Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
1. Pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam
1.1 Các loại phế liệu được nhập khẩu
1.1.1. Điều kiện của phế liệu nhập khẩu:
Như đã phân tích ở Chương I, phế liệu là một dạng của chất thải. Chính vì vậy, nguồn nguyên liệu giá rẻ này cần được quản lý chặt chẽ khi nhập khẩu vào Việt Nam để đề phòng những tác động tiêu cực không đáng có tới môi trường. Tuỳ thuộc vào từng đặc trưng riêng về môi trường tự nhiên cũng như những công nghệ tái chế phế liệu khác nhau của từng nước mà mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về loại phế liệu được nhập khẩu. Không phải bất kỳ loại phế liệu nào cũng được đưa vào Việt Nam, chúng phải tuân thủ theo những điều kiện nhất định. Khoản 1 Điều 76 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định: “Phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường và thuộc danh mục phế liệu được phép nhập khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định”. Như vậy, phế liệu muốn nhập khẩu vào Việt Nam phải thoả mãn hai điều kiện tiên quyết. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, phế liệu phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
Quy chuẩn kỹ thuật môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản bắt buộc áp dụng để bảo vệ môi trường.[1]
Đối với phế liệu được nhập khẩu vào Việt Nam, những quy chuẩn kỹ thuật môi trường được quy định cụ thể tại Thông tư số 43/2010/TT-BTNMT do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành ngày 29/12/2010 Quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu nhập khẩu. Theo đó, kèm theo thông tư này là ba bộ quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với ba loại phế liệu phổ biến nhất là: Phế liệu sắt, thép nhập khẩu (QCVN 31:2010/BTNMT), phế liệu nhựa nhập khẩu (QCVN 32:2010/BTNMT), phế liệu giấy nhập khẩu (QCVN 33:2010/BTNMT). Nội dung những bộ quy chuẩn kỹ thuật này tập trung quy định liên quan đến các đặc tính kỹ thuật của phế liệu, những loại phế liệu cụ thể được phép và không được phép nhập khẩu, những phương pháp kiểm tra và các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp đó.
Trên thực tế, ngoài ba loại có tên nêu trên, còn rất nhiều loại phế liệu khác được các cơ sở kinh doanh mua lại từ nước ngoài để làm nguyên liệu sản xuất, chẳng hạn như: thạch cao, đồng, gang, thuỷ tinh,… Vậy, phải chăng pháp luật yêu cầu phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường mà lại bỏ ngỏ rất nhiều đối tượng ít phổ biến hơn? Đây là một điểm mới của Luật bảo vệ môi trường 2014 nhưng rõ ràng vẫn bộc lộ điểm thiếu sót so với quy định tại Luật bảo vệ môi trường 2005. Nội dung này tại khoản 1 Điều 43 Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định: Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
“Phế liệu nhập khẩu phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường sau đây:
- Đã được phân loại, làm sạch, không lẫn những vật liệu, vật phẩm, hàng hoá cấm nhập khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
- Không chứa chất thải, các tạp chất nguy hại, trừ tạp chất không nguy hại bị rời ra trong quá trình bốc xếp, vận chuyển;
Hoạt động phân loại phế liệu mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi các loại phế liệu khác nhau được chia ra theo những đặc tính riêng sẽ tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng trong công tác kiểm tra, đo đạc tại bộ phận hải quan. Quan trọng hơn, việc phân loại làm hạn chế tối đa khả năng xúc tác, kết hợp giữa nhiều loại khác nhau tạo nên các hợp chất có hại cho môi trường. Thêm vào đó, việc làm sạch là yếu tố bắt buộc khi nhập khẩu phế liệu. Bản chất của phế liệu là chất thải, bởi vậy nhập khẩu phế liệu bẩn không khác nào đưa các nguồn ô nhiễm vào Việt Nam, gây ảnh hưởng cho thiên nhiên và sức khoẻ con người. Ngoài ra, những vật liệu, vật phẩm, hàng hoá bị cấm nhập khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là những vật liệu, vật phẩm có thể tác động xấu tới môi trường, an ninh quốc phòng, chính trị hay ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục của nước ta – tất cả đều được ngăn chặn, tránh các trường hợp cá nhân, tổ chức lợi dụng việc nhập khẩu phế liệu để đưa các mặt hàng đó vào lãnh thổ nước ta.
Phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam theo Luật bảo vệ môi trường 2005 còn phải đáp ứng điều kiện là không chứa các chất thải, các tạp chất nguy hại, trừ tạp chất không nguy hại bị rời ra trong quá trình bốc xếp, vận chuyển. Các tạp chất nguy hại là những tạp chất không đồng nhất về chất với phế liệu, bám dính vào phế liệu và có tính nguy hại như: hoá chất độc, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc, chất thải y tế, các hợp chất hữu cơ có nguồn gốc động, thực vật có nguy cơ gây bệnh tật, dịch bệnh.[2] Mặc dù phế liệu xét về mặt bản chất cũng là một dạng chất thải nhưng không phải tất cả các loại chất thải đều là phế liệu. Sở dĩ phế liệu được phép nhập khẩu vì bản thân nó mang những giá trị nhất định có thể khai thác, còn những chất thải khác đơn thuần chỉ là rác, không có giá trị sử dụng hay tái chế.
Như vậy, qua phân tích ở trên ta thấy được tính khái quát cao của quy định trong Luật bảo vệ môi trường 2005. Mặc dù những nội dung trong quy định này còn khá chung chung, dễ khiến người thực hiện hiểu theo nhiều nghĩa, song điều luật này đã bao quát được các đối tượng khác nhau của phế liệu nhập khẩu.
