Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Lễ hội xa mã đình hoàng châu, xã hoàng châu, huyện Cát Hải, Hải Phòng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Lễ hội Xa Mã đình Hoàng Châu là một lễ hội độc đáo, mang nhiều nét văn hóa truyền thống của người Cát Hải. Không chỉ thể hiện ở nét truyền thống vốn có của vùng biển, mà đối với họ đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tâm linh mối người dân nơi đây.
Nội dung chính
2.1. Bước đầu nhận diện lễ hội
2.1.1. Lịch sử hình thành lễ hội
2.1.1.1. Nguồn gốc và tên gọi của lễ hội
Ăn sâu trong tiềm thức của người dân Cát Hải đó là các ngày lễ lớn trong năm tại đình làng để tưởng nhớ đến vị thần mà họ tôn thờ. Họ có 3 lễ hội lớn và được tổ chức chính hàng năm. Đó là lễ hội Chèo thuyền được tổ chức ngày 21 tháng Giêng; thứ hai là lễ hội cầu ngư tổ chức vào mùng 1 tháng 4 âm lịch; và thứ ba là lễ hội Rước Kiệu thánh ngày 10 đến 12 tháng 6 âm lịch hàng năm. Riêng ở xã Hoàng Châu cúng tổ chức vào những ngày này nhưng có lễ hội độc đáo hơn đó là lễ hội Xa Mã.
Theo truyền thuyết các cụ trong làng kể lại rằng; “trước kia khi đi trấn quan ải Đông Hải Đại Vương thường có hai tuấn mã đi trước, đi đến đâu thắng đến đó. Khi Ngài hóa hai tuấn mã theo ngài chinh chiến cũng được nhân dân thờ tự, và họ gọi là Ông Xa Mã”. Nhưng cũng có những câu chuyện truyền lại rằng “khi ngài trấn ải ở nơi đây, ngài chăm lo cho dân, mở hội khao quân dân thường tỏ chức hội kéo ngựa cho quân vui”… có câu chuyện lể rằng, khi xưa giặc sang xâm chiếm bờ cõi nước ta, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, đói khổ… triều đình đã sai hai đạo quân ra vùng đông bắc dẹp giặc, yên dân, bảo vệ biên giới vùng biển đông của Đại Việt. Nên ngày nay, mỗi khi tổ chức lễ hội, người dân đều tiến hành tổ chức lễ xa mã giữa hai giáp là giáp Đông và giáp Tây. Nhiều huyền thoại đến nay với người dân Hoàng Châu đã thành cái lệ. Họ tờ tự, và tổ chức đang hương lễ hội hàng năm. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Ngày 10 tháng 6 là ngày thắng trận Ưng Thiên, có khi là ngày giỗ Mẫu, cũng có khi là ngày mà Vua ra lệnh tổ chức để tưởng nhớ công ơn… nhưng trên thực tế cho thấy, lễ hội thường được tổ chức vào những ngày nông nhàn, để người dân được vui chơi sau những ngày làm việc mệt nhọc. Khác với cư dân nông nghiệp nhàn rỗi những ngày xuân thu nhị kỳ, thì những ngư dân Cát Hải lại có những ngày nông nhàn và tháng 6, họ phụ thuộc vào thiên nhiên, làm nghề chài lưới tháng 6 có gió Nam to, gió Đông lớn không thể đi biển, nên những ngày tháng 6 là những ngày nông nhàn với họ, tập trung đông đủ trong xóm ngoài giáp.
Theo các cụ già làng kể lại, khi dân làng chuẩn bị làm đình, có cắt cử một số người ra vùng Đông Bắc Quảng Ninh mua gỗ để vè làm đình làng, gỗ đã mua xong, họ đã đóng thành bè để theo dòng mà về nhà. Nhưng kỳ lạ thay, ko có gió, trời yên biển lặng, bè không thể di chuyển. Họ đành cầu khấn thần linh hướng Biển Đông và trời đất cho gió để mang gỗ về xây đình. Rồi chợt gió đông nổi lên rất mạnh như có phép màu nhiệm, thổi gió đưa bè xuôi dòng về kịp thời gian dựng đình. Từ đó người dân lấy ngày 10 tháng 6 hàng năm là ngày dựng đình làm lễ hội tưởng nhớ người các vị thần Đông Hải và Nam Hải.
Tổ chức cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân khang vật thịnh cho người dân vùng biển, để tưởng nhớ đến vị thần Bản Thổ, thần hoàng làng, Mẫu và hai vị xa mã.
Khác với lễ Nghinh Ông của ngư dân miền Trung, họ tổ chức như nghi lễ của một đám tang hay đám cải táng rồi hát bả trạo…giống như đám tang truyền thống Việt Nam, mà với ngư dân Cát Hải, họ thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng như một vị thành hoàng làng với những nghi thức như của cư dân nông nghiệp: có xôi, oản, hương, hoa, thịt lợn, thịt gà, đặc biệt là có bành giầy – một sản phẩm không thể thiếu với cư dân trồng lúa…có văn tế trong các lễ hội truyền thống nông nghiệp không hát Bả trạo như lễ Nghinh Ông. Bên cạnh đó, lễ hội rước kiệu tế thần được tổ chức theo nghi thức lễ truyền thống của các lễ hội truyền thống miền Bắc Bộ. Các trò hội truyền thống nông nghiệp, ngư nghiệp được kết hợp tổ chức như thi làm bánh giầy, bánh trưng, kéo co, hát quan họ, thi chèo thuyền, đan lưới… tạo cho lễ hội ở nơi đây sự giao hòa giữa văn hóa biển với văn hóa đồng bằng, giữa ngư nghiệp với nông nghiệp.
2.1.1.2. Địa điểm và thời gian tổ chức lễ hội
Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu được tổ chức hàng năm vào ngày mùng 9 đến ngày 12 tháng 6 âm lịch hàng năm tại Đình Hoàng Châu, xã Hoàng Châu, huyện Cát Hải, Hải Phòng.
Đình Hoàng Châu hay còn gọi là đình Vàng Châu, thờ Lý triều quốc sư hiển thánh sắc phong Dực Vũ Đại Vương thượng đẳng thần, húy Đoàn Thượng. Ngài đã có công mở trường khuyên học, đánh giặc Ưng Thiên, bảo an cho nhân dân.
Vào khoảng thế kỷ thứ XVI, đình Hoàng Châu bây giờ cách đình Hoàng Châu xưa kia không quá 3 km, cách Đồ Sơn 3km, sớm tối cùng nhau nghe chung tiếng gà gáy. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Trải qua thời gian, khí hậu, môi trường bào mòn và thiên tai bão lụt… qua mấy trăm năm lịch sử, địa mạo địa chất thay đổi lấn chìm và bào mòn của nước biển đã đẩy lùi Cát Hải ra xa như ngày nay. Làng Hoàng Châu cũng từ đó xa dần và chuyển về hướng đông Chương Cao như ngày nay. Đình Hoàng Châu xưa kia không thể di chuyển theo bởi sự hạn chế về sức người và phương tiện còn nhiều thô sơ, người dân nơi đây đành để lại ngôi đình, giao cho xã Lương Xâm, huyện An Hải, Hải Phòng thờ tự.
Hiện di tích còn lại là chiếc sập đá Long Chầu Nguyệt ở đông Chương Cao gần đền La Văn. Đến thế kỷ thứ XVII, nhân dân địa phương có mua một căn nhà gỗ ở Hà Nam thuộc tỉnh Quảng Ninh về làm đình. Đình làng Hoàng Châu hiện nay được xây dựng từ thế kỷ XVII, thời vua Gia Long. Được UBND thành phố Hải Phòng cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố năm 2005.
Hiện vật của đình tồn tại đến ngày nay còn có 5 bộ kiệu trong đó có 2 bộ kiệu có từ thế kỷ XVII và 3 bộ kiệu thừu thế kỷ XVIII; 2 bộ ngai to và 2 bộ ngai nhỏ; 1 khám và một pho tượng thờ công chúa Liễu Hạnh; 1 đôi long mã có từ thế kỷ XVIII đây là một tuyệt tác nghệ thuật độc đáo tính đến nay đã hơn 289 năm; 2 chấp Kính và 1 long đình của thế kỷ XVIII.
Đình hiện nay được xây dựng và trùng tu qua nhiều lần :
- lần 1 trùng tu năm Bính Thân 1916
- lần 2 năm Canh Thìn 2000
- lần 3 được xây mới lại cung thờ 2009 năm 2010 tức năm Canh Dần cổng đình làng được xây mới hoàn toàn đánh dấu một công trình tổng thể gồm đình, chùa văn từ và 2 miếu trong làng. Văn từ thờ đức thánh Khổng Tử; Miếu Đông thờ Thành Hoàng Phó Nguyên Súy, Miếu Tây thờ Đức Bản Thổ Đô Nguyên Súy, chính cung đình thờ Tiên Thiên Thánh Mẫu – chính vị Bà Đức Chúa Liễu Hạnh; còn chùa Thờ Phật.
Có thể bạn quan tâm:
2.1.2. Các vị thần được tôn thờ trong lễ hội
2.1.2.1. Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng và quá trình thiêng hóa a) Thân thế và sự nghiệp
Theo một số nhà sử học đã từng khảo sát điền dã cho thấy có những làng trước đây thờ Đức Thánh Đông Hải đại vương Đoàn Thượng, sau thất lạc ngọc phả thần tích, sắc phong nên không hiểu biết về Ngài đã dỡ bỏ nơi thờ tự, thậm chí là nhầm Ngài với nhân vật lịch sử khác. Vậy Ngài là ai? Câu hỏi đó đến nay vẫn còn nhiều điều không thống nhất về ngày tháng năm sinh cũng như thân phụ và thân mẫu của Ngài. Nhưng đến nay có nhiều nơi tôn thờ Ngài như vị thành hoàng làng, và việc đó đã trở thành tín ngưỡng văn hóa ăn sâu vào trong tiềm thức của người dân ở nhiều địa phương trên nhiều tỉnh thành miền bắc nước ta.
Giải thích về hiện tượng tín ngưỡng thờ cũng Đông Hải đại vương Đoàn Thượng ở xứ Đông, Cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng cho rằng: “Trong tín ngưỡng tâm linh, nếu xứ Đoài (Sơn Tây) có Thánh Tản (Tản Viên Sơn Thánh – Sơn Tinh của người Việt, vua Pa Ví (Ba Vì) của người Mường), xứ Bắc có Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Dóng), xứ Nam có Chử Đồng Tử, rồi Mẫu Liễu Hạnh, thì xứ Đông đời đời rạng danh Đông Hải Đại Vương với hàng trăm đền thờ từ Bần Yên Nhân dọc xuống tận Hải Phòng. Thần là ai ? Ai biết đi điền dã dân tục – sử thì sẽ hiểu: Nguyên lai, đây là những đền thờ Cá – Ông – Voi của ngư dân và cư dân ven biển; sau thời Lý sang thời Trần, thần Đông Hải – Hải Đông đã được nhân cách hoá và hoá thân vào nhân vật lịch sử có thật: Đó là tướng quân Đoàn Thượng, người đã cùng tướng quân Hoài Đại Vương xứ Bắc Nguyễn Nộn làm nghiêng ngả lịch sử cuối Lý, đầu Trần…Để cuối cùng vì chia rẽ nhau, cả 2 tướng quân xứ Đông, xứ Bắc đều thua trí, thua lực của dòng họ Trần gốc dân chài xứ Nam…” [6, tr. 396]. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Theo Đại tá Đoàn Văn Minh, hội viên Hội khoa học lịch sử Hải Phòng nhận định: “Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng là danh tướng đức tài, gồm đủ nhân, trí, dũng, văn võ kiêm toàn, là một đại thần trung thành của vương triều nhà Lý, có công lao to lớn với dân với nước, Ngài thực hành “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên”, coi quốc gia là trọng, luôn chăm lo cho nhân dân”.
Theo “Việt Điện U Linh” của Lý Tế Xuyên, Đoàn Thượng là một trung thần của nhà Lý “Anh liệt Chinh khí quân”. Sau khi Ngài mất được sắc phong là “Đông Hải Đại Vương Thượng Đẳng Thần” [13, tr.173]. Dù vậy, đến nay vẫn còn nhiều điều không thống nhất về Ngài.
Do Ngọc phả không còn, nhiều nơi thờ tự nhưng lại gắn với nhiều thần tích khác nhau có đôi khi còn nhầm Ngài với các vị thần khác, nên có sự thống nhất về quê quán nhưng lại nhiều sai lệch về ngày sinh và ngày hóa của Ngài. Trước hết theo các truyện và sự tích về ngài đã có sự sai lệch:
Theo Truyện Đoàn Thượng Đông Hải Đại Vương, Đoàn Thượng sinh ngày mùng 10 tháng 2 năm Giáp Thìn (1184) và hóa ngày mùng 6 tháng 8, thọ 56 tuổi [3, tr.914 – tr.918].
Nguyễn Văn Thắng, với luận án tiến sĩ “Lễ hội cổ truyền ở Hưng Yên” [9,tr.78] có dẫn chứng sau:
Theo Truyện Đoàn Thượng Đông Hải Đại Vương, Đoàn Thượng sinh ngày mùng 10 tháng 2 năm Giáp Thìn (1184) và hóa ngày mùng 6 tháng 8, thọ 56 tuổi (Bản AEa 5/8)[54, tr.914 – tr.918].
Nhưng trong Truyện Đoàn Thượng triều Lý, Ngài sinh ra tại hương Xuân Độ, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu (nay là Thung Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Ngài hóa ngày 10 tháng 12 tại làng Yên Nhân (Bản Aea 5/1-2) [54, tr.913]
Trong Bản Sự tích Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ghi Đoàn Thượng hóa ngày 10 tháng Giêng [54, tr.918 – tr.919].
Nữa là Bản Sự tích hai anh em Đông Hải Đại Vương và Tây Hải Đại Vương tại xã Đa Cốc, tổng Đa Cốc, huyện Vũ Tiên lưu truyền Ngài hóa ngày 12 tháng 7 (Aea 5/3 – 2 (3)) [54, tr.922 – 924]”.
Cùng đó là số liệu của các Thần phả tại các đình miếu thờ Ngài cũng có sự sai lệch, có Thần phả ghi Ngài sinh ngày 12 tháng 8, có Thần phả ghi là ngày tháng Giêng. Thần tích tại làng Đại Cầu, tổng Lam Cầu, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ghi ngày hóa của Ngài là 15 tháng 7.
Cho đến nay vẫn chưa tìm được số liệu chính xác với những tư liệu hiện có như ngày nay. Nhưng theo những thông tin mà con cháu dòng họ Đoàn tại các tỉnh thành trong cả nước cung cấp cho Đại Tá Đoàn Văn Minh, dựa theo các thông tin này có thể dùng số liệu ngày sinh của Ngài là ngày mùng 7 tháng Giêng năm Nhâm Dần (1182), và ngày 12 tháng 8 năm Tân Sửu (1181), tại làng Xuân Độ, còn gọi là Bổng Độ, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu, nay là thôn Thung Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Họ Đoàn là một dòng họ quý tộc, nhiều đời làm quan đại thần và làm tướng cho các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý và có nhiều công lao trong việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập của nước Đại Việt. Theo Giáo Sư, nhà sử học Ngô Đăng Lợi: “họ Đoàn là một trong những dòng họ có tiếng của nước ta, thường sản sinh ra những nhân tài danh vọng trên nhiều lĩnh vực. Nhưng dường như họ này phát về văn, còn về võ không nhiều. Vì thế, tướng quân Đoàn Thượng nổi lên như một vị tướng văn võ toàn tài, đạo cao đức trọng của họ Đoàn trong lịch sử. Chính sử nước ta, sự tích của Ngài ghi lại không nhiều, các sử gia triều Trần lại có điều thiên lệch. Nhưng trong dân gian thì khác hẳn, ở các đền miếu thờ Ngài, những bản ngọc phả, sắc phong của các triều đại, những bia ký, hoành phi, câu đối, những huyền thoại đều thống nhất ca ngợi Đông Hải đại vương Đoàn Thượng: sống là danh tướng, thác là thần thiêng; bậc trung thần tiết liệt của triều Hậu Lý (1010-1225), vị trấn thủ miền Hải Đông có nhiều công lao, thành tích giữ yên bờ cõi, chăm sóc dân lành, đem lại cơm no, áo ấm cho gia đình họ…”.
Theo cuốn Đức Thánh Đông Hải đại vương Đoàn Thượng [3,tr.9] thì tổ tiên họ Đoàn phát tích tại Sơn Lĩnh, chuyển cư đến Lai Cáo (còn gọi là Noi Cáo hay Lôi Cao) nằm bên bờ sông Nhuệ, nay là địa bàn ba xã Phú Diễn, Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh của huyện Từ Liêm, Hà Nội. Vào năm Canh Thân, niên hiệu Thuận Thiên thứ 11 (1020) thì dời về Tô Xuyên, nay thuộc xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, rồi đến ở đất Hồng Thị, Cổ Phục thuộc Hồng Châu (nay là huyện Kim Thành và Trường Tân – Gia Lộc tỉnh Hải Dương); đến năm 1170 lại chuyển sang định cư ở khu Trại Mắt, nay là thôn Tu Trình, xã Thuỵ Hồng, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình. Về quá trình chuyển cư này đã được phản ánh trên câu đối ở Từ đường họ Đoàn: “Tiền cư Lai Cáo, hậu đáo Tô Xuyên, ký sử Hồng Châu, lưu cổ tích – Ốc tại Tu Trình, an cư Đoạn Xá, vân nhưng kế thế, cái tiền cơ”. Nghĩa là: Họ Đoàn trước ở Lai Cáo, sau đến Tô Xuyên, công huân sử sách ghi tại đất Hồng Châu, thần tích còn lưu giữ ở các đình đền – Gốc nhà ở làng Tu Trình, yên cư ở Đoạn Xá, đời đời dòng dõi giữ vững thế gia, mở mang cơ nghiệp tổ tiên. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Căn cứ vào sách “Đoàn tộc đại tôn phả ký” của cử nhân Đoàn Hải Huệ, tri phủ Vĩnh Khang và con ông là cử nhân Đoàn Viết Yến, Giám sinh Quốc Tử Giám chép năm Quý Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483) và sách “Đoàn tộc phả ký” của Tiến sĩ Đoàn Phúc Luận, làm quan tới chức Tổng tuần sát tam phủ, soạn năm Quý Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ 13 (1613), Đại Tá Đoàn Văn Minh đã nghiên cứu một cách đầy đủ về phả hệ 10 đời thống tôn của Đông Hải đại vương Đoàn Thượng, tính từ Đoàn Liêm Duy, tự Phúc Thái, người làng Lai Cáo (Từ Liêm – Hà Nội), có công phò giúp Khúc Thừa Dụ tấn công phủ Tống Bình, đánh đuổi nhà Đường xâm lược. Đời Tổ chín đời Đoàn Tướng Công húy Liêm Duy, tự Phúc Thái có công giúp Khúc Thừa Dụ đánh đuổi giặc Đường năm 906. Tổ tám đời là Đoàn tướng công húy Duy Thượng, tự Phúc Cao, hiệu Văn Lượng làm đại tướng giúp Ngô Vương Quyền đánh giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Tổ bảy đời là Đoàn tướng công húy Văn Lan, tự Phúc Vạn giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Tổ sáu đời là Đoàn tướng công húy Văn Liễn, tự Phúc Trung, giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống trên sông Bạch Đằng năm 981. Tổ năm đời là Đoàn tướng công húy Văn Khâm, tự Phúc Vấn làm quan Thượng thu bộ công kiêm giáo thụ Quốc Tử Giám đời Lý Nhân Tông. Tổ bốn đời là Đoàn tướng quân húy Thiện Hồng, tự Phúc Hương đỗ khoa thi năm Bính Dần (1086) đời Lý Nhân Tông có công dẹp loạn ở Thượng Nguyên (Thái Nguyên). Tổ ba đời là Đoàn tướng công húy Quang Dao, tự Phúc Trực đỗ khoa thi năm Bính Thân (1116), có công khởi dựng thương cảng Vân Đồn và giữ yên bờ cõi phía Đông Đại Việt. Đoàn Quang Dao sinh ra Đoàn Thiện Hổ, Đoàn Văn An, Đoàn Phúc Lãnh, Đoàn Chủ và Đoàn Thị Ngọc. Tất cả đều là những bậc hiền tài:
Đoàn Thiện Hổ tự Phúc Thung, có tên là Đoàn Hiền làm quan đô đốc thần vũ thủy quân, có công dẹp giặc ở Bãi Ngang ( nay là xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa) đời nhà Lý – năm Đại Định thứ 15. Đoàn Văn An tự Phúc Quang làm quan nhà Lý, vợ là bà Trương Thị Ban sinh ra Đoàn Thưởng – người có công bình Chiêm Thành được vua Lý Cao Tông phong tước công Bạ Hầu, giúp Đoàn Thượng phù Lý chống Trần.
Đoàn Phúc Lãnh, tự Phúc Hiền, làm quan tới chức Huyện lệnh Trường Tân, lộ Hồng Châu (Gia Lộc – Hải Dương) đời vua Lý Anh Tông, niên hiệu Chính Long Bảo Ứng đời thứ 3. Lại có công trị thủy vùng Đông Bắc, lộ Hải Thanh (nay thuộc Thái Bình, Nam Định). Ngài là chú ruột và cũng là cha nuôi dạy Đoàn Thượng. Phu nhân ngài là bà Lý Thị Thông hiệu Từ Thiên sinh ra Đoàn Văn Lôi, bà cũng chính là nhũ mẫu của Đoàn Thượng và Hoàng Tử lý Hạo Sảm, sau là vua Lý Huệ Tông [3, tr.17 – 18].
Đoàn Chủ là tướng nhà Lý, tháng 9 năm Đinh Mão (1207) cùng tướng quân Đoàn Thượng nổi dậy ở Hồng Châu. Còn bà Đoàn Thị Ngọc là hoàng phi của vua Lý Anh Tông. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Đoàn Văn Lôi con của Đoàn Phúc Lãnh và nhũ mẫu Lý Thị Thông, là tướng của nhà Lý, được Vua Lý Huệ Tông phong tước Hồng hầu, sinh ra Đoàn Nguyễn và Đoàn Cấm cùng Đoàn Thượng phù Lý chống Trần (1217 – 1218).
Đoàn Thiện Hổ sinh ra Đoàn Thượng, Đoàn Đại, Đoàn Hoà, đều làm tướng triều Lý. Đoàn Thượng sớm mô côi cha mẹ, nhờ chú ruột là Đoàn Phúc Lãnh nuôi dạy, nên được ở với nhũ mẫu của vua Lý Huệ Tông trong hoàng cung nhà Lý từ tấm bé, học hành đến nơi đến chốn. Là người có sức khoẻ, thông minh, quyền biến, Đoàn Thượng thi đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Giáp Tý, niên hiệu Thiên Bảo Gia Hựu thứ 3, đời vua Lý Cao Tông (1204)” [3, tr. 17].
Theo Bản Đông Hải Đại Vương Thượng Đẳng tối linh thần tích bằng chữ Hán, được tạm dịch:
- “Đại vương húy Thượng họ Đoàn
- Thân phụ Ngài là Đoàn Trung, một hào trưởng có thế lực và có uy tín trong vùng
- Thân mẫu Ngài là Lý thị, người họ hàng gần gũi với Hoàng tộc đương triều
- Quê Ngài: làng Thung Đô, huyện Gia Lộc, Châu Hồng”.
Theo ngọc phả ở Hải Dương, ông sinh ngày 10 tháng Giêng năm Giáp Thìn (1184) đời Lý Cao Tông, là con của Đoàn Trung và bà Hoàng Thị Mỹ. Sử sách thống nhất ghi ông người làng Thung Độ, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Việt Nam.
Cho đến nay thân mẫu của Ngài họ tên là gì? Các sách cổ không chép tên họ của song thân của Ngài, chỉ trong một số đình miếu có ghi nhưng vẫn là của người đời sau gán ghép như kiểu Trần Thị Dung mà thôi. Không bàn đến tên của thân mẫu của Đoàn Thượng mà chỉ bàn đến họ. Bà họ Hoàng hay họ Lý? Các tài liệu chính thức đều xác nhận Đoàn Thượng và Lý Hạo Sảm chung một người Vú nuôi. Vậy thì thân mẫu Đoàn Thượng phải là người gần gũi hoặc chính là người của Hoàng Tộc. Nói cách khác Bà có thể là người họ Lý. Họ Hoàng chỉ là một cách gọi không trực tiếp họ Vua.
Như vậy xét theo gia phả dòng họ Đoàn thì Đoàn Thượng là hậu duệ đời thứ 8 của Đoàn Duy Thượng, tự Phúc Cao; và là hậu duệ đời thứ 5 của Đoàn Văn Khâm, tự Phúc Vấn. Con trai của Đoàn Thiện Hổ. Nhưng chẳng bao lâu sau:
- “Mười lăm tuổi, người mẹ hiền từ lâm trọng bệnh đã đứt gánh quy tiên.
- Bốn năm sau, người cha tôn kính cũng về cùng Tiên Tổ.
- Niềm đau thương con trẻ mất mất mẹ cha chưa mấy nguôi ngoai.
- Chí lập nghiệp nam nhi thời ly loạn đã dần nhen nhóm”
Đoàn Thượng về ở với chú là Phúc Lãnh, được học hành cẩn thận, sớm hưng danh sự nghiệp. Rồi lấy vợ, vợ cả sinh ra Đoàn Hưng Nhượng, năm 1220, làm chủ tướng giữ thành Ngọc Trục, chống Trần phù Lý, lập căn cứ ở vùng đất nay là xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, có đền thờ ở Ngọc Trục. Người vợ thứ là bà Phạm Thị Đoan, người làng Gia Viên, huyện An Dương, nay là Phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, Hải Phòng. Bà đã sinh hạ cho Ông hai người con là Đoàn Văn và Đoàn Thị Châu. Tướng Đoàn Văn giữ chức Đô thống trấn thủ Vân Đồn, còn gọi là Đảo Quan (nay là huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh). Sau khi thất thủ chạy vào Núi Ngọc, Ái Châu (Thanh Hóa) để khai hoang lập nghiệp.
Đoàn Thượng được ở với nhũ mẫu của vua Lý Huệ Tông nên được học hành đầy đủ, đến nơi đến chốn và nhất mực trung thành với triều đình nhà Lý. Trong dòng họ Đoàn, đời nào cũng là quan cho triều đình nhà Lý, có người làm đến thái sư với nam nhi và dạy dỗ các hoàng tử, công chúa trong cung…, nhưng Đoàn Thượng lại xuất hiện như một người tài giỏi với văn võ thao lược, có sức khỏe, thông minh, siêng học hành lại có tính quả quyết. Sự nghiệp của Ngài chính thức khởi nghiệp từ năm 1204, tức năm Giáp Tý, niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu thứ 3 đời Lý Cao Tông. Ngài đã thi đỗ Mậu tài và ra làm quan cho nhà Lý khi Ngài 23 tuổi.
Từ đó, Ngài được triều đình trọng dụng, một năm sau tức năm Ất Sửu (1205), giặc Muỗi ở Quốc Oai (Hà Tây) chiếm giữ và cướp phá với lực lượng hùng mạnh, Ngài được vua Lý Cao Tông cử về trấn giữ và cai quản vùng Hồng Châu (gồm Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Thái Bình, Đông Quảng Ninh, Bắc Ninh…). Nhân dân được hưởng ơn Ngài được thay đổi cuộc sống, lại trừ được bọn cướp biển hoành hành tại vùng biển phía Đông…
Nhưng hai năm sau tức năm Đinh Mão (1207), thấy nhân dân lầm than đói khổ, lại bị chính quan lại trong triều cướp bóc, thương dân, Ngài mở kho cứu thế. Nên trong cung bọn gian thần nịnh bợ, sàm tấu Đoàn Thượng làm trái luật lệ triều đình, nên Ngài đã bị bắt giam. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Sinh ra vào thời loạn lạc, cuối thời Lý, đầu thời Trần, lại giữ chữ Trung, một lòng phò giúp nhà Lý. Nhưng lúc này cơ nghiệp nhà Lý đã suy đồi, nhà vua chơi bời vô độ, chính sự, hình pháp không rõ ràng, lại gặp nạn thiên tai mất mùa, đói kém liên miên, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Năm 1202, người làng Đại Hoàng bị bắt đi phu xây cửa Đại Thành ở Thăng Long cực khổ quá nên khởi nghĩa. Người chỉ huy là Phí Lang cùng với Đinh Khả, người tự xưng là hậu duệ nhà Đinh. Nhà Lý sai Trần Hinh và Từ Anh Nhĩ đi đàn áp nhưng bị đánh bại, Anh Nhĩ chết tại trận. Tháng 5 năm 1205, vua Lý Cao Tông lại sai Đỗ Anh Doãn đi đánh, vẫn thua. Đến tháng 10, Đàm dĩ Mông đem quân đắp lũy để đánh nghĩa quân, cùng lúc quân Phí Lang đốt hành cung Ứng Phong (Nam Định), phá kho thóc, đốt nhà cửa. Đến tháng 8 năm đó, vua đành phải dụ hòa. Phí Lang và hào trưởng ra hàng, song thực tế từ đó họ đã hoàn toàn chiếm lĩnh Ninh Bình.
Trước những rối ren mà triều đình không còn sức chống đỡ, nhận thấy không thể cứu vãn tình thế của nhà Lý với các chính sách và cai quản không hợp lý của vua Lý Cao Tông. Tháng 3 năm 1207, Đoàn Thượng và Đoàn Chủ nổi dậy chống lại triều đình. Ông xây đắp thành, đắp lũy được nhân dân hét lòng ủng hộ và lực lượng ngày càng lớn do được lòng dân chúng, nên nhân dân theo ông ngày càng nhiều. Lý Cao Tông sai đem đại binh đi đánh. Đàm Dĩ Mông đem quân đạo Đại Thông (miền Hà Đông cũ dọc sông Đáy), Phạm Bỉnh Di đem quân đạo Khả Liễu, Trần Hinh đem quân đạo Phù Đái (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), Bảo Trinh hầu đem quân đạo Nam Sách (Nam Sách, Hải Dương), cùng họp nhau đánh Đoàn Thượng. Thấy thế lực quân triều đình quá mạnh, Đoàn Thượng liền ngầm sai người đem của cải đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, nguyện xin đem quân chúng theo Du. Cuộc liên minh giữa Đoàn Thượng và Phạm Du bắt đầu từ đó. Phạm Du cố vì Thượng mà xin với Cao Tông tha cho ông.
Đầu năm 1209, vua Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An. Du làm trái lệnh chống triều đình. Vua Lý Cao Tông liền sai Phạm Bỉnh Di lấy quân ở Đằng Châu (thị xã Hưng Yên) để đánh Phạm Du. Du trở về Cổ Miệt (Hồng Châu) cùng với Đoàn Thượng, Đoàn Chủ ở hợp binh, đánh Đằng Châu, Bỉnh Di bị thua. Tháng 2 năm 1209, Bỉnh Di lại đem binh ở Đằng Châu, Khoái Châu đi đánh Du. Phạm Du thua trận đành bỏ trốn. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết.
Tháng 4 năm 1209, Phạm Bỉnh Di lại đánh quân Đoàn Thượng. Tuy nhiên, trong lúc Đoàn Thượng suy yếu thì Phạm Du ngầm sai người về kinh tố cáo với vua Cao Tông và cho các quan lại trong triều Bỉnh Di đã tàn ác, giết hại người vô tội, Đoàn Thượng bị tình oan, xin về kinh đợi tội. Cao Tông sai Trần Hinh triệu Phạm Du về kinh, lại triệu cả Bỉnh Di về triều. Phạm Du đã nhanh chóng về kinh trước hầu Cao Tông, được vua tin theo; Bỉnh Di đến kinh sau, vào triều phụng mệnh. Cao Tông sai bắt Bỉnh Di và con là Phụ giết chết. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin đó, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Du cùng em là Phạm Kinh giết Bỉnh Di và con là Bỉnh Di là Phụ rồi cùng Cao Tông chạy trốn. Quách Bốc liền tôn hoàng tử nhỏ là Thầm lên làm vua. Cao Tông chạy về Tam Nông (Phú Thọ) nương nhờ nhà Hà Vạn, một thủ lĩnh miền thiểu số có thế lực.
Thái tử Sảm cùng mẹ là nguyên phi Đàm Thị và hai em gái chạy về Hải Ấp, Thái Bình, được thủ lĩnh địa phương là Trần Lý và Tô Trung Từ lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương. Thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung có nhan sắc, Lý Sảm bèn lấy làm vợ, nhân đó Trần Lý được phong làm Minh Tự, Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Biết tin thái tử Sảm lập triều đình riêng và tự ý phong tước cho Trần Lý, Tô Trung Từ,… nên vua Lý Cao Tông ở Quy Hoá muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi để liên lạc với Đoàn Thượng. Nhưng Du lại ham sắc, tư thông với công chúa Thiên Cực, nên lỡ hẹn với ông. Khi thuyền của ông đến đón không gặp Du, bèn trở về. Khi Du lên thuyền khác đi gặp họ Đoàn, tới Ma Lãng thì bị quân của hào trưởng Bắc Giang là Nguyễn Nộn và Nguyễn Nải đón bắt và giết chết.
Trần Lý và Tô Trung Từ bèn mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc. Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung.
Năm 1210 Cao Tông chết, thái tử Sảm lên ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Tô Trung Từ trở thành quyền thần trong triều. Sau một loạt biến cố, năm 1211, nhiều đại thần nhà Lý và cả Trung Từ bị giết. Cháu gọi Trung Từ bằng cậu là Trần Tự Khánh ở Hải Ấp lại mang quân về kinh, an táng Trung Từ.
Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nhân đó nói với vua Huệ Tông rằng: Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập.
Huệ Tông tin theo, nổi giận, bèn hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh và giáng Nguyên phi Trần thị Dung xuống làm Ngự nữ. Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Huệ Tông hạ chiếu tấn phong cho Đoàn Thượng là Thái Úy, quyền tiết chế các đạo quan của triều đình. Họ Trần kiểm soát được cả miền Lý Nhân (Hà Nam). Trần Tự Khánh tìm cách liên kết với hào trưởng Nguyễn Tự để đối địch với Đoàn Thượng. Trong thời gian này, nhà Lý hoàn toàn lương nhờ vào lực lượng họ Đoàn để chống lại nhà Trần. Sau đó Ngài được phong nhiều tước hiệu, như: Lý triều Quốc Sư, Thái Sư tể phụ, Kinh Đô phụ quốc, Thái Úy, quyền trưởng các đạo cấm quân, thống lĩnh tổng đốc binh sự, Tiết chế Nguyên Soái, Binh bộ thượng thư, Tham nghị Đô đài ngự sử, Tuần sát sứ giả, Đô Thống, Đốc bộ Sơn Nam, Đông Hải bản lộ Hồng Châu trấn thủ, Trợ tán Hoàng Gia huệ trạch. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Năm 1213, Đoàn Thượng phối hợp với quân triều đình đụng độ với Trần Tự Khánh. Tuy nhiên, lực lượng họ Trần mạnh hơn, có nhiều tướng giỏi hơn; trong khi đó quân nhà Lý do vua Huệ Tông và thái sư Đàm Dĩ Mông không có tài làm tướng chỉ huy nhanh chóng bị thua trận. Đoàn Thượng cử đi một đạo quân do Đoàn Cấm và Vũ Hốt chỉ huy nhưng do thế lực không cân sức, đã bị bộ tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đánh bại. Lý Huệ Tông thân chinh giao chiến nhưng sau lên Lạng châu.
Từ đó Ngài trở về cùng Hồng Châu, tháng 4 năm 1214, anh em họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang do tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đóng giữ. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc Ninh). Lúc đó nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xãSơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Miền Cam Giá lại tách khỏi phạm vi thế lực của anh em họ Trần, hình thành một thế lực mới. Cùng lúc đó, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang sau khi giao chiến với Đoàn Thượng cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh phóng hỏa đốt kinh đô rồi chạy về Lý Nhân (Hà Nam). Vua Huệ Tông phải lui đến hương Bình Hợp (Phúc Thọ, Hà Tây).
- “Huệ Tông bị ép xuống tóc đi tu chùa Chân Giáo.
- Chiêu Thánh ngây thơ, nhường ngôi báu cho chồng.
- Nhà Trần tuy chiếm được ngai vàng, nhưng còn đó lưỡng tướng Nguyễn, Đoàn giương cờ phù Lý”.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Lý Huệ Tông bị mắc chứng điên, chính sự không quyết đoán, giao phó cả chho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong cả nước dần dần đã về tay kẻ khác” [2, tập I, tr. 337]. Năm Mậu Dần (1218), nhà Trần đã dần tiêu diệt được các thế lực cát cứ. Lý Huệ Tông lại không có con trai chỉ có hai cong chúa là Thuận Thiên và Chiêu Thánh.
Sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), em họ là Trần Thủ Độ lên thay, tiếp tục thao túng nhà Lý. Năm 1225, ép Lý Huệ Tông nhường ngôi cho chiêu Thánh mới 7 tuổi và Thủ Độ sắp đặt đưa cháu là Trần Cảnh (con Trần Thừa) lên thay ngôi nhà Lý vào ngày 1 tháng 1 năm 1226, lập ra nhà Trần. Sát hại vua Lý Huệ Tông và hàng loạt các quan đại thần và thân tín nhà Lý.
Trần Thủ Độ mang quân đánh Đoàn Thượng nhưng không thắng, đành phải hứa hẹn phong tước cho ông trong suốt 10 năm. Thủ Độ định ngày hội họp, làm lễ minh thệ, phong vương cho Ông, nhưng Đoàn Thượng không đến họp.
Rồi ngấm ngầm cho vàng, gấm vóc cho Nộn, để Nộn đánh Đoàn Thượng. Nộn đã mừng thầm và tin theo.
b) Trở về vùng Hồng Châu và quá trình thiêng hóa
Vùng Hồng Châu xưa chính là vùng đất Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên ngày nay. Xét theo chiều dài lịch sử, vào thời nhà Lý, Yên Nhân là nơi đặt lỵ sở lộ Hồng Châu, một trung tâm kinh tê chính trị văn hóa xã hội lớn của xứ Đông. Giao thông thuận tiện có con đường cái chính xứ Đông Bắc chạy qua (nay là đường quốc lộ 5). Yên Nhân nằm trên bờ sông Hồng Giang, còn gọi là sông Bần chảy từ sông Hồng Hà tại Xuân Quan (Mỹ Văn) đổ nước vào sông Thái Bình, đem phù sa tưới mát phủ Thượng Hồng. Lòng sông xưa rộng trung bình khoảng trên 50m, sâu khoảng 10m, tháng Chạp mà nước vẫn đỏ hồng. Cửa Xuân Quan nay đã làm cống Xuân Quan. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Lộ Hồng Châu thời Lý còn có tên là lộ Đông Hải, lớn bằng hai lộ Hồng và Hải Đông thời Trần. Thời Trần, Lộ Hồng là phần đất tỉnh Hải Dương và Hải Phòng ngày nay. Lộ Hải Đông nay là đông Quảng Ninh và Cát Hải, Hải Phòng.
Chiến sự lịch sử diến ra ở nơi này lịch sử ghi chép còn chưa đầy đủ, nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu và tìm lại những dấu tích ở đây có thể hiểu được tình hình lúc đó thế nào trên mảnh đất Hồng Châu này. Sau khi nhà Lý trong thế suy vi (tháng 9 năm 1207) Đoàn Thượng và Đoàn Chủ đã về Hồng Châu xây dựng căn cứ chống lại nhà Trần, xây thành xưng vương. Vua sai Đàm Dĩ Mông, Phạm Bỉnh Di, Trần Hinh, Bảo Trinh họp quân đàn áp. Đoàn Thượng không chống nổi, ngầm mua chuộc quan trong triều là Phạm Du tâu vua rút quân về. Từ đó họ Đoàn ngày càng lớn mạnh, ngầm liên minh với Phạm Du, trở thành một trong ba thế lực lớn nhất đất nước thời cuối Lý (họ Trần, họ Đoàn và họ Nguyễn).
Họ Đoàn ở Hồng Châu (Hải Dương, Hải Phòng), thì Họ Trần ở Lưu Xá (Thái Bình). Bắt đầu là ông Trần Lý, vốn nghề đánh cá, sau giàu có, liên kết với họ Tô và họ Lưu trong vùng, mua 1 chức quan nhỏ, trở thành người có thế lực. Mới đầu họ ko tham dự gì vào các cuộc phân tranh, chỉ ngấm ngầm mở rộng thế lực, chiếm cứ Hải Ấp (là Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên ngày nay). Khi Quách Bốc nổi loạn, họ tạm về phe với Quách Bốc. Ngay trong năm 1209, họ Trần thôn tính phe Quách Bốc. Một thời gian sau, Tô Trung Từ qua đời vì tai nạn, nên họ Trần kế thừa luôn lực lượng của Tô Trung Từ rồi mở rộng thế lực. Cát cứ chính ở Thiên Trường, do hai anh em Trần Thừa và Trần Tự Khánh lãnh đạo (huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, phía hữu ngạn sông Hồng). Thế là họ đã bành trướng ra được ba vùng Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, và các địa phương như Bắc Ninh, Bắc Giang,… trở thành phe thống nhất quốc gia sau này. Từ trong tình hình chiến sự thay đổi đó, triều đình nhà Lý đến năm này thì họ chỉ còn nắm được khu vực quanh Thăng Long.
Họ Nguyễn ở Quốc Oai ( thuộc Hà Tây). Cầm đầu bởi Nguyễn Nộn là 1 tướng cũ của nhà Lý chiếm giữ phía bắc sông Đuống – tên cổ thời là sông Thiên Đức, gồm các quận Tiên Du, Từ Sơn, Quế Võ tỉnh Bắc Ninh ngày nay, cũng là một trong ba thế lực mạnh nhất thời cuối Lý. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc ở Đằng Châu ( Hưng Yên). Vốn là 1 hoạn quan được vua tin cẩn. Năm 1209, Phạm Bỉnh Di được lệnh mang quân đánh loạn Phạm Du. Nhưng đánh bại Phạm Du và Đoàn Thượng rồi, ông ta lại bị vu tấu và bắt giam, giết chết. Tướng dưới quyền là Quách Bốc nghe tin giận quá, kéo quân đánh vào kinh đô, khiến Lý Cao Tông phải bỏ chạy. Ban đầu, phe phái này liên minh với họ Trần nhưng ngay trong năm ấy bị chính họ Trần tiêu diệt và thôn tín.
Các thế lực khác tại các vùng lân cận cũng có phần can dự vào chiến sự lúc này: khởi nghĩa Phí Lang ở làng Đại Hoàng (Ninh Bình) nổi dậy như một thế lực khác nhưng cúng bị nhà Trần thôn tính vào tháng 5 năm 1216. Một thế lực cát cứ khác là Ô Kim hầu Nguyễn Bát ở Ô Kim ( Hoài Đức thuộc Hà Tây), cầm đầu bởi 1 tướng cũ của nhà Lý, tuy chống triều đình nhà Lý nhưng không theo họ Trần. Có một dạo nhà Lý phải nương nhờ họ để chống lại Đỗ Át, Đỗ Nhuế ( là Từ Liêm thuộc Hà Nội bây giờ) hai tướng cũ của nhà Lý, nổi loạn vào tháng 4 năm 1216 nhưng không thắng. Khi Lý Cao Tông bị loạn Quách Bốc, Ông đã chạy lên nương nhờ họ Hà ở Quy Hóa (Yên Bái, Tuyên Quang dọc sông Hồng). Một họ miền núi có thế lực… Thế lực này tồn tại đến tận khi nhà Trần thống nhất đất nước, nhưng không can dự gì vào bất cứ cuộc xung đột nào, dù là một phe mạnh.
Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực này tự làm yếu nhau. Cuộc phân tranh bắt đầu chấm dứt vào năm 1225 khi nhà Trần thay thế nhà Lý. Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228. Nhưng không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã. Nhà Trần chấm dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm nghiêng ngả dưới thời Lý. (số liệu về năm mất còn nhiều điều chưa thống nhất).
Sau hàng loạt biến cố khác, thế lực của Trần Tự Khánh ngày càng mạnh hơn, buộc vua Huệ Tông phải dựa vào họ Trần vào tháng 4 năm Bính Tý (1216). Nhiều thế lực cát cứ lần lượt bị Trần Tự Khánh đánh dẹp. Tuy nhiên, bộ tướng của Khánh là Nguyễn Nộn lại phản họ Trần mà cát cứ ở Bắc Giang.
Tháng 6 năm 1217, Đoàn Thượng được phong là Đông Hải Đại Vương nhưng nhà Trần đã gả em gái là Trần Tam Nương cho Đoàn Văn Lôi để bớt đi một thế lực chống đối quan trọng. Thấy thế lực họ Trần mạnh, ông tạm quy hàng triều đình, được phong tước vương và vẫn giữ vùng Hồng châu.
Rồi trong triều Trần Thủ Độ đã cấu kết với Nguyễn Nộn âm mưu giết hại Phạm Du và Đoàn Thượng. Hai tướng hẹn gặp nhau ở Đồng Đao vào ngày mùng 6 tháng Chạp năm 1238 [3, tr.28, “Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng”, Đoàn Văn Minh]. Nhưng do tính tình Phạm du ham chơi tiểu sắc mà đã quên mất, trung tín Ngài tin theo và đã đến chỗ hẹn một mình. Rơi vào cạm bẫy của Nộn. Truyền thuyết kể lại rằng khi Ngài bị chém trên cổ chỉ còn dính một ít da và Ngài đã tháo đai lưng ra buộc lại nhưng chạy đến vùng Mao Điền thì nằm xuống và mối đùn thành gò mả, từ đó người dân lập đền thờ cúng.
Sau đó con trai, con gái và gia quyến và sản vật của Hồng Châu đều bị cướp bóc. Và toàn bộ đã về tay nhà Trần khi Nguyễn Nộn đột ngột qua đời. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Xét dưới góc độ lịch sử, tình hình chiến sự thời Lý mạt có nhiều biến động, nhân dân lầm than, đói khổ, vua chơi bời vô độ, thế lực nhà Trần với âm mưu thoán đoạt ngai vàng, lực lượng cát cứ nổi lên khắp nơi, giặc cướp phá hoành hành ngang ngược… Đoàn Thượng đã đứng trên vai trò là đại tướng thương yêu nhân dân, một lòng phù giúp nhà Lý, muốn vực dậy một triều đình đổ nát là việc hoàn toàn khó. Ông quyết định lập bà xưng vương chống lại các thế lực làm mưu hại đến cuộc sống của nhân dân, ông được nhân dân hết lòng hưởng ứng, cảm phục. Nhưng sử sách có phần ghi chép sai lệch và mất nhiều tư liệu nên còn nhiều điều chưa chuẩn xác, nhưng trong lòng dân chúng ở khắp nơi Ngài là một người có ơn huệ cao cả, nhân dân được hưởng ơn mưa nóc, đến nay tính chỉ tính trên địa bàn từ vùng Bần Yên Nhân đến Mao Điền đã có 72 nơi lập đình, đền để thờ Ngài. Hiện nay trên địa bàn huyện Cát Hải có 113 di tích thờ Ngài, riêng tại đình Hoàng Châu Ngài được thờ như một vị thần thành hoàng làng. Ngài được triều đình sắc phong là “Thông minh nhân thánh hòa diện đại vương Hoàng Triều gia tăng Dực Bảo, trung ương linh phù chi thần” – hay còn gọi Ngài là Dực Vũ Đại Vương thượng đẳng thần.
2.1.2.2. Các vị thần được hợp thờ
Tại đình Hoàng Châu, các vị thần được tôn thờ còn có Đức Bà Công Chúa Liễu Hạnh – một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ – Mẹ của muôn dân”.
Truyền thuyết kể rằng , vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam; có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi dã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.
Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẫu thân của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ Phụ thân và Mẫu thân của Phạm Tiên Nga). Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi). Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp đân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung).
Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dậy dỗ con em nhà nghèo được học hành.
Năm 36 tuổi, Bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.
Sau đó hai năm, Bà tới tu sửa chùa Sơn Trường – Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn – Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn xá – Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn xá, Bà còn chiêu dân phiêu tán , lập ra làng xã, dậy dân trồng dâu, nuôi tằm , dệt vải.
Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), Bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy, Bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn).
Sau đó Bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.
Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, Bà đã hoá thần về trời. Năm đó Bà vừa tròn 40 tuổi.
Ngay sau khi Bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ, Đồng thời quê mẹ của Người là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của Thánh Mẫu gọi là Phủ Quảng Cung.
Với 3 lần giáng sinh đầu thai , sự tích giáng sinh lần thứ hai, truyền thuyết kể rằng: Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), Phạm Tiên Nga lại giáng sinh lần thứ 2 tại thôn Vân Cát xã An Thái, huyện Thiên Bản (nay là Kim Thái, Vụ Bản , Nam Định, cách quê cũ Vị Nhuế chừng 7 km). Lần này, Bà kết duyên với ông Trần Đào, sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 20 tuổi. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương – Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản , Nam Định. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Sự tích giáng sinh lần thứ 3, truyền thuyết kể rằng: Vì tình nghĩa thuỷ chung với chồng con ở trần thế nên đến thời Lê Khánh Đức thứ 2 (1650), Phạm Tiên Nga lại giáng sinh tại đất Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, vào ngày 10 tháng 10 năm Canh Dần, tái hợp với ông Trần Đào lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn. Bà mất ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thân, thời Lê Cảnh Trị thứ 6 (1668). Năm ấy Bà vừa 18 tuổi. Đền thờ Bà là Phủ Sòng Sơn, Thanh Hoá.
Tận tâm báo hiếu ơn đức sinh thành của cha mẹ,Một lòng chung thuỷ với tình nghĩa vợ chồng, Một tiêu biểu về Công Dung Ngôn Hạnh của người phụ nữ Việt Nam, Một phụ nữ đầy lòng nhân ái, từ thiện, thương yêu nhân dân, cứu khổ cứu nạn những người nghèo khổ, luôn khuyên bảo người khác làm điều lành, tránh điều ác. Trong nhiều thế kỷ qua, nhiều người đến Đền Mẫu cúng tế, cầu phúc, đều thấy ứng nghiệm. Vì vậy, trong tâm linh tín ngưỡng của họ, Bà được tôn thờ là “Thánh Mẫu Linh Thiêng – Mẹ của muôn dân”. Đối với người dân Cát Hải cũng vậy họ thờ thánh Mẫu như đức mẹ của muôn dân, họ tôn thờ với lòn thành kính. Điều đó được thể hiện ngay trên đôi câu đối trên cột trụ đồng cửa đình:
- “Non sông phố cát đường tung cánh
- Lòng mẫu quê nhà rõ tại đây”
Câu đối này là tưởng nhớ đến công ơn của bà với người dân nơi đây, hiện nay các ngày lễ hội đều được thờ cúng dâng hương, và đặc biệt là người dân xã Hoàng Châu còn có một ngày hội tế lễ và rước thánh Mẫu đó là ngày mùng 3 thàng 3 âm lịch hàng năm.
Bên cạnh đó, tại đình người dân còn phối thờ nhiều vị thần khác như hai vị Trào, Đức Vua bà Nam Hải và hai Ông Xa Mã. Sắc phong của 3 vị vua Tự Đức, Đồng Khánh và Duy Tân.
2.2. Quy trình tổ chức lễ hội Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
2.2.1. Lễ hội Xa mã rước kiệu xưa
2.2.1.1. Công tác chuẩn bị
Việc tổ chức trọng thế được quy định hàng năm vào ngày 10 đến 12 tháng 6 âm lịch, không như lễ Nghinh Ông khi nhìn thấy xác cá Ông trôi dạt vào và tổ chức đám tang, sau đó làm lễ cải táng xác cá Ông. Công việc tổ chức lễ hội được diễn ra từ trước ngày hội chính 20 ngày. Do số lượng người rước kiệu cần nhiều và đội tế cũng vậy, lại có yêu cầu nghiêm ngặt về người tế và rước, do đó công việc thâm nhập chọn nam quan, nữ quan đã được tiến hành sớm gần một tháng. Đội hình rước kiệu có tất cả 24 người, 16 nữ và 8 nam, trong đó:
- Kiệu chính có 8 người khiêng
- Kiệu Mẫu có 8 người nữ
- Kiệu nhỏ nam quan có 4 nam khiêng
- Kiệu nhỏ nữ quan có 4 nữ khiêng
Bên cạnh đó, đội tế lễ cũng được chọn lựa kỹ càng; gồm một ông chủ lễ, một ông chào vua, một ông cai đám, một ông đọc văn làm lễ chính, những người này thường là những người có chức sắc trong làng và thành viên của hai đội tế. Các đình phe và các tiểu ban được thành lập; gồm đội nữ nấu oản, xôi…, đội thâm nhập nam quan, nữ quan do 4 lý trưởng đảm nhiệm, đội xa mã và đội kéo co… tất cả đều được chuẩn bị và chọn lựa thật kỹ càng. Trước ngày hội làng tổ chức một ngày khoán làng để họp bàn thông báo về công tác chuẩn bị của các tiểu ban.
Cũng chưa có văn bản nào giải thích đầy đủ tại sao lại có lễ hội đặc biệt này. Đặc biệt không chỉ ở cái tên mà còn ở nghi thức trong lễ tế, không ai giải thích được tại sao kiệu lại “bay”, không ai làm chủ hay sai khiến những kiệu thánh ấy đi dọc hết thôn này làng kia, cũng có năm người dân nói đi cả tiếng đồng hồ trên cả đường lớn và bờ mương… không ai giải thích được rằng những người rước kiệu kia khi khênh kiệu chạy lâu như vậy mà không ai thấy mệt, nhiều khi lao ra biển ướt đẫm người mà họ không hề dừng lại, thậm chí làm họ quay tròn đến mấy vòng liên tục mà không thấy khác lạ gì giữa cái nắng chói chang của mùa hè tháng 6,… Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Đối với lễ kéo Xa Mã để cho trò thi điều khiển xa mã được diễn ra suôn sẻ, người ta chuẩn bị rất chu đáo: chiếc xa mã mang dáng dấp một đôi ngựa chiến thực thụ có đầy đủ dây cương, yếm hoa, cổ đeo nhạc, cơ động trên bánh xe bằng gỗ.
Tất cả với họ là sự linh thiêng, họ tin vào thần, tin vào sự phù hộ, bảo trợ của thần. Đó chính là nét đặc biệt của lễ hội này khác với lễ Nghinh Ông của ngư dân miền trung.
2.2.1.1. Phần nghi lễ
- Lễ rước nước
Theo cái lệ, người dân tập trung tại đình dâng hương vào đêm giao thừa, khi chuyển giao giữa năm mới và năm cũ, một vị chủ lễ thắp hương, đánh trống, chiêng và làm lễ sát kê sang canh, thường đến 4 hoặc 5 giờ sáng mới xong. Đến ngày mùng 2 tết tập trung tại đình làng làm lễ dâng hương, sau đó những người được cắt cử làm lễ rước nước từ vùng biển nước trong về để cúng tế trong suốt những ngày tết. ngày mùng 4 đóng cửa đình lễ tạ thần linh và mang nước đi tưới khắp quanh làng để cầu may.
- b) Lễ mộc dục
Đến ngày hội được tổ chức từ mùng 9, là ngày thay áo quan bằng nước ngũ vị hương, làm lễ tế mời quan về đình làng, bắt đầu từ việc làm lễ tế cáo yết, mở của cung cấm của đình, trong cung chỉ có chủ lễ, cai đám và chào vua mới được thay bã trầu. Theo truyền thống của đình làng, lễ rước nước được tiến hành vào ngày mùng 2 Tết, đến ngày hội chính chỉ dùng nước ngũ vị hương lau chùi và thay áo quan.
- c) Lễ tế gia quan:
Lễ này được tiến hành trước đó một tuần vào ngày mùng 5 khoán làng các chân kiệu, cai đám và chủ lễ, chào vua phải làm ăn chay tịnh, phải là người thanh tịnh… làm lễ tế trước long đình tại đình. Đến ngày chính hội, nghi thức này được tiến hành với việc làm lễ tế nghinh rước hai Ông Xa mã ra ngoài để thờ sau đó tiến hành làm lễ tế đại tế.. với nghi lễ tế gia quan chủ yếu là để những người tham gia lễ rước kiệu thánh và lễ tế ngày 12 tháng 6 .
- d) Lễ tế đại tế:
Chính hội ngày mùng 10, sau ki vị chào vua làm lễ tế chào vua là làm lễ đại tế (đội nam tế trước, nữ tế sau), lễ tế nghinh rước kiệu Thánh và hai ông Xa Mã ra ngoài, tiếp sau là các quan phụ mẫu, đến lý trưởng các làng và dân được vào làm lễ dâng hương… trước mỗi lần rước kiệu thánh là một lần Xa Mã. Lễ rước kiệu được tiến hành sau khi chủ lễ đọc văn khấn. Rồi lại lễ kéo xa mã để phù giá trước chư vị thần. Không một ai có thể biết trước được là lễ rước kiệu sẽ diễn ra trong bao lâu, nhưng đến 4 hoặc 5 giờ chiều mới được làm lễ tế yên vị rước vào cung. Lễ tế yên vị thường là do đội nữ tế.
- e) Rước, đám rước, tục hèm: Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Không giống như một trình tự đám rước truyền thống có cờ tiết, cờ mao, hay trống cái, xe ngựa, xe voi.. .hay phường nhạc bát âm… mà đám rước của lễ hội nơi đây hoàn toàn khác, không rước một lần mà rước nhiều lần. Cái tục của lễ hội nơi đây là trước khi làm lễ rước kiệu thánh là một lần Xa Mã. Cái tục này đã trở thành lệ, bởi trong quan niệm và thế giới tâm linh của họ. Khi làm lễ kéo Xa Mã, tiếng reo hò của các đội cùng với tiếng reo hò của người dân chính là tái hiện lại tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, tiếng chiêng tiếng trống hòa vang như không khí lúc xung trận đánh giặc xưa kia. Như tiếng vó ngựa khoan thai như trở về dự hội mừng công.
Hai giáp Đông Và Tây đầu đội khăn, quần chít ống, với hai màu xanh và đỏ như các tướng sĩ ngày xưa: quần ống chẽn, đầu chít khăn kiểu đầu rìu. Mỗi đội có từ 12 đến 15 trai tráng trong làng. Trong lễ này có một truyền thống rất dặc biệt đó là trước khi hai giáp Xa Mã đều phải đọc hô vang bài kéo ngựa truyền thống theo trình tự cuộc thi: khi hai giáp vào vị trí, hai đội cùng hô vang :”Ơ, trai bản xã rước chư vị ra ban cho phải” và cùng vào vị trí, rước hai ông Xa Mã ra ban “ơ…giáp Đông ta đàn dây cho đều. Ơ… giáp Tây ta đàn dây cho đều” rồi cả hai đội cùng vòng dây quanh ngựa gỗ và cỗ bánh xe, sẵn sàng cho cuộc thi. cuộc thi bắt đầu trong tiếng reo hò thúc dục “ Giáp Đông, giáp Tây ta Xa Mã cho đều” và cả hai đôi bắt đầu kéo. Cuộc chơi chỉ bắt đầu khi có hiệu lệnh phát ra từ vị chủ quản, hai ngựa gỗ dưới sự điều khiển khéo léo, nhịp nhàng của người chỉ huy chuyển động lúc nhanh lúc chậm, lượn vòng rất điệu nghệ. Quy định của cuộc chơi bên nào muốn giành giải thưởng của lang phải kéo ngựa chạy đủ 3 vòng, không chạm vạch.
Nhưng đối với họ, thắng thua không quan trọng, mà họ thấy được khong khí hết mình vì trận đấu, họ hòa mình vào cuộc thi như đang tham gia trận mạc.
- d) Lễ túc trực : Ngày 11 làm lễ tế túc trực, người dân và khách thập phương đến đình làng dâng lễ.
- e) Lễ rã đám: ngày 12 làm lễ rã đám. Kiệu lại được rước lên ban ra ngoài rồi hai giáp lại xa mã phù giá, rước kiệu lần hai, sau đó làm lễ tế yên vị và đóng cửa đình.
2.2.1.2. Phần Hội
Trong suốt những ngày lễ hội, việc tổ chức các hoạt động xen kẽ trong những nghi lễ. Ngày mùng 9 là biểu diễn của câu lạc bộ người cao tuổi, diễn cùng các xã, ngày mùng 10, có các đội hát hầu văn từ nơi khác đến hát, cùng các trò chơi như kéo co, chơi cờ người, chọi gà, đan lưới…
Tất cả các nghi lễ và việc tổ chức hội vui cho mọi người cùng tham gia, nhưng xưa kia việc tổ chức này phải theo một trật tự nhất định, và được phán quyết theo quan trên:
- ông Tiên thứ chỉ và cai đám làm chủ lễ
- ông lý trưởng đọc văn
- ông xã đoàn làm thông họa xướng
- các cụ bề trên ngồi bên Đông, bề dưới ngồi bên Tây, bạch đinh (những người không họ hàng…) ngồi ngoài. Các chức danh lý trưởng, phó lý, xã đoàn xưa dùng tiền để mua.
2.2.2. Lễ hội Xa mã rước kiệu nay Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Các nghi lễ vẫn giữ nguyên như cũ, chỉ có điều đến nay các chức danh xưa không còn nên thay bằng người có chức vụ khác trong làng xã, xưa nếu đội tế, hay chủ lễ … là những người có chức sắc trong làng thì nay là những cụ bô lão, những người đã trải qua nhiều năm làm lễ.
Các đội tế lễ hiện nay là những đội tế được mời hoặc được thuê từ Hoàng Động, Cẩm Phả, Đông Hải hay Trần Triều ở Móng Cái, Quảng Ninh về tế. Không còn quy định trật tự, hay thứ tự trong làng mà tất cả moi người cùng các cơ quan toàn thể và mọi người dân đều có thể vào dâng hương và dự hội…
Đặc biệt là trước kia các lễ vật dâng cúng đều phải mang đến cho lý trưởng, phó lý, xã đoàn thì ngày nay các lễ vật đó đều được chhi đều cho người dân trong làng xã không phân biệt trên dưới.
Ngày nay việc tổ chức và ban quản lý di tích đình chùa Hoàng Châu do phó chủ tịch UBND xã làm trưởng ban và hai phó ban quản lý.
Phần hội xuất hiện nhiều trò chơi mới như bóng chuyền, cầu lông, đá bóng…
2.2.3. Một số kiêng kỵ và lễ vật dâng cúng
- a) Một số kiêng kỵ: Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
yêu cầu với mỗi người tham gia tế lễ hay các chân kiệu đều phải thanh tịnh, không bẩn người, ăn chay tịnh trước ngày khoán làng và trong những ngày diễn ra lễ hội các chân kiệu phải là trai chưa vợ, gái chưa chồng, có độ tuổi từ 18 tuổi trở lên các chân kiệu và thành viên đội tổ chức vào ngày khoán làng phải tham gia cúng lễ tễ gia quan theo quan niệm là báo cáo thần linh. Phải hát bài hát truyền thống trước khi tiến hành Xa mã Yêu cầu mỗi người tham gia tế lễ và chân kiệu phải ăn chay tịnh, giữ thanh tịnh trong tuần tế lễ.
Điều tối kỵ trong lễ kéo Xa Mã là không làm tổn thương đến xa mã đối phương cùng các thành viên nắm giữ, đẩy, kéo chiếc xa mã.
- b) Lễ vật dâng cúng:
Trước kia, người chủ lễ là ông cai đám sẽ có quyền cắt cử về gia đình của hai bên Giáp Đông và Giáp Tây, mỗi giáp mộ năm đứng ra làm lễ vật. Được tổ chức nấu ngay tại đình.
Các lễ vật dâng cúng bắt buộc là: chào oản, lợn, gà, xôi, hương, hoa có cả các sản vật địa phương như lúa gạo được làm thành bánh giầy để dâng cúng…
Theo nguyên tắc là lễ vật được chia thành các kê khác nhau: kê gà, kê lợn, chào oản to, xôi, hương, hoa, kê trầu cau têm cánh phượng… tất cả được đặt theo quy định tại đình. Với 5 kê cúng chính ở chính điện, 3 kê cúng làm lễ hóa lộc cho dân làng.
2.3. Sự biến đổi của lễ hội, nguyên nhân và ảnh hưởng của sự biến đổi
Lễ hội xưa và nay không khác xa nhau nhiều, tuy còn giữ được những gì nguyên bản vốn có của các nghi thức tế lễ rước kiệu và Xa mã, như, các nghi thức tế lễ, các quy trình của môt buổi tế lễ, các câu hò trong nghi thức Xa Mã…
Ngày xưa phần thưởng được trao cho đội thắng chỉ là chút lộc phẩm của hội đình. Cả bên thắng, bên thua cùng hòa đồng trước sự cổ vũ reo hò của dân làng và du khách thập phương; sau đó cùng uống trà, thụ lộc thánh, hẹn mùa lễ hội sang năm.
Nhưng như ngày xưa, lễ hội được tổ chức đến 4 ngày, và làm lễ tế rước kiệu 2 lần vào ngày mùng 10 rước kiệu thánh ra và ngày 12 rước kiệu hồi cung, trước khi rước kiệu là một lần xa mã. Nhưng ngày nay, đã không còn tổ chức rước hai lần như vậy nữa mà 3 năm mới có một năm tổ chức rước hai lần kiệu thánh.
Những yêu cầu có tính nguyên tắc bắt buộc đối với các chân kiệu rất cao, nếu xưa kia thì có chăng là việc rất dễ dàng, nhưng ngày nay, do đô thị hóa, do đời sống dân cư thay đổi, người đi làm ăn xa nhiều hơn, di cư nơi khác làm ăn, các thanh niên con trai tráng hay con gái cũng đều đi học… hoặc trong những ngày diễn ra lễ hội bị bẩn người như cãi nhau, nói tục, rượu chè… đều không thể tham gia khiêng kiệu… nên việc tổ chức nhiều ngày sẽ càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó, các di vật như kiệu, xa mã và vật dụng đã nhiều năm không còn như trước nữa, xuống cấp và hỏng nhiều, tu sửa lại là việc rất khó.
Công tác chuẩn bị cho các lễ vật cũng đòi hỏi các giáp có nhiều thời gian và cầu kỳ. ngày xưa, lễ hội yêu cầu phải dâng cúng lợn đã mổ bụng nhưng còn nguyên con. Nhưng ngày nay, để tiết kiệm, người dân chỉ cũng đầu lợn, và các vật nội tạng cùng các bộ phận khác đặt trên kê khác nhau cùng cúng tế.
Các lễ vật cũng thay đổi từng ngày theo sự biến đổi của xã hội, mâm trầu cau têm cánh phượng đã được thay thế bằng mâm trầu cau có dán hình hoa văn đẹp mắt, lễ dâng đầy đủ trong nhứng ngày hội thì ngày nay chỉ dâng đầy đủ trong ngày lễ chính, còn những ngày khác chỉ dâng oản, hương và hoa…
Đôi Xa Mã đã nhiều năm, việc tổ chức nhiều lần mà không qua bảo trì đã làm hư hại dần, theo như lời các cụ trong làng, đôi mắt ngựa gỗ đã bị hỏng và được thay thế bằng đôi mắt khác không giống được như đôi mắt cũ nữa…
Sự biến đổi đó có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tổ chức lễ hội trong những năm tiếp theo. Do đó cần có biện pháp và sự quan tâm đúng mức để giữ được nét truyền thống tốt đẹp này.
2.4. Ý nghĩa và giá trị của lễ hội trong đời sống nhân dân Cát Hải Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
2.4.1. Giá trị cân bằng đời sỗng tâm linh
Trong lễ hội truyền thống cuộc sống thường ngày của con người được tái hiện dưới hình thức các trò diễn. Dường như, các vị thần linh, các bậc siêu nhiên luôn tồn tại trong đời sống và sẽ trở về trong tiềm thức của con người vào những dịp lễ hội, khiến cho lễ hội được tồn tại với những lễ nghi ít nhiều có tính chất huyền ảo, sức cảm hóa của không gian và thời gian thiêng được nhân lên gấp bội. Không ai có thể giải thích được tại sao Kiệu lại “bay”, và những châm kiệu chạy mãi không thấy mệt, không biết kiệu sẽ “bay” đi đâu… tất cả như thần linh đang hiện hữu trong đời sống tâm linh của họ. Họ ước vọng, họ cầu nguyện… họ được tắm mình trong không khí thiêng liêng của lễ hội. Hội là dịp để mọi người được hóa thân, nhập cuộc và tham gia sáng tạo cũng như thưởng thức các giá trị văn hóa nghệ thuật mang tính chất dân gian kết hợp với những yếu tố hiện đại.
Do đó, lễ hội đình chùa Hoàng Châu cũng góp phần tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến đời sống tâm linh, cách sống và quan điểm sống hàng ngày của người dân nơi đây nói riêng và đến việc hun đúc tâm hồn tính cách con người Việt Nam.
2.4.2. Giá trị hướng về cội nguồn
Lễ hội đình chàu Hoàng Châu cũng như những lễ hội truyền thống khác là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ lâu đã có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” – những người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng thần Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng cũng như các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ thú ác; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc… Lễ hội đình chùa Hoàng Châu là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc. Lễ hội còn là dịp con người được trở về với nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người.
Lẽ hội là dịp người dân nơi đây tưởng nhớ đến vị thần thành hoàng Dực Vũ Đại Vương Đoàn Thượng, Thánh Mẫu cùng các quan Nam Hải… họ cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân dân được mạnh khỏe, bình yên, ấm no và hạnh phúc.
2.4.3. Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
Bên cạnh đó, lễ hội đình chùa Hoàng Châu thể hiện được sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương và rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Họ không chỉ thể hiện mong ước các nhân mà trong mỗi con người họ lại luôn tồn tại một sự gắn kết chặt chẽ. Từ những con người cùng nhau chung sức hết mình kéo hai chiếc xe ngựa gỗ, những tiếng roe hò khong ngớt trong những cuộc đua, cùng nhau tỏ chức để xây dựng đình chùa…
Họ cùng thờ chung, gắn kết bởi các nhu cầu sự đồng cảm (cộng cảm) bởi một thế lực siêu nhiên nào đó (cộng mệnh)… và cứ như vậy họ gắn bó, cùng hòa chung một ước vọng cho cuộc sống và cho mùa màng bội thu…
2.4.4. Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân khi tham gia lễ hội. Mỗi dịp lễ hội diễn ra là một lần họ được cùng nhau tổ chức lễ hội, cùng đóng góp, cùng sáng tạo và tái hiện lại không khí rèn quân tập trận của các chiến sĩ xưa kia… do đó, lễ hội Xa Mã được người dân Hoàng Châu tổ chức ngày nay là cả một sự sáng tạo văn hóa, không phải theo lối mòn mà họ đã biết tiếp thu truyền thống và tạo nên những giá trị cao đẹp của một lễ hội truyền thống. Rồi hộ cùng nhau hưởng thụ lấy những giá trị quý giá ấy, cảm nhận trong họ là những nét đẹp văn hóa sâu sắc mà khó có thể diến tả bằng lời từ những tấm lòng của những con người với ước mong nhỏ bé nhưng chứ đựng sâu sắc nhân tố của một nét đẹp truyền thống văn hóa nơi biển đảo. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
2.4.5. Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa
Việc tổ chức lễ hội Xa Mã là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của địa phương theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí…
Lễ hội đình chùa Hoàng Châu cũng là dịp con người được giải tỏa, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che vượt qua những thử thách của cuộc sống. họ được tưởng nhớ đến thần linh, được nhắc lại truyền thống lịch sử cũng như nguồn gốc, sự ra đời của lễ hội truyền thống quê hương và được tắm mình trong những không gian của cái thiêng.
Cúng nhờ có sự trao truyền và phát huy bản sắc văn hóa này mà lễ hội Xa Mã trải qua bao đời nay vẫn còn nguyên giá trj như nó vốn có. Nếu như không có lễ hội, không có sự bảo tồn và trao truyền đến nay thì lễ hội cũng đã không còn tồn tại.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Sau lễ hội là một dịp người dân Cát Hải được tìm về với lịch sử, với cội nguồn, với truyền thống của địa phương. Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu chính là một lễ hội độc đáo, mang những nét văn hóa riêng của người dân Cát Hải nói chung, và người Hoàng Châu nói riêng.
Lễ hội xưa và nay đã khác nhau nhiều, song về nguyên tắc tổ chức thì lễ hội vấn duy trì được những gì vốn có của nó. Tuy nhiên ko thể tránh khỏi theo thời gian mà các di vật bị hư hại nhiều, do đó cần phải được quan tâm và bảo tồn để tiếp tục duy trì và phát huy giá trị của lễ hội một cách hoàn chỉnh.
Sự ảnh hưởng của phát triển xã hội ngày càng làm ảnh hưởng đến các giá trị truyền thống nói chung trong đó có lễ hội. Nên công tác bảo tồn là một việc vô cùng cần thiết. Trong khi nhu cầu du lịch tín ngưỡng, lễ hội và du lịch tâm linh ngày càng phát triển, và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cảu du khách. Thì lẽ hội Xa Mã Rước Kiệu lại chính là một trong những tài nguyên có giá trị có thể khai thác cho du lịch mà không mất nhiều đầu tư vào nó.
Hơn nữa vùng đất Cát Hải nói chung và Hoàng Châu nói riêng lại chứ đựng nhiều dấu ấn lịch sử, từ buổi đầu khai hoang lập ấp, đến nay Cát hải không ngừng phát triển và đổi mới phù hợp với nhu cầu du lịch của thành phố. Là cầu nối cho truyền thống văn hóa nông nghiệp biển đảo của Hải Phòng. Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Thực trạng phát triển lễ hội phục vụ du lịch địa phương

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com