Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài: lý luận và thực tiễn dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
LỜI MỞ ĐẦU
Với sự phát triển ngày càng nhanh và mạnh của kinh tế Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, đặc biệt kể từ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), số lượng các doanh nghiệp ngày càng gia tăng và số lượng các vụ tranh chấp thương mại cũng nhanh chóng tăng lên theo cấp số nhân.
Tuy nhiên, việc giải quyết các tranh chấp thương mại không phải là một vấn đề đơn giản do có sự tham gia của rất nhiều chủ thể với những địa vị pháp lý khác nhau, thuộc sự điều chỉnh của những hệ thống pháp luật khác nhau. Chính vì thế, việc lựa chọn được một phương thức giải quyết tranh chấp hợp lý và hiệu quả là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo và thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế phát triển thuận lợi. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đại đa số các tranh chấp thương mại quốc tế thường được giải quyết bằng các phương thức ngoài tòa án, trong đó trọng tài được đặc biệt ưa chuộng, song ở Việt Nam, thực tiễn cho thấy, số lượng các tranh chấp thương mại quốc tế được các bên lựa chọn giải quyết bằng phương thức trọng tài còn quá ít ỏi, trong điều kiện Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, đây là một thực trạng cần phải được cải thiện. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Mặc dù trọng tài thương mại quốc tế với đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới và được giới kinh doanh quốc tế đặc biệt ưa chuộng do những ưu điểm vượt trội của nó so với các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế khác nhưng phương thức giải quyết tranh chấp này còn khá mới mẻ ở Việt Nam chưa tạo được lòng tin với các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Sở dĩ như vậy là do pháp luật nước ta trong lĩnh vực trọng tài chưa thực sự tỏ ra hiệu quả trong việc đáp ứng những yêu cầu giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế chỉ ra rằng, không ít quy định của pháp luật nước ta trong lĩnh vực này chưa phù hợp với thực tiễn, chưa tương thích với pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế. Một trong những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến sự thành công của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng lại chưa nhận được sự quan tâm cần thiết từ các nhà làm luật, đó là vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Dù Luật Trọng tài thương mại 2010 đã thực sự nhận thức và đánh giá đúng vai trò của thỏa thuận trọng tài tuy nhiên vẫn xem nhẹ luật áp dụng cho nó. Đây thực sự là một thiếu sót cần được sửa đổi và bổ sung trong tương lai nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam về trọng tài, tiến lại gần hơn với các chuẩn mực về trọng tài trên thế giới để từng bước tạo dựng lòng tin trong giới kinh doanh trong và ngoài nước.
Những ưu điểm của biện pháp trọng tài chỉ được tận dụng và phát huy nếu như giữa các bên tồn tại một thỏa thuận thống nhất giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đồng thời thỏa thuận đó phải có hiệu lực theo luật áp dụng cho nó. Nhận thức được vai trò của thỏa thuận trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tầm quan trọng của việc xác định luật điều chỉnh thỏa thuận đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài: lý luận và thực tiễn”. Mục tiêu nghiên cứu đề tài là nhằm tổng kết, đánh giá những lý luận và thực tiễn về vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp thương mại trên phạm vi thế giới, từ đó rút ra nhận xét và đánh giá cùng những gợi ý để hoàn thiện hệ thống pháp luật trọng tài Việt Nam trong vấn đề này, giúp việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam trở nên hiệu quả hơn.
Với mục tiêu đó, đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong các văn bản pháp luật quốc tế, nội luật về trọng tài của một số quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển và pháp luật về trọng tài tại Việt Nam và thực tiễn tình trạng lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại một số quốc gia, một số trung tâm trọng tài quốc tế và tại Việt Nam. Đây là một vấn đề có phạm vi nghiên cứu rộng (cả trong nước và nước ngoài) lại bị giới hạn về nguồn tài liệu, thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu, do đó trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp đại học, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xin được giới hạn trong việc phân tích pháp luật và thực trạng lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ở hai văn bản pháp luật về trọng tài phổ biến nhất đó là: Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài và Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế, cùng thực tiễn và nội luật của một số quốc gia đó là Anh, Mỹ, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Hà Lan và Việt Nam. Để nghiên cứu các tài liệu này, tác giả sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học cơ bản đó là: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp luận giải và phương pháp so sánh luật học. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Với phạm vi, đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu như trên, nội dung của luận văn sẽ được trình bày thành 3 chương như sau:
- Chương I – Tổng quan về thỏa thuận trọng tài: khái quát những vấn đề cơ bản nhất về thỏa thuận trọng tài và tầm quan trọng của luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đối với hiệu lực của thỏa thuận này.
- Chương II – Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài: tập trung nghiên cứu các tiêu chí lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài để từ đó rút ra những ưu và nhược điểm của từng tiêu chí, rút ra bài học cho việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
- Chương III – Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam: giới thiệu tổng quan về trọng tài và pháp luật liên quan đến trọng tài tại Việt Nam, chỉ ra những thiếu sót trong vấn đề liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và từ đó đưa ra một số gợi ý cho việc sửa đổi và hoàn thiện pháp luật liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam.
Tác giả tin rằng việc thấu hiểu tầm quan trọng của việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề này, trọng tài thương mại sẽ thực sự trở thành một phương pháp giải quyết tranh chấp thân thiện và hiệu quả tại Việt Nam, nhận được sự công nhận và lòng tin của giới kinh doanh quốc tế đồng thời thúc đẩy tình hình kinh tế và thương mại tại Việt Nam phát triển ngày một ổn định và mạnh mẽ hơn.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài dựa trên nền tảng cơ bản là sự đồng ý và tự nguyện của các bên mà trong đó thỏa thuận trọng tài là căn cứ ghi nhận những yếu tố “vô hình” này. Chính vì thế, thỏa thuận trọng tài đóng một vai trò vô cùng quan trọng và không thể thiếu trong tố tụng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài chính là nền tảng của tố tụng trọng tài hay nói cách khác, không có thỏa thuận trọng tài thì sẽ không thể có tố tụng trọng tài. Để xác định được luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài thì trước hết phải nắm được những nội dung cốt lõi, bản chất và những vấn đề cơ bản của thỏa thuận trọng tài. Nội dung của chương này sẽ nhằm khái quát những vấn đề cơ bản nhất của thỏa thuận trọng tài, tầm quan trọng của nó cũng như mối quan hệ giữa hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
1. Thỏa thuận trọng tài là gì? Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Mặc dù mới phát triển ở Việt Nam trong thời gian gần đây nhưng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã xuất hiện trên thế giới từ rất lâu với một quá trình lịch sử rất dài. Qua thời gian, các thủ tục tố tụng trọng tài có thể thay đổi với những sự phát triển và cải tiến mới để phù hợp với các thực tiễn tranh chấp quốc tế tuy nhiên yếu tố thỏa thuận trọng tài luôn tồn tại với thời gian và là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự thành công của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Với sự thừa nhận trọng tài thương mại như là một hình thức giải quyết tranh chấp nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho các bên, người ta cũng dần thừa nhận vai trò và ngày càng đánh giá cao thỏa thuận trọng tài cũng như việc soạn thảo thỏa thuận này. Tuy nhiên, để soạn thảo được một thỏa thuận trọng tài tốt trước hết ta cần phải nắm được khái niệm thỏa thuận trọng tài là gì?