Thứ hai, phế liệu phải nằm trong danh mục được phép nhập khẩu do Thủ tướng Chính phủ ban hành:
Theo đó, một doanh nghiệp muốn nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài về Việt Nam làm nguyên liệu sản xuất thì phế liệu đó phải có tên trong 36 loại phế liệu được phép nhập khẩu liệt kê trong Phụ lục được ban hành kèm theo Quyết định 73/2014/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ và Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 01/2013/TT-BTNMT ngày 28/01/2013 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Thêm vào đó, những phế liệu này phải được nhập khẩu đúng chủng loại, dạng thức và sử dụng đúng mục đích theo quy định. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Ví dụ: Đối với loại phế liệu: Mai, vỏ động vật thân mềm, động vật giáp xác hoặc động vật da gai không xương sống được xác định và đảm bảo yêu cầu là: Mai, vỏ các loại động vật thân mềm, động vật giáp xác hoặc động vật da gai không xương sống, như: vỏ sò, vỏ ốc, vỏ trai,… đã được loại bỏ phần thịt và các tạp chất khác, phơi khô (độ ẩm dưới 50%). Loại phế liệu này chỉ được phép nhập khẩu để sử dụng làm nguyên liệu sản xuất các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ.[3] Đối với các trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu loại phế liệu mai, vỏ động vật thân mềm nhưng không đảm bảo các tiêu chí như trên sẽ không đủ điều kiện nhập khẩu vào Việt Nam.
1.1.2. Các loại phế liệu được phép nhập khẩu:
Một trong hai điều kiện tiên quyết để phế liệu được đưa vào lãnh thổ Việt Nam theo con đường nhập khẩu là phải thuộc danh mục được cho phép. Quyết định số 73/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 19/12/2014 đã quy định chi tiết 36 loại phế liệu được phép nhập khẩu vào Việt Nam làm nguyên liệu sản xuất. Theo đó, các loại phế liệu đó bao gồm:
Trước khi Luật bảo vệ môi trường 2005 có hiệu lực, pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu quy định về những loại phế liệu được phép nhập khẩu theo 4 nhóm gồm: nhóm kim loại và hợp kim, nhóm giấy và các-tông, nhóm nhựa và nhóm thuỷ tinh với các đặc tính chung là: nguyên liệu thứ phẩm, nguyên liệu vụn và vật liệu tận dụng. Các nhóm phế liệu trên được quy định tại Quyết định số 03/2004/QĐ-BTNMT ngày 02/04/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Ngày 08/09/2006, Quyết định số 12/2006/QĐ-BTNMT được Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành để kịp thời cập nhật những thay đổi mới trong Luật bảo vệ môi trường 2005 (có hiệu lực từ 01/07/2006). Vào thời điểm Luật BVMT 2005 ra đời và dần được triển khai thực hiện thì Việt Nam đang trên bàn đàm phán về việc gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). Hơn thế nữa, chúng ta đang tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), những thay đổi về mặt pháp lý có ý nghĩa lớn lao đối với Việt Nam hơn bao giờ hết. Số lượng những loại phế liệu được phép nhập khẩu đã tăng lên đáng kể. Đặc biệt, thay vì sắp xếp theo nhóm, Quyết định 12/2006/QĐ-BTNMT đã liệt kê 20 loại phế liệu theo thứ tự mã số HS – mã số hàng hoá trong giao dịch quốc tế, bên cạnh đó còn mô tả một cách chi tiết những phần nào của phế liệu được phép nhập khẩu.
So với những quy định trong Luật Bảo vệ môi trường 1993 và Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì đạo luật hiện hành thể hiện nhiều điểm mới tiến bộ hơn nhiều: Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
- Một là, số loại phế liệu được phép nhập khẩu tăng cao. Không phải 4 nhóm như quy định trong Luật bảo vệ môi trường 1993 hay 20 loại theo quy định tại Luật bảo vệ môi trường 2005, hiện nay, Việt Nam cho phép nhập khẩu tới 36 loại phế liệu khác nhau. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang dần được mở rộng, nguồn cung nguyên liệu trong nước không đủ sức đáp ứng nhu cầu của các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Quan trọng hơn, việc cho phép nhập khẩu nhiều loại phế liệu hơn chứng tỏ sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật trong công tác tái chế, xử lý phế liệu tại nước ta.
- Hai là, cụ thể hoá những quy định về dạng thức, đặc tính và mục đích sử dụng của từng loại phế liệu. Sự tăng lên về số lượng cũng đồng nghĩa với việc đa dạng hơn các loại phế liệu nhập khẩu. Sự đa dạng ở đây không chỉ thể hiện ở việc xuất hiện những loại phế liệu mới, trước đây chưa quy định mà còn thể hiện ở sự phong phú trong dạng thức tồn tại của mỗi loại phế liệu được nhập khẩu.
Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý đối với quy định về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu, cho thấy sự quan tâm sát sao hơn của các cơ quan quản lý nhà nước, bước đầu ở phương diện pháp lý.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
1.2. Chủ thể nhập khẩu phế liệu:
1.2.1. Các loại chủ thể được phép nhập khẩu phế liệu
Luật bảo vệ môi trường 2014 không quy định rõ các loại chủ thể được phép nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài vào Việt Nam làm nguyên liệu sản xuất. Tuy nhiên, Điều 55 Nghị định 38/2015/NĐ-CP đã ghi nhận các chủ thể được phép nhập khẩu phế liệu bao gồm:
- “Tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất;
- Tổ chức, cá nhân nhận uỷ thác nhập khẩu cho tổ chức, cá nhân sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.”
Đây là một điểm thay đổi nhỏ nhưng đáng chú ý so với quy định trong Luật bảo vệ môi trường 2005. Khoản 2 Điều 43 luật này đã từng gây nhiều tranh cãi khi quy định rằng: “Tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế phải có đủ các điều kiện sau đây mới được phép nhập khẩu phế liệu…” Như vậy, xét về mặt ngôn từ có thể hiểu rằng chỉ có những tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế thì mới được phép nhập khẩu phế liệu, còn những chủ thể khác thì không được phép. Điều đáng nói là khi đạo luật này có hiệu lực thì vẫn không có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Phải chăng các nhà làm luật đã bỏ sót những chủ thể khác? Sau gần 2 năm bàn cãi, với nhiều luồng quan điểm khác nhau, ngày 30/08/2007, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Bộ Công thương ban hành Thông tư liên tịch số 02/2007/TTLT-BCT-BTNMT hướng dẫn thực hiện điều khoản trên, bổ sung chủ thể được phép nhập khẩu phế liệu vào Việt Nam làm nguyên liệu sản xuất. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
1.2.2. Điều kiện của chủ thể nhập khẩu phế liệu:
Phế liệu là một loại hàng hoá đặc biệt bởi nó có khả năng làm ảnh hướng xấu tới môi trường và sức khoẻ con người nếu việc nhập khẩu không đảm bảo đáp ứng những tiêu chuẩn quy định. Chính vì vậy, các tổ chức, cá nhân để được phép nhập khẩu phế liệu phải thoả mãn những điều kiện nhất định. Điều này được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 76 Luật Bảo vệ môi trường 2014.
