm lại, nền nghệ thuật ca Huế ra đời từ hai dòng âm nhạc dân gian và bác học, vừa mang yếu tố chủ quan, vừa mang yếu tố khách quan, qua tiến trình đi lên của lịch sử, nên nghệ thuật ca Huế cũng không ngừng biến đổi, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu người nghe, người học, người dạy.

Bằng phương pháp sáng tác diễn xướng, ca Huế đã đến với chúng ta với những nhạc khúc hết sức trữ tình và sâu lắng, khiến cho những ai ở Huế cũng cảm thông thương Huế và xa Huế cũng nhớ Huế, khác với nền âm nhạc mang tính cổ truyền của các vùng khác, gồm những điệu hát đơn giản, có thể không cần các nhạc cụ kèm theo, nét nổi bật của ca Huế là trữ tình, sâu lắng, tinh tế và đa dạng. Và đó cũng là những giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc của bộ môn nghệ thuật Ca Huế.

Tiểu kết chương 1 Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

Trong chương 1, đề tài đã đi sâu nghiên cứu nhằm đem lại một cái nhìn tổng quan về nghệ thuật ca Huế của Việt Nam, từ lịch sử hình thành và phát triển đến những đặc trưng về nghệ thuật, cũng như những giá trị nổi bật của nó…Tất cả đều nhằm khẳng định rằng: ca Huế là một di sản văn hóa quý báu mà ông cha ta đã để lại và cần được các thế hệ mai sau gìn giữ, bảo tồn và phát huy.

Cũng chính từ việc tìm hiểu lịch sử và các giá trị nguyên gốc của ca Huế như vậy mà chúng ta nhận thấy, ca Huế là một nguồn tài nguyên du lịch nhân văn vô cùng quý giá, và việc gìn giữ, khai thác hiệu quả nghệ thuật ca Huế trong phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển du lịch là một vấn đề cấp thiết không chỉ đối với ngành du lịch Huế nói riêng mà còn với ngành du lịch Việt Nam nói chung. Khóa luận: Hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Thực trạng khai thác nghệ thuật ca huế trong du lịch

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993