Nhằm thúc đẩy hoạt động trọng tài quốc tế diễn ra một cách hiệu quả nhất, các quốc gia đã cùng nhau soạn thảo ra những công ước quốc tế điều chỉnh các vấn đề trọng tài thương mại quốc tế. Các công ước này có vai trò kết nối các hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau thành một thể thống nhất “tuy có khác nhau về mặt ngôn từ nhưng có chung một mục tiêu thi hành các thỏa thuận và quy định của trọng tài quốc tế”[1]. Khi nhắc đến các công ước điều chỉnh trọng tài thương mại quốc tế thì có hai nguồn cơ bản mà không thể không bỏ qua đó là Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài và Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế được Ủy ban của Liên hợp quốc về thương mại quốc tế thông qua năm 1985, mặc dù không phải là những điều ước đầu tiên ghi nhận hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng đây là hai nguồn thường được dẫn chiếu nhiều nhất trong tất cả các bài viết của các học giả, các bài báo cũng như các giáo trình về Trọng tài thương mại quốc tế. Chính vì thế, tác giả sẽ ưu tiên tìm hiểu định nghĩa về thỏa thuận trọng tài trong hai nguồn này trước khi xét đến các điều ước khác về trọng tài cũng như luật của các quốc gia về vấn đề này.
1.1. Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
Trong quá trình thúc đẩy việc hình thành một hệ thống pháp luật chung điều chỉnh trọng tài thương mại quốc tế, Phòng thương mại và công nghiệp quốc tế (ICC) đóng một vai trò vô cùng tích cực và quan trọng. Chính cơ quan này đã xúc tiến thành công việc hình thành công ước New York năm 1958 điều chỉnh việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Đây được coi là một trong những điều ước quan trọng nhất trong lĩnh vực này, nó đóng một vai trò thiết yếu trong quá trình phát triển của trọng tài thương mại quốc tế. Bất chấp những khó khăn trong việc thi hành công ước và “tuổi đời” đã khá cao của nó, ngày nay người ta vẫn viện dẫn nó như một nguồn cơ bản để giải thích một số thuật ngữ liên quan đến trọng tài.
Liên quan đến vấn đề thỏa thuận trọng tài, trong công ước đã ghi nhận ở Điều II khoản 1: Mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết được bằng trọng tài[2]. Đây là một sự kế thừa và phát triển quy định về thỏa thuận trọng tài thừa nhận trong Nghị định thư Geneva 1923 về điều khoản trọng tài[3], ngay tại điều 1 của nghị định thư đã nêu rõ: “Mỗi quốc gia ký kết công nhận tính hợp lệ của một thỏa thuận dù liên quan đến một mâu thuẫn đang tồn tại hay mâu thuẫn trong tương lai giữa các bên thuộc đối tượng điều chỉnh tương ứng theo thẩm quyền của các quốc gia thành viên khác nhau, mà theo đó các bên tham gia hợp đồng đồng ý đưa tranh chấp lên trọng tài tất cả hoặc bất kì mâu thuẫn nào phát sinh trong mối liên hệ với hợp đồng đó liên quan đến các vấn đề thương mại hoặc bất kì vấn đề nào khác có khả năng giải quyết bằng trọng tài cho dù trọng tài có thể diễn ra tại một nước mà không bên nào thuộc thẩm quyền của nó”[4]. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Theo đó, cả nghị định thư và công ước đều thừa nhận rằng: để tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài thì phải tồn tại một thỏa thuận mà các bên đồng thuận đưa tranh chấp ra để trọng tài xét xử, tranh chấp có thể đã phát sinh rồi hoặc sẽ phát sinh trong tương lai nhưng tranh chấp đó phải có khả năng giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy rằng, công ước New York 1958 có sự hoàn thiện và phát triển hơn trong quy định về thỏa thuận trọng tài khi chỉ rõ rằng thỏa thuận phải được lập bằng văn bản đồng thời thừa nhận hai bên có thể có quan hệ hợp đồng hoặc không có quan hệ hợp đồng nhưng giữa các bên tranh chấp phải có mối quan hệ xác định. Hơn nữa, công ước New York 1958 cũng không quy định rằng các bên trong tranh chấp phải “thuộc đối tượng điều chỉnh tương ứng theo phạm vi thẩm quyền của quốc gia thành viên”, đây là một sự tiến bộ nhằm hướng đến việc áp dụng công ước cho các thỏa thuận trọng tài quốc tế chứ không chỉ riêng các thỏa thuận trọng tài mang tính nội địa.
Trong định nghĩa của công ước quy định rằng: Thuật ngữ “thỏa thuận bằng văn bản” bao gồm điều khoản trọng tài trong một hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng tài, được kí bởi các bên hoặc được ghi nhận trong các trao đổi thư tín[5]. Có lẽ đây là một thiếu sót lớn trong định nghĩa thỏa thuận trọng tài của Công ước New York 1958, nó thể hiện sự “lỗi thời” của công ước trong thời đại hiện nay. Với sự bùng nổ của các cuộc cách mạng thông tin, ngày nay việc kí kết hợp đồng được diễn ra với rất nhiều hình thức khác nhau, có thể bằng điện tín, telex, fax hay thậm chí là email. Vậy theo định nghĩa này, chắc chắn các hình thức này không thể được thừa nhận là văn bản, bởi nó không thể có được chữ ký của các bên và cũng không được coi là các trao đổi thư tín. Thiếu sót thể hiện “tuổi đời già cỗi” này của công ước là một điểm sẽ cần phải được sửa đổi trong các văn bản quốc tế ra đời sau này.
Tóm lại, ta có thể tóm gọn tinh thần của công ước về khái niệm thỏa thuận trọng tài như sau: đó là một văn bản ghi nhận sự thống nhất của các bên đưa các tranh chấp đã xảy ra hoặc có thể xảy ra trong tương lai ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài.
Trong số các điều ước quốc tế về trọng tài thương mại quốc tế trong thời kỳ hiện đại, dù chưa thực sự hoàn thiện nhưng Công ước New York 1958 là văn bản đã cải tiến và tiến bộ hơn rất nhiều, nó đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của luật trọng tài thương mại quốc tế. Việc ghi nhận định nghĩa của thỏa thuận trọng tài ngay trong những điều khoản đầu tiên của công ước cũng thể hiện được ý nghĩa thực tiễn của việc áp dụng công ước trong quá trình giải quyết tranh chấp. Mặc dù sau năm 1958 có một số công ước quốc tế khác (công ước châu Âu năm 1961[6], công ước Washington năm 1965[7]) trong lĩnh vực này cũng đã ra đời nhưng không có công ước nào đạt được tầm ảnh hưởng như công ước New York.