- Thứ nhất, tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu phải có kho, bãi dành riêng cho việc tập kết phế liệu bảo đảm điều kiện về bảo vệ môi trường:
Phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam theo đường cửa khẩu hoặc cảng biển thường có số lượng lớn, mỗi lô hàng có thể lên tới hàng trăm tấn. Hơn thế nữa, không phải phế liệu được nhập về là sẽ đưa tới cơ sở sản xuất tái chế hay sử dụng ngay mà có thể sẽ phải chờ vài ngày, vài tuần, thậm chí cả năm. Bởi lẽ đó, kho, bãi chứa hàng phế liệu là điều kiện đầu tiên mà bất kỳ chủ thể nào cũng phải đáp ứng. Tuy nhiên, không giống như những kho chứa hàng thông thường, những kho, bãi tập kết phế liệu nhập khẩu phải đảm bảo các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường. Các tiêu chuẩn này được quy định chi tiết tại khoản 1 Điều 56 Nghị định 38/2015/NĐ-CP.
- Thứ hai, chủ thể nhập khẩu phế liệu phải có công nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng phế liệu, xử lý tạp chất đi kèm phế liệu đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường:
Việc đưa các phế liệu nhập khẩu vào sử dụng trong sản xuất chắc chắn phải thông qua quá trình sơ chế, xử lý ban đầu để thu được nguồn nguyên liệu. Bởi tính nhạy cảm của loại hàng hoá này mà những yêu cầu về công nghệ xử lý phế liệu của các tổ chức, cá nhân nhập khẩu cũng được quy định khắt khe hơn. Để đáp ứng điều kiện này, các doanh nghiệp phải đảm bảo có đủ khả năng về tài chính, cơ sở vật chất và trình độ khoa học – công nghệ nhất định. Chính vì vậy mà không phải bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng được cấp phép nhập khẩu phế liệu. Mặc dù vậy, để có được những nguồn nguyên liệu giá rẻ này, các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ vẫn có thể thuê hoặc mua lại nguyên liệu đã qua xử lý.
- Thứ ba, tổ chức, cá nhân phải ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu theo quy định:
Điều kiện này được ghi nhận như một trách nhiệm của chủ thể nhập khẩu phế liệu trong Luật Bảo vệ môi trường 2014. Tuy nhiên, tại Điều 56 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP, việc ký quỹ bảo đảm là một điều kiện bắt buộc. Việc ký quỹ này được thực hiện bởi cả 2 loại chủ thể: tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng phế liệu nhập khẩu và tổ chức, cá nhân uỷ thác nhập khẩu phế liệu. Dưới góc độ thủ tục, đây là một trong những bước bắt buộc để được cấp phép nhập khẩu. Vì vậy, ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu là trách nhiệm, hơn thế, nó là điều kiện để chủ thể được phép nhập khẩu phế liệu.
Đây là quy định mới so với Luật bảo vệ môi trường 2005. Mục đích của sự thay đổi này là nhằm đảm bảo các tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu chịu trách nhiệm xử lý rủi ro, nguy cơ ô nhiễm môi trường có thể phát sinh từ lô hàng phế liệu nhập khẩu. Bắt đầu từ thời điểm ký quỹ, số tiền mà doanh nghiệp nộp kỹ quỹ sẽ được cơ quan Nhà nước phong toả, quản lý và sử dụng số tiền đó trong trường hợp phế liệu nhập khẩu không được thông quan hoặc không thể tái xuất, nó sẽ được dùng để thanh toán những chi phí phát sinh khi xử lý phế liệu tại Việt Nam. Các thủ tục liên quan đến việc kỹ quỹ bảo đảm được quy định tại các điều 58, 59 và 60 Nghị định 38/2015/NĐ-CP. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
1.2.3. Trách nhiệm của các chủ thể nhập khẩu phế liệu:
Khoản 3 Điều 76 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu như sau:
- Chỉ được nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất;
- Phải xử lý tạp chất đi kèm phế liệu đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; không được cho, bán tạp chất đi kèm phế liệu;
- Phải tái xuất phế liệu không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường; trường hợp không tái xuất được thì phải xử lý theo quy định của pháp luật về quản lý chất thải;
- Thực hiện ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu theo quy định của Chính phủ.
Như vậy, quy định này một lẫn nữa đề cập tới những điều kiện quan trọng của phế liệu nhập khẩu và chủ thể nhập khẩu phế liệu, đồng thời đưa ra phương án xử lý phế liệu không đảm bảo theo quy định để các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện.
1.3. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu vào Việt Nam
Phế liệu là một loại hàng hoá đặc biệt, lại được đưa vào lãnh thổ Việt Nam theo con đường nhập khẩu nên bản thân nó chịu sự điều chỉnh của nhiều lĩnh vực pháp lý khác nhau: môi trường, hải quan, thương mại,… đồng nghĩa với việc hoạt động nhập khẩu phế liệu cũng nằm dưới sự quản lý của nhiều cơ quan nhà nước như: cơ quan môi trường, cơ quan hải quan,…
1.3.1. Trách nhiệm của cơ quan môi trường:
Phế liệu luôn tiềm ẩn những nguy cơ có thể gây ô nhiễm môi trường. Một doanh nghiệp có được cấp phép nhập khẩu hay không, một loại phế liệu có được đưa vào lãnh thổ Việt Nam hay không đều dựa vào những quy chuẩn môi trường nhất định. Vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiểm soát ô nhiễm từ hoạt động nhập khẩu phế liệu.
- Cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất (gọi tắt là Giấy xác nhận):
Giấy xác nhận nói trên là loại giấy phép bắt buộc phải có bên cạnh Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp muốn nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam. Nội dung loại giấy phép này sẽ xác nhận cơ sở đó có đủ các điều kiện về bảo vệ môi trường như đã phân tích ở mục 1.2.2 và được phép nhập khẩu loại phế liệu cụ thể nào và khối lượng được phép nhập khẩu vào Việt Nam làm nguyên liệu sản xuất. Giấy xác nhận này có thời hạn 02 năm kể từ ngày cấp.
Điều 3 Thông tư 41/2015/TT-BTNMT quy định về thẩm quyền của các cơ quan môi trường trong việc cấp Giấy xác nhận này. Cụ thể như sau: Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp, cấp lại, thu hồi Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất (sau đây gọi tắt là Giấy xác nhận) đối với các trường hợp sau:
- Tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất có khối lượng phế liệu nhập khẩu quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư này;
- Tổ chức, cá nhân nhận ủy thác nhập khẩu cho tổ chức, cá nhân sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.
- Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Sở Tài nguyên và Môi trường) cấp, cấp lại, thu hồi Giấy xác nhận đối với tổ chức, cá nhân trực tiếp nhập khẩu phế liệu để sử dụng làm nguyên liệu sản xuất không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này.”
Các chủ thể để được cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu phải nộp hồ sơ theo quy trình được quy định tại Điều 4 và Điều 5 Thông tư này.
- Kiểm tra và hướng dẫn công tác bảo vệ môi trường trong nhập khẩu và sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất.
Các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường nói chung, đặc biệt là các Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương nơi đặt cơ sở sản xuất hoặc kho, bãi tập kết phế liệu nhập khẩu có trách nhiệm theo dõi, quản lý hoạt động bảo vệ môi trường của các cơ sở nhập khẩu, sử dụng phế liệu và tiến hành các biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện hành vi vi phạm xảy ra. Trên cơ sở đó, các cơ quan môi trường tại địa phương sẽ tổng hợp và báo cáo tình hình nhập khẩu , tái chế, sử dụng phế liệu và các vấn đề môi trường khác có liên quan trong lĩnh vực này để trình báo với cơ quan quản lý cấp trên.[4] Công tác kiểm tra định kỳ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, giảm thiểu tối đa những rủi ro có thể gây nguy hại đến môi trường.
- Phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước khác trong công tác kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước được thể hiện trong cả chiều dọc và chiều ngang. Theo chiều dọc, Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Tổng cục Môi trường dưới sự chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện các hoạt động kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ môi trường của các chủ thể đã được cấp phép nhập khẩu phế liệu. Công tác quản lý được thực hiện theo một quy trình thống nhất từ trung ương tới địa phương vừa phân biệt rạch ròi về thẩm quyền và trách nhiệm, vừa tạo nên sự đồng bộ, chặt chẽ trong quản lý. Theo chiều ngang, đó là sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý cùng cấp, giữa cơ quan môi trường với cơ quan hải quan và cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương (uỷ ban nhân dân). Các cơ quan môi trường với trình độ chuyên môn cao sẽ giúp các cơ quan hải quan xác định tính hợp pháp của các loại phế liệu được nhập khẩu, lô hàng đó có đủ điều kiện nhập khẩu hay không? Phế liệu đó có gây ảnh hướng xấu tới môi trường hay không?… Ngoài ra, để quản lý hoạt động sản xuất, tái chế, sử dụng phế liệu nhập khẩu tại các địa phương thì sự hợp tác giữa uỷ ban nhân dân và cơ quan môi trường là vô cùng cần thiết và mang lại hiệu quả cao.
1.3.2. Trách nhiệm của cơ quan hải quan Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Thông quan tại cơ quan hải quan là bước cuối cùng khi nhập khẩu phế liệu vào Việt Nam làm nguyên liệu sản xuất. Các cơ quan hải quan có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiểm soát hoạt động đưa phế liệu vào lãnh thổ nước ta trước khi chúng gây ra những tác động nguy hiểm tới môi trường. Trên thực tế, các cơ sở được cấp phép nhập khẩu song có làm đúng theo quy định hay không, có lợi dụng chính sách nhập khẩu phế liệu của Nhà nước để mang theo những chất thải nguy hại vào Việt Nam hay không thì chỉ có thể phát hiện thông qua việc kiểm tra của cơ quan hải quan.
Trong phạm vi nghiên cứu của bài khoá luận này, trách nhiệm của cơ quan hải quan sẽ được nhìn nhận dưới góc độ bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu của các cá nhân, tổ chức. Đó chính là trách nhiệm kiểm tra, giám sát các lô hàng phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam làm nguyên liệu sản xuất.
Kiểm tra hải quan là việc cơ quan hải quan kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng từ, tài liệu liên quan và kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải.[5]
Việc kiểm tra hải quan trong hoạt động nhập khẩu đối với hàng hoá nói chung và phế liệu nói riêng đều được thực hiện trong quá trình làm thủ tục hải quan và sau thông quan.
Kiểm tra hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan được thực hiện dưới hai hình thức:
Một là, kiểm tra hồ sơ hải quan:
Hồ sơ hải quan gồm tờ khai hải quan, các chứng từ phải nộp hoặc xuất trình cho cơ quan hải quan theo quy định của Luật Hải quan 2014.[6] Cơ quan hải quan sẽ tiến hành kiểm tra nội dung trên tờ khai hải quan, đối chiếu với các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan theo quy định tại Điều 27 Nghị định 08/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan và đối chiếu với quy định pháp luật của các văn bản trong lĩnh vực có liên quan.
Hai là, kiểm tra thực tế hàng hoá: Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Đây là một bước quan trọng và bắt buộc trước khi cho phép thông quan các lô hàng nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài. Hàng hoá nhập khẩu sẽ được kiểm tra, đối chiếu với hồ sơ hải quan các thông tin như: tên hàng, mã số hàng hoá, số lượng, trọng lượng, xuất xứ, các thông số kỹ thuật,… Công đoạn kiểm tra này sẽ được thực hiện thủ công hoặc bằng các máy móc, thiết bị chuyên dụng thông qua các biện pháp nghiệp vụ của nhân viên hải quan.
Khoản 1 Điều 33 Luật Hải quan 2014 quy định một số trường hợp được miễn kiểm tra thực tế, ví dụ: Hàng hoá phục vụ yêu cầu khẩn cấp, hàng hoá chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh,… Tuy nhiên, đối với hàng hoá là phế liệu nhập khẩu thì 100% phải thực hiện kiểm tra thực tế. Điều này được quy định trong Công văn số 6037/TCHQ-GSQL ngày 01/07/2015 của Tổng cục Hải quan về việc tăng cường công tác kiểm tra hàng hoá là phế liệu nhập khẩu.
Theo đó, các cơ quan hải quan tại các tỉnh, thành phố phải thực hiện kiểm tra thực tế 100% các lô hàng phế liệu nhập khẩu, việc kiểm tra thực tế hàng hoá được thực hiện tại hải quan cửa khẩu nhập; không được chuyển về nhà máy, cơ sở sản xuất để kiểm tra. Thiết nghĩ đây là một quy định cần thiết, song các thủ tục tiến hành kiểm tra của cơ quan hải quan còn nhiều bất cập, gây ra nhiều bức xúc đối với các doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu.
Kiểm tra hải quan sau thông quan:
Thông quan là việc hoàn thành các thủ tục hải quan để hàng hóa được nhập khẩu, xuất khẩu hoặc đặt dưới chế độ quản lý nghiệp vụ hải quan khác.[7] Sau khi thông quan, các lô hàng phế liệu nhập khẩu vẫn có thể bị kiểm tra nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan hoặc xác định có khả năng vi phạm pháp luật hải quan dựa trên kết quả phân tích các thông tin của cơ quan hải quan. Bước kiểm tra này chỉ áp dụng đối với một số ít trường hợp, song lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ngăn chặn nguy cơ để các tổ chức, cá nhân đưa các nguồn hàng cấm, nguy hại tới môi trường vào Việt Nam.
1.3.3. Trách nhiệm của uỷ ban nhân dân địa phương:
Uỷ ban nhân dân tại mỗi địa phương là một mắt xích quan trọng trong việc phối hợp với các cơ quan môi trường và cơ quan hải quan thực hiện công tác bảo vệ môi trường đối với hoạt động sử dụng, tái chế phế liệu nhập khẩu tại địa phương mình.
Khoản 4 Điều 76 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định trách nhiệm của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu như sau:
- “Kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến phế liệu nhập khẩu;
- Hằng năm, báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường tình hình nhập khẩu, sử dụng phế liệu và các vấn đề môi trường liên quan đến phế liệu nhập khẩu tại địa bàn.”
Uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước, là cơ quan thực thi pháp luật tại địa phương. Công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về nhập khẩu phế liệu tại các tỉnh, thành phố nếu được tiến hành thông qua sự phối hợp của các ban ngành và các cơ quan chuyên môn thì sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn rất nhiều.
1.4. Xử lý vi phạm trong hoạt động nhập khẩu phế liệu Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Những chế tài pháp luật nói chung là các biện pháp tác động của nhà nước đối với các chủ thể vi phạm pháp luật nhằm mục đích trừng trị, răn đe, giáo dục và phòng ngừa các hành vi vi phạm. Để công tác quản lý việc bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu đạt được hiệu quả tốt nhất thì bên cạnh việc đưa ra những quy tắc xử sự chung thì các nhà làm luật cần xây dựng những chế tài phù hợp để xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này.
Tuỳ vào mức độ nguy hiểm của hành vi, các chủ thể vi phạm có thể phải chịu các hình thức xử lý khác nhau như: xử lý vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm bồi thường trong dân sự.
1.4.1. Xử phạt vi phạm hành chính
Các trường hợp vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu được quy định cụ thể tại Điều 26 Nghị định 179/2013/NĐ-CP.
- Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính:
Cá nhân, tổ chức trong nước và cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều bị xử phạt theo các quy định tại Nghị định 179/2013/NĐ-CP hoặc các văn bản khác có liên quan.[8]
- Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính:
Đối với các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu thì sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 26 Nghị định 179/2013/NĐ-CP. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Theo đó, có ba hình thức xử lý vi phạm hành chính như sau:
Một là, phạt tiền với các mức tiền phạt tương ứng với từng hành vi vi phạm sau:
“Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các vi phạm hành chính sau đây:
Không có báo cáo tình hình nhập khẩu, sử dụng phế liệu nhập khẩu theo quy định;
Không thông báo bằng văn bản cho Sở Tài nguyên và Môi trường nơi đặt cơ sở sản xuất hoặc kho, bãi chứa phế liệu nhập khẩu về chủng loại, số lượng, trọng lượng, xuất xứ phế liệu, cửa khẩu nhập, tuyến vận chuyển, kho, bãi tập kết phế liệu và nơi đưa phế liệu vào sản xuất trước khi bốc dỡ theo quy định.
Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi nhập khẩu phế liệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Không có Giấy chứng nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu theo quy định;
- Không có đủ điều kiện về năng lực, kho bãi, phương án xử lý phế liệu nhập khẩu đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường theo quy định;
- Không có hợp đồng nhập khẩu ủy thác phế liệu theo quy định;
- Tập kết phế liệu nhập khẩu không đúng địa điểm kho bãi đã đăng ký;
- Chuyển giao, cho, bán phế liệu nhập khẩu cho tổ chức, cá nhân khác không đúng quy định.
Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
Nhập khẩu phế liệu không được phân loại, làm sạch theo quy định hoặc có lẫn vi trùng gây bệnh;
Không xử lý theo quy định hoặc không đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với tạp chất đi cùng phế liệu nhập khẩu hoặc cho, bán tạp chất đó.
- Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng đối với hành vi nhập khẩu phế liệu có chứa tạp chất vượt quá tỷ lệ cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu nhập khẩu.
- Phạt tiền từ 250.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định về tạm nhập, chuyển khẩu phế liệu trong các trường hợp sau:
- Tháo, mở, sử dụng và làm phát tán phế liệu trong quá trình vận chuyển, lưu giữ trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
- Làm thay đổi tính chất, khối lượng của phế liệu;
- Không tái xuất, chuyển khẩu toàn bộ phế liệu đã được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 350.000.000 đồng đối với hành vi nhập khẩu phế liệu có chứa các tạp chất là chất thải nguy hại.
- Phạt tiền từ 350.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng đối với hành vi nhập khẩu, quá cảnh phế liệu có chất phóng xạ; nhập khẩu phế liệu không thuộc Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu.”
Hai là, xử phạt bổ sung bằng việc tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu từ 06 tháng đến 12 tháng đối với các trường hợp:
- Không có đủ điều kiện về năng lực, kho bãi, phương án xử lý phế liệu nhập khẩu đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường theo quy định;
- Không có hợp đồng nhập khẩu ủy thác phế liệu theo quy định;
- Tập kết phế liệu nhập khẩu không đúng địa điểm kho bãi đã đăng ký;
- Chuyển giao, cho, bán phế liệu nhập khẩu cho tổ chức, cá nhân khác không đúng quy định;
- Nhập khẩu phế liệu có chứa tạp chất vượt quá tỷ lệ cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu nhập khẩu;
- Tháo, mở, sử dụng và làm phát tán phế liệu trong quá trình vận chuyển, lưu giữ trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Làm thay đổi tính chất, khối lượng của phế liệu;
- Không tái xuất, chuyển khẩu toàn bộ phế liệu đã được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Nhập khẩu phế liệu có chứa các tạp chất là chất thải nguy hại;
- Nhập khẩu, quá cảnh phế liệu có chất phóng xạ; nhập khẩu phế liệu không thuộc Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu.”
Ba là, áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả:
Các biện pháp khắc phục hậu quả sẽ được bắt buộc áp dụng trong từng trường hợp cụ thể, bao gồm:
- Buộc tái xuất hoặc tiêu huỷ phế liệu nhập khẩu. Tịch thu sản phẩm có giá trị sau khi tiêu huỷ và xử lý theo quy định của pháp luật;
- Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về nhập khẩu phế liệu vi phạm quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành đối với các hành vi vi phạm;
- Buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính.”
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu bị xử phạt hành chính, thẩm quyền xử lý được phân định tới các cá nhân, cơ quan quản lý nhà nước cụ thể: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Công an Nhân dân, Thanh tra chuyên ngành, các lực lượng khác như: Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, Quản lý thị trường, Cảng vụ Hàng hải, Cảng vụ đường thủy nội địa. Thẩm quyền của các cá nhân, cơ quan nói trên được quy định cụ thể tại các Điều 50, 51, 52, 53 và 54 Nghị định số 179/2013/NĐ-CP quy định về Xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
1.4.2. Truy cứu trách nhiệm hình sự
Chế tài hình sự là những biện pháp xử lý nghiêm khắc hơn cả so với các hình thức chế tài khác. Để đối phó với tình trạng lợi dụng việc nhập khẩu phế liệu nhằm đưa rác thải vào Việt Nam, gây nguy hại cho môi trường, ngoài những biện pháp xử phạt vi phạm hành chính thì việc đưa các hành vi vi phạm vào danh sách các tội phạm hình sự là một biện pháp hữu hiệu, có tính răn đe, giáo dục cao.
Điều 185 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định về tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam như sau:
- Người nào lợi dụng việc nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế liệu hoặc hóa chất, chế phẩm sinh học hoặc bằng thủ đoạn khác đưa vào lãnh thổ Việt Nam chất thải nguy hại hoặc chất thải khác với số lượng lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ hai trăm triệu đồng đến một tỷ đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
- Có tổ chức;
- Chất thải nguy hại có số lượng lớn hoặc chất thải khác có số lượng rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
- Gây hậu quả rất nghiêm trọng;
- Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Hành vi “lợi dụng việc nhập khẩu” là hành vi đưa hoặc cho phép đưa chất thải nguy hại hoặc chất thải khác với số lượng lớn vào lãnh thổ Việt Nam nhưng dưới hình thức nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế liệu hoặc hoá chất, chế phẩm sinh học được pháp luật cho phép nhập khẩu. Hành vi lợi dụng nhập khẩu bao gồm hành vi nhập khẩu hoặc cho phép nhập khẩu chất thải nguy hại hoặc chất thải khác với số lượng lớn. Hành vi nhập khẩu chất thải nguy hại hoặc chất thải khác với số lượng lớn được hiểu là việc nhập khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp qua người được uỷ thác. Nếu người được uỷ thác biết công nghệ, máy móc, thiết bị, phế liệu hoặc hoá chất, chế phẩm sinh học nhập khẩu là chất thải nguy hại hoặc chất thải khác với số lượng lớn thì cũng bị coi là đồng phạm với tư cách là người thực hành. Hành vi cho phép nhập khẩu chất thải nguy hại hoặc chất thải khác với số lượng lớn là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc cấp hoặc phê chuẩn các loại giấy phép nhập khẩu các công nghệ, máy móc, thiết bị, phế liệu hoặc hoá chất, chế phẩm sinh học được pháp luật cho phép nhập khẩu nhưng biết rõ các đối tượng trên là chất thải nguy hại hoặc chất thải khác với số lượng lớn.[9]
Hành vi “đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam” theo quy định tại Bộ luật Hình sự 1985 chưa được coi là một tội phạm, nghĩa là, khi đó chủ thể thực hiện hành vi này sẽ chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính. Bộ luật Hình sự 1999 đã có những thay đổi đáng chú ý khi quan tâm hơn tới các tội phạm về môi trường nói chung và tội “nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường” nói riêng. Bản sửa đổi bổ sung năm 2009 của bộ luật này không chỉ thay đổi tên gọi của tội phạm, nâng cao các khung hình phạt mà còn quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi kể từ khi chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Đây được xem là một sự tiến bộ đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Những quy định về tội phạm này còn có nhiều thay đổi đáng giá hơn trong Điều 239 Bộ luật Hình sự 2015, có hiệu lực từ ngày 01/07/2016. Theo đó, thay vì việc định khung hình phạt theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi với khả năng xác định mang tính tương đối và khó khăn hơn thì điều luật này xác định các mức phạt theo phương pháp định lượng, tức là mỗi loại chất thải được đưa vào Việt Nam với một giới hạn khối lượng nhất định sẽ áp dụng một mức phạt cụ thể. Việc xác định hình phạt như vậy sẽ đơn giản hoá thủ tục tố tụng, dễ hiểu đối với mọi cá nhân, tổ chức áp dụng và thực thi pháp luật.
Đặc biệt, Bộ luật Hình sự 2015, trong đó có điều luật nói trên đã quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Theo đó, các chế tài áp dụng đối với các pháp nhân phạm tội gồm: phạt tiền với mức tiền phạt dao động từ 1.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng; tạm đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định.
1.4.3. Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự trong trường hợp nhập khẩu phế liệu làm ô nhiễm môi trường được xác định là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường được quy định tại điều 624 Bộ luật Dân sự 2005: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi”. Khoản 8 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường 2014 cũng ghi nhận về vấn đề này: “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải khắc phục, bồi thường thiệt hại và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật”.
Các tổ chức, cá nhân gây ra những tổn thất, nguy hại đối với môi trường từ hoạt động nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu của mình thì phải có trách nhiệm xử lý, phục hồi khu vực bị ô nhiễm và bồi thường thiệt hại đối với các tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng. Trách nhiệm dân sự đối với các chủ thể nhập khẩu phế liệu được quy định với mục đích bổ sung cho các chế tài hành chính và hình sự, góp phần nâng cao trách nhiệm đối với cộng đồng, với xã hội của mỗi doanh nghiệp, ngăn chặn và xử lý những rủi ro đối với môi trường do hoạt động nhập khẩu phế liệu gây ra.
2. Việc thực thi Công ước Basel tại Việt Nam Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế thế giới đã có nhiều thay đổi theo xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế. Cũng chính vì quá trình giao lưu thương mại giữa các quốc gia trên thế giới ngày một gia tăng mà việc vận chuyển ô nhiễm cũng có những dấu hiệu tiêu cực. Ý thức được mối nguy hại từ các loại phế thải nguy hại cũng như việc vận chuyển xuyên quốc gia đối với môi trường và sức khoẻ của con người, các quốc gia đã ký kết Công ước Basel về kiểm soát chất thải xuyên biên giới và việc tiêu huỷ chúng (gọi tắt là Công ước Basel). Việt Nam tham gia Công ước Basel từ ngày 13/03/1995, có hiệu lực từ ngày 11/06/1995. Sau hơn 20 năm tham gia Công ước, Việt Nam đã có những bước tiến nhất định trong công tác xây dựng và thực thi pháp luật để hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của chất thải đối với môi trường và sức khoẻ con người.
Trước khi tham gia Công ước Basel, những quy định về chất thải trong hệ thống pháp luật Việt Nam vô cùng sơ sài, chỉ đề cập tới những nội dung liên quan đến việc thu gom và xử lý chất thải. Từ tháng 3/1995, công tác quản lý chất thải tại nước ta bắt đầu có nhiều đổi mới sau khi trở thành một thành viên của Công ước này:
Xây dựng quy định pháp luật phù hợp trong hoạt động quản lý chất thải tại Việt Nam. Hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành, hoàn thiện dần hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta, đặc biệt trong lĩnh vực nhập khẩu phế liệu có thể kể đến Quyết định số 03/2004/QĐBTNMT ngày 02/04/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Quy định về bảo vệ môi trường đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất. Quan trọng hơn, Luật Bảo vệ môi trường 2005 ra đời là một thành tựu lúc bấy giờ với những chế định vừa cụ thể, vừa bao quát các vấn đề môi trường tại Việt Nam. Riêng vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu cũng được đề cập và quy định tại Điều 43 của đạo luật này. Ngoài ra, những biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường cũng được các nhà làm luật quan tâm xây dựng. Tiêu biểu hơn cả là việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với hành vi đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam trong Bộ luật Hình sự 1999 mà trước đó không hề quy định. Cho đến nay, những thay đổi về mặt pháp lý của nước ta về lĩnh vực bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu nói riêng như đã phân tích ở trên đang ngày càng được cập nhật và hoàn thiện hơn.
Đồng hành cùng các quốc gia thành viên của Công ước Basel, Việt Nam đã tiến hành đầu tư vào hệ thống cơ sở vật chất, phát triển khoa học, kỹ thuật và đào tạo cán bộ chuyên môn cho công tác quản lý chất thải tại nước nhà. Thông qua việc trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, chia sẻ công nghệ, kỹ thuật giữa các nước thành viên, hoạt động bảo vệ môi trường của Việt Nam đã có những thành công nhất định. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Có thể nói, việc tham gia Công ước Basel là dấu mốc quan trọng của Việt Nam, tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc để xây dựng hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và lĩnh vực quản lý chất thải nói riêng.
3. Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu ở một số quốc gia trên thế giới
Hoạt động xuất nhập khẩu phế liệu giữa các quốc gia trên thế giới đã xuất hiện từ những thập niên đầu tiên của thế kỷ XX. Ngày nay, nhu cầu nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất của các quốc gia ngày càng tăng cao khi các nguồn tài nguyên đang dần bị khai thác cạn kiệt, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển đa dạng như Trung Quốc hay quốc đảo khan hiếm tài nguyên như Nhật Bản. Là những thành viên đầu tiên của Công ước Basel 1989 về kiểm soát vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hại và việc tiêu huỷ chúng, các quốc gia này đã vận dụng và có những tiến bộ rõ ràng trong công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất.
3.1. Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những quốc gia có hoạt động xuất nhập khẩu phế liệu nhộn nhịp nhất thế giới. Từ năm 2013, nền kinh tế trong đó có hoạt động nhập khẩu phế liệu của đất nước này chịu ảnh hưởng khá nhiều từ quy định “Hàng rào xanh” hay “rào cản môi trường” trong thương mại quốc tế. Theo đó, hàng rào xanh hay rào cản môi trường là một hệ thống quy định những tiêu chuẩn về môi trường trong hoạt động sản xuất, từ việc sử dụng nguyên vật liệu đến trình độ công nghệ sản xuất; từ xử lý chất thải đến tận thu, sử dụng và tái chế chất thải, từ việc áp dụng các biện pháp giảm thiểu phát thải đến việc thực hiện kế hoạch quản lý môi trường.[10] Bất chấp những bất ổn gây ra bởi hoạt động rào cản này, cuối năm 2013 đầu năm 2014, thị trường xuất nhập khẩu phế liệu vẫn ở mức ổn định, thậm chí tăng cao, đặc biệt đối với phế liệu ngành nhựa. Trung Quốc nhập phế liệu nhựa từ 120 quốc gia và vũng lãnh thổ trên thế giới trong năm 2014, trong đó chủ đạo là Hồng Kong với hơn 100.000 tấn được nhập về trong 10 tháng đầu tiên.[11]
Đối với công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu, Trung Quốc thể hiện sự quan tâm sát sao thông qua nhiều quy định pháp luật về lĩnh vực này. Từ năm 1995, Trung Quốc đã ban hành Luật về phòng chống và kiểm soát ô nhiễm môi trường do chất thải rắn với các quy định khá chi tiết về việc nhập khẩu chất thải rắn có thể được sử dụng như nguyên liệu tại điều 25 Luật này. Ngày 04/01/2005, đạo luật thay thế cho văn bản trên chính thức có hiệu lực với những quy định mới về danh mục các loại chất thải rắn nhập khẩu, riêng với loại sử dụng như nguyên liệu sản xuất thì được phân thành 2 loại: chất thải rắn nhập khẩu bị hạn chế và chất thải rắn cho phép tự động nhập khẩu.
Ngoài ra, văn bản này còn bổ sung thêm các quy định tiêu chuẩn quốc gia về bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nhập khẩu.
Khác với số lượng văn bản ít ỏi của Việt Nam về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia của các loại phế liệu nhập khẩu, các nhà làm luật Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống các văn bản về tiêu chuẩn chất lượng của chất thải cho phép nhập khẩu làm nguyên liệu đối với tất cả các loại phế liệu. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Một trong những điểm tiến bộ của pháp luật Trung Quốc về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu mà chúng ta nên học hỏi là xây dựng hàng rào kỹ thuật thương mại. Tức là, khi xuất khẩu sang Trung quốc, các loại hàng hoá, trong đó có phế liệu phải tuân thủ những quy định kỹ thuật khác nhau.
Theo đó, Trung Quốc xây dựng một cơ quan có chức năng kiểm tra, kiểm soát phế liệu nhập khẩu vào lãnh thổ nước này, đảm bảo rằng những loại phế liệu đó phải đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường và các yêu cầu bắt buộc khác theo luật định, gọi là Tổng cục kiểm dịch – thanh tra và giám sát chất lượng Trung Quốc (viết tắt là AQSIQ).[12] Một số loại phế liệu yêu cầu phải có giấy phép AQSIQ được quy định gồm: giấy, nhựa, kim loại, sợt dệt, phần cứng phế liệu, các thiết bị điện, phế liệu cáp, mật đường,… Các doanh nghiệp muốn đưa phế liệu vào quốc gia này làm nguyên liệu sản xuất phải đăng ký với AQSIQ Trung Quốc. Sau khi tiếp nhận hồ sơ từ các cơ sở nhập khẩu, cơ quan này sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá trên cơ sở các chứng từ để xem xét hàng hoá của họ có khả năng gây ô nhiễm môi trường hay không. Giấy phép AQSIQ chỉ được cấp khi hàng hoá phế liệu cũng như chủ thể nhập khẩu đáp ứng đủ các điều kiện theo luật định. Khi ấy, các lô hàng mới được phép vận chuyển và đưa vào lãnh thổ Trung Quốc. Đây là một lộ trình kiểm soát khá phức tạp nhưng đảm bảo tính chặt chẽ, có vai trò ngăn chặn từ nguồn các phế liệu nhập khẩu, loại bỏ nguy cơ ô nhiễm trước khi các loại chất thải nguy hại được đưa vào đất nước.
3.2. Nhật Bản
Nhật Bản là một đất nước giàu có thiên tai nhưng nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên. Để trở thành một quốc gia với nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ, Nhật Bản đã tận dụng nguồn nguyên liệu thông qua hoạt động nhập khẩu phế liệu từ các quốc gia khác trên thế giới. Chính vì vậy mà môi trường đất nước mặt trời mọc này luôn ở trong trạng thái có thể đối diện với những tác động nguy hại từ hoạt động này. Tuy nhiên, Chính phủ Nhật đã áp dụng nhiều giải pháp để giảm thiểu ô nhiễm trong nước do quá trình sử dụng phế liệu nhập khẩu gây ra. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
Thứ nhất, áp dụng những chế định nghiêm ngặt của Công ước Basel, Nhật Bản ban hành đạo luật về nhập khẩu và xuất khẩu chất thải nguy hại từ năm 1994 và đến tận bây giờ, đạo luật trên vẫn còn hiệu lực. Điều này cho thấy rằng, bên cạnh công cuộc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu phế liệu, chất thải luôn được họ quan tâm đúng mức. Mỗi năm, Nhật Bản xuất khẩu khoảng hơn 300.000 tấn và nhập khẩu khoảng hơn 100.000 tấn phế liệu.[13] Với hành lang pháp lý chặt chẽ của mình, nguồn phế liệu vẫn được nhập khẩu đều đặn đáp ứng nhu cầu của sản xuất mà vẫn đảm bảo không gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường và sức khoẻ con người
Thứ hai, Nhật Bản xây dựng một cơ chế khả thi cụ thể về việc phân loại phế liệu, chất thải và chất thải nguy hại. Với cơ chế này, công tác kiểm tra, đánh giá các lô hàng nhập khẩu sẽ được tiến hành một cách dễ dàng, nhanh chóng hơn rất nhiều. Hiện nay, Nhật Bản đã có bảng phân loại và thống kê được hơn 400 loại vật liệu, chất thải khác nhau. Bên cạnh đó, quốc đảo này còn rất đầu tư cho cơ sở vật chất, thiết bị khoa học kỹ thuật hỗ trợ công tác kiểm soát cũng như xử lý chất thải.
Thứ ba, thay vì triển khai các hoạt động kiểm tra, giám định chất lượng phế liệu, chất thải sau khi chúng đã nằm tại các cửa khẩu, bến cảng như Việt Nam, tương tự mô hình AQSIQ của Trung Quốc, Nhật Bản yêu cầu các tổ chức, cá nhân phải thực hiện việc thông báo trước 5 ngày tới cơ quan quản lý môi trường địa phương nơi họ vận chuyển phế liệu tới để cơ quan có thẩm quyền tiến hành bước kiểm tra trước khi phế liệu được đưa vào lãnh thổ nước này. Đây thực sự là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất đảm bảo cho các lô hàng phế liệu nhập khẩu vi phạm không phải nằm chờ tái xuất hay bị tiêu huỷ.
Là hai quốc gia lớn mạnh về kinh tế và tiến bộ về khoa học pháp lý, Trung Quốc và Nhật Bản đồng thời còn là những “bạn hàng”, đối tác của Việt Nam trong hoạt động xuất, nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Những quy định, những giải pháp về vấn đề bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu của hai quốc gia này là những bài học kinh nghiệm quý báu đối với nước ta trong công cuộc bảo vệ môi trường. Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Thực trạng về bảo vệ môi trường nhập khẩu phế liệu
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com