Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Khả năng vận dụng Sáng kiến đối tác Chính phủ mở tại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Việt Nam trong bối cảnh OGP

2.2.1.Minh bạch tài khóa (Fiscal Transparency)

Công khai minh bạch tài khóa là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả các chính sách tài khóa cũng như việc huy động, quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước. Thông qua công khai minh bạch tài khóa sẽ không chỉ nâng cao trách nhiệm của Chính phủ trước các lựa chọn chính sách tài khóa, trong quản lý và điều hành ngân sách, mà còn tạo điều kiện cho công tác giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, các cơ quan chính phủ, các tổ chức xã hội, và người dân. Qua đó, thấy được những rủi ro tiềm ẩn đối với triển vọng tài khóa để có các đề xuất chính sách ứng phó, các phương án quản lý tài chính ngân sách phù hợp và hiệu quả. Công khai minh bạch tài khóa còn đòi hỏi phải nâng cao trách nhiệm giải trình, giảm thiểu tình trạng phân bổ và sử dụng ngân sách lãng phí, chống tham nhũng…

OGP yêu cầu tiêu chuẩn minh bạch tài khóa tại hai khía cạnh, đó là quốc gia phải công khai hai tài liệu liên quan là Dự toán ngân sách của Chính phủ ( Executive’s Budge Proposal) và Báo cáo kiểm toán của nhà nước ( Audit Report) với mục đích tăng cường trách nhiệm giải trình của nhà nước trong hoạt động quản lý ngân sách. Thật không may, Việt Nam không đạt được điểm nào ở tiêu chuẩn này.

Báo cáo về chỉ số công khai ngân sách ( OBI) Việt Nam năm 2017 chỉ đạt 15/100 điểm về mức độ minh bạch, thuộc vào nhóm ít công khai nhất.

Theo Tổ chức Đối tác Ngân sách Quốc tế (IBP), có 5 nguyên nhân chính:

  • Thứ nhất, chưa công bố cho công chúng Dự thảo dự toán ngân sách trình Quốc hội đúng thời gian của OBI.
  • Thứ hai, chưa công bố cho công chúng Báo cáo kiểm toán đúng thời gian yêu cầu của OBI.
  • Thứ ba, thông tin trong báo cáo thực hiện ngân sách tháng/quý chưa đảm bảo đủ như các tiêu chí về nội dung của báo cáo thực hiện ngân sách.
  • Thứ tư, không công bố Báo cáo ngân sách dành cho công dân đúng thời gian yêu cầu trên cổng thông tin (đồng thời với thời hạn công bố Dự toán ngân sách 2017). Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.
  • Thứ năm, chưa công bố Báo cáo thực hiện ngân sách giữa năm tài chính đúng hạn. Nội dung đưa ra sau đó không được IBP coi là công khai vì chưa đúng thông lệ quốc tế về báo cáo giữa kỳ.

Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội thông qua năm 2015 chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2017, trong đó bổ sung quy định yêu cầu Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp công khai bản dự thảo dự toán ngân sách trước trước khi Quốc hội và Hội đồng nhân dân phê duyệt. Đây là tài liệu rất chủ chốt trong 8 tài liệu ngân sách cần phải công bố, theo quy định tại Điều 15, Luật Ngân sách nhà nước 2015.

Hình 3. Chỉ số đánh giá 8 loại tài liệu công bố OBI 2017 của Việt Nam

Nếu thực hiện được đúng theo tinh thần của Luật Ngân sách nhà nước 2015, nhất là quy định trên sẽ là bước tiến rất lớn của Việt Nam để tiệm cận ngày càng gần hơn với những tiêu chuẩn, tiêu chí quốc tế của các tổ chức tài chính lớn trên thế giới như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức Phát triển và Hợp tác Kinh tế (OECD), Tổ chức Kiểm toán Quốc tế (INTOSAI)… Cùng với đó, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 đã bổ sung quy định Ngân sách nhà nước được giám sát bởi cộng đồng và giao cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp chủ trì, phối hợp với thành viên của mặt trận để tổ chức giám sát Ngân sách nhà nước, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm chế độ quản lý tài chính.( Điều 16).

Đối tác Ngân sách Quốc tế (International Budget Partnership) coi báo cáo kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nước của Việt Nam là công bố chậm so với thời hạn sau 18 tháng kể từ khi năm ngân sách kết thúc. Vì vậy, cùng với việc không công khai dự toán ngân sách nhà nước, OGP chấm 0 điểm cho tiêu chí minh bạch ngân sách của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu báo cáo này được công bố trong vòng 18 tháng kể từ khi năm ngân sách kết thúc, Việt Nam sẽ được thêm 2 điểm trong OGP. Việc này là khả thi vì đó cũng là thời hạn mà Luật Ngân sách nhà nước 2015 quy định. Cụ thể, Khoản 7, Điều 70 của Luật ghi rõ: “Quốc hội xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước chậm nhất là 18 tháng sau khi kết thúc năm ngân sách.” Đồng thời, Khoản 1, Điều 71 quy định: “Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước trước khi trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn.

Quá trình phân cấp thẩm quyền chi tiêu diễn ra quá nhanh. Việc cung cấp các dịch vụ công trực tiếp cho nhân dân chủ yếu là trách nhiệm của địa phương, nhưng các chính sách về dịch vụ công, như giáo dục và y tế lại được hoạch định bởi các cơ quan quản lý ngành ở Trung ương. Phần nào sẽ hạn chế tính minh bạch, trách nhiệm giải trình ở cấp ngành và địa phương.

Sở dĩ việc công khai, minh bạch ngân sách càng trở nên cấp thiết và cần thực hiện nghiêm theo quy định, bởi trong chi tiêu ngân sách ở đâu đó vẫn còn có hiện tượng chi sai quy định, vượt tiêu chuẩn, định mức. Các cấp quản lý ngân sách đều phải chịu trách nhiệm với quyết định của mình, trên cơ sở giám sát của cộng đồng. việc công khai ngân sách ở một số địa phương chưa được thực hiện nghiêm, có nơi không công khai, hoặc có công khai nhưng chậm công bố thông tin. Đây chính là kết quả được chỉ ra bởi Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Phát triển và Hợp tác kinh tế và Tổ chức Kiểm toán quốc tế. Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật Ngân sách nhà nước ở một số địa phương còn lỏng lẻo. Do đó, trong bối cảnh ngân sách còn khó khăn như hiện nay thì việc thắt chặt chi tiêu, tăng cường kỷ cương cũng như công khai, minh bạch ngân sách cần phải đặt lên hàng đầu.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.2.2. Sự tham gia của người dân ( Citizen Engagement) Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Theo Tuyên ngôn phổ quát về dân chủ, do Liên minh nghị viện thế giới thông qua năm 1997, dân chủ vừa là một lý tưởng, vừa là một phương thức quản trị. Dân chủ bảo vệ phẩm giá và quyền cơ bản của cá nhân, giúp đạt được công bằng xã hội, tăng cường sự gắn kết của xã hội. Nó cũng là hệ thống chính trị duy nhất có khả năng tự chỉnh sửa những sai lầm. Trong các cấu thành của dân chủ, quyền tham gia có vai trò thiết yếu bởi sự tham gia của người dân vào các hoạt động của nhà nước chính là sự biện minh cho sự tồn tại của chính nhà nước đó. Việc thiếu hụt tiếng nói, sự đóng góp của người dân làm cho nhà nước mất tính chính đáng, chính danh.

Sáng kiến Đối tác Chính phủ mở mang đến một tầm nhìn chiến lược mới nhưng cũng đòi hỏi về sự tham gia của người dân. Tổng điểm tiêu chuẩn cho sự tham gia của người dân là 4, dựa trên điểm số được đánh giá ở chỉ số dân chủ của EIU chủ yếu tập trung vào các nhóm tiêu chí : Tiến trình bầu cử và sự đa dạng; các tự do dân sự; hoạt động điều hành của nhà nước; sự tham gia vào hoạt động chính trị của người dân; văn hóa chính trị. Ở lần đánh giá gần nhất vào năm 2017, Việt Nam đạt chỉ số dân chủ 3.08 trong Chỉ số dân chủ của EIU tương đương với 2 điểm trên tổng 4 điểm cho tiêu chí “ sự tham gia của người dân”

Hình 3.Bảng chỉ số dân chủ của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2017

  • Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện

Nền kinh tế thị trường, các phương tiện truyền thông hiện đại với những luồng thông tin đa chiều, thúc đẩy các nhu cầu và năng lực tham gia chính trị của người dân, đồng thời nó cũng sẽ tạo áp lực lớn hơn với bộ máy nhà nước trong vấn đề công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.  Các nguyên tắc bầu cử được Hiến pháp 2013 xác định bao gồm nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín ( Điều 7). Hiến pháp bảo đảm quyền của công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân ( Điều 27). Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được thông qua năm 2015 thay thế cho Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001 và 2010) và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 2003( sửa đổi, bổ sung 2010), trong đó có một số quy định mới liên quan đến việc phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu; Hội đồng bầu cử quốc gia và tổ chức phụ trách bầu cử tại địa phương; ứng cử, hiệp thương, giới thiệu người ứng cử; tuyên truyền; vận động bầu cử; bỏ phiếu, xác định kết quả bầu cử.. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Những quy định nêu trên góp phần thúc đẩy quyền tham gia của nhân dân, song khung pháp luật về bầu cử vẫn còn biểu hiện của tình trạng dân chủ hình thức. Bầu cử là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ của một quốc gia, nhiều khía cạnh của bầu cử bẫn không được người dân và nhà nước nhận thức đầy đủ. Tại cuộc bầu cử gần đây nhất ( bầu cử đại biêu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021), ghi nhận có 154 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội. Luật bầu cử không đưa ra khái niệm “ tự ứng cử” và “ người tự ứng cử” nhưng theo quy định tại Luật này có thể hiểu người tự ứng cử là những người không được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương hoặc địa phương giới thiệu ra ứng cử. Việc tự ứng cử là thực thi một cách thực chất quyền ứng cử của công dân. Tuy nhiên, nói đến ứng cử gần dây, các cơ quan nhà nước chủ yếu quan tâm tới những người được cơ quan, tổ chức đề cử, giới thiệu. Nhưng kể cả đối với những người này, sự đề cử, giới thiệu chỉ có hiệu lực khi có sự mong muốn của chín họ ra ứng cử. Mặc dù là tự ứng cử, nhưng tên của những người tự ứng cử ( ứng cử viên độc lập) cũng phải đưa vào danh sách hiệp thương do hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập và chủ trì. Do nhiều nguyên nhân, trong số 154 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội ( được lập danh sách sau hội nghị hiệp thương lần 2) chỉ có 11 người qua được vòng hiệp thương thứ ba để có tên trong danh sách bầu cử đại biểu Quốc hội. Kết quả cuối cùng có 2 người tự ứng cử đạt số phiếu trở thành đại biểu Quốc hội khóa XIV.

Điểm hạn chế của hệ thống bầu cử đó là việc quá trình hiệp thương trở thành quá trình” tiền bỏ phiếu”, điều này là trái với nguyên tắc bầu cử trực tiếp quy địn trong Hiến pháp. Nhìn về quy chế của hiệp thương, dường như từ Đổi mới 1986 không có quá nhiều sự thay đổi từ quy chế tiến hành và thủ tục hiệp trương, người ta dùng hiệp thương để thay cho tranh cử. Bên cạnh đó cũng nhiều vấn đề như: thông tin mà cử tri có được về các ứng cử viên tại đơn vi bầu cử của mình chưa đầy đủ; thủ tục đối với những công dân ứng cử tự do chưa công bằng bình đẳng; mức độ cạnh tranh giữa các ứng viên trong danh sách chính thức thấp. Dân chủ đại diện nhưng lại phần nào chưa đáp ứng được “ đại diện” của mình bởi rõ ràng thiếu đi sự tương tác hai chiều giữa đại biểu và các cử tri. Chúng ta coi việc bầu ra đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân như là vấn đề đương nhiên phải có mà không coi đó phải là chức năng của những cơ quan này. Về bãi nhiệm đại biểu, Khoản 2 Điều 7 Hiến pháp 2013 có quy định “ Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”, tuy nhiên trên thực tế vẫn chưa có cơ chế nào để để cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân.

Về hình thức dân chủ trực tiếp, Việt Nam thông qua Luật trưng cầu ý dân 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016, theo đó Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có thẩm quyền đề nghị trưng cầu ý dân ( Điều 14). Quyết định trưng cầu ý dân sẽ được đưa vào chương tình làm việc của Quốc hội tại kỳ họp gần nhất để xem xét và quy định. Việc thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở cũng mang lại nhiều kết quả tốt, phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực ở cơ sở. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được thực hiện đồng bộ, cụ thể hơn và đạt hiệu quả.

  • Các quyền dân sự của công dân Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Luật tiếp cận thông tin năm 2016 là một bước tiến trong việc bảo đảm tính dân chủ. Tuy nhiên, đạo luật này vẫn còn hạn chế trong việc xác định phạm vi quyền tiếp cận của người nước ngoài và trẻ em; chưa có quy định cụ thể về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của những người không biết đọc hay những người đang bị tước một số quyền tự do. Việc yêu cầu thông tin đòi hỏi các thủ tục phức tạp :

Đối với thông tin phức tạp, không có sẵn mà cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc thông tin cần thiết phải có ý kiến của cơ quan, tổ chức, đơn vị khác thì chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải thông báo cho người yêu cầu đến trụ sở để đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu hoặc nhận bản sao, bản chụp tài liệu hoặc có văn bản thông báo về việc từ chối cung cấp thông tin.

Trường hợp cơ quan được yêu cầu cần thêm thời gian để xem xét, tìm kiếm, tập hợp, sao chép, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn nhưng tối đa không quá 10 ngày làm việc và phải có văn bản thông báo về việc gia hạn trong thời hạn cung cấp thông tin.

Đồng thời, lần đầu tiên ở Việt Nam, một chế tài hình sự được áp dụng cho tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin được quy định trong Bộ Luật Hình sự 2015 (đang tạm hoãn hiệu lực thực thi), theo đó: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Tuy nhiên, Luật Tiếp cận thông tin 2016 cũng quy định những thông tin thuộc bí mật nhà nước là những thông tin công dân không được tiếp cận (Điều 6). Như vậy, mức độ “mở” của Luật Tiếp cận thông tin thực chất phụ thuộc vào nội dung của Luật về Bí mật nhà nước. Hiện tại, quy định về việc xây dựng danh mục bí mật nhà nước mà nằm gọn trong khối hành pháp, cụ thể là sự thống nhất giữa người đứng đầu các cơ quan trung ương với Bộ trưởng Bộ Công an, đang tạo ra trở ngại lớn với quyền tiếp cận thông tin của người dân. Nếu như quy định này không được sửa đổi trong Luật về Bí mật nhà nước, khả năng nó sẽ là lực cản chính trong việc thực hiện ba tiêu chí đầu tiên của OGP, đó là Tiếp cận thông tin, Minh bạch ngân sách và Công khai tài sản

Quyền tự do ngôn luận hiện được điều chinh bởi Luật Báo chí, Luật xuất bản gần đây nhất là Luật an ninh mạng được thông qua năm 2018. Điểm mới của Luật Báo chí 2016 đó là đã cho phép các tổ chức tôn giáo được xuất bản một tờ báo và các trường đại học và bệnh viên tư nhân ở cấp tỉnh có thể thành lập tạp chí chuyên ngành ( Điều 14). Việt Nam trong chừng mực nào đó đã từng có quy định kiểm soát internet bằng một văn bản pháp luật được thông qua hồi 2015, Luật An toàn thông tin mạng. Nhưng đã có những lời kêu gọi trong chính phủ, theo đó muốn có luật mới, trực tiếp kiểm soát an ninh mạng, sau khi nước này bị xếp thứ 101 trên tổng số 195 quốc gia trong chỉ số an ninh mạng toàn cầu 2017 của Liên hiệp quốc công bố. Có nhiều ý kiến trái chiều tại thời điểm Dự thảo luật an ninh mạng được công bố, nhiều người thì coi đây là sự bóp nghẹt tự do ngôn luận, nhiều người thì lại cho rằng không phải vậy. Rõ ràng là, khi thời điểm cách mạng công nghệ 4.0 tới ngoài không gian cuộc sống thực tế, chúng ta đang phát triển tới một không gian “ ảo” mà Việt Nam chỉ có những quy định nằm rải rác các nơi, điều cần thiết là tập trung lại luật hóa các quy định đó để nó trở thành khung pháp luật chung thì Luật an ninh mạng là điều tất yếu của quá trình này.

Quyền tự do hiệp hội đã được hiến định nhưng chưa có luật thực thi. Việc xây dựng Luật về Hội để thay thế Nghị định 45/2010/NĐ-CP về vấn đề này dù đã được tiến hành nhưng tới thới điểm hiện tại vẫn chưa hoàn thành, mà như thế nó lại tạo thành rào cản cực lớn cho hoạt động của các tổ chức, hiệp hội trong thực tế. Tương tự, quyền tự do hội họp, biểu tình cũng chưa được luật cụ thể hóa; biểu tình ở Việt Nam vẫn mang hình ảnh của một hành động mang tính tiêu cực, việc thực hiện những quyền này gặp trở ngại rất lớn. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực thi sự tham gia của người dân trong thực tế.

2.2.3. Công khai tài sản ( Public Officials Asset Disclosure)

Mỗi quốc gia – bao gồm cả chính phủ và xã hội dân sự của nó – và cộng đồng quốc tế nên xác định được những vấn đề cụ thể mà mình cần giải quyết thông qua một hệ thống kê khai tài sản. Các quốc gia cần tổ chức thảo luận một cách toàn diện và có sự tham gia của mọi thành phần trước khi đưa ra hoặc sửa đổi cơ bản hệ thống kê khai tài sản đối với công chức, nhằm xác định những mục đích mà mình muốn đạt được. Những mục đích chính của hệ thống kê khai tài sản có thể bao gồm:

  • Nâng cao tính minh bạch và niềm tin của người dân vào nền hành chính công, thông qua việc công khai thông tin về tài sản của các chính trị gia và công chức mà trong đó thể hiện một điều rằng họ không có gì để che giấu;
  • Giúp những người đứng đầu của các cơ quan công quyền ngăn ngừa xung đột lợi ích giữa các nhân viên của mình và giải quyết những tình huống như vậy khi chúng phát sinh, nhằm mục đích tăng cường liêm chính trong tổ chức;
  • Giám sát sự biến động về tài sản của các chính trị gia và công chức, nhằm mục đích ngăn chặn họ thực hiện các hành vi sai trái và bảo vệ họ khỏi việc bị tố cáo sai sự thật, và giúp làm rõ phạm vi đầy đủ của hành vi làm giàu bất hợp pháp hoặc các hành vi phi pháp khác thông qua việc cung cấp chứng cứ bổ sung.

Điều 34 Luật phòng, chống tham nhũng 2015 đưa ra 4 nhóm đối tượng phải công khai tài sản bao gồm: Cán bộ, công chức ; Sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp; Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Đây là nhóm các đối tượng cần được kiểm soát mạnh mẽ, tuy nhiên, thực tế trong những năm gần đây cho thấy, quy định này vẫn chưa đủ để xác định được đối tượng trung tâm của tham nhũng. Bởi lẽ: Một là, nhóm đối tượng này rất rộng và chưa có cơ chế để xác định hành vi tham nhũng nếu việc tham nhũng diễn ra thường xuyên nhưng không lớn, không gây ra biến động đột xuất về tài sản thì rất khó để xác định; hai là, đối với nhóm đối tượng là những cán bộ giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp thì vấn đề này lại càng vướng mắc hơn khi tài sản kê khai hàng năm của họ có thể kiểm soát được nhưng nếu họ có hành vi tham nhũng và đưa tài sản tham nhũng cho người thân đứng tên thì sẽ rất khó kiểm soát; ba là, tham nhũng là vấn đề đa dạng, có rất nhiều cách thức để tham nhũng, nạn tham nhũng vặt rất phổ biến, đó là những khoản bôi trơn trong các giao dịch với cán bộ nhà nước trong các lĩnh vực dịch vụ công như y tế, giáo dục, đất đai, giao thông, thuế, hải quan, xây dựng…

Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transperancy International) công bố Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2018, xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và chuyên gia về tham nhũng trong khu vực công. Năm nay, Việt Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180 toàn cầu, giảm nhẹ 2 điểm so với năm 2017. Mặc dù, đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế về Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam “chỉ để tham khảo là chính” bởi kết quả đó không phản ánh một cách toàn diện được tình hình tham nhũng tại Việt Nam. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Hình 5. Chỉ số cảm nhận tham nhũng Việt Nam năm 2018 Theo TI

Trong báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ trình Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 4 có kết luận về việc công khai, minh bạch bản kê khai tài sản, thu nhập (TS,TN) như sau: “Tình trạng lạm dụng bảo mật thông tin, thiếu công khai, minh bạch với nhân dân và trong nội bộ vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Trong một số cơ quan, đơn vị, các quy định về dân chủ, giám sát chưa được quan tâm đúng mức, có nơi thậm chí cản trở, vô hiệu hóa, dẫn đến tình trạng vi phạm kéo dài, sai phạm nghiêm trọng nhưng không được kịp thời phát hiện, xử lý”.  Năm 2018, số người đã kê khai tài sản, thu nhập là 1.136.902 người, đạt tỷ lệ 99,8% số người phải kê khai. Số bản kê khai đã công khai là 1.134.685 bản. Tuy nhiên, mới chỉ xác minh đối với 44 người/1.136.902 người đã kê khai. Bên cạnh đó, mặc dù Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu không được tham gia thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp, không được để người thân thích kinh doanh trong các ngành nghề thuộc lĩnh vực mình trực tiếp phụ trách… nhưng qua giám sát, phản ánh của dư luận, cử tri và báo chí cho thấy, việc thực hiện các quy định này còn chưa nghiêm, có biểu hiện “nhóm lợi ích”, móc ngoặc giữa khu vực nhà nước và doanh nghiệp tạo “sân sau”, “công ty gia đình”, dùng ảnh hưởng của mình để đấu thầu cho các dự án, thâu tóm đất công, cho vay sai nguyên tắc, rút tiền của nhà nước…

Nguyên nhân chủ yếu được nhận định xuất phát từ quy định về công khai, minh bạch tài sản còn thiếu bao quát, chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập; còn vướng mắc về trình tự, thủ tục công khai bản kê khai, giải trình, xác minh tài sản, thu nhập khi có yêu cầu; chưa quy định rõ việc sử dụng bản kê khai tài sản vào mục đích phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng. Trong khi hầu hết các vụ án được phát hiện và đưa ra xét xử đều liên quan đến những đối tượng giữ các chức vụ lớn trong cơ quan nhà nước hay doanh nghiệp nhà nước thì các hành vi tham nhũng nhỏ lẻ như lót tay, nhũng nhiễu hoàn toàn vắng bóng và làm mai một lòng tin người dân vào chính quyền.

Theo nhiều khảo sát xã hội học cũng như nghiên cứu, các quốc gia Scăng-đi-na-vi, bao gồm cả Ai-xơ-len, nằm trong số những nước có tỉ lệ báo cáo/cảm nhận về tham nhũng thấp nhất. Tính minh bạch và niềm tin của người dân đối với dịch vụ công nằm ở mức cao, và các hệ thống kê khai tài sản phụ thuộc vào những giá trị và văn hóa đã được hình thành. Tất cả những công chức ở cấp cao nhất do bầu cử hoặc làm việc trong các cơ quan công vụ ở tất cả những nước này đều có nghĩa vụ phải kê khai theo một mẫu nào đó (Ai-xơ-len là nước cuối cùng quy định về nghĩa vụ này của các bộ trưởng và nghị sĩ vào mùa xuân năm 2009 (OECD, 2009a), và những người này sẽ phải kê khai khi bắt đầu làm việc trong khu vực công và bất kỳ khi nào có sự thay đổi về vị trí. Trọng tâm chính ở đây được đặt vào trách nhiệm giải trình của những cán bộ được bầu trong ngành lập pháp và những công chức được bổ nhiệm, điều này phản ánh những lo ngại về vấn đề đạo đức chính trị được đặt ra ở những quốc gia này. Thông tin công khai về tài sản của đa số các cán bộ được bầu và những công chức cấp cao được công bố công khai qua hình thức phổ biến nhất là trên Internet. Những thông tin thu thập được thông qua các chính sách về công khai ở những tổ chức được lựa chọn – những tổ chức được xác định là dễ xảy ra tham nhũng nhất – được sử dụng trong phạm vi nội bộ và không được công bố công khai. Cách tiếp cận như thế này có thể hiệu quả ở những quốc gia mà mong muốn hình thành được một nền văn hóa liêm chính, một lịch sử lâu dài về tự do tiếp cận thông tin và lòng tin, sự tín nhiệm của người dân đối với dịch vụ công đạt đến mức cao. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

2.2.4. Tiếp cận thông tin (Acess to information)

Công khai thông tin làm gia tăng mạnh mẽ niềm tin của người dân vào các cơ quan công quyền, còn che giấu sẽ tạo ra hiệu ứng ngược lại. Niềm tin của nhân dân là yếu tố then chốt tạo ra sự ổn định chính trị, nên công khai thông tin cần phải được coi là một ưu tiên của các cơ quan công quyền. Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân còn chưa đạt được như quy định của pháp luật, việc công bố, công khai thông tin còn chậm, mang tính hình thức, thiếu hiệu quả. Trong nhiều trường hợp, việc khai thác, tìm kiếm thông tin từ các cơ quan nhà nước thường bị gây phiền hà. Quyền làm chủ, quyền được thông tin của người dân có lúc, có nơi bị hạn chế, thậm chí bị vi phạm nghiêm trọng. Những ví dụ có thể nêu ra như: người dân cần thông tin về quy hoạch để mua đất, nhưng bị cơ chức năng từ chối và cho rằng đó là thông tin nội bộ; một địa phương đóng chữ “mật” cả lên danh bạ đại biểu hội đồng nhân dân, trong khi những đại biểu đó là do dân bầu lên để đại diện cho mình; thiếu minh bạch trong đền bù, giải tỏa của các dự án; các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công việc làm ăn, sinh sống của doanh nghiệp, đến người dân không được đầy đủ, đồng bộ và không gắn liền với việc tuyên truyền rộng rãi…

Theo các tài liệu của OGP về tiếp cận thông tin, tiêu chuẩn để một quốc gia được coi là có tính “ mở” về tiếp cận thông tin đó là phải có một đạo luật riêng về vấn đề này hoặc ít nhất có một điều khoản trong hiến pháp quy định quyền tiếp cận thông tin. Hiến pháp 2013 của Việt Nam tại điều 25 quy định “ Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”, hơn nữa năm 2016, chúng ta thông qua Luật tiếp cận thông tin đây là cơ sở lớn nhất cho việc triển khai các thành tố khác của chính phủ mở như dữ liệu mở, chính phủ điện tử,… Lợi ích của tiếp cận thông tin là tạo nên một sự bảo vệ cho cả công dân và chính phủ. Đối với người dân, đó là bảo đảm tránh khỏi những thông tin bị khuếch tán bởi những ý đồ chính trị – để họ có thể tiếp xúc với các thông tin chính xác, nguyên gốc. Đối với chính phủ, tiếp cận thông tin cho phép tránh đi những lo ngại về các vấn đề tế nhị liên quan đến an ninh quốc gia.

Theo Điều 11 Luật Phòng, chống tham nhũng 2015, cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình theo một hoặc một số hình thức như: (a) Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (b) Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (c) Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; (d) Phát hành ấn phẩm; (đ) Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; (e) Đưa lên trang thông tin điện tử; (g) Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ở cấp độ cơ sở, Điều 6 Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định các hình thức công khai bao gồm: (a) Niêm yết công khai tại trụ sở HĐND, UBND cấp xã; (b) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã (c) Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân.

Trên thực tế, ngoài các hình thức nêu trên, còn có một số hình thức khác đang được sử dụng để chuyển tải thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước tới công chúng, cụ thể là qua việc đăng trên Công báo ;tư vấn, trợ giúp pháp lý; công tác dân vận; các sinh hoạt tập thể (hội họp, mít tinh, văn hóa văn nghệ…) hoặc qua hoạt động tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Nếu chính phủ không có khả năng cung cấp thông tin thì ít nhất nó cần đảm bảo người dân được miễn phí truy cập thông tin”. Câu nói này nhắc tới đặc điểm chính của Chính phủ mở đó là nền tảng thể chế công nghệ qua đó cho phép đưa dữ liệu chính phủ thành dữ liệu mở để cho phép người dân sử dụng, bảo vệ và cộng tác với chính phủ trong các quá trình ra quyết định công cộng, cũng như trong việc giải trình và cải tiến dịch vụ công cộng. Cho nên công nghệ là yếu tố thiết yếu, thành tố kỹ thuật để tạo nên quyền tiếp cận thông tin trong bối cảnh hiện đại. Các công cụ công nghệ ở đây không chỉ bao gồm Internet, trang web điện tử mà còn bao gồm tại mạng xã hội như Facebook, Twitter và sử dụng công nghệ di động để phổ biến thông tin và tương tác.

Theo khảo sát của tổ chức We are social vào tháng 1 năm 2018, ở Việt Nam có 64 triệu người dùng Internet, chiếm 67% dân số cả nước. Điều này nói lên Việt Nam có cơ cấu dân số thích ứng nhanh nhẹn với Internet, đại đa số người ở đô thị có khả năng sử dụng Internet kể cả các dịch vụ công trực tuyến. Về cơ sở hạ tầng thông tin viễn thông, mạng cáp quang FTTH ( Fiber to the home) hiện đang phủ sóng 97%, sóng 4G phủ sóng 95% Việt Nam. Đây là những nền tàng thuận lợi cho việc hình thành hệ thống thông tin mở cũng như việc dễ dàng tiếp cận được thông tin của người dân. Tuy nhiên cũng có nguy cơ lớn đối với việc thông tin bị lợi dụng , sử dụng như một công cụ cho các mục đích riêng, sự ảnh hưởng và thao túng bởi nhóm quyền lực bên ngoài khi tác động đến những vấn đề quản trị đất nước mà người ta hay liên tưởng về khả năng can thiệp của Nga trong bầu cử ở Mỹ.

Những mâu thuẫn có thể có giữa một bên là sự công khai của các dữ liệu mà mọi người dân có quyền tiếp cận và bên kia là bí mật nhà nước không dễ dàng được dung hòa. Ngay trong các quốc gia phát triển cũng có những bài học sâu sắc như vụ án Watergate hay rò rỉ hồ sơ tài liệu của Lầu Năm Góc đã cho thấy khó khăn khi đưa ra phán quyết giữa bí mật nhà nước và quyền được biết của công dân. Ở Việt Nam cũng đã cho thấy dấu hiệu của vấn đề tương tự. Điển hình là thông tin về Luật đặc khu, do quá trình soạn thảo cũng như lên kế hoạch không thể không công khai, chính vì như vậy khiến cho việc khi bị những người “ đánh hơi” được ý định của nhà nước đã đưa ra những thông tin khiến cho người dân hoang mang, khuếch đại tin tức làm thông tin mất đi chính xác chỉ để phục vụ lợi ích cá nhân họ. Nguồn vốn chủ yếu để phát triển ở các đặc khu là đất, thông qua chín sách đổi đất lấy hạ  tầng. Nhưng các địa điểm đó đều không còn quỹ đất trống do giới đầu cơ biết được thông tin đổ xô đến gom đất, và như được dự báo trước, thiếu vốn là vấn đề chắc chắn xảy ra.

Khi đánh giá về thành công cũng như chế trong xây dựng chính phủ điện tử cho đến năm 2018, trong Báo cáo chỉ ra bất cập lớn đó là “ Thiếu thể chế về xác thực, định danh điện tử, chưa số hóa được các dữ liệu, nền tàng kết nối chậm các công việc dù có chính phủ điện tử nhưng vẫn phải làm bằng giấy”. Phải biết rằng, khi truy xuất thông tin, tìm kiếm thông tin việc tra tìm từ văn bản bằng giấy gây ra khó khăn lớn đối với người dân đặc biệt nếu đó là những thông tin có thời gian dài, nội dung phức tạp.

Thông tin là yếu tố quyết định cơ hội phát triển của mỗi quốc gia. Tự do thông tin là nền tảng cho dân chủ. Nhất là trong quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế ngày một sâu và rộng như nước ta hiện nay, thông tin vừa đóng vai trò nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội, vừa là phương tiện hợp tác và cạnh tranh với các nền kinh tế khác. Mặt khác, tiếp cận thông tin là một trong những công cụ hữu hiệu đảm bảo phòng chống tham nhũng, điều kiện để đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

2.2.5. Kiểm tra giá trị (Values check ) Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Ngoài việc đạt đủ điểm cho các tiêu chí cốt lõi của OGP, quốc gia muốn tham gia vào OGP đồng thời cũng phải vượt qua được bài kiểm tra giá trị ( values check assessment). Có 2 khía cạnh đánh giá trong bài kiểm tra, đó là về độ mở trong việc bảo đảm các điều kiện cho việc hình thành và đăng ký của các tổ chức xã hội dân sự và độ mở trong hoạt động của các tổ chức này. Để vượt qua được bài kiểm tra, các nước phải đạt ít nhất 3 điểm cho 1 trong 2 tiêu chí nêu trên. Việt Nam đạt 1 điểm và 2 điểm lần lượt cho tiêu chí thứ nhất và thứ hai.

Quá trình phát triển của xã hội hiện đại cho thấy một thực tế hiển nhiên là các cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức nhà nước, dù hết sức tận tụy cống hiến hay có tinh thần vì công chúng như thế nào đi chăng nữa, thì cũng không thể dự kiến trước được tất cả các hàng hoá công cộng và dịch vụ mà các công dân muốn có. Việc xuất hiện những biện pháp thay thế của các tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ và tư nhân có thể giúp lấp đi những khoảng trống trong việc cung cấp hàng hoá công cộng, cũng như cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công nào mà các cá nhân muốn trả bằng tiền của riêng họ. Các đoàn thể nhân dân, các hội có thể vừa là những cộng sự, vừa là những đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ công.

Ở mức cao nhất, tại Hiến pháp 2013, Điều 25 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”. Trong thực tiễn hiện nay, tiếp cận từ tiêu chí phi lợi nhuận, bảy  hình thức tổ chức xã hội dân sự (phi lợi nhuận) phổ biến nhất là:

  • Hội
  • Quỹ xã hội, quỹ từ thiện
  • Cơ sở bảo trợ xã hội
  • Tổ chức Khoa học và công nghệ
  • Hội có tính chất đặc thù

Các tổ chức chính trị xã hội (thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam). – Tổ chức phi chính phủ quốc tế.

Văn bản có hiệu lực trực tiếp điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của các hội là Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội (thay thế cho Nghị định 88/2003). Nghị định này được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của Chính phủ. Điều 5 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định 5 điều kiện thành lập hội, bao gồm: 1. Có mục đích hoạt động không trái với pháp luật; không trùng lặp về tên gọi và lĩnh vực hoạt động chính với hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trên cùng địa bàn lãnh thổ. 2. Có điều lệ. 3. Có trụ sở. 4. Có số lượng công dân, tổ chức Việt Nam đăng ký tham gia thành lập hội.Số lượng tối thiểu thành viên của hội được xác định theo phạm vi hoạt động, cụ thể: cả nước hoặc liên tỉnh là 100, trong tỉnh là 50, trong huyện là 20, trong xã là 10. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Điều 23 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định các quyền của hội bao gồm: 1. Tổ chức, hoạt động theo điều lệ hội đã được phê duyệt; 2. Tuyên truyền mục đích của hội; 3. Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của hội; 4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích của hội; 5. Tổ chức, phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của hội; hoà giải tranh chấp trong nội bộ hội; 6. Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên; cung cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của pháp luật; 7. Tham gia chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn, phản biện và giám định xã hội theo đề nghị của cơ quan nhà nước; cung cấp dịch vụ công về các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của hội, tổ chức dạy nghề, truyền nghề theo quy định của pháp luật; 8. Thành lập pháp nhân thuộc hội theo quy định của pháp luật; 9. Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của hội theo quy định của pháp luật. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển hội và lĩnh vực hội hoạt động. Được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức các hoạt động dịch vụ khác theo quy định của pháp luật và được cấp chứng chỉ hành nghề khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; 10. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ của hội; 11. Được gây quỹ hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí hoạt động; 12. Được nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Được nhà nước hỗ trợ kinh phí đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của nhà nước giao; 13. Cơ quan Trung ương hội có phạm vi hoạt động trong toàn quốc được gia nhập các tổ chức quốc tế tương ứng và ký kết, thực hiện thoả thuận quốc tế theo quy định của pháp luật và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực hội hoạt động, cơ quan quyết định cho phép thành lập hội về việc gia nhập tổ chức quốc tế tương ứng, ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế.

Trong những năm vừa qua, nhiều nhóm, câu lạc bộ, mạng lưới, diễn đàn… đã được thành lập, quyền tự do hiệp hội được thực thi khá sôi động trong thực tiễn. Tuy nhiên, địa vị pháp lý của nhiều nhóm, hội thiếu rõ ràng hoặc gặp khó khăn khi thực thi các thủ tục theo luật định. Một số hội công bố thành lập gồm Hội Phụ nữ nhân quyền, Hội Cựu tù nhân lương tâm, Văn đoàn độc lập … Những “hội” này không hoặc chưa thực hiện các thủ tục luật định về thành lập. Nói cách khác, những hội này thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng hoặc “chưa được nhà nước thừa nhận”. Trong khi việc thành lập các hội đoàn là xu hướng tất yếu của phát triển xã hội, khuôn khổ pháp luật tiếp tục duy trì cứng nhắc như cũ đang tạo ra nhiều vấn đề mâu thuẫn với nguyên tắc của nhà nước pháp quyền và dân chủ.

Quyền tự do hiệp hội không chỉ liên quan đến việc thành lập hội mà còn bao gồm cả quyền tự do hoạt động của các hội. Tại Việt Nam, các hoạt động chủ yếu của các hội như gây quỹ, triển khai các dự án, chương trình… chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy định hành chính tương đối khắt khe. Đặc biệt, trong khi giao lưu, quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở, việc nhận tài trợ hoặc tổ chức các hội nghị, hội thảo có yếu tố nước ngoài hiện nay tiếp tục gặp những khó khăn đáng kể khi triển khai. Liên quan đến việc gây quỹ, hiện nay có nhiều loại quy định khác nhau với các loại tổ chức. Văn bản quan trọng nhất điều chỉnh việc nhận tài trợ nước ngoài hiện là Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài được ban hành theo Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009, được hướng dẫn bởi Thông tư 07/2010/TTBKH ngày 30/3/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư. Tại nhiều địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Liên quan đến việc triển khai các hoạt động hội thảo, tập huấn chịu sự điều chỉnh của các quy định về hội họp, tổ chức hội nghị, hội thảo, có những quy định riêng nếu những hoạt động này có “yếu tố nước ngoài”. Cụ thể, lĩnh vực này hiện được điều chỉnh bởi Quyết định số 76/2010/QĐ-TTg ngày 30/11/ 2010 của Thủ tướng về việc tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam. Quyết định này thay thế cho một quyết định ra đời 10 năm trước đó (Quyết định số 122/2001/QĐ-TTg ngày 21/08/2001), tuy nhiên, mức độ chặt chẽ không hề giảm, có lĩnh vực còn chặt chẽ hơn so với văn bản trước đó. Theo điểm b, Khoản 1, Điều 3 Quyết định số 122/2001/QĐ-TTg thì Thủ tướng có thẩm quyền cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các vấn đề chính trị, dân tộc, tôn giáo, an ninh, quốc phòng và phạm vi bí mật nhà nước. Kế thừa quy định này, điểm b, Khoản 1, Điều 3 Quyết định số 76/2010/QĐTTg quy định “Hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, biên giới lãnh thổ hoặc thuộc phạm vi bí mật nhà nước”. Nhìn chung những quy định như vậy rất phiền hà, phức tạp và khắt khe hơn nhiều so với các quốc gia khác.

Để bảo vệ quyền tự do hiệp hội, hiện nay có các cơ chế khiếu nại, khiếu kiện theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, một số vụ việc đã cho thấy khiếu nại về quyền lập hội của người dân không được cơ quan hành chính giải quyết thấu đáo, kịp thời.

2.2. Giải pháp và lộ trình hoàn thiện cho Việt Nam tham gia Sáng kiến đối tác Chính phủ mở Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

2.2.1. Giải pháp, đề xuất cho khó khăn, thách thức

2.2.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý gia tăng quyền dân sự của người dân

Việc nghiên cứu tham gia vào sáng kiến Đối tác Chính phủ mở có thể là một động lực tốt để thúc đẩy việc cải thiện thể chế và quyền tham gia của người dân ở Việt Nam. Trước mắt để bảo đảm tốt hơn quyền tham gia của người dân, cần phải hoàn thiện pháp luật và thể chế:

Nghiên cứu, sửa đổi Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân theo hướng đảm bảo các nguyên tắc bầu cử dân chủ, công bằng, đặc biệt là bảo đảm quyền của các ứng viên, quyền của cử tri đề cử ứng viên; tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động bầu cử, đặc biệt là trong việc kiểm phiếu và công bố kết quả sau khi kiểm phiếu.

Sửa đổi Luật trưng cầu dân ý 2015 theo hướng mở rộng phạm vi chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân, bao gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hành chính, tài chính nhằm hỗ trợ việc thành lập, phát triển và hoạt động của các hội, hiệp hội, trong đó bao gồm việc xây dựng Luật về hội với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Xem việc tăng cường tự do hiệp hội như là một trong những ưu tiên trong chính sách tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân hiện nay. Tự do hiệp hội nên được quan niệm là một quyền dân sự, một dạng tự do hợp đồng của các cá nhân, chủ yếu do luật dân sự điều chỉnh. Cách tiếp cận này sẽ giúp tối thiểu hoá các thủ tục hành chính cho việc cấp phép thành lập các hội. Ðể hoạt động của các hội được thuận tiện, cũng là để tôn trọng quyền tự do hiệp hội, các quy định về gây quỹ, nhận tài trợ, về triển khai các hoạt động (nhất là hội thảo, tập huấn), có hoặc không liên quan đến nước ngoài, nên được điều chỉnh theo hướng tôn trọng quyền tự chủ của các hội.

Cụ thể dự thảo Luật về hội vốn mục đích luật hóa Sắc lệnh số 102 năm 1957, cách đây đã 60 năm, dự thảo lần đầu tiên được đưa ra Quốc hội bàn năm 2006 nhưng đã phải rút về. Từ đó đến nay, 15-16 lần sửa, dự thảo luật về Hội vẫn còn quá nhiều vấn đề tranh cãi, không được thông qua. Dưới dây là một số kiến nghị nhằm sửa chữa một số vướng mắc tồn đọng ở dự luật:  Theo dự thảo, khái niệm “hội” được hiểu là “tổ chức tự nguyện của công dân, pháp nhân Việt Nam hoạt động không vì mục đích lợi nhuận”.Qua đó cho thấy, so với Khoản 1 Điều 22 của ICCPR, Dự thảo Luật của Việt Nam không coi đây là quyền dành cho tất cả mọi người không phân biệt địa vị pháp lý (có tư cách công dân hay không). Việc đưa ra yêu cầu việc lập hội phải nhằm “ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng theo quy định của pháp luật, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động; được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập, công nhận điều lệ và người đứng đầu hội.” đã giới hạn khá nhiều nội hàm của hội theo cách hiểu của Liên hợp quốc. Quy định này có thể sẽ tạo ra những rào cản trong việc xét duyệt cấp phép thành lập hội hay kiểm tra, giám sát hoạt động của hội. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Dự thảo hầu như không đề cập tới hội không đăng ký với Nhà nước hoặc hội không có tư cách pháp nhân nói chung, trong khi dự thảo do Bộ Nội vụ công bố để lấy ý kiến nhân dân trong tháng 6/2015 xác định có sự hiện diện của “hội không có tư cách pháp nhân”. Điều này khiến cho tính pháp lý của rất nhiều hội không đăng ký với Nhà nước (không cần tư cách pháp nhân) như Hội đồng hương, nhóm từ thiện, câu lạc bộ đọc sách… thiếu rõ ràng, không được pháp luật điều chỉnh, gây khó khăn cho việc thực thi quyền lập hội, hoạt động hội của người dân. Hội không đăng ký tư cách pháp nhân hiện là một hình thức phổ biến và linh hoạt trong thực tế, Nhà nước cần thừa nhận tính hợp pháp của các hội này, cho dù không cần đăng ký

Dự thảo đã xác định chủ thể của quyền tự do lập hội công dân Việt Nam, vô hình chung đã giới hạn quyền lập hội đi rất nhiều. Điều cần thiết đó là mở rộng quyền lập hội cho mọi người phù hợp với quy định của Công ước ICCPR. Việc mở rộng trao quyền nhiều hơn cho công dân so với quy định của Hiến pháp không thể được coi là vi phạm Hiến pháp. Bởi vì, Hiến pháp chỉ quy định tiêu chuẩn tối thiểu về quyền con người quyền công dân, luật hoàn toàn có thể quy định đảm bảo tốt hơn các quyền con người, quyền công dân.  Dự thảo cho thấy sự can thiệp sâu vào tổ chức hoạt động của hội như dành một chương cho quy định cơ cấu tổ chức hội, quyền và nghĩa vụ của hội. Đối với hội mang tính đa dạng và gần như phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các thành viên, việc đưa ra các trường hợp cho việc tổ chức lại hội như quy định tổ chức lại doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp là không hợp lý, mất đi bản chất của quyền lập hội. Nhà nước chỉ nên và chỉ có thể quản lý về hình thức tổ chức của hội thông qua ban lãnh đạo, còn việc yêu cầu đối với các thành viên như thế nào là do thỏa thuận giữa các thành viên mà miễn là không vi phạm pháp luật.

Dự thảo Luật về Hội chưa có cơ chế hiệu quả bảo vệ quyền tự do hiệp hội của cá nhân và của các hội. Dự luật chỉ quy định chung chung về việc xử lý vi phạm (Điều 31) và trao quyền quy định chi tiết cho Chính phủ. Điều này tạo ra nguy cơ lớn đối với việc giới hạn tùy tiện quyền tự do hiệp hội của người dân. Luật cần qui định rõ ràng và cụ thể cơ chế và biện pháp bảo vệ quyền tự do hiệp hội khỏi các can thiệp phi lý, tùy tiện của cơ quan, cán bộ Nhà nước ở bất kỳ cấp nào. Cần quy định rõ thẩm quyền tài phán của cơ quan thụ lý, giải quyết khiếu nại, khiếu kiện độc lập với cơ quan quản lý hành chính để đảm bảo tính khách quan, độc lập và hiệu quả trong việc bảo vệ quyền hiệp hội của người dân. Quyết định đình chỉ, chấm dứt hay giải tán không tự nguyện một hội phải được đưa ra từ một tòa án vô tư và độc lập.  – Sửa đổi pháp luật về quyền hội họp của người dân, bao gồm các Nghị định và văn bản quy phạm pháp luật không còn tương thích với Hiến pháp 2013 ( về giới hạn quyền con người, quyền công dân). Hiện nay, các cơ quan nhà nước thường viện dẫn Nghị định 38/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2005 quy định về một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng để điều chỉnh, quản lý các cuộc biểu tình. Nghị định này không hề nhắc đến “biểu tình”, mà chỉ có các quy định về “tập trung đông người ở nơi công cộng”. Cụ thể, việc tập trung đông người ở nơi công cộng phải đăng ký trước với Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền nơi diễn ra các hoạt động đó và phải thực hiện đúng nội dung đã đăng ký. Tuy nhiên, Nghị định này dường như có sự phân biệt đối xử khi không áp dụng đối với các hoạt động do các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội tổ chức. Việc tổ chức các hội nghị, hội thảo có yếu tố nước ngoài, hiện nay tiếp tục có nhiều khó khăn về thủ tục. Lĩnh vực này hiện được điều chỉnh bởi Quyết định số 76/2010/QĐ-TTg ngày 30/11/ 2010 của Thủ tướng về việc tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam. điểm b, Khoản 1, Điều 3 Quyết định này  quy định “Hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, biên giới lãnh thổ hoặc thuộc phạm vi bí mật nhà nước”. Như vậy, các cuộc hội nghị, hội thảo phải được Thủ tướng phê duyệt có phạm vi rất rộng. Điều đó cũng có nghĩa là nhiều hội nghị, hội thảo – một hình thức quan trọng của hội họp – đang phải trải qua nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian mới có thể tổ chức. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

2.2.1.2. Áp dụng công nghệ Blockchain và phát triển nền tảng kỹ thuật

Blockchain là công nghệ mới được nhắc nhiều trong thời gian gần đây. Nếu được bình chọn cho công nghệ mới nổi bật nhất trong năm 2017, thì chắc chắn blockchain và ứng dụng vào tiền ảo, tiêu biểu như Bitcoin sẽ được xướng tên.

Blockchain được thiết kế để chống lại sự thay đổi dữ liệu. Thông tin trong blockchain không thể bị thay đổi và chỉ được bổ sung thêm khi có sự đồng thuận của tất cả các nút trong hệ thống. Ngay cả khi nếu một phần của hệ thống blockchain đổ, những máy tính và nút khác sẽ tiếp tục hoạt động để bảo vệ thông tin.

Đặc biệt blockchain có khả năng truyền tải dữ liệu mà không đòi hỏi trung gian để xác nhận thông tin. Hệ thống blockchain bao gồm nhiều nút độc lập có khả năng xác thực thông tin.

Với những đặc thù như vậy, công nghệ blockchain được áp dụng rất nhiều trong các lĩnh vực kinh tế, viễn thông, logistics. Ở bầu cử, West Virginia (Hoa Kỳ) trở thành tiểu bang đầu tiên áp dụng blockchain trong bầu cử. Mặc dù số lượng cử tri tham gia bầu cử qua nền tảng này vẫn là một con số nhỏ như một cuộc thử nghiệm nhưng với những kết quả tích cực mà nó mang lại, dự kiến công nghệ này sẽ được áp dụng ở quy mô lớn hơn.

Theo công nghệ blockchain được sử dụng trong cuộc bầu cử tại West Virginia, danh tính của cử tri được xác minh bằng các công cụ sinh trắc học như quét vân tay trước khi bỏ phiếu bằng thiết bị di động. Mỗi phiếu bầu là một phần của chuỗi các phiếu bầu. Khi sử dụng blockchain, tất cả dữ liệu của quá trình bầu cử sẽ được lưu lại trực tuyến và có thể kiểm chứng một cách công khai mặc dù vẫn duy trì được tính ẩn danh của cử tri.

Hệ thống bầu cử hiện nay đã bộc lộ rất nhiều hạn chế: Lãng phí tài nguyên giấy, Việc triển khai mất nhiều thời gian và chi phí, Không đảm bảo tính công khai và minh bạch khi các cử tri không được trực tiếp theo dõi quá trình kiểm đếm. Việc vận dụng công nghệ blockchain trong bầu cử có thể được triển khai bằng việc sử dụng các nền tảng bỏ phiếu blockchain mã nguồn mở. Nền tảng nguồn mở không có bất cứ yếu tố độc quyền nào nên tất cả cử tri đều có thể trực tiếp xem xét khiến cho tính minh bạch trong bầu cử luôn được đảm bảo.

Công nghệ blockchain không chỉ dừng lại ở suy nghĩ trong vấn đề bầu cử mà nó có thể tiếp tục nhìn nhận ở việc tiếp cận thông tin của người dân, trong việc minh bạch, công khai ngân sách, tài sản. Ứng dụng công nghệ blockchain trong việc xây dựng chính phủ số là xu hướng được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Nền tảng này có thể cung cấp môi trường an toàn để lưu trữ, xử lý và truyền tải dữ liệu. Việc sử dụng các công cụ của sổ cái phân tán, hợp đồng thông minh và tiền điện tử sẽ làm giảm đáng kể sự quan liêu, xóa bỏ các thủ tục giấy tờ, giảm chi phí giao dịch, kiểm soát và chống tham nhũng, tăng lòng tin của công dân với Chính phủ. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Tuy nhiên, hệ thống này cũng tồn tại nhược điểm, bởi vì là hệ thống điện tử nên nó có thể bị tấn công bởi các mã độc hay những người cố tình cài phần mềm gian lận vào hệ thống. Chính vì như vậy lại đòi hỏi phải có một nền tảng kỹ thuật hiện đại tương ứng nhằm hạn chế nhược điểm của công nghệ này.

Nền tảng đầu tiên đó là về cơ sở dữ liệu, chỉ một khi tồn tại một kho dữ liệu đủ lớn thì việc triển khai thông tin, liên thông, chia sẻ giữa cơ quan với nhau, với người dùng mới hiệu quả được. Hiệu quả hệ sinh thái kỹ thuật số áp dụng công nghệ Blockchain trước hết phụ thuộc vào cơ sở dữ liệu đầu vào. Trong khi đó, việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng phục vụ phát triển Chính phủ điện tử rất chậm so với tiến độ cần có Theo số liệu thống kê gửi lên Văn phòng chính phủ, Cơ sở dữ liệu quốc gia về công dân Việt Nam mới chỉ được cấp hơn 8 triệu mã số định danh và hơn 1 triệu mã số cho trẻ em mới sinh. Việc triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu được đánh giá là “ châm” vì chương trình bắt đầu từ năm 2013. Thế nên điều cấp thiết hiện tại là Chính phủ cần phải hoàn tất cơ sở dữ liệu về công dân, đất đai, tài chính ..

Hiện nay, Việt Nam đang thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng Chính phủ điện tử, thiếu quy định cụ thể về xác thực cá nhân, tổ chức trong các giao dịch điện tử cũng như các quy định pháp lý về văn thư, lưu trữ điện tử, giá trị pháp lý của văn bản điện tử trong giao dịch hành chính và thanh toán. Cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử chưa đủ mạnh cũng là nguyên nhân của việc thực hiện còn thiếu hiệu quả và mang nặng tính hình thức. Giải pháp trước mắt đó là cần phải có những quy định mới hoặc cụ thể hơn về chữ ký điện tử, chữ ký số, chứng thư số, đây là những vấn đề quan trọng nhằm định danh cá nhân trên mạng dữ liệu số.

Nền tảng thứ hai đó là về nguồn nhân lực, nếu có nhân sự đáp ứng được yêu cầu, công nghệ có thể xóa nhòa khoảng cách và giúp người dân ở những vùng khó khăn tiếp cận được dịch vụ công. Về phía chính quyền, việc đào tạo cho công chức phải được tính tới, cần phải có những nhóm chuyên viên liên quan tới lĩnh vực công nghệ trong cán bộ, công chức. Về phía người dân, cần phải tuyên truyền, phổ biến hỗ trợ cho các nhóm người trong xã hội tiếp cận với dữ liệu công, dịch vụ công trực tuyến. Nên xây dựng các lớp bồi dưỡng kiến thức cho người dân biết cách sử dụng công nghệ trong tương tác với chính quyền. Ở một số quốc gia trên thế giới, đi cùng với dịch vụ công trực tuyến là có các tổ chức hỗ trợ người dùng trong việc sử dụng các dịch vụ đó. Nhìn vào bối cảnh Việt Nam, giải pháp tốt hơn hết là việc Đoàn Thanh niên kết hợp cùng các tổ chức, đoàn tình nguyện hỗ trợ người dân trong công việc này.

2.2.1.3. Thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc ( Sustainable Development Goals – SDGs)

Các Mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development Goals – SDGs) là một bộ mục tiêu kèm chỉ dẫn mới và phổ quát mà các nước thành viên Liên Hợp Quốc được trông đợi sẽ áp dụng vào chương trình nghị sự và các chính sách chính trị của mình trong 15 năm tiếp theo. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Bộ mục tiêu SDGs tiếp nối và mở rộng dựa trên Các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals – MDGs) được chính phủ các nước thống nhất vào năm 2001 và hết hạn vào cuối 2019. CHỦ ĐỘNG THAY ĐỔI THẾ GIỚI TRONG 17 BƯỚC – Đó là điều mà Liên Hợp Quốc cũng như chương trình nghị sự 2030 nhắm tới.

Việc thực hiện SDGs sẽ mang tới những thuận lợi cực lớn cho việc phát triển các điều kiện tham gia OGP của Việt Nam, đặc biệt là mục tiêu số 16 : Xã hội hòa bình, công bằng và thể chế vững chắc. Mục tiêu chính của SDG#16 bao gồm tất cả các mục tiêu quan trọng của OGP , các yếu tố chung giữa OGP và SDG#16 là tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, khả năng đáp ứng và sự tham gia vào các hoạt động của chính phủ.

Các mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua và ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện vào tháng 5 năm 2017 ( Quyết địn hsố 622/QĐ –TTg ngày 10/05/2017). Chương trình Nghị sự 2030 cũng đã được đưa vào các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của Quốc hội và Chính phủ với 115 mục tiêu cụ thể phù hợp với bối cảnh và những ưu tiên phát triển của quốc gia được phân kỳ giai đoạn 2017 – 2020 và 2020 – 2030. Các nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2017 – 2020 là hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển bền vững, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về phát triển quốc gia; Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách theo hướng điều chỉnh, bổ sung, ban hành mới nhằm bảo đảm khung pháp lý đầu đủ; Thực hiện các hoạt động truyền thông, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội. Đây là bước đi cực kì đúng đắn của Việt Nam vì thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế, đóng góp có trách nhiệm vào các nỗ lực chung của thế giới, đồng thời cũng là sự bảo đảm cho tương lai được tham gia và thụ hưởng các thành quả của sự phát triển, xây dựng được một VIệt Nam dân chủ, công bằng, văn minh.

Có thể thấy Chính phủ Việt Nam tích cực, cố gắng trong việc thực hiện kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình này lại khuyết thiếu đi sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức trong nước, khu vực tư nhân. Đây rõ ràng là một nguồn lực có thể đóng góp một phần quan trọng trong việc thực hiện Chương trình nghị sự của Liên Hợp Quốc. Ở hầu hết các quốc gia, các tổ chức xã hội đã xây dựng được các liên minh và mạng lưới của mình trong quá trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và vận động cho SDG và OGP. Bên cạnh đó, các liên minh toàn quốc cũng nằm trong các lĩnh vực mục tiêu cụ thể chủ chốt của SDG#16 như quyền tiếp cận thông tin, minh bạch ngân sách, sự tham gia của người dân,… Vì vậy việc gia nhập hay xây dựng ra liên minh các tổ chức xã hội, doanh nghiệp là giải pháp cần thiết để thúc đẩy chương trình nghị sự.

Các mạng lưới quốc gia và quốc tế đã phải nỗ lực rất nhiều để có thể lồng ghép các mục tiêu SDG vào ưu tiên của các chính sách phát triển. Tuy nhiên, rất nhiều thử thách còn đang ở phía trước vì thiết lập và thực hiện công cuộc cải cách quản lý là cực kỳ khó khăn. Điều quan trọng hơn là không chỉ duy trì những mạng lưới thúc đẩy phối hợp, hợp tác giữa các bên trong thực hiện SDG mà còn phải nâng chúng lên tầm cao mới. Rất nhiều diễn đàn, đối thoại được tổ chức hàng năm như Hội nghị quốc gia về phát triển bền vững, Diễn đàn Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững và Diễn đàn cải cách và phát triển Việt Nam (VRDF). các đối tác phát triển sẽ giúp Chính phủ mời các chuyên gia quốc tế về các lĩnh vực mà Việt Nam đang ưu tiên quan tâm, tới Diễn đàn để chia sẻ kinh nghiệm, trình bày các nghiên cứu và những ý kiến gợi mở với Chính phủ. Chúng ta cần gia nhập hay tạo ra nhiều hơn những mạng lưới như vậy để có thể học hỏi, chia sẻ kiến thức.

Gia nhập và/hoặc thúc đẩy các cơ chế đối thoại giữa chính phủ và tổ chức xã hội dân sự trong việc lập kế hoạch và thực hiện SDG. Mối quan hệ giữa chính phủ và xã hội dân sự không như nhau giữa các nước, có thể khác nhau từ chào đón đến không tồn tại hoặc thậm chí đối nghịch. Việc đánh giá tình hình kinh tế chính trị là cần thiết để thiết lập nên một chiến lược hợp tác khả thi giữa chính quyền và tổ chức xã hội dân sự. Ngoài việc thúc đẩy chương trình nghị sự 2030, việc có các cơ chế đối thoại giữa chính phủ và tổ chức xã hội sẽ góp phần là cơ sở cho việc thực hiện các tiêu chuẩn của OGP.

2.2.1.4. Xây dựng cổng thông tin minh bạch tài chính Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Tính minh bạch tài khóa cho phép cuộc tranh luận được thông tin tốt hơn bởi cả các nhà hoạch định chính sách và công chúng về thiết kế và kết quả của chính sách tài khóa, và thiết lập trách nhiệm cho việc thực hiện. Để củng cố uy tín và sự hiểu biết của công chúng về các chính sách và lựa chọn kinh tế vĩ mô, sự minh bạch tài khóa thúc đẩy tiếp cận thuận lợi hơn với thị trường vốn trong nước và quốc tế. Nó cũng giúp làm nổi bật các rủi ro tiềm ẩn đối với triển vọng tài chính, dẫn đến phản ứng chính sách tài khóa sớm hơn và suôn sẻ hơn với các điều kiện kinh tế thay đổi và do đó làm giảm tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của các cuộc khủng hoảng

Ở hầu hết các tài liệu, nghiên cứu và tiêu chuẩn đề xuất, bước đầu tiên để minh bạch tài chính là sự cởi mở của dữ liệu và thông tin liên quan. Tuy nhiên, tính sẵn có của thông tin không phải là mục tiêu của chính nó. Chìa khóa để đạt được mục tiêu cuối cùng, đó là trách nhiệm công khai, minh bạch và quản lý tài nguyên công hiệu quả hơn, làm cho dữ liệu có sẵn theo cách cho phép: phân tích xu hướng tài chính theo cách thân thiện  hoặc theo cách cho phép dễ dàng sử dụng lại các dữ liệu và thông tin liên quan.

Cổng thông tin sẽ là một trang web chuyên đề cung cấp thông tin có thể sử dụng lại về ngân sách công, các ưu tiên và chính sách được thúc đẩy và thực hiện bởi chính phủ quốc gia và kết quả của họ. Một kênh mà thông qua đó công dân có thể theo dõi việc thực hiện tài chính của các chương trình của chính phủ. Mục tiêu là nâng cao tính minh bạch của quản lý công, cho phép công dân theo dõi và giám sát cách sử dụng tiền công.

Cổng thông tin này sẽ là được xây dựng dưới nền tảng nguồn mở, có nghĩa là những người có quyền hạn sẽ có thể xem, sử dụng và chia sẻ cho bất kỳ ai. Điều này sẽ đảm bảo mức độ tin cậy của thông tin ngân sách được công bố. Cổng thông tin không phải nơi tập hợp lại các tài liệu về ngân sách được công bố mà nó phải được cấu trúc lại dưới dạng mô hình trực quan một cách đơn giản nhất tập trung những số liệu trọng tâm nhất sẽ được thể hiện ra ở trên đó. Bởi vì, theo khảo sát của Ngân hàng thế giới, người dân ít tiếp cận với các báo cáo liên quan ngân sách, dự toán ngân sách một phần nguyên do các tài liệu này được trình bày theo một dạng phức tạp mang tính chuyên môn cao chỉ những người có hiểu biết cụ thể có thể giải đọc được. Đồng nghĩa với việc ngân sách nhà nước được công khai nhưng vẫn bị thiếu sự minh bạch.  Cổng thông tin này có thể giống như các trang điện tử chính phủ ở các miền như gov.vn với tên địa chỉ tiếng anh hoặc tiếng việt phù hợp tương tự như cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà Chính phủ mới xây dựng https://dangkykinhdoanh.

Các số liệu dự kiến ban đầu có thể được mô tả ở cổng thông tin: dữ liệu về chuyển giao trung ương cho và địa phương, thanh toán cho chính phủ, thông tin về công chức. Sau đó có thể thêm nhiều thông tin hơn tập trung vào các dạng dữ liệu:

  • Chi tiêu trực tiếp của các cơ quan chính phủ thông qua các hợp đồng và quy trình đấu thầu, mua sắm công
  • Tất cả các điều chuyển tài sản cho các địa phương
  • chuyển giao vốn cho các nhà từ thiện; các chương trình viện trợ
  • Chi tiêu hành chính, bao gồm lương nhân viên, chi phí đi lại của nhân viên và chi phí đi lại và chi tiêu văn phòng
  • Thông tin về tất cả chi tiêu thẻ tín dụng chính thức của chính phủ

Hình 6. dữ liệu mua sắm công ở Slovak Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Để làm được điều này thì Chính phủ cần phải đảm bảo dữ liệu tài chính có sẵn theo các tiêu chuẩn hiện tại: dữ liệu phải được cung cấp ở định dạng mở (ví dụ CSV, XLS hoặc XML), được cấp phép công khai, được cung cấp kịp thời và trong bộ dữ liệu hoàn chỉnh.

Thường các chính phủ thường thiếu tài nguyên và năng lực để trình bày thêm các chính sách và thông tin tài khóa theo cách thân thiện với người dùng. Điều quan trọng là các chính phủ hợp tác với các bên liên quan khác và tiết kiệm tài nguyên bằng cách xây dựng liên hệ với các nhà thông tin, tổ chức phi chính phủ và xã hội dân sự để làm việc và phân tích dữ liệu tài chính. Điều này có thể được thực hiện bằng cách tổ chức các cuộc hội thảo, cung cấp các bản hướng dẫn. Điển hình như các hướng dẫn OECD’s Best Practice Guidelines on Budget Transparency , International Budget Partnership: A Government Guide to Developing Citizens Budgets, Procurement open data guidelines by the Sunlight Foundation.

Sự tham gia hơn nữa của các tổ chức phi chính phủ, tuyên truyền và xã hội dân sự là rất quan trọng. Chính phủ nên chủ động tìm cách đưa lên và tận dụng các bộ dữ liệu thông tin tài chính mới và cho phép người khác sử dụng lại dữ liệu và tái tạo lại nó. Tạo mối quan hệ đối tác với truyền thông, xã hội dân sự và công dân bình thường có thể giúp tiết kiệm tài nguyên và cũng tạo dựng niềm tin. Quan trọng nhất, cộng đồng quốc tế và địa phương phải thúc đẩy hơn nữa sự thay đổi trong tư duy của chính phủ. Công dân đóng vai trò trung tâm trong việc định hình các chính sách tài khóa và chính phủ càng sớm nhận ra những gì công dân tiềm năng mang lại, chính phủ sẽ càng sớm nhận được niềm tin, ca ngợi từ người dân

2.2.1.5. Tuyên truyền, vận động nhằm thu hút sự tham gia của cộng đồng

Trong kế hoạch tham gia vào OGP này cần có sự vận động nhằm tác động đến mọi đối tượng liên quan nhằm giải bỏ những nghi ngờ, cho họ thấy được lợi ích của việc tham gia OGP để họ có nhận thức đúng đắn, có hành động thích đáng, chủ động, tích cực trong việc đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nước.

Việc tác động này đến từ nhiều bên, nhiều cách như thông qua báo chí, tuyên truyền hay thực hiện các buổi nghiên cứu, hộ thảo chuyên sâu, tập trung vào các cá nhân, tổ chức cần tác động:

  • Các cơ quan của Đảng Cộng Sản: Đảng Cộng Sản Việt Nam là nơi đưa ra những chủ trương, đường lối cho các hoạt động về chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục,… Vì vậy cần phải tiếp cận, vận động họ có cái nhìn tích cực về khả năng tham gia OGP của Việt Nam đặc biệt là các cơ quan như Ban Nội Chính, Ban Tuyên giáo Trung ương.
  • Các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ : Đây là các cơ quan trực tiếp chỉ đạo thực thi đường lối, chính sách từ trung ương tới địa phương.
  • Các tổ chức xã hội: các tổ chức này sẽ là đối tác quan trọng nhất của Chính phủ trong việc thực hiện các cam kết nếu như Việt Nam tham gia OGP. Đặc biệt ở Việt Nam hiện nay, Mặt trận tổ quốc Việt Nam là đầu mối liên minh các tổ chức khác của hệ thống chính trị, nó có chức năng tư vấn, phản biện chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước. Chức năng này rất gần gũi với tiêu chí về sự tham gia của người dân của OGP. Bên cạnh đó, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận tổ quốc Việt Nam cũng tạo điều kiện thuận lợi cho nó thực hiện các hoạt động liên quan đến những tiêu chí khác của OGP, bao gồm tiếp cận thông tin, minh bạch ngân sách và công khai tài sản của quan chức nhà nước.
  • Các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ : hầu hết tổ chức quốc tế, đối tác phát triển và tổ chức phi chính phủ quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam đều ủng hộ OGP. Việc tiếp cận họ sẽ dễ dàng hơn và khi có được sự ủng hộ từ những tổ chức này thì việc tuyên truyền, giáo dục cho những đối tượng khác sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
  • Báo chí: báo chí đóng vai trò cực kì quan trọng nếu muốn triển khai việc tuyên truyền hiểu biết rộng rãi tới toàn bộ người dân.
  • Người dân nói chung: Họ là khâu quan trọng cho việc hiện thực hóa được OGP tại Việt Nam bởi họ là những đối tượng trực tiếp nhất mà OGP hướng tới. Phổ biến kiến thức giúp người dân hiểu được tầm quan trọng của OGP, quan tâm tới Sáng kiến này.

2.2.2. Lộ trình thực hiện kế hoạch tham gia vào OGP Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Xét về xu hướng phát triển, có thể thấy việc Việt Nam tham gia cơ chế này là điều tất yếu. Theo đó, lộ trình cho OGP ở Việt Nam có thể phác thảo như sau:

  • Mục tiêu trước mắt: Đạt đủ tiêu chuẩn tham gia vào OGP

Bổ sung, hoàn thiện khung pháp luật bảo đảm sự tham gia của người dân nhằm gia tăng thêm số điểm cho tiêu chuẩn này. Luật về hội, họp, biểu tình cần phải có chậm nhất là kết thúc năm 2020, đây cũng là thời điểm chúng ta kết thúc chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị cũng là thời điểm hoàn tất giai đoạn 1 của kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. – Xây dựng mạng lưới và lựa chọn các đối tác trong và ngoài hệ thống chính trị để thúc đẩy các hoạt động chuẩn bị cho OGP. Việc này có thể kết hợp thực hiện trong quá trình tuyên truyền nâng cao nhận thức ở trên, tuy nhiên có thể kéo dài thêm 6 tháng đến một năm nữa. Kết quả của việc này bao gồm việc cải thiện khuôn khổ pháp lý để có Việt Nam đạt được thêm điểm để đủ điều kiện tham gia OGP.

Tuyên truyền nâng cao nhận thức về OGP: Hoạt động này nhằm làm cho hệ thống chính trị và người dân hiểu rõ về OGP, những lợi ích mà nó mang lại, xu hướng trên thế giới và sự cần thiết tham gia OGP của Việt Nam. Tuỳ theo cách thức và khả năng vận động, việc này có thể kéo dài từ 6 tháng đến 01 năm. Trong ngắn hạn, việc tăng cường sự tham gia của người dân và quá trình ra quyết định có chủ ý có thể gây ra hỗn loạn và không hiệu quả. Tuy nhiên, đây lại là điều cần thiết để đạt được sự đồng thuận dựa trên thảo luận hợp lý trên cơ sở thực tế hơn là tập trung vào thành kiến và đối lập… Nếu được áp dụng phù hợp thì có thể xây dựng được mối quan hệ hợp tác dựa trên sự tin cậy giữa chính phủ và công dân trong dài hạn.

Thực hiện kế hoạch đào tạo đôi ngũ cán bộ, công chức chuyên môn, chuyên nghiệp như cử đi học tập hoặc mở các lớp mời các kĩ thuật viên, chuyên viên về giảng giải. Thực hiện việc hướng dẫn cho người dân có thể tham gia vào các dịch vụ công, đưa lên nhiều dịch vụ công trực tuyến như đăng ký doanh nghiệp, y tế, viễn thông, internet, báo chí… đồng thời đơn giản hóa những thủ tục, trình tự về các dịch vụ này để người dân có thể tiếp cận một cách dễ dàng, hiệu quả.

  • Mục tiêu dài hạn: Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Xây dựng nền tảng công nghệ thông tin, kỹ thuật đồng thời nghiên cứu về khả năng thực hiện các công nghệ mới như blockchain ( khối chuỗi). Về thực hiện chiến lược này không phải là biện pháp nhanh chóng mà cần thời gian dài để chuẩn bị và triển khai. Mục tiêu của giai đoạn đầu là ít nhất trong vòng 5 năm thiết lập được cơ sở kỹ thuật hoàn chỉnh và có những bước đầu về đưa kỹ thuật blockchain vào thí điểm ở một số lĩnh vực như logistics, viễn thông, tài chính, ..

Về lâu dài của xây dựng thành công nền tảng công nghệ thông tin, đó là việc phát triển chính phủ điện tử lên tầm cao hơn là chính phủ số. Đây là bước tiến chung cũng như phù hợp với Việt Nam khi tiến tới cách mạng công nghệ 4.0, số hóa.

Xã hội hóa các dịch vụ công tăng cường sự tham gia, giám sát của người dân vào quá trình thực hiện các dịch vụ công cộng một mặt gia tăng hiệu quả thực thi, một mặt giảm đi áp lực cho nhà nước.

Tiếp tục thực hiện kế hoạch quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì phát triển bền vững. Việt Nam đã triển khai và thực hiện được 2 năm còn 1 năm cuối trong giai đoạn đầu tiên 2017-2020.

Hỗ trợ Nhà nước thực thi các cam kết về OGP. Việc này cần thực hiện sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên OGP. Hỗ trợ cũng chủ yếu về kỹ thuật (tuyên truyền, phổ biến về OGP, giải quyết những tranh chấp…)

Cải tổ lại bộ máy hành chính công hiện nay đang ghồ ghề và phức tạp gây khó khăn trong việc thực hiện các công việc, chính sách công đồng thời không bảo đảm được trách nhiệm giải trình.

Tăng cường, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế sâu rộng. Tích cực tìm kiếm sự ủng hộ từ các quốc gia khác, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp nước ngoài, tạo được các vốn đầu tư giúp Chính phủ thực hiện được các chiến lược quốc gia.

2.3. Tiểu kết chương 2

Chương 2 là những đánh giá về thực trạng, thực tiễn thực thi các chính sách, pháp luật liên quan tới các tiêu chuẩn cốt yếu của OGP về minh bạch tài khóa, sự tham gia của người dân, công khai tài sản, tiếp cận thông tin và kiểm tra giá trị của Việt Nam. Từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục, hoàn thiện và củng cố những khó khăn, khiếm khuyết tồn đọng và đặt ra một lộ trình chung cho việc tiến vào ngưỡng cửa OGP cho Việt Nam.

KẾT LUẬN Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

Các nhà nước trên thế giới đang chuyển đổi. Nhận thức và những biểu hiện thực tế về vị trí, vai trò, chức năng, cách thức quản trị của các nhà nước đã và đang thay đổi rất nhiều so với trước đây. Sự chuyển đổi đó do nhiều yếu tố khách quan chi phối, và dựa trên cơ sở lý luận về quản trị công mới mà được thể hiện một cách rõ rệt nhất qua mô hình Chính phủ mở. Mặc dù vẫn còn một số nội dung chưa cụ thể, song các lý thuyết về quản trị công mới và Chính phủ mở đang được hoàn thiện và đã chứng minh tính chất hợp lý, hiện thực của nó trong thực tế. Quản trị công mới và biểu hiện của nó là Chính phủ mở là xu thế mang tính quy luật trên thế giới trong thế kỷ 21. Xét tổng quát, không quốc gia nào có thể đứng ngoài hay đi ngược quy luật đó. Đặc biệt trong bối cảnh quốc tế chung, từ phản ứng dữ dội của người dân chống lại toàn cầu hóa, bất bình đẳng ngày càng gia tăng, và tình trạng thao túng của giới tinh hoa cầm quyền đang thúc đẩy chủ nghĩa dân túy và hệ tư tưởng chính trị phản động. Niềm tin vào chính phủ đang ở mức thấp nhất trong lịch sử. Các chính phủ đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng về tính pháp lý, và họ cần phải hoạt động một cách đáng tin cậy để giải quyết các mối quan ngại của người dân.

Mặc dù còn có những bất cập, hạn chế, song kể từ Đổi mới (1986) đến nay, Việt Nam đã và đang có những nỗ lực lớn nhằm thúc đẩy quản trị tốt trong tất cả các lĩnh vực, trong đó đặc biệt là cải cách hành chính và đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Việc tham gia OGP không chỉ thúc đẩy công cuộc chống tham nhũng, mà quan trọng hơn sẽ mở ra một triển vọng mới cho việc cải cách quản trị nhà nước ở Việt Nam theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế chung trên thế giới hiện nay cũng như đáp ứng các yêu cầu của toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế.

Với lần đánh giá gần nhất ( 2017), Việt Nam còn thiếu 4 điểm so với số điểm tối thiểu của OGP, với tình hình hiện nay ở Việt Nam, khả năng đạt thêm điểm nữa để đủ điều kiện (12 điểm) gia nhập OGP là khả quan khi mà Luật Ngân sách nhà nước 2015 sẽ được tính tới, Luật phòng, chống tham nhũng mới được sửa đổi, bổ sung cùng với tiềm năng về Luật về Hội; Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; Luật biểu tình, và đang nghiên cứu ý kiến đề xuất xây dựng Luật phản biện, giám sát xã hội. Việt Nam hoàn toàn có khả năng tham gia và hoà nhập tốt trong thiết chế OGP nếu có quyết tâm chính trị đủ mạnh và sự tích cực, chủ động trong công tác tổ chức. Khóa luận đã đưa ra những đề xuất trong đó cần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện khung pháp lý phù hợp tới các tiêu chuẩn của OGP, đề ra những giải pháp cụ thể mang tính thực tiễn cao. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần phải có sự liên kết, hợp tác trong khuôn khổ song phương, khu vực hay các diễn đàn quốc tế. Cần phải đặt nhẹ các lợi ích riêng, cá nhân sang một bên mà nhìn về sự phát triển chung của cả đất nước như cải thiện mối quan hệ giữa Chính phủ với các tổ chức xã hội, giữa Nhà nước với người dân. Đồng thời đề ra lộ trình trước mắt cũng như tầm trung, dài hạn cho việc tham gia OGP cũng như việc cải thiện, duy trì những nguyên tắc chung của Sáng kiến đối tác Chính phủ mở.

Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân em đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu ở nhiều nguồn tài liệu khác nhau, nhưng do những hạn chế về trình độ hiểu biết đồng thời do tính chất mới mẻ của OGP nên không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết nhất định. Rất mong nhận được sự bỏ qua của các thầy cô. Em xin trân trọng cảm ơn. Khóa luận: Khả năng vận dụng sáng kiến đối tác chính phủ VN.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Sáng kiến đối tác chính phủ mở OGP ở Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993