1.2. Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại quốc tế (UNCITRAL) Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Sau sự ra đời của công ước New York 1958, Liên hiệp quốc thúc đẩy hơn nữa việc cho ra đời một văn bản luật thống nhất để chỉ dẫn cho các quốc gia về việc áp dụng các nguyên tắc của trọng tài thương mại quốc tế. Với nhiều nỗ lực cố gắng sửa đổi và hoàn thiện, Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế đã được Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại quốc tế (UNCITRAL) thông qua tại phiên họp của Ủy ban tại Viên (Áo) tháng 6 năm 1985 và được Đại hội đồng Liên hợp quốc giới thiệu đến các quốc gia thành viên vào tháng 9 cùng năm[9]. Luật Mẫu nhanh chóng được các quốc gia trên thế giới đón nhận rất nhiệt tình vì nó khá đơn giản, cụ thể mà lại dễ hiểu. Đây được coi là “kim chỉ nam” cho việc hình thành các văn bản pháp luật về trọng tài ở nhiều quốc gia trên thế giới. Để hoàn thiện và thích nghi với sự thay đổi cũng như phát triển của trọng tài cũng như các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại quốc tế, năm 2006 Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại Quốc tế đã chỉnh sửa lại toàn bộ Luật mẫu và kèm theo giải thích cụ thể từng điều khoản của luật này.
Về khái niệm thỏa thuận trọng tài, tại Điều 7, Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL năm 1985 sửa đổi năm 2006 đã ghi nhận hai lựa chọn cho định nghĩa và hình thức của thỏa thuận trọng tài:
- Lựa chọn thứ nhất: “Thoả thuận trọng tài” là thoả thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng[10].
- Lựa chọn thứ hai: “Thỏa thuận trọng tài” là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài tất cả hoặc một số tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng[11].
Hai định nghĩa này về cơ bản là hoàn toàn giống nhau và đều thừa nhận thỏa thuận trọng tài là văn bản thể hiện ý chí của các bên đồng ý đưa các tranh chấp ra giải quyết bằng con đường trọng tài dù cho quan hệ giữa hai bên có phải là hợp đồng hay không. Tuy nhiên trong lựa chọn thứ nhất định nghĩa được mở rộng hơn trong việc phân loại thỏa thuận trọng tài[12]. Nhìn chung, Luật mẫu đã một lần nữa nhắc lại định nghĩa về thỏa thuận trọng tài đã được ghi nhận trong công ước New York 1958 trước đây nhưng tách riêng phần định nghĩa và yêu cầu về hình thức của thỏa thuận trọng tài. Trong Luật mẫu hình thức của thỏa thuận trọng tài được tách riêng và giải thích rõ trong các khoản (2),(3),(4),(5) và (6) của Điều 7. Trong đó, khoản (2) và (3) nêu rõ rằng: “Thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản. Một thỏa thuận trọng tài là bằng văn bản nếu nội dung của nó được ghi lại bằng bất kỳ hình thức nào, bất kể thỏa thuận đó được giao kết bằng miệng, bằng hành động hoặc bằng các hình thức khác13” và các khoản sau đó tiếp tục giải thích thích các hình thức văn bản được thừa nhận: Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
- Yêu cầu thỏa thuận trọng tài bằng văn bản có thể được đáp ứng bởi một thông tin liên lạc điện tử nếu nội dung thông tin chứa trong đó có thể được truy cập để dùng để tham khảo sau này; “thông tin liên lạc điện tử” có nghĩa là bất cứ thông tin liên lạc nào mà các bên đã thực hiện thông qua phương tiện thông điệp dữ liệu; “thông điệp dữ liệu” được hiểu là những thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử, đĩa quang hoặc các phương thức tương tự, bao gồm nhưng không giới hạn: trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, telex hoặc fax.
- Hơn nữa, một thỏa thuận trọng tài bằng văn bản nếu nó chứa những trao đổi về yêu cầu khởi kiện và tự bảo vệ mà trong đó tồn tại thỏa thuận được đưa ra bởi một bên và không bị bên kia từ chối.
- Các tài liệu tham khảo trong một hợp đồng có bất cứ một văn bản nào chứa điều khoản trọng tài có thể tạo nên một thỏa thuận trọng tài và khiến cho tài liệu tham khảo đó trở thành một phần của hợp đồng14.
Có thể thấy rằng sự giải thích rõ ràng và cặn kẽ trong Luật mẫu này là một sự tiến bộ vượt bậc và thích ứng với thời đại so với Công ước New York 1958. Theo đó, yêu cầu về chữ kí của các bên đã không còn tồn tại nữa, thay vào đó là sự liệt kê đầy đủ và rõ ràng các hình thức văn bản được thừa nhận, trong đó bao gồm email, điện tín, texlex, fax… Một điểm mới nữa trong định nghĩa này đó là ở khoản (3), kể cả việc giao kết hợp đồng bằng miệng (bằng lời nói) hoặc các hành động khác thể hiện ý chí giao kết của chủ thể miễn là có thể “ghi lại được” thì cũng được coi là có giá trị pháp lý.
Tóm lại, theo Luật Mẫu, thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận ghi nhận lại ý chí của các bên đồng ý đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài mà trong đó hình thức “bằng văn bản” có thể được thỏa mãn bằng bất cứ hình thức nào miễn là nó “ghi lại được” ý nguyện của các bên, không phân biệt đó là các hình thức trao đổi thông tin điện tử, lời nói, hành động hay các hình thức khác. Chính vì thế, theo Sanders trong cuốn Bách khoa toàn thư về Luật so sánh và quốc tế, quyển XIV thì “Khi một bên tham gia vào một quá trình tố tụng trọng tài mà không phủ nhận sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài, thì một “thỏa thuận trọng tài ngầm” là đủ”[13]. Qua đó có thể thấy, tính cho đến thời điểm hiện tại, Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế là một văn bản mặc dù không có giá trị ràng buộc nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của trọng tài thương mại quốc tế, đặc biệt là đối với sự hình thành các bộ luật về Trọng tài thương mại tại các quốc gia trên thế giới. Từ Luật Mẫu, nhiều quốc gia đã triển khai, sửa đổi, thậm chí sử dụng nguyên văn bản này để thành nội luật, mục tiếp theo sẽ phân tích định nghĩa về thỏa thuận trọng tài được thừa nhận trong nội luật của một số quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới.
1.3. Luật quốc gia Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Ở các quốc gia có hệ thống luật pháp phát triển như Anh, Pháp, Thụy Sỹ… thì các quy phạm pháp luật liên quan đến trọng tài thương mại quốc tế đã có từ rất lâu đời và được cải thiện dần dần để thích ứng với sự phát triển quan hệ thương mại quốc tế. Nhìn chung, luật trọng tài của các nước thường có những định nghĩa tương tự như nhau về thỏa thuận trọng tài, dù hình thức, câu chữ có thể khác nhau nhưng về tinh thần của điều khoản là giống nhau.
