Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài: lý luận và thực tiễn dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Trong khi soạn thảo thỏa thuận trọng tài, người ta thường để ý đến các vấn đề như địa điểm trọng tài, số lượng trọng tài viên, ngôn ngữ trọng tài… mà thường quên đi một vấn đề vô cùng quan trọng đó là luật áp dụng. Và trong nhiều trường hợp, mặc dù có chú ý lưu tâm đến việc lựa chọn luật áp dụng, nhưng các bên kí kết hợp đồng vẫn “bỏ quên” việc lựa chọn luật áp dụng để điều chỉnh thỏa thuận trọng tài vì họ không ý thức được tầm quan trọng của lựa chọn này đối với thỏa thuận trọng tài sau này. Nhưng như đã phân tích ở trên, việc lựa chọn luật áp dụng cho luật trọng tài có thể ảnh hưởng rất lớn tới hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đó. Bên cạnh đó, thỏa thuận trọng tài thường được coi là một hợp đồng có tính chất độc lập và riêng biệt, dù nó ở dưới hình thức điều khoản trọng tài hay là thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài, chính vì thế việc xác định luật áp dụng riêng cho nó là điều cần thiết nếu như không nói là không thể thiếu. Nội dung chương này sẽ đi sâu vào việc phân biệt luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài với các luật áp dụng khác trong trọng tài đồng thời phân tích các phương thức lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, thực tiễn về luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài ở một số quốc gia và cuối cùng là phân tích ưu và nhược điểm của từng phương thức. Từ đó có thể chứng minh được tầm quan trọng của việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong tố tụng trọng tài và rút ra bài học để hoàn thiện vấn đề này trong luật Việt Nam.
Nội dung chính
1. Phân biệt luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, luật thủ tục trọng tài và luật nội dung trọng tài
Trên thực tế, có những tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài mà không hề dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật nào. Các trọng tài viên hoàn toàn dựa vào hợp đồng và những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên. Đây là trường hợp thường xảy ra đối với các hợp đồng kinh tế dài hàng trăm trang quy định đầy đủ và cụ thể những điều các bên được phép làm hay không được phép làm… Tuy nhiên, những tranh chấp có thể xảy ra ở bất cứ một thời điểm nào về bất cứ một vấn đề gì mà ngay cả những luật sư giỏi nhất, những chuyên gia kinh tế hàng đầu đôi khi cũng không thể lường trước được. Chính vì thế, việc xác định luật áp dụng trong hợp đồng là một việc nên làm và không bao giờ là thừa. Thẩm phán McNair, nguyên chủ tịch của Tòa án công lý quốc tế ICJ đã thừa nhận: “Người ta thường cho rằng các bên trong hợp đồng thường tạo ra luật riêng của họ và đương nhiên rằng miễn rằng luật đó phải phù hợp với các chính sách công (còn gọi là ordre public theo tiếng Pháp), các bên có quyền tự do thỏa thuận về những điều khoản mà họ có thể lựa chọn. Tuy nhiên, các thỏa thuận được dự kiến có hiệu lực pháp luật sẽ tạo ra những quyền và nghĩa vụ pháp luật, và các quyền và nghĩa vụ pháp luật đó không thể tồn tại trong một môi trường không có pháp luật (lỗ hổng pháp luật) mà phải có một vị trí trong một hệ thống pháp luật mà luôn sẵn sàng giải quyết các vấn đề như hiệu lực, việc áp dụng và giải thích hợp đồng và nhìn chung là để bổ sung những điều khoản được quy định rõ ràng”[1].
Qua đó ta có thể thấy rằng, mặc dù các bên được tự do quy định về quyền và nghĩa vụ của mình nhằm tạo ra một “luật riêng” điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa họ trong hợp đồng, tuy nhiên, việc xác định luật áp dụng khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vẫn được coi là một vấn đề vô cùng quan trọng và không thể bỏ qua. Nhiều người thường xem nhẹ việc lựa chọn luật áp dụng và không ghi rõ điều khoản lựa chọn luật áp dụng trong hợp đồng cũng như trong thỏa thuận trọng tài. Điều này dẫn đến việc tranh chấp trở nên phức tạp hơn vì hội đồng trọng tài lại phải đi xem xét xem luật nào được áp dụng, khiến cho quá trình giải quyết tranh chấp kéo dài, gây tốn kém chi phí. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Tuy nhiên, khi nhận thức được tầm quan trọng của luật áp dụng, còn một điều cũng quan trọng không kém đó là phải lựa chọn cho đúng luật cần chọn. Nếu như trọng tài trong nước thường chỉ bị chi phối bởi hệ thống pháp luật của chính quốc gia đó thì trọng tài thương mại quốc tế lại phức tạp hơn nhiều. Bởi các bên đến từ nhiều quốc gia khác nhau, hợp đồng cũng được kí kết và thực hiện ở nhiều địa điểm, hơn nữa trọng tài có thể được tổ chức ở một địa điểm trung gian và không liên quan đến bất cứ bên nào. Trong thực tế, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể bị ảnh hưởng bởi ít nhất năm hệ thống pháp luật khác nhau như sau[2]: Luật điều chỉnh năng lực giao kết của chủ thể[3]; Luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài; Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài; Luật điều chỉnh nội dung của vụ tranh chấp và Luật điều chỉnh về việc công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài.
Trong đó, có 3 loại luật quan trọng nhất nhưng lại thường bị nhầm lẫn với nhau đó là Luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài, luật điều chỉnh tố tụng trọng tài (luật hình thức) và luật điều chỉnh nội dung của vụ tranh chấp (luật nội dung). Ba loại luật này thường có mối quan hệ phức tạp, nó chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau. Và tùy theo pháp luật của từng quốc gia, một vấn đề có thể được quy là luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài, luật hình thức hay luật nội dung. Tuy nhiên, theo hệ thống pháp luật của một số quốc gia phát triển, người ta cũng thừa nhận những vấn đề nhất định được điều chỉnh bởi loại luật nào.
Nhìn chung, các bên cần phải phân biệt được luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, luật thủ tục trọng tài và luật áp dụng giải quyết nội dung vụ tranh chấp. Phần này sẽ chú trọng phân biệt giữa 3 loại luật áp dụng khác nhau như trên trong đó đi sâu phân tích và giải thích thế nào là luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và luật này sẽ điều chỉnh những vấn đề gì?
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
1.1. Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài
Luật hình thức hay luật điều chỉnh tố tụng trọng tài là một nhóm quy tắc thiết lập các tiêu chuẩn về hình thức của trọng tài đồng thời thể hiện mong muốn của các bên về quy trình tiến hành trọng tài và các vấn đề khác liên quan. Thẩm phán Justice Steyn, tòa thương mại Queen’s bench Division[4], trong vụ Paul Smith Ltd v H&S International Holding Inc đã thừa nhận luật điều chỉnh tố tụng trọng tài “…là một bộ quy tắc đặt ra chuẩn mực về cách thức tiến hành tố tụng trọng tài mà nằm ngoài phạm vi của điều khoản trọng tài và mong muốn của các bên. Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài bao gồm các quy tắc điều chỉnh các biện pháp tạm thời (ví dụ, tòa án ra lệnh bảo quản và lưu kho hàng hóa), các quy tắc cho phép Tòa án thực thi các biện pháp hỗ trợ nhằm giúp đỡ trọng tài khi khó khăn (ví dụ, bổ sung vị trí còn khuyết trong hội đồng trọng tài nếu không có cơ chế nào khác) và các quy tắc quy định Tòa án có thẩm quyền giám sát đối với trọng tài (ví dụ thay trọng tài viên có hành vi sai trái”[5].
Theo đó, luật điều chỉnh tố tụng trọng tài có ảnh hướng đáng kể đến quá trình tố tụng trọng tài. Đặc biệt, luật này có thể yêu cầu một số thủ tục trọng tài cần phải được áp dụng hoặc ngăn cản các trọng tài viên sử dụng các quy trình tố tụng khác. Luật tố tụng trọng tài có thể trực tiếp chi phối về các vấn đề khác nhau phát sinh trong quá trình tố tụng trọng tài. Các vấn đề được điều chỉnh bởi luật tố tụng trọng tài có thể rất khác nhau tùy theo các quốc gia cũng như quy chế của các trung tâm trọng tài khác nhau. Nhìn chung, các vấn đề có thể được điều chỉnh bởi luật tố tụng trọng tài bao gồm:
- Quyền tự quyết của các bên về các vấn đề nội dung và hình thức trong trọng tài.
- Trách nhiệm, tiêu chuẩn đạo đức, tiêu chuẩn chỉ định và khước từ trọng tài viên
- Mức độ giám sát hoặc can thiệp của tòa án vào thủ tục tố tụng trọng tài
- Quyền của luật sư xuất hiện tại tòa trọng tài và các nghĩa vụ đạo đức của họ.
- Các nguyên tắc bào chữa
- Các nguyên tắc về chứng cứ
- Lời tuyên thệ trước tòa trọng tài
- Cách tiến hành phiên điều trần
- Quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả của trọng tài viên bao gồm cả các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Hình thức và sự ban hành phán quyết Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Việc xác định luật thủ tục thường được tiến hành ngay sau khi tranh chấp được đưa ra giải quyết bằng trọng tài. Điều này cũng có ảnh hưởng đến việc công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài sau này.
1.2 Luật áp dụng để giải quyết nội dung tranh chấp
Sau khi vấn đề về thủ tục đã được giải quyết, hội đồng trọng tài bắt đầu xem xét các sự việc liên quan để giải quyết vụ tranh chấp. Việc này được thực hiện thông qua việc kiểm tra thỏa thuận trong hợp đồng giữa các bên về quyền và nghĩa vụ của từng bên cũng như rà soát các tài liệu có liên quan khác (chứng từ, biên lai…). Tuy nhiên, như đã được phân tích ở phần trên, hợp đồng giữa các bên luôn tồn tại trong một môi trường pháp luật và nó phải được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật nào đó bởi lẽ đôi khi chỉ hợp đồng không thể quy định đầy đủ tất cả về nội dung vụ tranh chấp, những “lỗ hổng” nhất định cần phải được lấp bằng các quy phạm pháp luật của một hệ thống luật cụ thể, người ta gọi đó là “luật áp dụng để giải quyết tranh chấp”, “luật điều chỉnh nội dung vụ tranh chấp” hay gọi tắt là “luật nội dung” (để phân biệt với luật hình thức).
Do đó, phần việc quan trọng tiếp theo của hội đồng trọng tài là xác định luật điều chỉnh nội dung vụ tranh chấp để trực tiếp giải quyết tranh chấp. Luật điều chỉnh nội dung vụ tranh chấp là hệ thống pháp luật hoặc nguyên tắc pháp luật được áp dụng để giải quyết thực chất nội dung vụ tranh chấp. Trong vụ Compagnie d’Armement Maritime S.A. v Compagnie Tunisienne de Navigation S.A., thẩm phán Diplock đã thừa nhận rằng: luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp “… là hệ thống pháp luật điều chỉnh việc giải thích và hiệu lực của hợp đồng, phương thức thực hiện hợp đồng và hậu quả của việc vi phạm hợp đồng”[6]. Đối với trọng tài trong nước, việc xác định luật nội dung là vô cùng đơn giản, bởi chắc chắn hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật pháp của chính quốc gia đó. Nhưng như đã phân tích ở trên, chính bởi yếu tố “quốc tế” mà luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp trong trọng tài thương mại quốc tế là vô cùng phức tạp. Hầu như lúc nào cũng có nhiều hơn hai hệ thống pháp luật có thể điều chỉnh nội dung của tranh chấp trong trọng tài thương mại quốc tế nếu như các bên không bày tỏ ý định lựa chọn luật nội dung ngay từ đầu. Mà ngay bản thân các hệ thống luật này nhiều lúc còn mâu thuẫn lẫn nhau trong lĩnh vực đang tranh chấp, điều này càng khiến cho việc xác định luật áp dụng cho nội dung của trọng tài viên trở nên khó khăn hơn.
Việc xác định luật nội dung có thể được thực hiện bằng việc xem xét thỏa thuận giữa hai bên hoặc các văn bản có liên quan khác. Trong trường hợp nếu không có các văn bản xác định được luật nội dung thì trọng tài viên có thể xác định luật nội dung áp dụng dựa trên một số nguyên tắc nhất định. Sau đó, bản án mới được đưa ra dựa trên các sự thật, bằng chứng được tìm ra nhờ luật áp dụng đó.
1.3 Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Đây là loại luật áp dụng thường ít được chú ý và ít được quy định nhất trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế. Như đã bàn ở phần trên, dù thỏa thuận trọng tài được lập dưới hình thức nào, là điều khoản trọng tài hay thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài, thì nó cũng có tính độc lập với phần còn lại của hợp đồng. Chính vì thế, thỏa thuận trọng tài có thể được coi như một hợp đồng độc lập và do đó nó cần có một hệ thống pháp luật điều chỉnh nó. Vì thỏa thuận trọng tài có thể ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực của phán quyết trọng tài sau này nên việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài là việc làm quan trọng và cần thiết để thỏa thuận trọng tài luôn có hiệu lực đầy đủ, rõ ràng và không thể tranh cãi.
Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài là luật được sử dụng để điều chỉnh các vấn đề liên quan tới thoả thuận trọng tài như hình thức của thỏa thuận trọng tài, tính hợp pháp, hiệu lực, phạm vi, và huỷ bỏ thoả thuận trọng tài. Nó thường giải quyết các câu hỏi liên quan tới các điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài, khả năng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của các vấn đề liên quan, sự tự nguyện trong mối quan hệ hợp đồng chứa đựng điều khoản trọng tài đó, khả năng của trọng tài viên được quyết định về thẩm quyền của chính họ… Bên cạnh đó, với các trường hợp như ở các nước Mỹ Latin đã phân tích ở trên thì luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài còn xem xét liệu có cần thiết có thêm một thỏa thuận đồng ý đưa tranh chấp lên giải quyết bằng trọng tài bổ sung cho điều khoản trọng tài có sẵn trong hợp đồng hay không?
Các tiểu mục trên đã cho ta thấy một cái nhìn tổng quan về từng loại luật, tầm quan trọng của việc lựa chọn chúng cũng như các vấn đề mà từng loại luật điều chỉnh. Mặc dù luật pháp của các quốc gia có thể có những quy định khác nhau về việc vấn đề nào được luật nào điều chỉnh nhưng nhìn chung, không khó để có thể phân biệt 3 loại luật này. Có thể tóm gọn nội dung của các loại luật như sau:
- Luật áp dụng cho tố tụng trọng tài (luật điều chỉnh tố tụng trọng tài, luật hình thức): thường điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thủ tục trong quá trình tiến hành tố tụng trọng tài.
- Luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp (luật điều chỉnh nội dung tranh chấp, luật nội dung): điều chỉnh các vấn đề thực chấp của tranh chấp, là cơ sở để trọng tài đi đến phán quyết cuối cùng.
- Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài (luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài): điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hình thức, hiệu lực, việc thực hiện và hủy bỏ thỏa thuận trọng tài.
2. Khi nào cần xem xét luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Vì luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài điều chỉnh các vấn đề cơ bản liên quan đến việc giải thích, tính hợp pháp, hiệu lực, phạm vi và việc hủy bỏ thỏa thuận nên việc xác định luật áp dụng này có thể đặt ra trong bất cứ giai đoạn nào của tranh chấp. Trước khi thành lập hội đồng trọng tài hay kể cả khi hội đồng trọng tài đang giải quyết tranh chấp và chưa đưa ra phán quyết cuối cùng, một bên có quyền phản đối thẩm quyền của trọng tài thì người ta cũng phải xem xét đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài để xem thỏa thuận đó có hiệu lực hay không. Đồng thời, khi phán quyết đã được đưa ra, các bên muốn công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài tại nước ngoài, khi đó tòa án cũng cần xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài để xét công nhận hay không công nhận phán quyết của trọng tài. Phần này sẽ phân tích hai trường hợp đặt ra yêu cầu xác định luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài.
2.1. Khi một bên có yêu cầu phản đối thẩm quyền của trọng tài
Như đã phân tích ở trên, thỏa thuận trọng tài là cơ sở để hội đồng trọng tài xác định thẩm quyền của mình, do đó khi một bên có yêu cầu phản đối thẩm quyền của trọng tài, họ thường viện dẫn lí do thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực. Khi đó, hội đồng trọng tài sẽ phải xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài để xem thỏa thuận đó có hiệu lực đối với luật áp dụng cho nó hay không. Trong trường hợp này, có thể chia thành hai trường hợp nhỏ hơn đó là: khi hội đồng trọng tài chưa được thành lập, một bên (thường là bị đơn) có thể gửi yêu cầu phản đối thẩm quyền của trọng tài cùng với các văn bản và tài liệu có liên quan tới trung tâm trọng tài giải quyết vụ việc (trong trường hợp các bên lựa chọn trọng tài quy chế) hoặc tới tòa án (trong trường hợp các bên lựa chọn trọng tài vụ việc). Việc này đồng nghĩa với việc không thừa nhận việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thứ hai, khi hội đồng trọng tài đã được thành lập và đang trong quá trình giải quyết tranh chấp nhưng chưa đưa ra phán quyết cuối cùng, các bên có thể đưa ra phản đối thẩm quyền của trọng tài bất cứ lúc nào. Trong cả hai trường hợp nhỏ này, dù hội đồng trọng tài đã được thành lập hay chưa thì họ vẫn có quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến thẩm quyền của chính mình (theo nguyên tắc competence-competence, thẩm quyền về thẩm quyền được thừa nhận bởi phần lớn các quốc gia văn minh có hệ thống pháp luật phát triển[7]).
Việc phản đối thẩm quyền của hội đồng trọng tài hay phản đối hiệu lực của thỏa thuận trọng tài rất đa dạng, đó có thể là sự viện dẫn sự không rõ ràng trong lựa chọn tòa án hay trọng tài trong thỏa thuận trong tài hay lựa chọn một tổ chức trọng tài không có thực… Và lúc này việc thiết yếu là phải dựa vào thỏa thuận trọng tài và xác định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài dựa trên luật áp dụng cho nó. Nếu thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực thì đương nhiên việc phản đối thẩm quyền sẽ bị bác bỏ và trọng tài tiếp tục giải quyết tranh chấp theo thỏa thuận trọng tài giữa các bên. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
2.2. Sau khi phán quyết được đưa ra, một bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hoặc yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết trọng tài
Sau khi trọng tài đã ra phán quyết cuối cùng để giải quyết vụ tranh chấp, bên thua kiện thường có xu hướng muốn từ chối phán quyết. Trong trường hợp này, họ thường có hai lựa chọn, đầu tiên là yêu cầu hủy phán quyết trọng tại tại tòa án nơi phán quyết được tuyên, nếu như việc này thất bại, bên thua vẫn còn một phương án là yêu cầu không công nhận phán quyết tại tòa án nơi phán quyết có thể được thi hành. Dù là thủ tục hủy phán quyết trọng tài hay công nhận và thi hành phán quyết ở nước ngoài, tòa án phải xem xét xem liệu thỏa thuận trọng tài giữa các bên có giá trị pháp lý không? Thông thường theo luật pháp của nhiều nước[8], việc thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo luật áp dụng cho nó sẽ dẫn đến việc hủy phán quyết trọng tài tại nơi phán quyết được tuyên hoặc phán quyết không được công nhận và thi hành ở nước ngoài. Chính vì thế, việc dẫn chiếu đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong giai đoạn này là việc không thể tránh khỏi.
Nhìn chung, thông thường có hai trường hợp người ta thường đặt ra câu hỏi về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đó là khi một bên phản đối thẩm quyền của trọng tài hoặc phản đối hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trước hoặc trong khi trọng tài giải quyết vụ tranh chấp nhưng chưa đưa ra phán quyết cuối cùng; thứ hai là khi một bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hoặc yêu cầu không công nhận phán quyết ở nước ngoài nơi phán quyết có thể được thi hành. Việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có giá trị quan trọng bởi nó quyết định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và của phán quyết trọng tài. Việc không lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ngay từ đầu của các bên sẽ dẫn đến sự phức tạp, tốn kém về thời gian, tiền bạc đồng thời có thể gây ra hậu quả là mục đích của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ không thành công bởi phán quyết có thể bị hủy hoặc không được công nhận. Điều này sẽ được phân tích kĩ hơn ở phần sau đây.
3. Các tiêu chí xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Người ta vẫn thường ngộ nhận rằng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài sẽ là luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng hay. Tuy nhiên, sự suy diễn này không hề an toàn, bởi thỏa thuận trọng tài, dù là một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hay là một thỏa thuận riêng biệt thì cũng đều có tính riêng biệt và độc lập với hợp đồng chính[9] nên có thể nó được điều chỉnh bởi một pháp luật riêng biệt hoàn toàn không liên quan đến hợp đồng chính.
Về mặt lý thuyết, pháp luật quốc tế về trọng tài và luật pháp của các nước đều thừa nhận quyền được lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài của các bên, đây là trường hợp mà các bên thống nhất chọn một luật áp dụng riêng cho thỏa thuận trọng tài và có nêu rõ trong hợp đồng. Nếu như các bên đã thể hiện rõ sự lựa chọn của mình thì đương nhiên đây sẽ là luật được các trọng tài viên áp dụng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hiệu lực, hình thức và việc thực hiện thỏa thuận trọng tài. Tiêu chí này được ghi nhận cụ thể trong các văn bản pháp luật quốc tế về thỏa thuận trọng tài. Trong Điều 34 khoản 2 (a) (i) Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL có thừa nhận rằng: “Một quyết định chỉ có thể bị tòa án… hủy trong trường hợp… thỏa thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng…”[10]. Theo quy định này thì luật do các bên lựa chọn luôn luôn được trọng tài viên tôn trọng áp dụng và kể cả tòa án khi xem xét việc hủy phán quyết hay công nhận và thi hành phán quyết cũng ưu tiên xét đến luật của các bên lựa chọn trước khi xem xét các luật khác có thể áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Chỉ khi nào các bên không lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài thì luật khác mới có thể được áp dụng. Tuy nhiên trường hợp này không phổ biến lắm vì các bên kí kết vẫn thường xem nhẹ việc lựa chọn luật áp dụng riêng cho thỏa thuận trọng tài mà chỉ thường chú trọng đến luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng và luật áp dụng cho thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Điều này cho thấy rằng, các nhà làm luật khuyến khích các bên lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và thường để mở cho các bên sự lựa chọn này. Việc các bên không lựa chọn luật áp dụng này mà là bỏ qua một cơ hội của mình và khiến quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng như quá trình công nhận phán quyết trở nên phức tạp và mất thời gian hơn. Đồng thời, việc này “đẩy” cho trọng tài viên một “sứ mệnh” khó khăn trong việc quyết định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Trong trường hợp, các bên không lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ngay từ đầu hoặc không thỏa thuận được luật áp dụng cho thỏa thuận đó thì công việc này sẽ thuộc về thẩm quyền của trọng tài, các nguyên tắc và luật pháp về trọng tài thường cho phép họ có quyền làm theo ý mình trong vấn đề này[11]. Và việc lựa chọn luật áp dụng này không phải là đơn giản vì trên thực tế bởi không có một văn bản nào hay nguyên tắc nào hướng dẫn việc này mà trọng tài thường dựa vào những thực tiễn trước đó để áp dụng. Hơn nữa, thực tiễn trọng tài trong việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài khi không có luật áp dụng do các bên lựa chọn thường đi theo nhiều hướng khác nhau[12]. Thông thường, các trọng tài viên thường lựa chọn dựa trên các nguyên tắc xung đột pháp luật hoặc áp dụng trực tiếp pháp luật mà họ thấy hợp lý. Việc áp dụng này đã tạo thành một số thực tiễn trong các vụ việc mà từ đó, các hội đồng trọng tài sau này có thể dựa vào đó để tham khảo và đưa ra quyết định của mình.
Có rất nhiều tiêu chí để lựa chọn luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài, tuy nhiên, phần này sẽ tập trung vào một số tiêu chí phổ biến và thường được áp dụng nhất thông qua việc phân tích một số vụ việc cụ thể. Từ đó đưa ra những nhận định về ưu, nhược điểm của từng tiêu chí lựa chọn để có thể đưa ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong luật Việt Nam.
3.1. Luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Khi các bên không lựa chọn được luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài thì như đã nhắc đến trên đây, trọng tài có quyền lựa chọn pháp luật mà họ thấy là “phù hợp”[13]. Một trong những phương án được các trọng tài lựa chọn nhiều nhất đó là sử dụng chính luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng hay có thể gọi là luật áp dụng để giải quyết nội dung vụ tranh chấp. Giáo sư Jullian D.M. Lew, một học giả nổi tiếng chuyên về lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế[14], đã cho rằng: “Có một giả định mạnh mẽ ủng hộ quan điểm rằng luật điều chỉnh thỏa thuận về nội dung trong đó có bao gồm điều khoản trọng tài cũng sẽ điều chỉnh cả thỏa thuận trọng tài. Nguyên tắc này đã được tuân theo trong rất nhiều vụ việc. Thậm chí đó còn được coi là một sự ngầm định về luật áp dụng cho điều khoản trọng tài”[15]. Một học giả nổi tiếng người Pháp khác cũng lập luận rằng: “Tính riêng biệt của điều khoản trọng tài đối với hợp đồng chính không có nghĩa rằng chúng hoàn toàn độc lập với nhau, điều này được chứng minh bằng thực tế rằng việc chấp nhận hợp đồng chính dẫn đến sự chấp nhận điều khoản trọng tài mà không cần thêm bất cứ thủ tục nào khác” Theo những lập luận này, thì điều khoản trọng tài trong một hợp đồng chính cũng được hiểu là một quyền và nghĩa vụ mà các bên quy định trong hợp đồng, do đó nó đương nhiên được điều chỉnh bởi luật áp dụng cho chính hợp đồng đó. Và các bên cũng sẽ khó chấp nhận nếu như họ đã lựa chọn một luật áp dụng cho nội dung của toàn hợp đồng mà trọng tài viên lại áp dụng một luật khác mà họ không lựa chọn cho một điều khoản riêng biệt trong hợp đồng đó, chỉ vì đó là điều khoản trọng tài. Bởi các lí do trên nên các trọng tài viên, các học giả và các bên cũng dễ dàng chấp nhận việc lựa chọn luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hiệu lực, hình thức và việc thực hiện thỏa thuận trọng tài.
Những lập luận này được củng cố bởi rất nhiều những vụ việc được xét xử bởi các tòa án và các hội đồng trọng tài ở nhiều nơi trên thế giới. Trong vụ Union of India v. McDonell Douglas Corp[17], bằng văn bản đề ngày 30 tháng 7 năm 1987, công ty Union of India ký kết hợp đồng với công ty McDonell Doulglas rằng công ty McDonnel Douglas sẽ thực hiện dịch vụ với công ty Union of Ấn Độ về việc ra mắt một vệ tinh trong không gian. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Điều 11 của hợp đồng quy định rằng hợp đồng sẽ được điều chỉnh, giải thích và hiểu theo luật của Ấn Độ. Hợp đồng cũng bao gồm một điều khoản trọng tài (Điều 8) có quy định: “Trong trường hợp có tranh chấp hoặc sự khác biệt phát sinh từ hoặc có liên quan tới hợp đồng này, mà không thể giải quyết được bằng biện pháp hòa giải, tranh chấp đó sẽ được giải quyết bằng một Hội đồng trọng tài gồm 3 thành viên… Trọng tài sẽ được tiến hành theo thủ tục quy định trong Đạo luật trọng tài của Ấn Độ năm 1940 hoặc các sửa đổi của đạo luật này sau này. Trọng tài sẽ được tiến hành bằng tiếng Anh. Phán quyết của các trọng tài viên sẽ được đưa ra theo nguyên tắc đa số, sẽ là chung thẩm và ràng buộc các bên. Nơi tiến hành trọng tài sẽ là London, Vương quốc Anh”. Sau khi tranh chấp nảy sinh, các bên đồng thuận đưa tranh chấp ra Tòa án với câu hỏi rằng luật nào sẽ được áp dụng cho quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Và trong phán quyết của mình tòa án đã cho rằng: “Một điều khoản trọng tài trong một hợp đồng thương mại như hợp đồng đang xem xét là một sự thỏa thuận nằm trong một thỏa thuận… Các bên có thể đưa ra lựa chọn luật áp dụng để điều chỉnh giao kèo thương mại và sự lựa chọn đó cũng có thể là luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Trong trương hợp đang xem xét, theo quan điểm của tôi, theo Điều 11 mà các bên đã lựa chọn luật Ấn Độ không chỉ để điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao kèo thương mại mà còn điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận trọng tài. Nói một cách pháp lý, theo đó, luật nội dung của cả giao kèo thương mại và thỏa thuận trọng tài đều là luật của Ấn Độ”. Qua đó, ta có thể thấy rằng, mặc dù nơi diễn ra trọng tài là ở London, Vương Quốc Anh nhưng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài vẫn là luật Ấn Độ, là luật mà các bên đã lựa chọn để điều chỉnh hợp đồng chính. Nhận định này cũng được lặp lại trong Phán quyết ngày 5/9/1977 của Hội đồng trọng tài thuộc Hiệp hội buôn bán dầu, chất béo và hạt chứa dầu Hà Lan, hội đồng trọng tài đã quyết định rằng “… luật áp dụng đối với nội dung tranh chấp cũng được áp dụng đối với việc xem xét hiệu lực của điều khoản trọng tài.”[18].
Tóm lại, qua lập luận của một số học giả và phán quyết của tòa án cũng như hội đồng trọng tài trong hai vụ việc được trích dẫn trên đây, có thể nhận thấy được một điều rằng việc lựa chọn luật áp dụng cho nội dung của vụ tranh chấp cũng đồng thời là luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài là một sự lựa chọn được cho là khá dễ dàng và hợp lý trong trường hợp thỏa thuận trọng tài ở dưới hình thức là một điều khoản trọng tài nằm trong một hợp đồng chính. Bởi lẽ mặc dù có tính hiệu lực riêng biệt, có nghĩa là trong trường hợp hợp đồng chính vô hiệu, điều khoản trọng tài để giải quyết tranh chấp vẫn có hiệu lực, nhưng điều khoản trọng tài vẫn nằm trong hợp đồng chính, nó cũng là một điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên, thật khó chấp nhận khi tách riêng điều khoản này ra và áp dụng cho nó một luật riêng. Tuy nhiên, điều này sẽ là không đúng trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không nằm trong hợp đồng chính mà là một thỏa thuận riêng trong đó hai bên đồng thuận để đưa tranh chấp lên giải quyết bằng thủ tục trọng tài. Trong trường hợp này, rõ ràng thỏa thuận trọng tài là một hợp đồng độc lập với hợp đồng chính nên việc suy diễn luật áp dụng cho hợp đồng chính cũng áp dụng cho thỏa thuận này lại không hề an toàn và hợp lý. Chính vì vậy, trọng tài còn có thể có một số lựa chọn khác mà sẽ được phân tích ở phần tiếp theo.
3.2. Luật của nơi diễn ra trọng tài hay luật nơi phán quyết được tuyên Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Như ta đã thấy ở phần trên, luật của toàn bộ hợp đồng chỉ trở thành luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài “một cách an toàn” khi đó là một điều khoản trọng tài nằm trong một hợp đồng chính. Bên cạnh đó, có một phương án khác được các điều ước quốc tế về trọng tài thương mại ghi nhận đồng thời cũng được các tòa án, hội đồng trọng tài và luật pháp quốc gia thừa nhận, đó là luật tại địa điểm diễn ra trọng tài hay có thể gọi là luật nơi phán quyết được tuyên. Gary Born[19], một học giả nổi tiếng của Mỹ cho rằng: “Sau khi cân nhắc kĩ lưỡng, việc lựa chọn luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài của các bên trong hợp đồng (trong trường hợp không thỏa thuận rõ ràng) thông thường là sự lựa chọn một trong hai khả năng – luật điều chỉnh hợp đồng hoặc luật của địa điểm tiến hành trọng tài”[20]. Bên cạnh đó, Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài và Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế cũng có điều khoản khẳng định rằng: “Phán quyết của trọng tài có thể bị từ chối công nhận và thi hành… nếu thỏa thuận trọng tài không hợp pháp… theo luật của nước phán quyết trọng tài được tuyên”[21]. Đồng thời nguyên tắc này cũng được nhiều quốc gia chuyển hóa vào trong nội luật trong các bộ luật về trọng tài thương mại quốc tế, ví dụ như:
- Khoản 1 điều 54 Luật Trọng tài Thụy Điển 1999 quy định: “Phán quyết trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành ở Thuỵ Điển nếu bên bị chống lại quyền lợi chứng minh được rằng… thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo luật của nước mà các bên đã chọn, nếu họ không đạt được thoả thuận như vậy, theo luật của nước phán quyết trọng tài được tuyên”
- Khoản II điều 38 Luật Trọng tài Brazil cũng ghi nhận rằng “… phán quyết trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành nếu bị đơn chứng minh được rằng thoả thuận trọng tài không có hiệu lực theo luật của nước mà các bên đã chọn, nếu thiếu điều này, theo luật của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên”
- Nội dung tương tự cũng được ghi nhận tại điều 103(2)(b) Luật Trọng tài Anh 1996: “Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài có thể bị từ chối nếu bị đơn chứng minh được rằng, thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo luật của nước các bên đã chấp thuận nó, nếu không có điều này, theo luật của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên”.
Nếu như nguyên tắc luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có thể là luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng là một nguyên tắc có vẻ như là ngầm định thì việc luật tại địa điểm diễn ra trọng tài điều chỉnh thỏa thuận trọng tài lại được thừa nhận bởi rất nhiều các văn bản pháp luật cả quốc tế và trong nước như đã liệt kê ở trên. Điều này dẫn đến những thực tiễn rằng các tòa án quốc gia và các hội đồng trọng tài áp dụng nguyên tắc này trong rất nhiều trường hợp. Có thể trích dẫn một vài vụ việc điển hình như sau:
Thứ nhất, phán quyết năm 1990 của Tòa trọng tài quốc tế của ICC (vụ việc số 616263) liên quan đến nguyên đơn người Pháp và bị đơn người Ai Cập (một cơ quan chức trách địa phương của Ai Cập). Hợp đồng chính giữa hai bên ghi nhận một điều khoản trọng tài rằng trọng tài sẽ được tổ chức tại Geneva theo quy tắc của ICC. Hợp đồng cũng quy định rằng: “Luật của Ai Cập sẽ được áp dụng”. Bị đơn cho rằng trọng tài viên không có thẩm định của trọng tài cũng thừa nhận rằng thỏa thuận trọng tài phải có giá trị pháp lý theo luật nơi phán quyết được tuyên. quyền bởi theo luật của Ai Cập, các bên chỉ đệ trình tranh chấp lên trọng tài giải quyết nếu có một quy định pháp lý rõ ràng cho phép họ nhờ đến trọng tài. Đồng thời họ cũng cho rằng vì các trọng tài viên không được chỉ định rõ bởi điều khoản trọng tài hay một thỏa thuận riêng rẽ nên điều khoản trọng tài không có hiệu lực theo Điều 502 (3) của Luật tố tụng thương mại và dân sự của Ai Cập. Tuy nhiên, hội đồng trọng tài cho rằng luật của Thụy Sỹ, địa điểm nơi tiến hành trọng tài mới là luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài chứ không phải là luật các bên đã lựa chọn để áp dụng cho toàn bộ hợp đồng. Do đó, tố tụng trọng tài vẫn được tiếp tục bởi theo luật của Thụy Sỹ thỏa thuận trọng tài giữa hai bên là hợp pháp và trọng tài hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Thứ hai là một vụ việc được giải quyết tại tòa án Tối cao của Thụy Điển[22], Ngân hàng Ngoại thương Bulgari (Bulbank) đã kí hợp đồng với một ngân hàng của Áo (Al Trade Finance Inc). Trong hợp đồng có quy định một điều khoản trọng tài lựa chọn luật của Áo là luật áp dụng cho hợp đồng. Khi tranh chấp phát sinh, các bên đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài theo quy tắc của UN/ECE[23], địa điểm tố tụng trọng tài là Stockholm. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết, Bulbank đã yêu cầu tòa án tối cao Thụy Điển hủy phán quyết với lí do rằng thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Và Tòa án tối cao Thụy Điển đã đưa ra phán quyết rằng: “… không có một quy định cụ thể nào liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài được đưa ra bởi các bên. Trong trường hợp này, vấn đề hiệu lực của điều khoản trọng tài nên được xác định theo luật của quốc gia nơi tiến hành tố tụng trọng tài đó là luật Thụy Điển”. Tòa án Thụy Điển đã bỏ qua việc luật của Áo được áp dụng cho hợp đồng mà chỉ áp dụng luật của Thụy Điển đối với vấn đề liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Tòa án cũng lưu ý rằng các bên cần lựa chọn rõ ràng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài chứ không chỉ là luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng.
Những kết luận tương tự cũng được tòa án các quốc gia khác ghi nhận trong các phán quyết của mình như trong vụ XL Insurance Ltd v Owens Corning66 được xét xử tại tòa án của Mỹ, vụ Tamil Nadu Electricity Board v. ST-CMS Electric company private[24] xét xử tại tòa án của Anh, vụ Matermaco v PPM Cranes[25] xét xử tại Hội đồng trọng tài thương mại tại Brussel cùng rất nhiều những vụ việc khác[26]. Có thể thấy rằng, việc lựa chọn luật tại địa điểm diễn ra trọng tài (hay nơi phán quyết trọng tài được tuyên) làm luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài là một suy luận và viện dẫn hợp lý bởi lẽ “thỏa thuận trọng tài thường có mối liên hệ mật thiết với quốc gia nơi tiến hành trọng tài hơn là bất kì quốc gia nào khác”[27]. Lựa chọn này có thể áp dụng cho mọi thỏa thuận trọng tài bất kể dưới hình thức điều khoản trọng tài hay thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài. Là tiêu chí lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trọng tài quốc tế cũng như nhiều luật trọng tài quốc gia, đây là phương án được lựa chọn và sử dụng nhiều nhất bởi cả tòa án và các hội đồng trọng tài tại nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Cũng liên quan đến luật tại nơi tiến hành trọng tài, luật trọng tài của Mỹ lại có cách tiếp cận có phần “chặt chẽ và khắt khe” hơn, điều này sẽ được phân tích trong một số trường hợp cụ thể ngay sau đây.
3.3. Luật tại nơi có tòa án đang xem xét tranh chấp liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
Mặc dù nguyên tắc này chỉ được áp dụng tại Mỹ nhưng nó cũng đã tạo ra một thực tiễn và tiền lệ trong việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tại Mỹ, Luật trọng tài của Liên bang[28] được coi là có hiệu lực tối cao nhằm tránh những sự mâu thuẫn trong pháp luật giữa các bang. Trong một số vụ kiện tại nước này, Luật trọng tài Liên bang được ưu tiên áp dụng ngay cả khi có sự lựa chọn rõ ràng của các bên về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài hay cho hợp đồng chính. Chẳng hạn như trong vụ Pedcor Mgt Inc Welfare Benefit Plan v N Am Indemnity[29], thỏa thuận trọng tài chỉ rõ việc lựa chọn luật Texas tuy nhiên Tòa án lại cho rằng: “… Luật trọng tài của liên bang (FAA) sẽ được ưu tiên áp dụng so với luật của bang mà mâu thuẫn với mục đích của FAA trong việc ‘đòi hỏi việc giải quyết các khiếu nại của các bên bằng tòa án trong khi các bên đã đồng ý giải quyết bằng trọng tài”. Trong vụ Milos Sovak v Chugai Parmaceutical Co[30], bên thua kiện đã viện dẫn luật của bang Illinois là luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài và cho rằng thỏa thuận vô hiệu tuy nhiên, Tòa án Phúc thẩm Mỹ tại Quản hạt 9 cũng đi đến kết luận rằng luật của Liên bang FAA phải được áp dụng chứ không phải luật của tiểu bang. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Trong một vụ khác, Chloe Z Fishing v Odyssey Re[31] liên quan đến việc lựa chọn luật nước ngoài và địa điểm trọng tài cũng ở nước ngoài nhưng Tòa án tại California vẫn ưu tiên áp dụng luật của Liên bang FAA. Nguyên đơn là một công ty đánh bắt cá thương mại của Mỹ đã kí kết một hợp đồng bảo hiểm hàng hải với công ty Odyssey Re, trong hợp đồng này có một điều khoản trọng tài quy định rằng các tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại London theo luật của Anh. Khi tranh chấp phát sinh, nguyên đơn đã kiện bị đơn tại tòa án của California nhưng bị đơn yêu cầu tòa án đình chỉ thủ tục tố tụng và yêu cầu phải quyết bằng trọng tài theo như điều khoản trọng tài giữa các bên. Sau đó, tòa án đã chuyển vụ việc tới hội đồng trọng tài tại London với lí do rằng thỏa thuận trọng tài có hiệu lực theo luật của Liên bang FAA và theo tinh thần của công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Qua đó ta có thấy rằng, trong những trường hợp mà luật của các tiểu bang hoặc của nước khác có mục đích mâu thuẫn với Luật trọng tài của liên bang (FAA) hoặc những trường hợp xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài tại tòa án của Mỹ thì luật của liên bang luôn được ưu tiên áp dụng bất kể là các bên có lựa chọn luật áp dụng khác hay không. Đây có thể là một lựa chọn hơi “cứng nhắc” tuy nhiên trong một đất nước theo thể chế liên bang như Mỹ, việc này đảm bảo hệ thống pháp luật luôn được thống nhất từ trên xuống dưới, giảm thiểu sự mâu thuẫn trong việc áp dụng pháp luật giữa pháp luật liên bang và pháp luật tiểu bang. Có thể nhận thấy rằng, việc áp dụng này thường được đưa ra bởi tòa án chứ không phải hội đồng trọng tài và theo đó nó có vẻ như là luật tại nơi có tòa án (lex fori) chứ không phải luật tại nơi diễn ra trọng tài. Quy tắc này chỉ được áp dụng tại Mỹ và khó áp dụng cho các quốc gia khác có thể chế chính trị khác với Mỹ.
3.4. Luật thủ tục áp dụng cho trọng tài hay bộ quy tắc của trung tâm trọng tài giải quyết vụ việc Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Trong trường hợp các bên cũng không quy định cả luật áp dụng cho hợp đồng, hoặc đối với thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài mà không có luật áp dụng cho thỏa thuận đó, người ta có thể sử dụng luật áp dụng cho tố tụng trọng tài để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến thỏa thuận trọng tài. Lựa chọn này thường được áp dụng trong các vụ được giải quyết bằng trọng tài quy chế, khi các bên đã lựa chọn một tổ chức trọng tài có uy tín đồng thời lựa chọn bộ quy tắc của trung tâm này là luật điều chỉnh quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Vụ việc số 5486 năm 1989[32] do Tòa án trọng tài của ICC giải quyết là một tranh chấp phát sinh về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài phát sinh giữa các bên liên doanh: một bên là công ty Bỉ và phía bên kia là công ty Tây Ban Nha. Khi xét đến luật điều chỉnh vấn đề hiệu lực của thòa thuận trọng tài giữa các bên, Toà án trọng tài của ICC đã ra phán quyết như sau: “Vì mục đích của tố tụng trọng tài, các bên đã thoả thuận áp dụng các quy tắc trọng tài ICC… và việc làm như vậy, biến các quy tắc của một tổ chức trọng tài quốc tế thành nguồn lật điều chỉnh thoả thuận trọng tài… do đó, hiệu lực của điều khoản trọng tài phải được xác định dựa vào các quy tắc trọng tài ICC”. Tiêu chí này thường chỉ được lựa chọn bởi các trung tâm trọng tài lớn và có uy tín trên thế giới, các trung tâm này thường có một bộ quy tắc rất hoàn chỉnh và do đó họ đề cao việc áp dụng bộ quy tắc của mình trong việc giải quyết tranh chấp. Cũng có một cách tiếp cận khác, đó chính là việc người ta coi chính địa điểm có trụ sở của trung tâm trọng tài là địa điểm diễn ra trọng tài, đồng thời áp dụng chính quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đó là luật của nơi diễn ra trọng tài. Điều này thường được áp dụng tại một số trung tâm trọng tài như Trung tâm trọng tài quốc tế Hongkong (HKIAC)[33] hay trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC) và nhiều nhất là Tòa án Trọng tài của Phòng thương mại và công nghiệp quốc tế (ICC). Tuy nhiên lựa chọn này ít được áp dụng hơn so với việc lựa chọn luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng hay luật tại địa điểm tiến hành trọng tài, có lẽ bởi bộ quy tắc của một số trung tâm trọng tài không thể bao quát hết được những vấn đề liên quan đến thỏa thuận trọng tài do đó người ta thường chọn một hệ thống pháp luật đầy đủ hơn để áp dụng một cách “an toàn” hơn, tránh việc phán quyết bị hủy hoặc không được công nhận bởi tòa án.
Trên đây là một số tiêu chí được đưa ra trong việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Có thể thấy rằng, lựa chọn an toàn và hợp lý nhất bao giờ cũng là luật do các bên lựa chọn. Không phải tự nhiên mà pháp luật các nước đều để ngỏ cho các bên việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài (trừ trường hợp đặc biệt theo FAA của Mỹ), việc các bên lựa chọn luật áp dụng ngay từ đầu hoặc thống nhất được luật áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp sẽ khiến cho thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản hơn rất nhiều, tiết kiệm được nhiều chi phí và thời gian của hội đồng trọng tài cũng như của các bên trong tranh chấp. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
Bên cạnh đó, trong trường hợp các bên không lựa chọn luật áp dụng hoặc không thể thống nhất được luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, các trọng tài viên thường có hai “giải pháp an toàn” khác đó là luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp và luật nơi tiến hành trọng tài (luật nơi phán quyết trọng tài được tuyên). Hai giải pháp này có những ưu – nhược điểm nhất định và việc lựa chọn chúng cũng còn tùy thuộc vào quan điểm của từng trọng tài viên. Luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp thường chỉ thích hợp trong các vụ kiện mà thỏa thuận trọng tài ở dạng điều khoản trọng tài trong hợp đồng chính, theo đó nó sẽ được điều chỉnh bởi chính luật điều chỉnh hợp đồng chính. Còn trong trường hợp thỏa thuận trọng tài là một văn bản riêng biệt, việc lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng chính để điều chỉnh thỏa thuận trọng tài sẽ có phần hơi gượng ép và kém thuyết phục. Trong trường hợp này, người ta thường viện dẫn đến luật của địa điểm tiến hành trọng tài vì cho rằng đây là luật có quan hệ mật thiết nhất với thỏa thuận trọng tài. Luật này có thể áp dụng được đối với cả điều khoản trọng tài và thỏa thuận đưa tranh chấp lên giải quyết bằng trọng tài. Đây có thể coi là một phương án an toàn nhất và được sử dụng nhiều nhất bởi nó được thừa nhận bởi rất nhiều công ước quốc tế về trọng tài, Luật mẫu của UNCITRAL cũng như là luật pháp quốc gia của nhiều nước. Luật của tòa án đang xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài chỉ được lựa chọn đối với các tòa án tại Mỹ, điều này đề cao tính tối cao của luật pháp Mỹ so với luật của các nước khác và nhằm thống nhất hệ thống luật pháp trong một nước có thể chế liên bang như Mỹ. Cuối cùng là phương án lựa chọn bộ quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đang giải quyết vụ việc làm luật điều chỉnh cho thỏa thuận trọng tài. Nguyên tắc này thường chỉ được áp dụng tại các trung tâm trọng tài lớn và uy tín trên thế giới và số vụ mà các trọng tài viên sử dụng phương án này cũng không phải là nhiều bởi nó thường “kém an toàn” hơn các tiêu chí khác và phán quyết của hội đồng trọng tài cũng dễ bị hủy hoặc không công nhận hơn. Hơn nữa, nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng trong trường hợp trọng tài quy chế và là “vô hiệu” nếu các bạn lựa chọn trọng tài vụ việc.
Nhìn chung, ta có thể thấy rằng, việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài phụ thuộc khá nhiều vào việc thỏa thuận trọng tài được lập dưới hình thức nào (điều khoản trọng tài hay thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài) nhưng có một điểm chung rằng luật pháp của các quốc gia và các quy tắc trọng tài đều “để ngỏ” cho các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Không có một quy tắc áp đặt nào buộc phải áp dụng luật nào cho thỏa thuận trọng tài (trừ trường hợp tại các Tòa án Mỹ đã phân tích ở trên). Như vậy, việc quan tâm đến lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có thể giúp cho các bên giảm thiểu được chi phí, rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, việc các quốc gia quy định rõ về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong trường hợp thiếu vắng đi việc lựa chọn của các bên cũng khiến cho “gánh nặng” đối với hội đồng trọng tài được giảm đi đáng kể khiến cho vụ việc được giải quyết nhanh chóng hơn, việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài cũng dễ dàng được thực hiện hơn. Đây thực sự là vấn đề đáng để cân nhắc và suy nghĩ đối với các bên trong tranh chấp cũng như đối với các nhà làm luật nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, giảm thiểu những gánh nặng cho tòa án. Vấn đề này ở Việt Nam thực sự vẫn còn là một câu hỏi lớn, điều này sẽ được phân tích ở chương tiếp theo. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>> Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN […]