Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu, huyện Cát Hải – thực trạng khai thác và giải pháp phát triển phục vụ du lịch địa phương dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống và trong công việc thường ngày của một xã hội hiện đại, đã dần xô đẩy, dẫn đưa con người vào vòng xoáy của những bộn bề lo toan. Thì chính những lễ hội lại là nơi mà con người tìm lại được chính mình. Tìm về với những cội nguồn, giúp cho tâm hồn họ được thư thái, họ được nghỉ ngơi sau những ngày làm việc mệt nhọc.
Việt Nam là một quốc gia đã có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có một nền văn hóa mang bản sắc riêng. Chính những nét đó làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt Việt Nam có nền văn hoá lâu đời, nhiều dân tộc sinh sống trên một lãnh thổ thống nhất, cùng đóng góp nhiều phong tục tập quán mang bản sắc riêng của từng vùng, miền, dân tộc và tôn giáo cho nền văn hoá của đất nước.
Nằm trong bề dày văn hóa dân tộc nhóm phong tục tập quán về lễ hội chiếm phần lớn trong hệ thống các phong tục tiêu biểu của Việt Nam. Lễ hội luôn luôn là yếu tố đặc trưng cho dân tộc vì góp phần làm cho văn hoá đặc sắc hơn. Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Dương và Phú Thọ.
Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là vùng văn hóa rất đặc trưng. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian hầu như có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng nghìn năm đến nay vẫn được duy trì. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Đó chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt lành, yên vui. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Việc thờ thần và lễ hội luôn được diễn ra trên một phạm vi nhất định, một không gian cụ thể đó là tại các đình, đền, miếu mạo… do đó như một thể thống nhất ko thể tách rời. Đối với mỗi một lễ hội là một lần được chiêm bái được tưởng nhớ đến thần linh. Đối với mỗi một di tích lại là nơi hội tụ cả thần thánh và cả không khí của lễ hội.
Trải theo tiến trình lịch sử dân tộc, do chiến tranh khốc liệt hoặc có giai đoạn kinh tế nước nhà kém phát triển, nên lễ hội truyền thống ít được chú ý và chưa phát huy được giá trị to lớn của nó. Vì vậy, nhiều giá trị văn hoá đặc sắc của lễ hội bị mai một, giai đoạn này các hoạt động du lịch cũng kém phát triển, việc nghiên cứu phục dựng lễ hội truyền thống gắn với du lịch cũng chưa được quan tâm đúng mức, chưa gắn kết gắn kết du lịch với lễ hội.
Tìm về với các lễ hội văn hóa truyền thống là tìm về với những nét văn hóa cổ xưa và muốn tự mình trải nghiệm các trò chơi dân gian. Ở mỗi nơi các lễ hội lại mang những nét độc đáo, bản sắc riêng mà không một nơi nào khác có được. Nằm trong hệ thống lễ hội thờ thần biển, lễ hộ lại hội tụ cả yếu tố sông nước với đồng bằng, giao thoa giữa văn hóa nông nghiệp với văn hóa ngư nghiệp, hội tụ cả yếu tố linh thiêng và trần tục… ẩn chứa sau những ngày hội là một văn hóa tín ngưỡng vô cùng độc đáo của cư dân vùng biển – nơi đầu sóng ngọn gió của Hải Phòng.
Nhưng cho đến nay, trải qua mấy thế kỷ lễ hội này vẫn được nhân dân tổ chức hàng năm mà chưa được phổ biến rộng rãi và ít được biết đến. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển cư làm ăn cũng nhiều, người dân nơi đây đang dần phải thay đổi lễ hội để phù hợp với hiện tại. Lễ hội đang dần thay đổi từng ngày, du lịch tâm linh ngày càng trở thành một nhu cầu thiết yếu trong khi lễ hội ngày càng bị mất dần đi giá trị truyền thống vốn có.
Việc tìm hiểu nghiên cứu lễ hội Xa Mã Rước Kiệu là một việc làm vô cùng cần thiết để nhắc lại truyền thống uống nước nhớ nguồn và góp phần phục dựng lại đời sống tâm cửa biển với nhiều dấu linh và văn hóa truyền thống độc đáo của một vùng đất ấn lịch sử này. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Có thể bạn quan tâm:
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Du lịch lễ hội hiện nay đang trở thành một hiện tương văn hóa vô cùng đặc sắc, thu hút đông đảo khách du lịch. Không chỉ được tìm về với những nét văn hóa xưa, muốn được sống trong không khí cổ xưa và muốn tự mình trải nghiệm các trò chơi dân gian,…Đặc biệt là dịp mà con người được tìm về với những giá trị văn hóa truyền thống, những giá trị lịch sử dân tộc, được một lần nhắc lại trong tâm thức của mỗi người tưởng nhó tri ân các vị thần đã có công cới dân với làng và với quốc gia dân tộc. Được nhân dân lưu giữ, truyền tụng, được các nhà nghiên cứu khảo sát, thống kê. Mỗi một lễ hội đều được ghi chép qua các bản hương ước của làng, có những lễ hội được nghiên cứu chuyên sâu đã thành những cuốn sách có giá trị. Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu cũng được nhân dân lưu truyền trong nhiều thế kỷ qua, những bản hương ước của làng còn lưu giữ đến nay, các bản báo cáo về lịch sử đình Hoàng Châu cũng đã chi chép về lễ hội…
Ngày 14 tháng 9 năm 2011, chương trình du lịch S Việt Nam đã cho đăng bài đầu tiên số 231 về lễ hội này. Lần đầu được phổ biến rộng rãi trong cả nước, trên mọi hệ thống phương tiện quảng bá du lịch từ các báo, các chương trình tivi và hệ thống internet…
Nhưng đến nay, ngoài bản hương ước của làng Hoàng Châu và bản thảo báo cáo di tích đình Hoàng Châu chi chép cụ thể về lễ hộ Minh…song, chưa có bài nghiên cứu chuyên sâu nào về đánh giá vai trò, giá trị của lễ hội này với nhân dân Cát Hải, với văn hóa lễ hội ở Hải Phòng một cách sâu sắc, toàn diện….
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nhằm bảo vệ giá trị văn hóa lễ hội truyền thống và hệ thống các di tích thờ tại Cát Hải, đề tài hướng đến khai thác văn hóa tâm linh của người dân Cát Hải với các vị thần được tôn thờ tại đây. Để hướng đến mục tiêu nhắc lại truyền thống uống nước nhớ nguồn với người có công với dân làng nơi đây. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Bên cạnh đó khai thác những nét đặc sắc vốn có của lễ hội Xa mã Rước kiệu, để có biện pháp bảo tồn và duy trì lễ hội địa phương, khai thác có hiệu quả với hoạt động du lịch của Cát Hải.
Đồng thời khảo sát, tìm hiểu về hệ thống di tích thờ hiện nay để bảo tồn tôn tạo một cách đúng mức và có khoa học. Góp phần bảo lưu nguyên vẹn công trình di tích đúng như truyền thống vốn có của nó.
Sự kết hợp giữa công tác bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống, duy trì lễ hội và tôn tạo hệ thống các di tích sẽ là điều kiện cho việc xây dựng và xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch địa phương đến khách du lịch, nhằm phát triển du lịch địa phương nói riêng và Hải Phòng nói chung.
4. Tính mới, tính sáng tạo của đề tài
Người dân Cát Hải sống bằng nghề sông nước, phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên, với họ cũng như bao cư dân vùng biển khác họ mong được bình yên trên biển cả, họ mong được mùa màng bội thu… trong tâm linh của họ luôn ngự trị một vị thần bảo hộ cho nghề nghiệp của họ. Không giống như những ngư dân vùng biển Trung Bộ, họ tin thờ cá Ông. Họ làm những nghi thức thờ cúng như những nét văn hóa tang lễ truyền thống của người Việt Nam. Nhưng với những ngư dân Cát Hải, cũng làm nghề sông nước, nhưng họ lại có văn hóa gắn chặt với nông nghiệp, ảnh hưởng từ khi hình thành địa lý và quá trình lịch sử kéo dài, những con người nơi đây đã hình thành cho mình những nếp sống vô cùng phong phú và khác biệt. Đối với họ vị thần biển mà họ tôn thờ là Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng – người có công đánh giặc, trừ cướp biển cho họ có cuộc sống ấm no, yên ổn làm ăn, dạy dân cày cấy, tìm giống hạt mới….Trên toàn hệ thống di tích có đến 13 di tích thờ Ngài.
Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu, huyện Cát Hải là một lễ hội hết sức độc đáo. Sự giao hòa giữa yếu tố truyền thống nông nghiệp với văn hóa sông nước đã tạo cho lễ hội nơi đây những nét mới lạ trong lòng bạn bè và du khách.
Với nghi thức Xa mã hay còn gọi là kéo ngựa gỗ như tái hiện lại không khí rèn quân tập trận xưa, cùng nghi thức linh thiêng rước kiệu bay đã khiến cho không khí lễ hội trở lên linh thiêng và huyền bí giữa cuộc sống bộn bề thường nhật.
Đề tài thể hiện cái mới trong nét độc đáo của lễ hội so với các lễ hội truyền thống ở Hải Phòng nói riêng và với vùng biển khác trong cả nước nói chung. Hướng đến khai thác giá trị văn hóa truyền thống phục vụ cho phát triển du lịch địa phương nơi đây.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Ngoài việc nghiên cứu về các lễ hội truyền thống của các ngư dân vùng biển của Việt Nam nhằm làm nổi bật lên nét khác biệt của lễ hội Xa Mã Rước Kiệu, người nghiên cứu còn khai thác tìm hiểu về vai trò giá trị của lễ hội và di tích cũng như tìn ngưỡng thờ thần trong tâm linh con người ẩn sâu trong bề dày của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Nhằm nghiên cứu một cách sâu sắc và hòan thiện được mục tiêu bài viết, người nghiên cứu còn tìm hiểu thực tế toàn bộ di tích, đền thờ, các lễ hội ở Cát Hải. Đồng thời tìm hiểu về các bản thảo, hương ước làng để có sự so sánh và khác biệt của lễ hội xưa và nay.
Nghiên cứu đánh giá thực trạng du lịch Cát Hải hiện nay để có được những thông tin chính xác phục vụ cho các dự kiến về định hướng chương trình du lịch đến với địa phương.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Mỗi một lễ hội đều có những phạm vi tổ chức cụ thể. Khi nghiên cứu về lễ hội Xa mã, người nghiên cứu đã tìm đến nơi tổ chức lễ hội là đình Hoàng Châu, xã Hoàng Châu, huyện Cát Hải. Đồng thời làm cho bài viết sâu sắc hơn đã nghiên cứu toàn bộ di tích và lễ hội trên phạm vi toàn huyện Cát Hải. Do đề tài nằm ngay trong phạm vi thành phố nên việc nghiên cứu có nhiều điều kiện thuận lợi hơn.
Ngoài ra còn tìm lại và sưu tập những bản hương ước, bản thảo báo cáo đình chùa Hoàng Châu từ năm 2005 đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để có được những nôi dụng sâu sắc, phân tích, đánh giá khách quan, có khoa học trong khi nghiên cứu thực hiện đề tài người nghiên cứu đã thực hiện các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu (tiếp cận và phân tích hệ thống): Muốn nội dung công trình chứa đựng vốn hiểu biết toàn diện, có hệ thống và chính xác thì cần có một nguồn tư liệu thực sự phong phú. Do đó công tác sưu tầm là rất quan trọng.
Phương pháp thực địa kết hợp chặt chẽ với phương pháp xã hội học: Phương pháp này là thực hiện công tác nghiên cứu thực tế các hiện tượng văn hóa để tìm hiểu sâu hơn nội dung các vấn đề. Trong đó đặc biệt chú trọng tới phương pháp phỏng vấn sâu (phương pháp xã hội học). Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp. Sau tất cả quá trình tìm hiểu tài liệu và điều tra thực tế hiện tượng văn hóa, tất cả các thông tin và tài liệu thu thập được sẽ phải thống kê các thông tin, phân tích vấn đề và chắt lọc các thông tin để tổng hợp một cách hệ thống. Có như vậy đề tài mới đảm bảo tính khoa học và hợp lý các thông tin.
7. Kết cấu của đề tài
- Chương 1. Tổng quan về văn hóa, lễ hội, thần và di tích
- Chương 2. Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu, huyện Cát Hải, Hải Phòng
- Chương 3. Thực trạng khai thác và giải pháp phát triển phục vụ du lịch địa phương
CHƯƠNG 1. QUAN NIỆM VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG TRONG NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM
Lễ hội đã trở thành một nét đẹp văn hóa phi vật thể của nhiều dân tộc, mỗi dân tộc lại có những bản sắc văn hóa khác nhau được thể hiện qua lễ hội. Đối với họ, lễ hội chính là cầu nối cho ước vọng, cho tâm linh của họ. Hình ảnh thần thánh đã trở thành biểu tượng không thể thiếu trong mỗi con người, họ được một lần tưởng nhớ đến qua mỗi lần lễ hội. Do đó, hiểu được nét tương quan giữa lễ hội truyền thống với di tích và thần, sẽ đánh giá đúng giá trị của lễ hội với nền văn hóa dân tộc.
1.1. Các khái niệm cơ bản Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
1.1.1. Văn hóa
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn hóa. Xét về nguồn gốc, văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh “Cultus” mà nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là “gieo trồng ruộng đất” và Cultus Animi là “gieo trồng tinh thần” tức là “sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người”.
Văn hóa mang theo những gì mà văn hóa bao hàm, “là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội” [nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 – 1917)].
Nhưng bên cạnh đó, theo chiều dài lịch sử thì sự ổn định của văn hóa lại tác động đến các quá trình kế thừa xã hội, truyền thống. Là quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người, tạo thành các giá trị vật chất và tinh thần của con người.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Trong tiếng việt,văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức,lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng,thì văn hóa bao gồm tất cả,từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống..
“Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử” (14, Nguyễn Như Ý. Đại từ điển Tiếng Việt. NXB Văn hóa – Thông tin, 1998) Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: “ Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. ([6, tr.25], Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam)
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia”.
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên, có văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. đánh giá vai trò của văn hóa, Trước Cách Mạng Tháng 8, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, còn người sáng tạo ra, phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật văn học, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc ở và những phương tiện, phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo đó là văn hóa. Văn hóa là sử dụng tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loại người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống, những đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Văn hóa chính là bộ phận của đời sống xã hội, là tất cả những gì tồn tại xung quanh con người và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người.
Chiếm phần lớn trong bộ phận của văn hóa Việt Nam chính là phong tục tập quán và lễ hội. Nói đến lễ hội là nói đến văn hóa truyền thống Việt Nam, là bản sắc văn hóa, là giá trị truyền thống của người Việt Nam. Ẩn chứa sâu thẳm trong mỗi lễ hội truyền thống chính là đạo đức, là lối sống, là dấu ấn văn hóa mỗi thời kỳ lịch sử của dân tộc, mỗi vùng, mỗi địa phương. Và do đó, trong bộ phận văn hóa này không thể thiếu hình ảnh của các vị thần hay vật thờ và càng không thể thiếu được các di tích thờ tự.
1.1.2. Lễ hội truyền thống
Từ khái niệm văn hóa rộng lớn trên, bản thân lễ hội lại chính là một nét văn hóa. Lễ hội là văn hóa phi vật thể mà tồn tại trong đời sống con người như một bộ phận không thể tách rời.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa, là tín ngưỡng truyền thống của cộng đồng. Đó là một từ ghép có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, bao gồm hai bộ phận: lễ và hội. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí… Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách đến với ngày mai tươi sáng hơn.
Theo Trần Ngọc Thêm thì cho rằng: “lễ hội có phần lễ và phần hội: Phần lễ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình. Phần hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn gốc, các trò vui chơi giải trí đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông nghiệp”.
Giáo sư Ngô Đức Thịnh cũng cho rằng: “lễ hội là một hiện tượng tổng thể, không phải là thực thể chia đôi (phần lễ và phần hội) một cách tách biệt như một số học giả đã quan niệm mà nó được hình thành trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ tín ngưỡng nào đó (thường là tôn thờ một vị thần linh lịch sử hay một vị thần linh nghề nghiệp nào đó) rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng văn hóa phái sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội như đã trình bày ở trên. Cho nên trong lễ hội phần lễ là phần gốc rễ, chủ đạo, phần hội là phần phái sinh, tích hợp”[6, tr.531, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam].
“Lễ là một hệ thống các nghi thức, hành vi động tác có định ước, có quy cách chặt chẽ, ổn định được lưu truyền từ đời này sang đời khác trong đời sống sinh hoạt văn hóa của nhân dân” [8, tr.168, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Diễm Thúy].
Theo quan niệm của người xưa, lễ được coi là những phép tắc theo khuôn mẫu đã được hình thành và củng cố theo thời gian, được quy định một cách chặt chẽ từ “ quan – hôn- tang – tế” đến đi đứng, nói năng, cư xử hàng ngày của mọi người dân. Đây là những quy định, lễ nghi, phép tắc buộc mỗi con người phải tuân theo trong các mối quan hệ ứng xử của mình trong xã hội. Dưới thời phong kiến, các nhà Nho quan niệm rằng: Lễ nghĩa thiên chi tự. Theo họ, Lễ vốn là trật tự, là chữ đã định sẵn của Trời, cần phải có và không thể đảo ngược. Cuộc sống xã hội của con người cần có lễ để phân biệt, giữ gìn tôn ty trật tự trong mối quan hệ đa chiều luôn diễn ra trong đời sống xã hội. Lễ được coi là cơ sở của một xã hội có tổ chức và đã phát triển đến trình độ nào đó. Đối với mỗi người, lễ thể hiện sự tôn kính, thái độ ứng xử của con người đối với đồng loại. Lễ nhằm phòng ngừa những hành vi và tình cảm không chính đáng. Lễ không chỉ quy định chi tiết về thái độ, cử chỉ bên ngoài mà còn tạo điều kiện hình thành một trạng thái tinh thần tương ứng trong mỗi con người. Lễ cũng đồng thời trở thành phương tiện để tự sửa mình, điều chỉnh mình cho đúng mực, hoàn thiện hơn. Những biểu hiện của lễ bao giờ cũng tương xứng với tuổi tác, vị thế và vai trò, điều kiện của cá nhân nào đó trong các mối quan hệ gia đình và xã hội của con người đó.
Lễ: là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.
Hội: là tập hợp các trò diễn có tính nghi thức, các cuộc vui chơi, giải trí tại một thời điểm nhất định, thường trong khuôn viên các công trình tôn giáo hay ở sát chúng, có đông người tham gia, là đời sống văn hoá hàng ngày và một phần đời của cá nhân và cả cộng đồng, nhân kỷ niệm một sự kiện quan trọng đối với một cộng đồng xã hội.
Lễ hội là sản phẩm của xã hội quá khứ, được truyền lại tới ngày nay và nó được người dân, cộng đồng tiếp nhận và thực hành trong đời sống sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Lễ là cái thiêng, hội là cái tục; lễ biểu hiện cho cái dương thì hội biểu hiện cho cái âm; lễ thể hiện cho thần thánh thì hội thể hiện cho con người… và như vậy, mỗi dịp lễ hội là một lần con người được hòa mình với không khí thiêng liêng, được một lần thể hiện ước vọng để quên đi những ngày tháng lao động vất vả mệt nhọc.
1.1.3. Tín ngưỡng thờ thần
Tín ngưỡng Việt Nam vô cùng phong phú, trong đó, tín ngưỡng thờ thần chiếm phần lớn các chuyên mục nghiên cứu của các nhà khoa học. Bởi môi trường sống mà hình thành nên tín ngưỡng đa thần trong đời sống con người. Nếu tín ngưỡng thờ Mẫu được hình thành từ môi trường sống của cư dân nông nghiệp cần lao động và phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, thì hình ảnh Tứ Bất Tử (bốn người không chết : Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, và Mẫu Liễu Hạnh), “lại là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc ta, là tinh hoa chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử biểu tượng cho sức mạnh liên kết cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc”. (trích trong phần Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Quốc Vượng, Nxb Giáo Dục, [10, tr.142]). Họ đều là những vị thần được nhân dân tôn thờ làm thành hoàng để bảo hộ cho cuộc sống của mình. Các vị anh hùng dân tộc đã có công trong quá trình dựng nước và giữ nước cũng được nhân dân thờ phụng như vị thành hoàng. Đông Hải Đại Vương là vị thần có nguồn gốc gắn với biển, Ông được phong làm thành hoàng ở nhiều nơi với nhiều tên tuổi khác nhau, nên tín ngưỡng thờ Đông Hải Đại Vương lại có những nét gắn bó mật thiết với văn hóa biển của những ngư dân. Nhưng tất cả các vị thần ấy đều được nhân dân thờ phụng như một vị thần thành hoàng làng. Ở mối địa phương có các lễ thờ tự khác nhau tuy nhiên tên tuổi của các vị thần thành hoàng đều gắn với công trạng và nguốn gốc của vị thần ấy, có thần là Thượng Đẳng Thần, Trung Đẳng Thần hay Hạ Đẳng Thần.
Thượng đẳng thần là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần như Đông thiên vương, Sóc thiên vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh công chúa, Đức thánh Tam Giang…Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo…Các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần.
Trung đẳng thần là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Hạ đẳng thần do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần.
Sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính có chép:
“Xét về cái tục thờ Thần hoàng (hiểu là thần Thành hoàng) này từ trước đời Tam Quốc (Trung Quốc) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô; kế đến nhà Tống, nhà Minh, thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ.
Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi.
Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đấu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình…Dân ta tin rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh…” [1, tr. 78 -79].
Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” – những người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc… Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc.
1.1.4. Di tích lịch sử văn hóa Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Theo từ điển Hán Việt di là sót lại, rơi lại, để lại; Tích là tàn tích, dấu vết.
Hai từ này ghép lại với nghĩa là tàn tích, dấu vết của lịch sử còn sót lại.
Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “di tích lịch sử văn hóa là tổng thể những công trình, địa điểm, đồ vật hoặc tác phẩm, tài liệu có giá trị lịch sử hay giá trị văn hóa được lưu lại”.
Tại kỳ họp thứ 9 ngày 29 tháng 9 năm 2001 của Quốc hội khóa X đã thông qua luật di sản văn hóa định nghĩa: “di tích lịch sử – văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình địa điểm có giá trị lịch sử văn hóa khoa học”.
Từ khái niệm nói trên, có thể thấy di tích là một thực thể, mà khi đã gắn với lễ hội thì di tích lại trở thành một bộ phận không thể tách rời. Đặc biệt là với những lễ hội thờ thần thì di tích có thể các đình, đền, miếu, phủ… là nơi người dân xây dựng để làm cơ sở, làm địa điểm để thờ cúng thần, có thể là được đặt tại trung tâm làng hoặc nơi thần hóa.
1.2. Mối quan hệ giữa lễ hội truyền thống, thần và di tích lịch sử trong văn hóa dân tộc
Như vậy có thể nhận thấy rằng, lễ hội, thần và di tích luôn có sự gắn kết chặt chẽ. Nếu không có vật thờ, không có thần thánh thì bất thành lễ hội. Sự gắn kết chặt chẽ giữa di tích, thần và lễ hội trong văn hóa dân tộc đã thành một thể thống nhất. Lễ hội là sự giao hòa giữa tín ngưỡng và vui chơi, giữa con người và thần linh, giữa âm và dương…để thông qua đó con người có thể bày tỏ niềm mong ước của mình vào các vị thần linh trên trời. Đồng thời thỏa mãn khát vọng trở về cội nguồn và đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh cũng như nhu cầu giao lưu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Trước đây con người chưa có đủ khả năng để chinh phục, chế ngự và làm chủ thiên nhiên cũng như làm chủ xã hội nên bị bất lực và chi phối bởi những thiên tai, bất trắc, may rủi hay bất công do thiên nhiên, con người tạo ra. Vì thế thần linh là nơi họ đặt niềm tin vào đó như thần linh trời đất, thần linh núi sông… Vậy nên xưa kia nhiều làng xã ở nhiều nơi đã xây dựng đình, miếu… để thờ các vị thần linh tại địa phương và thường tổ chức lễ hội tại các nơi đó, nhằm thể hiện sự biết ơn đối với các vị thần linh đã ban cho người dân sức khỏe, mùa màng bội thu, dân khang vật thịnh… thì chính việc tổ chức các lễ hội lại thể hiện rõ nhất điều này, thông qua tín ngưỡng thần linh hóa trần tục. Để thông qua lễ hội mà con người được hướng về nguồn cội, được tưởng nhớ đến thần linh… Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Lễ hội là sản phẩm và là biểu hiện của một nền văn hóa, là một thành tố quan trọng cấu thành và có tác dụng duy trì những yếu tố văn hóa khác cùng tồn tại. Tham gia lễ hội là một văn hóa ứng xử, lễ hội chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc, đặc biệt là tính cộng đồng làng xã – vun đắp nâng đỡ tinh thần cho từng cá nhân. Có thể nói, lễ hội góp phần củng cố tinh thần cộng đồng của làng quê xóm cũ.
Lễ hội là một trong những “hoạt động văn hoá cao”, “hoạt động văn hoá nổi trội” trong đời sống con người. Hoạt động lễ hội là hoạt động của cộng đồng hướng tới “xử lý” các mối quan hệ của chính cộng đồng đó. Hoạt động này diễn ra với những hình thức và cấp độ khác nhau, nhằm thoả mãn và phục vụ lợi ích đa dạng trước mắt và lâu dài của các tầng lớp người; thoả mãn những nhu cầu của các cá nhân và tập thể trong môi trường mà họ sinh sống. Đặc biệt, lễ hội chính là nơi hội tụ của nhiều giá trị văn hóa lối sống, giúp cho xon người không ngừng hướng đến cái thiện, khơi dậy cái chân – thiện – mĩ và thôi thúc con người vươn lên một lý tưởng, sống cao đẹp và giàu ý nghĩa hơn.
Môi trường của lễ hội truyền thống Việt Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã Việt Nam. Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hoá truyền thống được bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hoá truyền thống đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó chính là hệ quả của cả quá trình lịch sử của không chỉ một cộng đồng người. Đây chính là tinh hoa được đúc rút, kiểm chứng và hoàn thiện trong dọc dài lịch sử của bất cứ một cộng đồng cư dân nào. Lễ hội có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần được đáp ứng và thoả nguyện qua mọi thời đại.
Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong xã hội ở từng giai đoạn của lịch sử.
Lễ hội là cái nôi mang trong mình sức sống của một dân tộc, được minh chứng qua hàng ngàn năm lịch sử, là một bảo tàng văn hóa sống lưu giữ tín ngưỡng tôn giáo, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian.
Sự ổn định của đời sống dân tộc, ý thức tôn trọng những giá trị truyền thống và sự tôn kính thế giới tâm linh của nhân dân là yếu tố hàng đầu tạo cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của lễ hội. nhân dân hưởng ứng say mê lễ hội là cơ sở để lễ hội tồn tại và phát triển. Sự tồn tại của lễ hội là minh chứng cho sức sống của văn hóa Việt Nam.
1.3. Lễ hội truyền thống Việt Nam trong văn hóa dân tộc Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
1.3.1. Nhận diện lễ hội truyền thống Việt Nam
1.3.1.1. Nguồn gốc và quá trình hình thành lễ hội ở Việt Nam
Thông thường, ở Việt Nam những lễ hội có từ trước năm 1945 được gọi bằng các tên gọi “lễ hội cổ truyền”, “lễ hội dân gian”, “lễ hội truyền thống”, “ lễ hội dân gian truyền thống”... Mặc dù có những tên gọi khác nhau nhưng theo các nhà nghiên cứu thì có thể chia lịch sử lễ hội cổ truyền (trước 1945) của người Việt ở Bắc bộ thành bốn thời kỳ:
a) Lễ hội trong thời kỳ xây dựng nền văn hoá Đông Sơn (từ khoảng sáu, bảy thế kỷ trước Công nguyên đến một vài thế kỷ sau Công nguyên). Đó là những lễ hội của cư dân nông nghiệp, được mở vào mùa thu, là hình thức sinh hoạt văn hoá- xã hội tổng hợp, thể hiện một trình độ văn minh khá cao, bản sắc văn hoá độc đáo của người Việt cổ, thể hiện tập trung nhất tính chất nhân văn và tính chất nguyên Việt.
Lễ hội trong thời kỳ Bắc thuộc. Lễ hội trong thời kỳ này có những đặc điểm cơ bản sau:
Hội được mở vào cả hai mùa xuân, thu trong đó hội mùa xuân nhiều hơn
Hội chùa xuất hiện, không chỉ phản ánh tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, mà còn thể hiện ý nghĩa Phật giáo đã được Việt hoá.
Mỗi dịp mở hội là một lần cư dân Việt sùng bái, tưởng niệm, diễn lại sự tích các anh hùng dân tộc. Các vị này đã trở thành thần thành hoàng của nhiều xóm làng cư dân Việt.
c) Lễ hội trong thời kỳ xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập tự chủ (từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX). Trong giai đoạn này bên cạnh hội chùa còn xuất hiện thêm hội đình. Mặt khác trong một lễ hội, thường có sự pha trộn của nhiều tín ngưỡng: tín ngưỡng nguyên thuỷ, tín ngưỡng Phật giáo, tín ngưỡng Đạo giáo, tín ngưỡng thành hoàng. Trong các sinh hoạt văn nghệ của các lễ hội, đã có sự phân biệt rạch ròi giữa cung đình, bác học với dân gian, quan nhạc (nhạc chính thức của Nhà nước) khác hẳn nhạc giáo phường (nhạc dân gian)… Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
d) Lễ hội trong thời kỳ đất nước dưới chế độ thực dân nửa phong kiến (từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1945). ở giai đoạn này hội vẫn được tổ chức vào hai mùa xuân, thu. Địa điểm diễn ra lễ hội là ở đình, đền, chùa. Lễ hội vẫn mang ý nghĩa là lễ hội nông nghiệp, bên cạnh những tư tưởng mê tín, dị đoan, những hủ tục nặng nề đã tồn tại những yếu tố dân chủ, bình đẳng… Đáng chú ý, trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, những lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc, lễ hội nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn dân tộc vẫn được mở, thu hút sự tham gia của đông đảo người dân nước Việt.
Những lễ hội ra đời sau năm 1945 được gọi là “lễ hội hiện đại“. Có thể nói, lễ hội đã kết tinh những nét đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc, truyền thống đó thể hiện mộ phần ở những tinh hoa lắng đọng trong hoạt động lễ hội. Chính ở trong hoạt động văn hoá đặc sắc này, các tàn dư lạc hậu, không phù hợp với thời cuộc đã và sẽ được sàng lọc, loại bỏ theo thời gian. Khi nghiên cứu tổng thể về lễ hội cổ truyền và lễ hội hiện đại, thuật ngữ “lễ hội truyền thống” đề cập đầy đủ nhất về hai loại hình lễ hội này. Những lễ hội có từ trước năm 1945 nay còn tồn tại trong đời sống văn hoá ở các địa phương cùng những lễ hội ra đời từ sau năm 1945 đã và đang trở thành hoạt động văn hóa thường niên ở các cộng đồng dân cư. Cả hai loại hình lễ hội đó đều đã và đang trở thành truyền thống của dân tộc. Việc sử dụng tên gọi “lễ hội truyền thống” vừa thể hiện được đặc trưng của lễ hội dân gian, vừa làm rõ nội dung của các loại hình lễ hội hiện đại. Nghiên cứu lễ hội từ truyền thống đến hiện đại góp phần tìm hiểu ý nghĩa xã hội và văn hoá của nó trong tiến trình lịch sử. Hiện nay, trong kho tàng di sản văn hoá dân tộc, hệ thống lễ hội trở thành một thành tố văn hoá phi vật thể không thể thiếu trong đời sống văn hoá xã hội của đông đảo các tầng lớp nhân dân trên đất nước ta.
Trong tiến trình lịch sử dân tộc, lễ hội truyền thống Việt Nam hình thành rất sớm, từ khi chưa hình thành nhà nước, chưa có sự phân chia giai cấp. Tuy vậy, có thể cho rằng, lễ hội xuất hiện khi xã hội loài người đạt trình độ phát triển cao trong tổ chức đời sống xã hội. Cũng như các mặt hoạt động khác của đời sống con người, lễ hội từng bước hình thành, không ngừng biến đổi và hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của xã hội ở từng giai đoạn khác nhau của lịch sử. Từ thực tiễn cuộc sống, có thể thấy rằng lễ hội được hình thành từ các cơ sở được coi là nguồn gốc sau:
Do phong tục tập quán truyền thống của các địa phương truyền lại: Những phong tục tập quán được hình thành từ bao đời, chung đúc qua bao thế hệ và được truyền lại cho các thế hệ kế tiếp, luôn thể hiện một phần đạo lý “uống nước nhớ nguồn – ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các lễ hội truyền thống Việt Nam. Trong dân gian có câu: “Trống làng nào làng ấy đánh”, ” Thánh làng nào làng ấy thờ” điều này vừa phản ánh, thể hiện yếu tố bản địa, mang tính địa phương, vừa tạo ra sự phong phú đa dạng của bức tranh văn hoá dân tộc.Những lễ hội dân gian diễn ra ở các làng xã thường gắn với những kỷ niệm ngày sinh, ngày hoá của các Thần hoàng làng – vị thần bản mệnh của địa phương. Cho nên, lệ làng, phép nước đã góp phần hình thành các lễ hội truyền thống. Lễ hội bắt nguồn từ trong cuốc sống lao động sản xuất và chiến đấu của người nông dân, đồng thời thể hiện sự phong phú đa dạng trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng của một bộ phận dân cư trên địa bàn cụ thể. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Phong tục tập quán của mỗi vùng, miền là yếu tố quyết định việc tồn tại và phát triển các lễ hội truyền thống ở các địa phương.Nó phản ánh và thể hiện nét đặc sắc của bản sắc văn hoá dân tộc của các địa phương vùng miền trong một lãnh thổ quốc gia thống nhất. Chính điều đó thể hiện văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá “thống nhất trong đa dạng”, nó được hình thành bởi sự góp mặt của văn hoá 54 dân tộc anh em.Những phong tục tập quán của các địa phương, dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng, mang sắc thái riêng tạo nên nét bản sắc của văn hoá. Có thể nói, lễ hội ra đời trong lịch sử, tồn tại và vận hành cùng lịch sử, góp phần hình thành truyền thống, hình thành những thuần phong mỹ tục, tập quán, lối sống, nếp sống ở các địa bàn dân cư.
Do quy định của thể chế chính trị – xã hội đương thời: Là một hoạt động văn hoá, lễ hội ra đời, tồn tại và phát triển trong một môi trường xã hội nhất định. Trong từng thời điểm của lịch sử, môi trường xã hội nào cũng gắn với thể chế chính trị cầm quyền của giai đoạn đó. Do lễ hội là hoạt động văn hoá có tác động và ảnh hưởng sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân nên các chính thể cầm quyền đều sử dụng nó như một “công cụ văn hoá đa năng” để phục vụ những mục đích quản lý, duy trì và điều hành hoạt động của đất nước, xã hội.Vì thế, hoạt động lễ hội diễn ra trước hết phục vụ cho mục đích trên của chính thể cầm quyền. Bên cạnh những lễ hội dân gian truyền thống, nhiều lễ hội được tổ chức nhằm chúc mừng các sự kiện chính trị – quân sự – văn hoá xã hội nổi bật của từng giai đoạn, như các lễ hội chào mừng sự kiện lịch sử, đón nhận danh hiệu thi đua, lễ hội kỷ niệm, đánh dấu các mốc thời gian ra đời, các thành tựu đạt được của các cá nhân, tập thể của một cơ quan, đơn vị.
Do các mục tiêu phát triển kinh tế – văn hoá- xã hội đặt ra: Là một thành tố văn hoá có chứa đựng các nội dung và yếu tố văn hoá, kinh tế nên lễ hội được chính thể cầm quyền sử dụng, khai thác như là một tác động bổ trợ góp phần điều tiết và thúc đẩy xã hội theo những mục tiêu, định hướng phát triển của từng thời kỳ, giai đoạn khác nhau. Căn cứ vào tình hình xã hội, đất nước, từ thực trạng của các ngành kinh tế, nhu cầu của xã hội, của cuộc sống đặt ra để tổ chức các cuộc triển lãm về thành tựu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật như các Hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao, hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, các liên hoan du lịch làng nghề truyền thống của các địa phương. Mỗi một giai đoạn có một mục tiêu phát triển khác nhau, từ đó lễ hội cũng được khai thác thông qua các hình thức mang tính đặc thù để phát huy thế mạnh vốn có của các loại hình văn hoá xã hội này.
Do nhu cầu vui chơi giải trí của các tầng lớp nhân dân trong xã hội: Nhu cầu vui chơi giải trí luôn đặt ra với con người mỗi khi có thời gian nhàn rỗi như sau thời kỳ lao động sản xuất có liên quan đến mùa vụ, hoặc các nghề nghiệp sản xuất khác. Người dân sau một thời gian lao động sản xuất mệt nhọc, vất vả, căng thẳng muốn nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, bù đắp năng lượng thiếu hụt đều có mong muốn và nhu cầu bổ sung nguồn năng lượng tiêu hao, thiếu hụt thông qua việc tham gia các lễ hội. ở đó họ được bù đắp, khám phá những mới mẻ, hấp dẫn khác của đời sống văn hoá mà họ chưa có. Nhu cầu này thường xuyên, liên tục đối với mỗi con người, như là một tất yếu để giải toả những ức chế, mệt mỏi trong cuộc sống, thu nạp năng lượng để bước vào cuộc sống mới. Quá trình này chính là quá trình “tích nạp năng lượng”, là sự bổ sung điều chỉnh để tự hoàn thiện mình trong những điều kiện, hoàn cảnh mới. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
1.3.1.2. Đặc điểm cơ bản của lễ hội truyền thống Việt Nam
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Xuất phát từ nền văn minh lúa nước ở vùng nhiệt đới, hình thành lên những nét phong phú và dộc đáo của lễ hội truyền thống Việt Nam. Văn hóa Việt Nam là văn hóa gốc nông nghiệp do đó lễ hội truyền thống Việt Nam là lễ hội nông nghiệp.
Quy trình của lễ hội của một lễ hội truyền thống Việt Nam thông thường địa phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước sau: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần…
Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động trong những ngày này.
Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích.
Thời gian mở hội của Lễ hội truyền thống ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và mùa thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố cơ bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.
Lễ hội truyền thống bao giờ cũng hướng đến một đối tượng đó là thần thánh, và là cầu nối giữa hiện tại với quá khứ, là giao lưu cộng cảm, trao truyền những đạo lý, thuần phong, mĩ tục, củng cố tinh thần cố kết cộng đồng. Mỗi một dịp lễ hội là một dịp quy tụ hàng ngàn, hàng vạn người trong cùng một không gian thiêng liêng.
Có nhiều quan niệm khác nhau về lễ hội, có lễ hội cổ truyền, lễ hội truyền thống với ý nghĩa gần như tương đương nhau, truyền thống hay cổ truyền thật ra chỉ là hai thuật ngữ Hán – Việt dùng để cùng nói về một đối tượng. Lễ hội truyền thống là một bộ phận những giá trị tốt đẹp của lễ hội cổ truyền của dân tộc, được các thế hệ sau nối tiếp, thê hệ trước tái tạo và khẳng định để bảo tồn và phát huy theo hướng tích cực trong đời sống xã hội. Ngoài ra còn có lễ hội dân gian cũng là một lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần của một xã hội được hình thành trên cơ sở cố kết cộng đồng. Từ đây ta có thể thấy, Lễ hội truyền thống, lễ hội cổ truyền và lễ hội dân gian là đồng nhất với nhau nói về lễ hội trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân xưa và nay. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng nhà nghiên cứu với những cách tiếp cận khác nhau và phương thức nghiên cứu khác nhau. Nhưng tất cả đều cho rằng lễ hội truyền thống là một hiện tương có tính chất hai mặt trong một chỉnh thể thống nhất. Lễ hội truyền thống là một hệ thống hành vi nghi thức biểu đạt thế ững xử của cộng đồng, hướng tới đối tượng thần linh nhất định và những hoạt động văn hóa để minh họa cho các hành vi, nghi lễ. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Hiện tại ở nước ta có nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội truyền thống còn có Lễ hội mới, (lễ hội hiện đại, gắn với các sự kiện lịch sử hiện đại, cách mạng), lễ hội sự kiện (gắn với du lịch quảng bá du lịch, Lễ hội nhân kỷ niệm những năm chẵn thành lập thành phố, tỉnh, huyện)…, trong đó lễ hội cổ truyền có số lượng nhiều nhất (khoảng trên 7000 lễ hội trong tổng số gần 9000 lễ hội), phạm vi phân bố rộng (cả nông thôn, đô thị, vùng núi các dân tộc), có lịch sử lâu đời nhất. Người ta có thể phân loại lễ hội cổ truyền theo thời gian các mùa trong năm, trong đó quan trọng nhất là mùa xuân, mùa thu (xuân thu nhị kỳ), phân chia theo phạm vi lớn nhỏ: Lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ hội quốc gia. Phân loại theo tính chất của lễ hội: Lễ hội nghề nghiệp (nông, ngư, nghề buôn…), lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc, người có công với quê hương, đất nước, lễ hội gắn với các tôn giáo tín ngưỡng cụ thể như lễ hội của Phật, Kitô, Tín ngưỡng dân gian…
Lễ hội truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến của cộng đồng cư dân nông nghiệp nước ta. Tính nguyên hợp của lễ hội thể hiện ở chỗ lễ hội vừa là hoạt động tín ngưỡng thờ cũng các vị thần linh, vừa là hoạt động vui chơi giải trí, là sinh hoạt văn hóa tinh thần gắn bó trực tiếp với hoạt động văn hóa sản xuất, vật chất.
Như vậy, có thể nhận định rằng, lế hội truyền thống là lễ hội được sáng tạo và lưu truyền theo phương thức dân gian, được hình thành trong các hình thái văn hóa lịch sử, được truyền lại trong các cộng đồng nông nghiệp với tư cách như một phong tục tập quán.
Từ những quan điểm trên có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bả sau của một lễ hội truyền thống :
Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống tính phức hợp, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm gần như tất cả các phương diện khác nhau của đời sống xã hội của con người: sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các sinh hoạt diễn xướng dân gian (hát, múa, trò chơi, sân khấu…), các cuộc thi tài, vui chơi, giải trí, ẩm thực, mua bán… Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào của nước ta lại có thể sánh được với lễ hội cổ truyền, trong đó chứa đựng đặc tính vừa đa dạng vừa nguyên hợp này.
Chủ thể của lễ hội truyền thống là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả là cộng đồng quốc gia dân tộc. Nói cách khác không có lễ hội nào lại không thuộc về một dạng cộng đồng, của một cộng đồng nhất định. Cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Tính phức hợp, tính tổng thể và tính cộng đồng của lễ hội truyền thống quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ chức, thái độ và hành vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt với các loại hình lễ hội khác như lễ hội sự kiện, các loại Festival…
1.3.1.3. Đặc điểm của lễ hội truyền thống Hải Phòng
Cũng như các tỉnh thành phố trong cả nước lễ hội truyền thống là lễ hội nông nghiệp với ước muốn mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, dân khang vật thịnh, mùa màng tươi tốt, dân khang vật thịnh. Nhưng Hải Phòng lại là thành phố biển với nhiều nét văn hóa biển độc đáo, do đó lễ hội Hải Phòng không chỉ có lễ hội của nông nghiệp mà còn có cả lễ hội của ngư dân – những người sống bằng nghề sông nước. Nổi tiếng nhất đó là lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn là của đa phần những người đi biển nhưng cũng có sự tham gia của những người làm ruộng khi vào hội. Hay lễ hội làng Quần Mục (Kiến Thụy, Hải Phòng) với những trò chơi chính trong hội mang đậm nét văn hóa của cư dân ven biển Hải Phòng mà khác với các tỉnh thành khác là bơi thuyền và đi kheo của những người đánh cá.
Nhưng đối với lễ hội Hải Phòng, ngoài những nét chung như tế, rước… lễ hội còn mang sắc thái địa phương độc đáo, ít nơi hoặc thậm chí không có nơi nào có. Ví như lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn, cũng là thờ thủy thần vị thần ấy là thần Điểm Tước, hay một số phần hội có nét đặc trưng hơn với người dân vùng biển là ước vọng của con người thể hiện qua các tích trò như “Thủy chiến cửa đình” – tái hiện lại cuộc chiến đấu của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng…
Nét văn hóa lễ hội truyền thống Hải Phòng chứa đựng những nét phong tục, tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật, thuật cả các sự kiện xã hội – lịch sử quan trọng của dân tộc nói chung và Hải Phòng nói riêng và lễ hội còn là bảo tàng sống về các mặt sinh hoạt văn hoá tinh thần của người Hải Phòng. Chúng đã sống, đang sống và đang tồn tại giữa đời sống con người Hải Phòng, thể hiện cái cốt cách riêng có của thành phố Cảng. là niềm tự hào riêng của thành phố về văn hóa truyền thống thành phố biển quê hương.
1.3.2. Giá trị của lễ hội truyền thống trong nền văn hóa dân tộc
Lễ hội cổ truyền là những mốc đánh dấu chu trình đời sống sản xuất và đời sống xã hội của mỗi cộng đồng người, mà một khi cái mốc mang tính lễ nghi đó chưa được thực hiện thì các quá trình sản xuất và quá trình xã hội đó sẽ bị đình trệ, sự sinh tồn và các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. một nghi lễ, lễ hội bao giờ cũng mang tính chuyển tiếp của một chu trình sản xuất vật chất hay xã hội nhất định. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Trong số hơn 7000 lễ hội truyền thống của nước ta, xét về nguồn cội đều là lễ hội nông nghiệp, quy mô ban đầu là hội làng. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử, các lễ hội nông nghiệp này dần biến đổi, làm phong phú hơn bằng những nội dung lịch sử (nhất là lịch sử chống ngoại xâm), nội dung xã hội (nhất là các quan hệ cộng đồng), nội dung văn hóa tạo nên diện mạo vô cùng phong phú và đa dạng như ngày nay.
Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lễ hội truyền thống vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ hội truyền thống vẫn thu hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại? Nói cách khác, lễ hội truyền thống vẫn đáp ứng nhu cầu của con người không chỉ trong xã hội truyền thống mà cả xã hội hiện đại. Có được điều đó là do lễ hội truyền thống hội tụ các giá trị sau:
1.3.2.1.Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng
Lễ hội nào cũng là của cộng đồng và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng – quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ… chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng.
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kêt cộng đồng ấy.
1.3.2.2. Giá trị hướng về cội nguồn Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá… Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt Nam – “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao giờ cũng gắn với hành hương – du lịch.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa, con người bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hoà mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại.
1.3.2.3. Giá trị cân bằng đời sống tâm linh
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng – chân thiện mỹ – cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng. Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống trần tục, hiện hữu.
Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ, “tháo khoán”… Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con người, làm thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả – chân thiện mỹ, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường… Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực.
1.3.2.4. Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng – văn hoá cộng đồng của nhân dân ở nông thôn cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá của mình.
Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân công lao động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của con người đã phần nào tách biệt.
Đấy là chưa kể trong xã hội nhất định, một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt” các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến như nhu cầu giao tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như vậy, con người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào xói mòn tinh thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.
1.3.2.5. Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa
Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, người người tụ hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó, con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan…; các điệu múa xanh tiền, con đĩ đánh bồng, múa rồng, múa lân…; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương…; các trò chơi, trò diễn: Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh phết, trò trám… sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao?
Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn hoá truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái làng xã nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.
Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Tóm lại, lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần biểu hiện những giá trị tiêu biểu của một cộng đồng, một dân tộc. Ở nước ta, lễ hội được tổ chức bao gồm nhiều mặt của đời sống xã hội như tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, sự tích về các vị anh hùng có công với dân với nước, các trò chơi dân gian, diễn xướng dân gian, các nghi lễ… Hàng năm trên đất nước ta có hàng ngàn lễ hội được tổ chức với nhiều hình thức, quy mô và mang ý nghĩa khác nhau. Hải Phòng lại là thành phố biển được hình thành gắn liền với quá trình lịch sử hào hùng của dân tộc và truyền thống văn hóa con người nơi đây đã hình thành lên một Hải Phòng với nhiều lễ hội đặc sắc và tiêu biểu. Nhưng lễ hội truyền thống Hải Phòng cũng như các lễ hội truyền thống khác, cũng như là một loại hình sinh hoạt văn hoá tinh thần đặc biệt, mang tính tập thể có giá trị to lớn mang ý nghĩa cố kết cộng dồng dân tộc, giáo dục tình cảm đạo đức con người hướng về cội nguồn, đồng thời lễ hội có giá trị văn hoá tâm linh cân bằng đời sống tinh thần con người hướng về cái cao cả thiêng liêng. Lễ hội còn là tấm gương phản chiếu việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc và đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, lễ hội còn mang một giá trị kinh tế lớn, là sản phẩm văn hoá đặc biệt cho ngành du lịch.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
Qua chương 1 có thể nói lễ hội truyền thống là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Việt Nam và là một hiện tượng có tính chất tổng hợp chứa đựng trong nó cả tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán, diễn xướng dân gian và văn nghệ dân gian. Bên cạnh đó, Giáo sư Trần Quốc Vượng trong Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm thì “Lễ hội còn là một sản phẩm và biểu hiện của một nền văn hóa”. Lễ hội truyền thống được ra đời, bảo tồn và phát huy trong lòng lịch sử- văn hoá dân tộc, nó phản ánh khá đầy đủ và rất sinh động đời sống văn hoá- xã hội mà đã trải qua.
Nhiều yếu tố văn hoá tinh thần được lễ hội truyền thống bảo lưu và truyền tụng từ đời này sang đời khác; và thực sự trở thành di sản văn hoá truyền thống vô giá. Đó chính là kho tàng các giá trị thuộc về tinh hoa văn hoá, phản ánh rõ nét bản lĩnh và bản sắc dân tộc Việt Nam. Lễ hội truyền thống mang trong mình sức sống bền bỉ dẻo dai của một dân tộc, mang theo nhiều dấu ấn lịch sử đậm nét, gắn với những sự kiện chính trị, giá trị tinh thần thiêng liêng trong đời sống dân tộc. Và cũng nhờ có lễ hội mà văn hóa tín ngưỡng, những nét phong tục tập quán của người dân được giữ gìn và phát huy. Hiện tại của nó là luôn gắn liền với vật thờ và được tổ chức tại di tích thờ. Do đó, như một thể thống nhất lễ hội, di tích và thần thánh đã trở thành một nhu cầu, một nguyện vọng tâm linh của người dân.
Đối với Hải Phòng, lễ hội mang nét văn hóa của người dân cảng biển, có chút mạnh mẽ, có chút phóng khoang và lễ hội của nó cũng như những gì mà con người nơi đây vốn có. Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Lễ hội xa mã đình hoàng châu huyện Cát Hải

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu xã Hoàng Châu huyện Cát Hải […]