Về hình thức, hầu hết các nước thường quy định một thỏa thuận trọng tài phải được làm thành văn bản. Ví dụ:
- Điều 5 luật trọng tài của Anh quy định: Các quy định của phần này chỉ áp được áp dụng khi thỏa thuận trọng tài bằng văn bản và bất kỳ thỏa thuận nào khác giữa các bên sẽ có hiệu lực cho mục đích của phần này chỉ khi nó bằng văn bản[14].
- Điều 1443 luật trọng tài của Pháp quy định: Một điều khoản trọng tài không có hiệu lực trừ khi nó được quy định bằng văn bản trong thỏa thuận chính hoặc trong một tài liệu mà thỏa thuận đó đề cập tới[15]. Điều 1449 của luật này cũng thừa nhận điều tương tự rằng thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài phải có thể chứng minh được bằng văn bản [16].
Tuy nhiên, khái niệm “thỏa thuận bằng văn bản” là một khái niệm được áp dụng và giải thích khác nhau trong luật pháp của các nước cũng như trong thực tiễn quan hệ thương mại quốc tế và phán quyết của các tòa án. Chẳng hạn trong vụ Arab African Energy Corp. Ltd v Olieprodukten Nederland B.V[17], hai công ty môi giới ở Paris đã có trao đổi telex với nhau rằng: “Trọng tài theo luật Anh, nếu có, tại London, theo quy tắc ICC”. Sau khi xảy ra tranh chấp, tòa án đưa ra phán quyết rằng đây là một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực quy định rằng tố tụng trọng tài phải diễn ra tại London theo quy tắc tố tụng của ICC và luật áp dụng cho hợp đồng là luật của Anh. Tất nhiên đây là một hình thức thỏa thuận đầy rủi ro và không rõ ràng do đó các tòa án và luật pháp các nước không hề khuyến khích hình thức này.
Bên cạnh đó, hình thức “thỏa thuận bằng văn bản” có thể được hiểu là bất cứ hình thức nào có thể lưu trữ được dữ liệu trong thời gian dài và có thể đem ra để đối chứng, theo đúng tinh thần của Luật mẫu và trong một số luật thậm chí còn yêu cầu rằng những dữ liệu này phải có thể in ra thành văn bản được khi cần thiết. Ví dụ, Luật Trọng tài Hà Lan 1986, Điều 1021 quy định rằng: thỏa thuận trọng tài phải được chứng minh bằng một công cụ dưới dạng văn bản được các bên chấp nhận một cách rõ ràng hoặc ngụ ý[18]. Luật Trọng tài Thụy Sỹ cũng quy định rằng thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản hoặc bằng các phương tiện liên lạc có thể chứng minh thỏa thuận được lập bằng văn bản21. Trong khi đó, luật Trọng tài của Anh 1996 lại công nhận cả một thỏa thuận trọng tài bằng lời nói cũng có thể được coi là “thỏa thuận bằng văn bản” nếu nó được xác lập bằng cách “dẫn chiếu tới những điều khoản có trong văn bản”22. Tóm lại, hình thức “thỏa thuận bằng văn bản” được giải thích rất khác nhau trong các hệ thống pháp luật khác nhau cũng như trong phán quyết của các tòa án thuộc các quốc gia khác nhau, điều này chứng tỏ rằng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực và việc công nhận sự tồn tại của thỏa thuận này. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc thi hành và công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài tại các nước.
Về nội dung, luật các nước đều bắt buộc thỏa thuận trọng tài phải thể hiện ý chí thống nhất của các bên trong việc đồng ý đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài23. Thỏa thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Ngoài vấn đề này ra, luật pháp các nước không có những quy định chi tiết nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài. Nội dung của thỏa thuận trọng tài đều để mở cho các bên có thể tự thỏa thuận và quyết định tuy nhiên nó phải phù hợp với luật pháp điều chỉnh thỏa thuận trọng tài đó. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Tóm lại, về định nghĩa của thỏa thuận trọng tài, luật pháp của các nước trên thế giới có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt về vấn đề thế nào là “thỏa thuận bằng văn bản” tuy nhiên đều mang một điểm chung là đòi hỏi thỏa thuận buộc phải bằng văn bản và phải chứa nội dung thể hiện ý chí của các bên đồng ý đưa ra trọng tài tranh chấp đã, đang tồn tại hoặc sẽ phát sinh trong tương lai.
Nhìn chung, mặc dù có thể quy định khác nhau về từ ngữ cũng như một số vấn đề về nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài, tuy nhiên, cả các điều ước quốc tế (tiêu biểu là Công ước New York 1958), Luật mẫu và Luật pháp về trọng tài của một số quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển đều thừa nhận những điểm chung như sau:
- Điều 6 Luật Trọng tài Anh 1996; Điều 1442 Luật Trọng tài của Pháp và Điều 1029 Luật Trọng tài của Đức.
- Thỏa thuận trọng tài phải được thiết lập bằng văn bản ü Thỏa thuận phải thể hiện sự tự nguyện giữa các bên đồng ý đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài.
- Mối quan hệ pháp lý ràng buộc các bên ü Nhằm giải quyết các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu về định nghĩa của thỏa thuận trọng tài, có thể dễ dàng nhận thấy rằng thỏa thuận trọng tài không phải chỉ có duy nhất một hình thức mà có thể có những loại khác nhau tùy vào ý định của các bên ký kết thỏa thuận. Phần tiếp theo của mục này sẽ trả lời câu hỏi: Thỏa thuận trọng tài được chia thành mấy loại? Việc phân loại như vậy nhằm mục đích gì?
2. Phân loại thỏa thuận trọng tài
Việc phân loại thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định luật áp dụng cho từng loại thỏa thuận theo mục đích của các bên kí kết. Các công ước quốc tế, Luật mẫu và luật pháp về trọng tài thương mại quốc tế của các quốc gia đều thừa nhận hai loại thỏa thuận trọng tài có giá trị pháp lý tương đương nhau. Dựa vào thời điểm thỏa thuận trọng tài được giao kết, người ta có thể chia làm hai loại đó là điều khoản trọng tài (arbitration clause) và thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài (submission agreement).
2.1. Điều khoản trọng tài (arbitration clause)
Điều khoản trọng tài là điều khoản liên quan đến trọng tài nằm trong một hợp đồng, trong đó thể hiện ý chí của các bên nhất trí đưa các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài. Đây là một loại thỏa thuận trọng tài rất phổ biến, đặc biệt là trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong thời đại hiện nay. Khi soạn thảo một hợp đồng, các bên cũng thường lường trước những bất chắc và rủi ro có thể sẽ xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Chính vì thế lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngay trong hợp đồng là một giải pháp khôn ngoan để giảm thiểu tối đa rủi ro, tiết kiệm thời gian và chi phí khi xảy ra tranh chấp. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Về đặc điểm, điều khoản trọng tài thường ngắn gọn, chủ yếu là thống nhất về cơ quan trọng tài được lựa chọn, luật áp dụng cho tố tụng trọng tài hoặc địa điểm trọng tài và một số quy định khác tùy thuộc vào ý định của các bên cũng như mối quan hệ pháp lý hay từng loại hợp đồng. Người ta cũng thường gọi điều khoản trọng tài là “điều khoản lúc nửa đêm” bởi đây thường là điều khoản cuối cùng mà các bên soạn thảo trong hợp đồng, thường vào lúc nửa đêm hoặc sáng sớm[19]. Người ta thường ít chú trọng đến việc soạn thảo điều khoản này bởi việc tưởng tượng một tranh chấp sẽ xảy ra trong tương lai không hề đơn giản và không ai muốn nghĩ đến điều đó. Và kể cả khi điều khoản đã được soạn thảo thì cũng không ai mong muốn phải sử dụng đến nó cả. Chính vì thế, các bên thường sử dụng một điều khoản mẫu ngắn gọn của chính trung tâm trọng tài mà họ lựa chọn để giải quyết tranh chấp.
Thông thường quy trình tố tụng trọng tài được tiến hành nếu trong hợp đồng có điều khoản trọng tài tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ. Ở một số nước châu Mỹ Latin mà điển hình là Argentina và Uraguay, một điều khoản trọng tài đưa các tranh chấp sẽ xảy ra trong tương lai ra giải quyết bằng trọng tài sẽ không được thực hiện cho đến khi có một thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên giải quyết bằng trọng tài (trong tiếng Latin gọi là compromiso) cũng phải được thiết lập. Một quy định tương tự cũng được thừa nhận ở Brazil với một khác biệt nhỏ đó là, trong trường hợp điều khoản trọng tài có quy định về cách thức thành lập hội đồng trọng tài và có dẫn chiếu đến quy tắc tố tụng của một trung tâm trọng tài cụ thể. Và trong nhiều trường hợp, quy tắc tố tụng của ICC vẫn được ưu tiên lựa chọn nhiều nhất bởi nó cung cấp một điều khoản tương đương với compromiso mà quy tắc của các trung tâm khác thương không có[20].
Không kể đến khó khăn trong việc áp dụng như thực tiễn ở một số quốc gia châu Mỹ Latin, hình thức thỏa thuận trọng tài này có ưu điểm là dễ dàng thống nhất được ý chí của các bên. Bởi lẽ, khi tranh chấp chưa thực sự xảy ra, bên nào cũng có tư tưởng rằng có thể tranh chấp sẽ phát sinh trong tương lai mà mình có thể là người bị thiệt hại, việc lựa chọn một hình thức giải quyết tranh chấp sẽ bảo vệ được lợi ích của bản thân mình. Chính vì thế, các bên có thể dễ dàng thống nhất về việc đưa tranh chấp sẽ phát sinh trong tương lai ra giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, điều khoản trọng tài cũng có những nhược điểm riêng. Do nó được đặt ra để giải quyết một tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai tức là trên thực tế tranh chấp chưa thực sự phát sinh nên các bên không thể biết được tranh chấp sẽ xảy ra như thế nào, về lĩnh vực gì, ai sẽ là người bị thiệt hại… việc này khiến cho các bên thường đưa ra một điều khoản miễn cưỡng, không chặt chẽ, đầy đủ và trong nhiều trường hợp dẫn đến việc không thể áp dụng được. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
2.2. Thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài (submission agreement)
Thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài có thể được coi như một hợp đồng độc lập trong đó hai bên đồng ý đưa tranh chấp đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài. Thỏa thuận này thường dài hơn điều khoản trọng tài rất nhiều và trong đó quy định chi tiết các thủ tục giải quyết tranh chấp từ việc cơ quan trọng tài nào được lựa chọn để giải quyết tranh chấp, trọng tài sẽ diễn ra ở đâu, chi phí do bên nào chịu, luật nào được áp dụng, xác định thẩm quyền của trọng tài thậm chí người ta có thể quy định chi tiết các quy tắc tố tụng cụ thể mà các bên muốn áp dụng. Điều này hoàn toàn có thể lí giải được bởi lẽ không như việc soạn thảo một điều khoản trọng tài, dự trù các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai, việc soạn thảo thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài liên quan đến một tranh chấp đã phát sinh trong thực tế do đó các bên hoàn toàn có thể lựa chọn các phương án giải quyết phù hợp với vụ việc.
Cũng do hoàn cảnh soạn thảo thỏa thuận này nên nó có ưu điểm là dễ dàng lựa chọn một “khung pháp lý” phù hợp để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do tranh chấp đã thực sự xảy ra nên các bên có thể biết được sẽ cần phải giải quyết như thế nào, lựa chọn bao nhiêu trọng tài viên, giải quyết tranh chấp ở đâu… điều này thuận lợi hơn nhiều so với việc dự báo về một tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, trái ngược với điều khoản trọng tài, thỏa thuận đệ trình có một nhược điểm là khó đạt được ý chí chung của hai bên bởi lẽ khi tranh chấp đã thực sự xảy ra, bên vi phạm thường muốn trốn tránh trách nhiệm của mình, trì hoãn quá trình giải quyết tranh chấp.
Nhìn chung, mỗi loại thỏa thuận có những đặc điểm và mục đích soạn thảo riêng và từ đó phát sinh những ưu nhược điểm riêng. Sau khi nắm được đặc điểm cơ bản, mục đích cũng như ưu nhược điểm của các loại thỏa thuận trọng tài có thể rút ra kết luận rằng dù cho thỏa thuận trọng tài được lập trước hay sau khi tranh chấp thì thỏa thuận này vẫn luôn mang tính riêng biệt và độc lập với các phần còn lại của hợp đồng[21]. Chính vì thể nó đòi hỏi một quy chuẩn pháp lý riêng để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến nội dung, hình thức và đặc biệt quan trọng là hiệu lực của thỏa thuận. Điều này cho thấy, việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần được phải lưu tâm đến khi soạn thảo một điều khoản trọng tài hay một thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
3. Tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Như đã từng nhắc đến ở phần trên, thỏa thuận trọng tài đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với tố tụng trọng tài. Nó là nền tảng, là cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Cũng như tòa án, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng trải qua ba giai đoạn: tiền tố tụng, tố tụng trọng tài và hậu tố tụng. Trong cả ba giai đoạn này, hội đồng trọng tài đều phải xem xét đến thỏa thuận trọng tài để tìm ra các cơ sở pháp lý cho việc xét xử. Để cung cấp một cái nhìn chi tiết hơn về tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài, phần sau đây sẽ phân tích vai trò của thỏa thuận trong các giai đoạn tiền tố tụng, tố tụng và hậu tố tụng của trọng tài.
3.1. Trong giai đoạn tiền tố tụng
Giai đoạn tiền tố tụng là khi hội đồng trọng tài chưa được thành lập mà thông thường các trung tâm trọng tài (khi các bên lựa chọn hình thức trọng tài quy chế27) hoặc tòa án (khi các bên lựa chọn hình thức trọng tài vụ việc28) cần phải xem xét hiệu lực cũng như nội dung của thỏa thuận trọng tài để thành lập hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp.
Câu hỏi đầu tiên mà trung tâm trọng tài hoặc tòa án cần phải tìm được câu trả lời đó là giữa các bên có thỏa thuận trọng tài hay không? Nếu không có thỏa thuận trọng tài thì vụ việc không thể giải quyết bằng trọng tài trừ khi các bên bổ sung thỏa thuận này. Nếu giữa các bên có tồn tại một thỏa thuận trọng tài đồng thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài thì mới có thể xem xét đến các yếu tố khác trong thỏa thuận trọng tài để tiến hành các bước sau của quy trình tố tụng. Như vậy, ngay từ bước đầu tiên của quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, ta có thể nhận thấy rằng sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài chính là cơ sở để thành lập hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết trọng chấp, nếu không có thỏa thuận trọng tài thì chắc chắn tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài.
Tiếp theo, với sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài, trung tâm trọng tài hoặc tòa án tiếp tục cần xem xét đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Nếu thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì quy trình tố tụng bị dừng lại, hội đồng trọng tài không thể được thành lập nếu các bên không bổ sung thỏa thuận khác có hiệu lực thay thế. Một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực sẽ cung cấp cơ sở để thành lập hội đồng trọng tài, xác định thẩm quyền của hội đồng, số lượng trọng tài viên, địa điểm tiến hành trọng tài và ngôn ngữ sử dụng trong quá trình tố tụng trọng tài. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Trong các vấn đề này thì thẩm quyền của hội đồng trọng tài là yếu tố đặc biệt quan trọng, nó có thể ảnh hưởng đến việc phán quyết của trọng tài có được công nhận và thi hành hay không. Trong đó, nếu điều khoản trọng tài không quy định khái quát một cách tối đa các tranh chấp, nghĩa là tranh chấp không chỉ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, mà còn cả những vấn đề về sự tồn tại, hiệu lực của hợp đồng, vi phạm và chấm dứt hợp đồng và các hệ quả tài chính của hợp đồng thì hiệu lực của trọng tài đôi khi cũng bị ảnh hưởng bởi Hội đồng trọng tài sẽ không đủ cơ sở để xác định thẩm quyền. Về nguyên tắc, một hội đồng trọng tài chỉ có quyền hạn mà các bên trao cho nó, cho dù trực tiếp hay là ngầm ý, cùng với những quyền hạn bổ sung khác được trao cho bởi luật pháp điều chỉnh thủ tục trọng tài[22]. Theo đó, các trung tâm trọng tài thường khuyến khích các bên sử dụng điều khoản trọng tài mẫu, quy định một cách khái quát nhất thẩm quyền của hội đồng trọng tài, chẳng hạn như:
Điều khoản mẫu của Tòa trọng tài quốc tế London (London Court of International Arbitration): Bất kỳ tranh chấp nào phát sinh từ hay có liên quan với hợp đồng này, bao gồm bất kỳ vấn đề liên quan tới sự tồn tại, hiệu lực hay sự chấm dứt của nó, sẽ được chuyển đến và giải quyết dứt khoát bằng trọng tài theo các quy tắc của LCIA, các quy tắc được coi là kết hợp chặt chẽ bởi sự liên quan tới điều khoản này[23].
Điều khoản mẫu của Tòa trọng tài quốc tế (International Court of Arbitration): Mọi tranh chấp phát sinh từ hay có liên quan với hợp đồng hiện tại sẽ được giải quyết dứt khoát theo các quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế bởi một hay nhiều trọng tài viên được chỉ định phù hợp với các quy tắc đã đề cập[24].
Nhìn chung, trong giai đoạn tiền tố tụng, thỏa thuận trọng tài chính là cơ sở để thành lập hội đồng trọng tài đồng thời xác định thẩm quyền của trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp. Nếu không có thỏa thuận trọng tài hay thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì không thể giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và nếu thỏa thuận trọng tài không được soạn thảo một cách cẩn thận thì việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng không còn hiệu quả nữa.
3.2. Trong quá trình tố tụng trọng tài Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Giai đoạn tố tụng là giai đoạn sau khi hội đồng trọng tài đã được thành lập và tiến hành các phiên điều trần và ra phán quyết để giải quyết vụ việc. Ở đây, việc tồn tại một thỏa thuận giữa các bên đồng ý giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã khước từ thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa án của bất cứ quốc gia nào. Trong một chừng mực có thể, một thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế phải có hiệu lực pháp lý trên toàn thế giới và không chỉ ở nơi thỏa thuận được lập ra. Điều này được thừa nhận trong Nghị định thư Geneva năm 1923 về điều khoản trọng tài32, một trong những công ước quốc tế đa phương đầu tiên về trọng tài. Điều 4 của Nghị định thư quy định rằng: tòa án của các quốc gia giao kết, khi thụ lý một vụ tranh chấp mà có tồn tại thỏa thuận trọng tài được điều chỉnh bởi Nghị định thư, thì phải hướng các bên về việc áp dụng quyết định của trọng tài[25]. Nói một cách khái quát, một khi đã có thỏa thuận trọng tài thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án sẽ bị khước từ. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ việc, một khi trọng tài đã thụ lý vụ việc theo thẩm quyền được quy định trong thỏa thuận trọng tài thì tòa án không có khả năng tham gia vào nữa, trừ một số trường hợp đặc biệt (các biện pháp khẩn cấp).
Bên cạnh đó, một trong những yếu tố quyết định sự thành công của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đó là xác định luật áp dụng. Và trong giai đoạn này, thỏa thuận trọng tài cũng là cơ sở để xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, luật áp dụng cho tố tụng trọng tài cũng như luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp tranh chấp. Các loại luật áp dụng này xác định giá trị pháp lý của các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Khi thực hiện hợp đồng, các bên cần phải biết luật nào áp dụng cho hợp đồng bởi các điều khoản hợp đồng không phải lúc nào cũng quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên. Và trong quá trình tố tụng, trọng tài viên cũng cần phải xác định luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp thì mới có thể giải quyết vụ việc một cách công bằng và hợp lý nhất dựa trên pháp luật mà các bên đã lựa chọn.
Ngoài ra trong một số trường hợp, người ta cũng dựa vào thỏa thuận trọng tài để xác định trình tự tiến hành trọng tài. Quá trình tiến hành tố tụng trọng tài quốc tế có thể được tiến hành theo nhiều cách khác nhau và không có quy định nào về một trình tự cố định. Các quy định chi tiết về trình tự các thao tác tiến hành trọng tài sẽ được lập ra bởi thỏa thuận của các bên đương sự hoặc theo sự chỉ dẫn của tòa án hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố trên. Việc thỏa thuận về trình tự tiến hành tố tụng trọng tài để đáp ứng yêu cầu hợp lý của các bên. Tuy nhiên việc lựa chọn trình tự tiến hành trọng tài không phải hoàn toàn tự do phụ thuộc vào ý chí của các bên mà có một số giới hạn nhất định. Chẳng hạn như việc lựa chọn của các bên phải phù hợp với những yêu cầu về chính sách chung của luật nơi tiến hành trọng tài và tính đến những điều khoản trong các công ước quốc tế để đảm bảo trình tự được tiến hành một cách công bằng.
Ở giai đoạn tố tụng trọng tài, thỏa thuận trọng tài đóng vai trò là “bằng chứng” để khước từ thẩm quyền của tòa án can thiệp vào việc giải quyết tranh chấp đồng thời cũng là nguồn để xác định luật áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp và đôi khi còn đóng vai trò là cơ sở xác định các trình tự tiến hành trọng tài. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
3.3. Trong giai đoạn hậu tố tụng
Sau khi phán quyết của trọng tài được quyết định thì quá trình tố tụng trọng tài vẫn chưa hẳn chấm dứt mà bước vào giai đoạn hậu tố tụng. Ở giai đoạn này, hiệu lực và nội dung của thỏa thuận trọng tài có thể ảnh hưởng tới việc hủy phán quyết của trọng tài tại nơi ban hành phán quyết hoặc yêu cầu tòa án công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài ở một quốc gia và xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa án.
Theo Điều 34 khoản 2, Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL, quy định các căn cứ để tòa án có thể hủy phán quyết của trọng tài, trong đó các nhắc đến: Một quyết định chỉ có thể bị toà án hủy bỏ theo qui định tại điều 6 trong trường hợp:
Bên làm đơn yêu cầu đưa ra những bằng chứng khẳng định rằng:
- Một trong các bên ký kết thoả thuận trọng tài theo qui định tại điều 7 không đủ năng lực ký kết thoả thuận đó; hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của nước nơi quyết định được tuyên trong trường hợp mà các bên không ghi rõ; hoặc….
- Quyết định giải quyết tranh chấp không được qui định hoặc không nằm trong phạm vi các điều khoản của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết, hoặc quyết định này bao gồm những quyết định về các vấn đề vượt quá phạm vi của thoả thuận trọng tài giải quyết…; hoặc
- Thành phần của hội đồng trọng tài hoặc tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận giữa các bên…
Theo điều khoản này, nếu như thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý hoặc hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền được quy định trong thỏa thuận trọng tài hoặc thành phần của hội đồng trọng tài và các thủ tục trọng tài không phù hợp với thỏa thuận trọng tài thì phán quyết có thể bị một bên yêu cầu tòa án hủy. Qua đó, ta thấy được giá trị pháp lý cũng như nội dung của thỏa thuận trọng tài đóng vai trò quyết định trong việc một phán quyết có thể bị hủy hay không. Trường hợp, công nhận và thi hành phán quyết cũng được quy định tương tự, ta có thể tìm thấy điều này tại Điều 36 khoản 1 điểm a của Luật mẫu về các cơ sở để từ chối việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài ở nước ngoài và tại Điều 5 Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết các quyết định trọng tài nước ngoài.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn hậu tố tụng, nếu như phán quyết của trọng tài bị hủy vì lí do liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài mà các bên không có thỏa thuận bổ sung thì tòa án có thể có quyền giải quyết vụ tranh chấp và phán quyết của tòa án sẽ là phán quyết cuối cùng và có hiệu lực thi hành. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Như vậy, sau khi phán quyết đã được ra, trước khi khép lại quá trình tố tụng trọng tài, ở giai đoạn hậu tố tụng, thỏa thuận trọng tài vẫn đóng một vai trò vô cùng quan trọng bởi nó là căn cứ để xác định phán quyết có thể bị hủy hay không, có thể được công nhận và thi hành ở nước ngoài hay không và cuối cùng là tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp hay không.
Tóm lại, Tòa trọng tài có thể được coi là một tòa án tư nhân mà trong đó các bên được quyền “đề ra luật” của mình. Các thủ tục tố tụng trọng tài sẽ được xem như là một biểu hiện của ý muốn của các bên, trên cơ sở tự chủ của các bên. Các bên tham gia trọng tài chính là người tạo ra trọng tài mà trong đó thỏa thuận trọng tài là công cụ để các bên thể hiện ý muốn của mình. Thỏa thuận trọng tài chính là “luật” của các bên đề ra. Các bên có thể được ví như những người thợ may. Nếu hiểu rõ các nhu cầu của mình, các bên sẽ thiết kế cho mình chiếc áo vừa vặn, thuận tiện và hợp thời trang nhất[26]. Để tranh chấp phát sinh được giải quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả thì vai trò của thỏa thuận trọng tài là vô cùng quan trọng hay nói đúng hơn nó là một yếu tố không thể thiếu được trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Việc xác định một cách đúng đắn tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài sẽ khiến các bên đạt được mong muốn của mình trong việc sử dụng biện pháp trọng tài thương mại quốc tế như một biện pháp giải quyết tranh chấp.
4. Luật áp dụng ảnh hưởng thế nào đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài?
Như đã phân tích ở trên, thỏa thuận trọng tài có một vai trò vô cùng quan trọng trong các giai đoạn của tố tụng trọng tài và là nền tàng của tố tụng trọng tài. Có thể thấy rằng, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là một vấn đề xuyên suốt mà có thể ảnh hưởng đến sự thành lập của hội đồng trọng tài cũng như việc công nhận, thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài hay là hủy phán quyết của trọng tài. Tuy nhiên, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài lại bị chi phối rất nhiều bởi luật áp dụng cho nó. Có thể thỏa thuận trọng tài là vô hiệu theo luật pháp của nước này vì lí do này nhưng theo một hệ thống pháp luật khác nó vẫn có hiệu lực đầy đủ. Điều này khẳng định tầm quan trọng của việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, có xác định được luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài mới có thể xác định rằng thỏa thuận đó vô hiệu hay là có hiệu lực dưới luật pháp mà điều chỉnh nó. Phần dưới đây sẽ phân tích những yếu tố tạo nên một thỏa thuận trọng tài mà có thể bị chi phối bởi luật áp dụng cho thỏa thuận đó.
4.1. Năng lực giao kết của chủ thể Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và năng lực giao kết của chủ thế nhiều khi có thể không phải cùng một hệ thống luật nhưng chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một thỏa thuận trọng tài phải hợp pháp theo luật áp dụng cho nó để có hiệu lực đồng thời chủ thể giao kết thỏa thuận đó cũng phải có đầy đủ năng lực chủ thể để ký kết hợp đồng[27].
Trong khi các bên giao kết thỏa thuận trọng tài có thể tự do lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, họ không có khả năng lựa chọn luật áp dụng cho năng lực giao kết thỏa thuận của chính mình. Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và luật áp dụng cho năng lực giao kết của chủ thể thường được đặt ra cùng một lúc nhưng cách lựa chọn pháp luật áp dụng lại khác nhau. Luật điều chỉnh năng lực giao kết của chủ thể thường được lựa chọn dựa vào quy tắc xung đột của nước có tòa án đang có thẩm quyền giải quyết vụ việc[28]. Và theo các quy tắc xung đột pháp luật đó thì hầu hết nó đều dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của nước mà các bên mang quốc tịch hoặc các bên cư trú đối với cá nhân và luật quốc tịch đối với pháp nhân. Trong một số trường hợp, luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và luật điều chỉnh năng lực giao kết của chủ thể có thể là một nếu như các bên thống nhất lựa chọn luật quốc tịch của một bên làm luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, trường hợp này thường ít xảy ra vì sự thống nhất lựa chọn như vậy là rất khó khăn. Đôi khi, các trọng tài viên khi giải quyết vấn đề năng lực chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài có thể kết hợp các quy tắc xung đột quốc gia nơi diễn ra trọng tài với các quy tắc xung đột trong các điều ước quốc tế về trọng tài được thừa nhận rộng rãi trên thế giới để tìm ra một quy tắc xung đột chung cho việc xác định năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài[29]. Quy tắc chung này thường là luật quốc tịch của các bên (đối với cả cá nhân và pháp nhân).
Qua đó, ta có thể thấy rằng, luật áp dụng cho năng lực kí kết của chủ thể và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có mối quan hệ qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình khẳng định hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài.
4.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài
Như đã phân tích ở trên, hình thức của thỏa thuận trọng tài là một yếu tố bị chi phối khá nhiều bởi luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ngay từ đầu có thể giảm bớt cho các bên rủi ro về việc thỏa thuận trọng tài có thể bị vô hiệu do không thỏa mãn yêu cầu về hình thức đối với luật áp dụng cho nó.
Chẳng hạn như yêu cầu về “thỏa thuận bằng văn bản”, luật pháp của các nước cũng rất khác nhau[30]. Theo tinh thần của công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài thì nội hàm của khái niệm này bị bó hẹp hơn với yêu cầu văn bản buộc phải được kí bởi các bên. Tuy nhiên, các hệ thống pháp luật hiện đại ngày nay, như Anh, Thụy Sỹ hay Hà Lan thì lại có hướng mở rộng khái niệm này bằng việc thừa nhận những hình thức văn bản điện tử như thư tín, telex hay email, thậm chí còn công nhận việc thỏa thuận bằng lời nói miễn là có thể ghi lại được.
Chính vì sự quy định khác nhau này, một thỏa thuận văn bản có thể thỏa mãn yêu cầu về hình thức theo luật pháp của nước này nhưng lại không thỏa mãn theo luật pháp của nước khác và do đó có thể trở thành vô hiệu và không thể thực hiện được. Từ đó có thể thấy việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu lực của thỏa thuận đó.
4.3. Mối quan hệ pháp lý giữa các bên Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Một trong những điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực là phải có mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa hai bên. Theo Công ước New York 1958 và Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL, mối quan hệ pháp lý giữa các bên có thể phát sinh từ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng[31]. Nhưng pháp luật của các quốc gia cũng quy định khác nhau về vấn đề này, một số quốc gia không hề nhắc đến mối quan hệ ngoài hợp đồng, chẳng hạn như Pháp lệnh trọng tài Việt Nam năm 2003, trong phần định nghĩa về thỏa thuận trọng tài (Điều 2 khoản 2), Pháp lệnh chưa làm rõ được vấn đề tranh chấp phát sinh từ quan hệ ngoài hợp đồng có được giải quyết bằng Trọng tài hay không. Vấn đề này có thể ảnh hưởng đến thẩm quyền của trọng tài và do đó có thể ảnh hưởng đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
4.4. Vụ việc có khả năng giải quyết bằng trọng tài
Khả năng giải quyết tranh chấp bàng trọng tài liên quan đến việc quyết định xem loại tranh chấp nào có thể giải quyết bằng trọng tài và loại tranh chấp nào thuộc thẩm quyền của tòa án[32]. Cả Công ước New York 1958 và Luật mẫu đều quy định rằng thỏa thuận trọng tài chỉ có hiệu lực khi tranh chấp được đưa ra trọng tài có khả năng giải quyết bằng trọng tài. Vấn đề này cũng được quy định khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Ví dụ, Điều 2059 Bộ luật Dân sự Pháp quy định rằng: “Tất cả các bên có thể tham gia vào một thỏa thuận trọng tài có liên quan đến quyền mà họ có có thể tự do quyết định”. Bên cạnh đó, Điều 2060 của Bộ luật này lại quy định rằng: “Các bên không thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong một số lĩnh vực cụ thể và trong tất cả các vấn đề liên quan đến trật tự công cộng”[33]. Tuy nhiên giới hạn này thường được các tòa án ở Pháp giải thích rất hạn hẹp và mơ hồ. Cũng tương tự, Điều 1030 Bộ luật tố tụng dân sự Đức quy định, các khiếu nại liên quan đến lợi ích kinh tế có thể giải quyết bằng trọng tài còn những khiếu nại không liên quan đến lợi ích kinh tế mà các bên có thể tự do quyết định thì không thể đưa ra trọng tài giải quyết. Qua đó, ta có thể thấy rằng, việc một tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài hay không thường liên quan đến các chính sách công của nhà nước và do từng quốc gia quyết định. Nếu như theo pháp luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài mà một tranh chấp không thể giải quyết theo thủ tục trọng tài thì thỏa thuận trọng tài đó có thể không được công nhận và không được thực hiện. Mặc dù người ta cũng thường dẫn chiếu các nguồn luật khác (luật quốc tịch của các bên liên quan, luật của địa điểm tiến hành trọng tài, luật của nơi thi hành phán quyết của trọng tài) nhưng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định khả năng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Nhìn chung, luật pháp các nước thường có các quy định khác nhau về các yếu tố để một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và điều này dẫn đến việc thỏa thuận trọng tài có thể vô hiệu hoặc có hiệu lực pháp lý theo từng hệ thống luật khác nhau. Hay nói cách khác, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có một mối quan hệ mật thiết và không thể tách rời. Các bên trong tranh chấp thường quên đi vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài khi soạn thảo thỏa thuận này và họ chỉ thực sự nhận ra hậu quả sự thiếu sót này khi phán quyết của trọng tài bị tòa án hủy hoặc không được công nhận và thi hành tại nước khác vì lí do thỏa thuận trọng tài không hợp pháp theo luật áp dụng cho nó. Chính vì thế việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài là một vấn đề cần được chú trọng nếu muốn đạt được tính hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Trên đây là những nội dung cơ bản nhất về thỏa thuận trọng tài, tầm quan trọng của nó cũng như là mối quan hệ của hiệu lực của thỏa thuận trọng tài với luật áp dụng cho nó. Sau khi đã nắm được những vấn đề nền tảng như trên, chương tiếp theo sẽ phân tích cụ thể những tiêu chí lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và những xu hướng thường được các tòa án và các hội đồng trọng tài lựa chọn trong những tranh chấp thực tế. Qua đó có thể rút ra được ưu và nhược điểm của từng tiêu chí lựa chọn để có thể đưa ra phương án sửa đổi thích hợp cho luật pháp về trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại VN
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>> Khóa luận: Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài […]