Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Thực trạng và những vấn đề phục dựng tôn tạo tháp tường Long dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1 Khái quát về Đồ Sơn.

2.1.1 Đặc điểm vị trí địa lý của Đồ Sơn trong chiến lược phát triển du lịch.

Đồ Sơn là một quận của Thành phố Hải Phòng cách trung tâm thành phố khoảng 20 km về hướng đông nam. Đồ Sơn ở vào 22o45’ vĩ độ Bắc, 106045’ kinh độ Đông, với diện tích là 3.094 Km2. Phía Bắc phía Tây giáp với quận Dương Kinh, phía Đông và phía Nam giáp với Vịnh Bắc Bộ.

Quận Đồ Sơn được thành lập ngày 12 tháng 9 năm 2007 trên cơ sở toàn bộ diện tích của xã Đồ Sơn cũ theo nghị định 145/2007/NĐ-CP của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.

Đồ Sơn có rất nhiều lợi thế phát triển du lịch để trở thành một trong những trung tâm du lịch không chỉ riêng Hải Phòng mà của cả nước. Đồ Sơn có một nền tảng thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của quận đặc biệt là ngành du lịch. Bởi Hải Phòng là một trong ba cực quan trọng của tam giác tăng trưởng kinh tế phía Bắc gồm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, là một thành phố công nghiệp, dịch vụ, du lịch, thương mại, thủy sản phát triển mạnh, cách thủ đô Hà Nội 102km. Đây là những điều kiện thuận lợi để Đồ Sơn có những quy hoạch chiến lược mở rộng hoạt động du lịch trong quá trình phát triển chung của Thành phố Hải Phòng.

Đồ Sơn còn có nhiều thuận lợi từ các điều kiện tự nhiên phục vụ cho hoạt động du lịch. Là một bán đảo xinh xắn giáp với biển Đông, thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất này những bãi biển đẹp, rộng và dài với phong cảnh sơn thủy hữu tình có non cao, rừng thông xanh trải dài ra đến biển vô cùng hấp dẫn du khách.

Khí hậu Đồ Sơn cũng ôn hòa thích hợp cho việc phát triển du lịch. Khí hậu Đồ Sơn mang đặc điểm chung miền ven biển vịnh Bắc bộ. Nhưng với vị trí 1 bán đảo nên mùa đông thường ấm, mùa hè thường mát hơn. Bởi vậy, ngay từ thời kỳ đầu thế kỷ XX sau khi được triều đình Huế “bán” đất Đồ Sơn, người Pháp đã phát hiện ra tiềm năng du lịch của Đồ Sơn, và cho xây ngay nơi này thành thị trấn và biến cả bãi biển thành bãi tắm để ngày nay Đồ Sơn trở thành một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của Việt Nam. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Xưa kia Đồ Sơn được coi là vùng cửa tiền tiêu, có vị trí quan trọng bảo vệ đất nước nên đã từng chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử nổi bật gắn liền với các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của dân tộc. Do vậy đã để lại cho Đồ Sơn một số các di tích lịch sử quý giá. Con người ở Đồ Sơn này quanh năm có cuộc sống gắn với sóng nước, biển cả đã sáng tạo ra những sinh hoạt tín ngưỡng mang đặc trưng của dân cư miền biển thể hiện qua các lễ hội độc đáo để ngày nay trở thành những tài nguyên nhân văn vô giá phục vụ du lịch.

Đồ Sơn nằm ở một vị trí rất thuận lợi, chỉ cách trung tâm Thành phố 22km mất khoảng 20 phút đi bằng ôtô. Đến Đồ Sơn có thể bằng đường bộ hoặc đường thủy nên có thể hình thành nhiều tuyến du lịch từ Đồ Sơn đi các điểm du lịch khác ( Đồ Sơn – Cát Bà – Hạ Long bằng đường thủy) hoặc đến du lịch tại Đồ Sơn.

Đồ Sơn được coi là một trong ba trung tâm du lịch của Thành phố Hải Phòng (khu vực nội thành, Cát Bà, Đồ Sơn) nên rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư du lịch, tạo điền kiện thuận lợi để xây dung các khu du lịch có tầm cỡ quốc tế thu hút thêm nhiều khách du lịch đến với Đồ Sơn.

Với những lợi thế do vị trí địa lý đem lại, Đồ Sơn càng khẳng định những tiềm năng to lớn về phát triển các loại hình du lịch, đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của quận cũng như Thành Phố.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2 Đặc điểm dân cư.

Địa danh Đồ Sơn được “Đại Việt sử lược” đời nhà Trần thế kỷ XIII nhắc đến lần đầu tiên khi ghi chép việc vua Lý Thánh Tông ngự ra cửa Ba Lộ cho xây tháp ở Đồ Sơn (Tháp Tường Long) vào tháng 9 năm 1058. Có một số giải thích cho tên gọi Đồ Sơn ví như tách từ, dịch nghĩa tiếng Hán: “Đồ” là bùn, “Sơn” là núi. Đồ Sơn tức là những ngọn núi nhô lên trên vũng bùn lầy bởi vì xưa kia ở đây là vùng sình lầy. Lại có người bảo rằng núi ở đây nhấp nhô như trận đồ bát quái nên dân quen gọi là Đồ Sơn. Cũng có sách nói núi non ở đây là địa đầu chống giặc nên có tên gọi là Đầu Sơn (núi phía địa đầu) dần dà gọi chệch đi thành Đồ Sơn. Cho dù cách gọi như thế nào thì tên gọi Đồ Sơn cũng đã vô cùng quen thuộc với người dân ở đây và là một địa danh nổi tiếng của người dân thành phố Hải Phòng. Trải qua nhiều biến thiên của dân tộc, Đồ Sơn cũng đã có nhiều lần tách hợp với các huyện lân cận nên có nhiều địa vị hành chính. Đến ngày 6 tháng 6 năm 1988, theo quyết định của Hội đồng bộ trưởng, nay là Hội đồng chính phủ, Đồ Sơn thực sự được tách ra thành thị xã Đồ Sơn trực thuộc Thành phố Hải Phòng.

Về dân cư, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân cư Đồ Sơn có nhiều thay đổi về cơ học. Ngoài những người dân bản sứ, Đồ Sơn còn có nhiều dân cư từ vùng khác đến đây định cư lập nghiệp bởi thấy vùng đất này khí hậu trong lành, sẵn nước ngọt, đủ rừng vàng biển bạc, dân bản địa cởi mở, thân thiện. Từ đó mà dân cư ngày càng thêm đông đúc. Đồ Sơn chia làm 4 phường: Vạn Sơn, Vạn Hương, Ngọc Hải, Ngọc Xuyên và một xã là xã Bàn La. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Người dân Đồ Sơn biết đến tổ tiên của mình qua truyền thuyết về Lục vị tiên công – là 6 vị đầu tiên đến “khai sơn phá thạch” bất chấp mọi gian khổ, khó khăn khai sinh ra mảnh đất Đồ Sơn nổi tiếng tươi đẹp. Đó là các cụ: Lương Nuôi Mường, Lê Hải Bộ, Đinh Chàng Ngọ, Hoàng Đại Hùng, Nguyễn Thanh Sam và Phạm Cao Sơn. Sáu cụ đã được nhân dân phong tôn thần là Lục vị Tiên công. Tưởng nhớ công ơn các cụ, nhân dân đã lập đền thờ nhưng trải qua bao thăng trầm lịch sử miếu mạo không còn, nay chỉ còn Đền Nghè là nơi thờ chung 6 vị ở khu Vạn Hương, khói hương không bao giờ tắt.

Noi gương các thế hệ đi trước, người dân Đồ Sơn cũng phấn đấu tạo dựng cuộc sống tươi đẹp kèm theo đó là sáng tạo ra một nền văn hóa đặc trưng mang đặc trưng của cư dân ven biển góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc. Chỉ có ở Đồ Sơn mới có tục chọi trâu thờ thủy thần – thần vết chân chim sẻ. Ngoài ra dân Đồ Sơn còn thờ Nam Hải Thần Vương, Bà Đế hiển thánh…. đều gắn liền với các yếu tố nước. Lễ phẩm dân thần, trò diễn xướng nghinh thần cũng gắn liền với sông nước bãi biển. Kiến trúc cổ với tiền tầu hậu bảy, mái dài, hiên thấp, cửa sổ hẹp để chống chọi với bão biển, nóng ẩm….

Người dân Đồ Sơn còn nổi tiếng với sự gan dạ dũng cảm thể hiện trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, gần đây nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nơi đây đã lưu giữ nhiều dấu tích lịch sử trở thành điểm tham quan hấp dẫn để con cháu đời sau hiểu được chiến công oanh liệt của cha ông đi trước.

Nền văn hóa lâu đời cùng nhiều sự kiện lịch sử quan trọng gắn liền với lịch sử của dân tộc đã để lại cho Đồ Sơn một tài nguyên nhân văn phong phú gồm nhiều di tích lịch sử văn hóa, di tích khảo cổ, các lễ hội đặc sắc. Đây chính là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn, du lịch tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đưa du lịch của quận Đồ Sơn phát triển mạnh nếu được khai thác một cách hợp lý và đúng đắn.

2.1.3 Khái quát về nguồn tài nguyên du lịch nhân văn quận Đồ Sơn.

Xưa kia, Hải Phòng có tên là “Hải tần phòng thủ” vì Hải Phòng là vùng cửa tiền tiêu, vùng phên dậu của đất nước. Vùng cửa tiền tiêu đó chính là địa bàn quận Đồ Sơn hiện nay – một vị trí trọng yếu trong sự nghiệp bảo vệ đất nước. Do có vị trí địa lý giáp biển mà Đồ Sơn là vùng đất đã từng chứng kiến nhiều thăng trầm của lịch sử, văn hóa xã hội của dân tộc và đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng qua số lượng lớn các di tích lịch sử văn hóa, lễ hội độc đáo nay trở thành nguồn tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị lớn. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Những truyền thống lịch sử văn hóa với những sắc thái văn hóa đặc sắc mà người dân Đồ Sơn xây dựng lên chính là tiềm năng phát triển nhiều loại hình du lịch văn hóa: du lịch tham quan, du lịch với mục đích tôn giáo tín ngưỡng, du lịch nghiên cứu học tập…. Nguồn tài nguyên du lịch nhân văn Đồ Sơn rất đa dạng và phong phú. Căn cứ vào các dạng tài nguyên du lịch nhân văn hiện có ở Đồ Sơn, ta có thể chia thành 3 dạng: Các di tích lịch sử văn hóa, di tích khảo cổ học và các lễ hội truyền thống.

Tất cả các di tích lịch sử văn hóa lễ hội trên đều có thể trở thành nguồn tài nguyên nhân văn vô cùng hấp dẫn khi mở rộng các loại hình du lịch dịch vụ tại các điểm di tích này.

Nguồn tài nguyên nhân văn trên của Đồ Sơn không chỉ đa dạng và phong phú mà ở mỗi điểm di tích, mỗi dạng tài nguyên lại chứa đựng trong đó những giá trị sâu sắc điển hình về lịch sử và văn hóa của vùng. Tháp Tường Long chính là dấu tích còn lại của một nền văn hóa tín ngưỡng, kiến trúc gắn liền với Phật Giáo một thời đã trở thành Quốc giáo của Đại Việt xưa. Bến Nghiêng, Bến K15, ngọn Hải Đăng Hòn Dấu là những nơi lưu giữ về một thời kỳ hào hùng của toàn dân, toàn quân ta trong công cuộc kháng chiến chống lại Thực dân, Đế quốc để dành lại độc lập, thống nhất đất nước.

Hơn nữa, các tài nguyên nhân văn này còn có 1 sức hấp dẫn đặc biệt. Đến tham quan du lịch tại các điểm di tích hoặc xem lễ hội ở Đồ Sơn, du khách không chỉ được thưởng thức cái hay cái đẹp, được tìm hiểu những giá trị lịch sử, văn hóa mà còn được nghe những truyền thuyết gắn liền với các di tích lễ hội đó. Là một vùng đất chứa đựng nhiều huyền thoại, nhiều truyền thuyết, Đồ Sơn càng trở nên hấp dẫn với du khách gần xa đến thăm quan, du lịch ở Đồ Sơn. Hơn nữa mỗi câu chuyện, mỗi huyền thoại đó không chỉ ly kỳ lý thú mà còn chứa đựng trong đó những bài học đạo lý, răn dạy con người cách đối nhân xử thế trong cuộc sống. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Đặc biệt mỗi hình tượng của thiên nhiên, núi rừng cũng gợi người dân Đồ Sơn những tưởng tượng để sáng tạo ra những hiện tượng kỳ thú và cũng gắn liền với những đạo lý làm người. Người dân Đồ Sơn đã hình tượng hóa dãy núi kéo dài ra biển như 9 con rồng cùng quay về với mẹ (đỉnh Mẫu Sơn) nhưng lại có một ngọn tách ra khỏi dãy núi đó (núi Độc) như thể có một con không nghe lời tách ra khỏi đàn nên có câu ca :

  • “Chín con theo mẹ dòng dòng
  • Một con út lại ra lòng bất nhân”.

Câu ca như muốn nhắn nhủ với con người cách sống sao cho có trước có sau, đoàn kết tương trợ lẫn nhau mới mong được yên ổn an bình.

Cho dù các truyền thuyết hay các câu chuyện đó có thực hay chỉ là những câu chuyện truyền miệng, những tưởng tượng của con người nhưng nó vẫn thể hiện được văn hóa đặc trưng của người dân miền biển ngày đêm đối mặt với sóng, gió….và nó vô cùng gần gũi với tâm linh, văn hóa tín ngưỡng và văn hóa ứng xử của người Việt Nam, người phương Đông. Nếu khai thác được thế mạnh này của các di tích thì du lịch Đồ Sơn sẽ có bước phát triển mới.

Hơn nữa, bản thân các di sản văn hóa hiện có khả năng phát triển du lịch ở Đồ Sơn thực sự là một nguồn tài nguyên nhân văn phục vụ cho định hướng lâu dài việc phát triển du lịch của quận. Bởi giá trị văn hóa là một yếu tố quan trọng và có đóng góp rất lớn vào phát triển du lịch. Do vậy cần phải có kế hoạch nghiên cứu thống kê và đánh giá một cách nghiêm túc, đầy đủ các nguồn tài nguyên nhân văn đó. Đồng thời tiến hành việc khai thác hoạt động du lịch tại các điểm di tích phải có quy hoạch và hợp lý mới đem lại hiệu quả tốt mà không ảnh hưởng xấu đến giá trị của tài nguyên nhân văn của du lịch Đồ Sơn.

2.2 Di tích lịch sử Tháp Tường Long. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

2.2.1 Lịch sử hình thành và những biến cố qua thời gian của Tháp Tường Long.

Tháp Tường Long hay còn gọi là tháp Đồ Sơn xây từ thời Lý Thánh Tông. Công trình kiến trúc Phật giáo này đuợc xây trên bãi đất rộng khoảng 2.000m2, thuộc địa phận phường Ngọc Xuyên, thị xã Đồ Sơn.

Để giải thích cho tên Tường Long mà xưa kia vua Lý Thánh Tông đã đặt khi cho xây dựng tháp thì theo sách “Đại Việt sử lược”, năm Mậu Tuất (1058) vua Lý Thánh Tông sau khi ngự giá qua biển Ba Lộ đã dừng chân ghé lại nơi đây xây tháp. Một năm sau (1059), vào một đêm thu trong trẻo, vua Lý Thánh Tông thấy rồng vàng hiện ra ở Trường Xuân bèn ban cho ngọn tháp cái tên Tường Long, nghĩa là “Thấy rồng vàng hiện lên” để ghi nhớ điềm lành. Lại có người cho rằng cửa biển Đồ Sơn là một trong những cái nôi tiếp nhận Phật giáo nên cho dựng tháp ở đây để thờ Phật. Khi xưa, có thể nơi đây còn là một đài quan sát nằm trong hệ thống “truyền đăng”. Mỗi khi có biến, các trạm quan sát ven biển liền đốt cỏ khô cho khói bay lên trời, truyền tín hiệu báo động về kinh thành.

Qua những di vật còn lại thì thấy rằng tháp Tường Long được xây cùng thời với tháp Bảo Thiên ở kinh thành Thăng Long nay là khu vực Nhà hát lớn Hà Nội. Theo “Đại Nam nhất thống chí”, tháp cũ Đồ Sơn cao 100 thước, dựng trên một khu đất rộng 1000m2, có 9 tầng, cửa mở ra hướng tây. Một thước ta dài 0,45m, như vậy tháp cao khoảng 450m, lại đặt trên ngọn núi cách mặt biển 100m nên ngọn tháp này thuộc loại cao nhất so với các tháp ở Việt Nam thời bấy giờ. Năm 1288 Tháp bị sét đánh đổ ngọn, năm 1322 sét lại đánh đổ 2 tầng trên. Năm 1426 giặc Minh phá tháp.

Tháp Tường Long nhiều lần được tu tạo và khôi phục trong triều Trần và triều Lê, nhưng đến năm Gia Long thứ III (1804), triều đình nhà Nguyễn đã cho phá tháp để lấy gạch xây thành trấn Hải Dương (theo Đại Nam Nhất Thống Chí Quốc Sử Quán triều Nguyễn). Điều này chứng tỏ tháp Tường Long xưa vô cùng qui mô, bề thế.

Song chính vì giá trị kiến trúc, hội họa, lịch sử của ngôi tháp mà nó được đời này truyền sang đời khác, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau đến với chúng ta ngày nay. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Nhờ những nhát xẻng, cuốc của bộ đội, dân quân Đồ Sơn thời chống Mỹ cứu nước đào giao thông hào, xây dựng trận địa pháo phòng không đã chạm vào nền tháp cổ làm bật tung lên những viên gạch quý lạ, trên một mặt có dòng chữ Hán in nổi trong một khung hình chữ nhật “Lý gia đệ tam đế, Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”. Dòng chữ ấy có nghĩa là thời trị vì của vua Lý Thánh Tông, có niên hiệu Long Thụy Thái Bình làm ra viên gạch này cũng có nghĩa là làm ra công trình này. Song cũng chính vì lẽ đó mà nền tháp bị xẻ đi, xẻ lại ngang dọc nhiều lần.

Vào những ngày sôi động chống Mỹ của năm 1972, Đinh Văn Kiền và Nguyễn Minh Thế, cán bộ của Bảo tàng Hải Phòng đã đến xã Vạn Sơn, thị xã Đồ Sơn sưu tầm những viên gạch vỡ, họa tiết trang trí của ngôi tháp, các mảnh vỡ của các mô hình tháp… Cuối tháng 2 năm 1978, Viện khảo cổ học kết hợp với Sở Văn hóa thông tin Hải Phòng tiến hành khai quật tháp Tường Long để tìm hiểu về kiến trúc thời Lý ở Hải Phòng.

Năm 1990 nhân dân thị xã Đồ Sơn vận động xây dựng am nhỏ để tưởng niệm và là nhà ở của vãi, nhà bếp, nhà vệ sinh…Tuy vậy các hạng mục công trình này không phù hợp với vai trò của di tích có tính lịch sử và nghệ thuật kiến trúc.

Đến năm 1998 tháp được khai quật lại với mục đích giữ chân móng tháp làm “bảo tàng ngoài trời”, chuẩn bị cho phỏng dựng lại ngôi tháp cổ này ở gần với chân móng ngôi tháp cũ. Nhờ hai cuộc khai quật nền tháp, đã cung cấp cho chúng ta những hiểu biết cơ bản về kiến trúc, về đề tài trang trí, chất liệu xây dựng của ngôi tháp… Hiện nay tháp Tường Long chỉ còn lại vết tích của một nền móng công trình kiến trúc, các công trình kiến trúc phụ chợ không còn.

Nếu như lần giở bản đồ phân bố mộ gạch 10 thế kỷ sau công nguyên ta sẽ thấy, suốt cả một vùng cửa biển rộng lớn từ Quảng Ninh, Hải Phòng kéo dài đến tận Thuận Thành Bắc Ninh – nơi đầu não của chính quyền đô hộ, có hàng ngàn ngôi mộ gạch của những kẻ xâm lược như một bức tường thành khóa chặt con đường ra biển của người Việt. Không có mối giao lưu biển cả, người Việt đã mất đi một phần sức mạnh to lớn của mình.

Có lẽ cha ông ta đã nhận rõ âm mưu gian hiểm đó của kẻ thù nên ngay sau khi giành lại được nền độc lập cho dân tộc, sau đêm trường nghìn năm thuộc Bắc, các ông vua triều Lý đã lập tức trở về ngay với biển: thương cảng Vân Đồn đã được mở, tháp cao đỏ rực dựng trên núi Rồng Đồ Sơn…như những ví dụ sống động cho ý tưởng lớn lao đó, đồng thời cũng có thể coi đó là một tuyên ngôn – nước Đại Việt từ đây đã có thêm sức mạnh của thế Rồng ra biển lớn. Vì lẽ đó, việc chúng ta dựng lại Tháp Tường Long chính là chúng ta đã làm sống lại lời tuyên ngôn, niềm tự hào của cha ông ta trong những ngày tưng bừng niềm vui độc lập hơn 1000 năm trước.

Tháp Tường Long cũng chính là một tuyên ngôn của thời đại mới, đồng thời cũng là một thông điệp của chúng ta gửi tới cha ông – cháu con đã, đang và mãi mãi gìn giữ truyền thống Đại Việt trên những tầm cao.

2.2.2 Dấu vết qua khảo tả di tích. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Hiện nay di tích tháp Tường Long, phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn đang tồn tại với tư cách là một di tích khảo cổ học. Dấu ấn vật chất hiện tồn tại là một nền móng tháp được làm lộ diện từ cuộc khai quật lần thứ 2 vào năm 1998. Trong khuôn khổ của hồ sơ di tích này, để thực hiện được việc khảo tả di tích, chúng tôi chủ yếu dựa vào kết quả của các cuộc khai quật khảo cổ và di vật đã được phát hiện tại tháp Tường Long.

Năm 1978, di tích tháp Tường Long lần đầu tiên được các nhà khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật chính thức nhằm nghiên cứu 1 cách toàn diện về ngọn tháp độc đáo này. Người phục trách khai quật là Tiến sỹ Trịnh Cao Tưởng (viện khảo cổ học) có sự phối hợp của Sở văn hoá Thông tin và Bảo tàng Hải Phòng. Tư liệu từ cuộc khai quật đã cho biết, vào những năm 60, trên đỉnh núi Mẫu Sơn, nơi tọa lạc của toà tháp cổ Tường Long, cư dân ở phường Ngọc Xuyên – quận Đồ Sơn thấy dấu tích của tháp vẫn còn rất rõ nét. Dân quanh vùng này đã lấy nhiều gạch đá từ dấu tích này về xây tường, nung vôi mà độ cao của tháp vẫn còn đến 5 – 6 m. Đến năm 1971 – 1972, vì mục đích quân sự, ngọn núi này đã mang tên điểm cao 91. Những dấu tích còn sót lại trên mặt đất tiếp tục được dọn dẹp, san phẳng để xây dựng đài quan sát của Sở chỉ huy tác chiến Bộ đội quận Đồ Sơn và Trung đoàn 50.

Kết quả của cuộc khai quật tháp Tường Long năm 1978, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một nền móng tháp xây theo kiểu giật 3 cấp, móng có hình vuông lòng rỗng. Cấp dưới cùng là cạnh rộng nhất có kích 7,96m, cấp giữa dài 7,36m. Cấp trên cùng có cạnh dài 6,92m. Ngoài ra nhiều di vật cũng đã được phát hiện như gạch xây tháp, bệ tường Adiđà bằng đá xanh, chân tảng hoa sen và các con giống đất nung mang hình dáng của các con vật thiêng như Rồng, Phượng, chim thần Kimnara… Sau đó 1 thời gian, hiện trường khai quật ra nền móng đã bị san lấp lại và đến năm 1990 thì dân xây một ngôi chùa ngay trên móng tháp cổ đó.

Hai mươi năm sau, năm 1998, Sở văn hoá thông tin Hải Phòng tiến hành cuộc khai quật lần thứ 2 di tích khảo cổ học tháp Tường Long. Mục đích của cuộc khai quật lần này, ngoài việc tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu còn phục vụ chương trình tham quan du lịch và kế hoạch phục dựng lại tháp Tường Long. Người phụ trách cuộc khai quật là ông Trịnh Minh Hiên và 1 cán bộ của Bảo tàng Hải Phòng, Đỗ Xuân Trung. Chính vì mục tiêu của cuộc khai quật lần 2 được đặt ra nên hiện trường còn giữ nguyên. Với nền móng tháp đã lộ diện và đang được bảo vệ bởi một mái lợp Prôximăng, 4 xung quanh có cột gỗ và hàng rào lưới B40 che chắn, bảo vệ. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Quan sát toàn cảnh nền móng tháp xưa tìm thấy năm 1998, 1 giao thông hào đào năm 1979 chạy cắt ngang móng tháp theo hướng Bắc – Nam. Việc đào hào giao thông này đã làm biến dạng phần lớn nền móng của tháp, đặc biệt là ở khu vực lòng tháp, làm khó thêm cho việc hình dung cấu trúc của móng. Theo báo cáo khai quật năm 1998, các nhà khảo cổ học đã phát hiện thấy một nền móng thứ hai chứ không phải là nền móng cũ do cuộc khai quật lần 1 tìm thấy. Điều này đã khiến cho các tác giả của năm 1998 nghĩ đến một quần thể tháp đã được xây dựng ở đây chứ không phải là chỉ có một tháp duy nhất. Nhận định này được đưa ra có thể là cơ sở, vì nền móng khai quật năm 1978 đã có một ngôi chùa toạ lạc bên trên rồi. Nền móng thứ hai nằm ở phía sau ngôi chùa một khoảng cách không xa lắm. Về cấu trúc móng của cuộc khai quật lần này cũng có hình vuông, lòng rỗng nhưng chỉ xây dật hai cấp. Cấp dưới có cạnh dài 7,95m, cấp trên có cạnh dài 7,45m. Về các kích thước này so với kích thước của móng 1978 thì không có sự chênh lệch lớn. Mặt khác, việc móng 1998 chỉ thấy có kiểu dật 2 cấp có thể là sự biến dạng do ảnh hưởng của hào giao thông đào cắt ngang qua móng tháp. Thành hào được xây chủ yếu bằng gạch lấy lên từ móng của tháp này có thể đã làm mất đi cấp trên cùng (tức cấp dật thứ 3).

Di vật đơn lẻ tìm thấy trong cuộc khai quật ngoài một nền móng được xây bằng gạch đất nung có kích thước 40 x 23 x 5cm; 56cm x 23,5 x 5cm còn có các loại ngói như ngói mũi hài, ngói lòng máng và một mảnh đất nung khắc hình rồng. Về số lượng hiện vật phát hiện tại cuộc khai quật lần 2 là không nhiều so với lần 1.

Như vậy tháp Tường Long đã trải qua hai lần khai quật, kết quả đã phát hiện thấy 2 nền móng cơ bản có sự giống nhau, chỉ khác về kích thước. Xét ở góc độ khảo cổ học, việc phát hiện thấy những nền móng của tháp cổ Tường Long có ý nghĩa rất to lớn. Trước hết đó là sự khẳng định nơi đây tháp Tường Long đã được xây dựng và tồn tại rồi đổ nát do thời gian, thiên tai dịch họa. Ở các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau như kiến trúc tôn giáo đạo phật, lịch sử mỹ thuật, nghệ thuật tạo hình, di vật – di tích ở Tường Long được biết đến như một trung tâm lớn ở thế kỷ 11 – 12, thời đại của vương triều Lý trị vì đất nước.

Như chúng ta đã biết, Tháp Tường Long chỉ còn lại một phế tích đổ nát. Nhưng không phải là là nó không để lại cho hôm nay những dấu vết minh chứng cho sự hiện diện của nó trong quá khứ. Dưới đây là những dấu vết rất cần cho công cuộc tái hiện lại bức chân dung đã mất của nó.

  • Sân Tháp. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Sân tháp là một mặt bằng hình vuông mỗi cạnh dài 4m. Đây là một sân đất nện bằng đất đồi laterit trộn với sỏi nhỏ được bó vỉa rất cẩn thận: bên ngoài kè đá hộc, bên trong có lát vỉa gạch. Dấu vết gạch lát sàn còn để lại rất rõ ở phần phía Đông rộng khoảng 2m.

  • Móng Tháp

Cuộc khai quật năm 1978 đã làm lộ rõ hoàn toàn phần móng dưới nền tháp. Móng tháp có 3 tầng hình vuông, rỗng lòng, xây dật cấp chồng lên nhau. Tầng dưới cùng mỗi cạnh dài 7,86m, tầng thứ hai 7,36m, tầng trên cùng 6,92m. Như vậy, mỗi vạt tường xây hẹp vào từ 0,5 – 0,56m. Bên trong 4 vạt tường là lòng tháp hình vuông, mỗi cạnh là 2,9m. Bề mặt của móng tháp không bằng phẳng mà uốn cong ở bốn góc kiểu đao đình. Sở dĩ các nhà khảo cổ đã xác định đây là móng tháp bởi toàn bộ đều nằm dưới nền sân tháp và không thấy có mặt một viên gạch trang trí nào.

  • Vật liệu xây dựng

Căn cứ vào kỹ thuật xây dựng các tháp đất nung của cả Việt Nam và Trung Quốc các nhà khảo cổ phân gạch thành 2 loại. Loại 1 là gạch lòng tháp, loại 2 là gạch trang trí mặt ngoài tháp. Có nghĩa là thoạt đầu người ta xây một cái cốt hoàn toàn bằng gạch chỉ sau đó mới ốp gạch trang trí bên ngoài.

Loại 1 chia làm hai phụ loại :

A_Gạch góc có kích thước 40 x 24 x 23 x 5cm. Loại gạch này có một mặt phẳng, một mặt hơi nhô lên ở một góc để tạo thành đường cong nơi góc tháp.

B_Gạch hình chữ nhật, cả hai mặt đều phẳng. Có khoảng 5 viên kích thước 56 x 23 x 5cm và 28 x 20 x 5cm còn tuyệt đại đa số có kích thước 40 x 28 x 5cm. Ngoại trừ những viên biệt lệ, tất cả các viên khác trên một mặt đều có một khung hình chữ nhật lõm xuống kích thước 15 x 3cm. Trong khung này còn có in nối hai hàng chữ Hán: “Lý gia đệ tam đế Long thụy Thái bình tứ niên tạo” nghĩa là: Gạch làm vào triều vua Lý thứ 3, niên hiệu Long thụy Thái bình năm thứ tư – Đời vua Lý Thánh Tông 1057.

Loại 2. Gạch trang trí mặt ngoài tháp có 3 viên, nói một cách chính xác hơn là mảnh của 3 viên. Loại gạch này thực chất là những mảng phù điêu ốp ở mặt ngoài giữa hai tầng tháp. Mặt phía ngoài của những viên gạch này có trang trí hoa chanh, hoa dây đắp nổi. Mặt bên trong có khắc chữ Hán ghi rõ vị trí viên gạch trên cây tháp. Ví dụ “Đệ tứ tầng đệ tam” (tầng thứ 4 hàng thứ 3)….Viên gạch ở tầng cao nhất còn sót lại ở tầng thứ 4. Rất tiếc không còn viên nào nguyên vẹn để thấy kích thước và các đồ án trang trí một cách đầy đủ. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Ngoài vật liệu xây tháp cuộc khai quật còn tìm thấy một số di vật khác có liên quan đến cấu trúc và bài trí trong tháp.

  • Hai chiếc cối cửa băng đá – một chiếc phát hiện trước khai quật và một chiếc phát hiện ngay ở cạnh phía Nam của tháp. Phát hiện này có một ý nghĩa rất quan trọng, nó khẳng định tháp chỉ có một cửa, cửa này quay về hướng Nam. Cửa có thể có cánh bằng gỗ và trọng lượng không phải là nhẹ.
  • Cuộc khai thác năm 1978 cũng đã phát hiện thêm tầng đáy của chiếc bệ sen nổi tiếng đã tìm thấy trong lớp gạch phế tích tháp trước đây. Trên nền, lòng tháp còn thấy một phần của bệ tượng bát giác bằng đá chạm rất công phu và được làm từ một khối đá xanh lớn
  • Cùng với tầng đáy của bệ là một phần của một pho tượng đá được đoán định là tượng Adiđà – cùng phong cách với pho tượng đá chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Chắc chúng ta đều nhớ, cũng vào thời vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng trên núi Lạn Kha – ta quen gọi là chùa Phật Tích, một tháp gạch. Tượng mất đầu, bụng, chỉ còn lại cổ và một mảng ngực. Pho tượng này có quy mô không nhỏ, vai tượng rộng 0,80m, một mảng thân còn lại cao 0,50m. tượng để lộ một chiếc cổ tròn trặn với ba ngấn rõ rệt. Mình phủ một lượt áo mỏng có nhiều nếp vắt ra sau lưng.

Người ta cũng đã phát hiện rất nhiều gạch xây tháp với những dòng chữ đề ghi niên đại giống như gạch xây Tháp Tường Long và pho tượng Adiđà ngồi trên bệ sen nổi tiếng nhất trong các di sản nghệ thuật Phật giáo nước nhà.

Việc phát hiện ra chiếc bệ và một phần của pho tượng ở khu vực lòng tháp đã cho biết bên trong lòng tháp có một bệ đá hoa sen, trên bệ có đặt tượng đá Adiđà.

Tổng hợp nguồn tư liệu khảo cổ có được, các nhà khoa học đã đưa ra một phác thảo chân dung Tháp Tường Long: Đúng như đã được ghi trong thư tịch, năm 1057 vua Lý Nhân Tông đã cho xây trên đỉnh núi tháp một cụm kiến trúc Phật giáo bao gồm một ngôi chùa và một ngọn bảo tháp đã được đích thân nhà vua đặt tên là Tháp Tường Long. Những tư liêuh khảo cổ học còn lại cho ta nhận diện được nền móng chùa tháp, một số vật liệu xây tháp, chắc chắn tháp có một cửa mở về hướng Nam – cửa này là cửa của khám thờ, có cánh có thể mở được với các cối cửa làm bằng đá khá lớn. Trong lòng tháp có một bệ đá hoa sen, trên bệ có đặt tượng Phật Adiđà.

Phải thú nhận rằng, nguồn tư liệu khảo cổ học trên núi tháp như vậy còn khá khiêm tốn hay nói một cách khác là chưa đủ cho phép có thể dựng lại một bức chân dung xác thực của Tháp Tường Long.

Những thông tin quan trọng nhất mà các kiến trúc sư còn rất cần được cung cấp mà các nhà khảo cổ không thể có là: Chiều cao của tháp, số tầng tháp và độ cao của mỗi tầng? Gạch trang trí của mỗi tầng tháp?

2.3 Nội dung dự án phục dựng tôn tạo và quy hoạch cảnh quan quần thể di tích Tháp Tường Long. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

2.3.1 Địa điểm phân bố, đường đi đến di tích.

Là một di tích được xây dựng từ thời Lý nên Tháp Tường Long ở Đồ Sơn cũng mang những nét riêng về sự phân bố (tức vị trí địa lý) trong nền cảnh của kiến trúc Phật giáo Việt Nam xuất hiện ở thế kỷ XI, XII. Các nhà nghiên cứu về chùa, tháp thời Lý đã tổng kết một trong những đặc điểm cơ bản nhất là ở những nơi núi cao cảnh đẹp, các nhà vua, hoàng hậu thường bỏ tiền xây dựng tháp, chùa thờ Phật. Các chùa, tháp này ngoài chức năng tôn giáo nó còn là một hành cung, nơi nghỉ ngơi của các vua chúa, quan đại thần trong những chuyến tuần du mọi miền đất nước. Điều này hoàn toàn phù hợp với vi trí địa lý và sự phân bố của Tháp Tường Long – Đồ Sơn.

Vị trí của di tích khảo cổ học tháp Tường Long hiện nay nằm tại địa bàn phường Ngọc Xuyên, của Quận Đồ Sơn. Là một khu du lịch và nghỉ mát nổi tiếng ở Hải Phòng và khu vực miền Bắc Việt Nam nên đường giao thông đến Đồ Sơn đang được nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho du khách tới tham quan. Từ Bưu điện thành phố với các loại phương tiện giao thông đi theo đường Lạch Tray rồi vượt qua cầu Rào ở cửa ô phía Nam thành phố vào đường 14 đi chừng 20 km là đến trụ sở UBND Quận Đồ Sơn, rẽ tay phải vào đường phố Phạm Ngọc đi chừng 1km là đến chân núi Rồng (hay còn gọi là núi Tháp). Theo các bậc đá men cao dần lên sườn núi là đường duy nhất dẫn thẳng lên khu di tích tháp Tường Long.

Tháp Tường Long được xây dựng trên đỉnh cao nhất của ngọn Long Sơn, một trong số 9 ngọn núi trong hệ thống núi đåi của Đồ Sơn. Cư dân Đồ Sơn đã hình tượng hoá dãy núi này thành 9 con Rồng với 9 đỉnh núi như: Tiên Sơn, Mẫu Sơn, Linh Sơn….Từ trên đỉnh Long Sơn có thể quan sát thấy non nước Đồ Sơn với 3 mặt giáp điện vẫn là Stupa nhiều tầng. Tuy nhiên do lâu ngày thuật ngữ Stupa đã biến âm theo Tiếng Việt từ Stupa thành chu – a là chùa.

Theo lịch sử Phật giáo Việt Nam, ở thời vương triều Lý thế kỷ XI, XII đạo Phật phát triển rất mạnh và chính thức được tôn thành Quốc giáo. Một trong những bằng chứng minh chứng cho sự phát triển này, ngoài những ghi chép trên sử cũ, là những chùa – tháp được xây dựng ở nhiều nơi, đặc biệt là những nơi có núi cao, hệ tư tưởng chính thống, để tập hợp lực lượng toàn dân nên việc dựng chùa – Tháp thờ phật trên địa bàn cai trị của mình tồn tại như một điều hiển nhiên. Nhất là khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, các vua Lý đã cho dựng khá nhiều chùa ở đây như: Hưng Phúc, Diên Hựu (Chùa Một Cột), Sùng Khánh, Báo Thiên,….ở các tỉnh như Bắc Ninh (quê hương của nhà Lý), Thanh Hoá, Quảng Ninh dọc theo đường biển về Hải Phòng, trên các quả đồi có vị trí gần sông, một vài kiến trúc chùa – tháp cũng được Vương chiều Lý xây dựng. Trong số gia tài ít ỏi mà vương triều Lý để lại thì tháp Tường Long ở Đồ Sơn, Hải Phòng nổi lên như một điểm nhấn với tư cách là một đại danh lam tiêu biểu cho lịch sử nghệ thuật tạo hình của dân tộc. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Lịch sử của tháp Tường Long luôn gắn liền với lịch sử kiến trúc nghệ thuật thời Lý, đặc biệt là các công trình kiến trúc về tôn giáo đạo Phật. Căn cứ kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học: nhiều tầng (tức Bảo Tháp) làm trung tâm, xung quanh là các hành lang dùng làm nơi chạy đàn niệm Phật và trai phòng. Hay nói cách khác tháp và phật điện thời kỳ này là đồng nhất, đã có tháp thì hầu như không có phật điện nào khác. Một điểm đáng chú ý nữa về chùa – Tháp thời Lý, số tượng phật trên phật điện là cực ít và gần như duy nhất chỉ thấy thờ Phật Thích Ca và một vài vị Bồ Tát. Ra đời trong bối cảnh như vậy Tháp Tường Long – Đồ Sơn – Hải Phòng là một thực tế lịch sử cho phép chúng ta hiểu rõ thêm về một loại hình kiến trúc của tôn giáo đạo Phật có nguồn gốc từ thời Lý thế kỷ XI, XII. Ghi chép đầu tiên của sử sách nước ta về tháp Tường Long thuộc về bộ “ Việt Sử Lược” biên soạn vào thời Trần thế kỷ 13. Sách này đã ghi lại một vài nét khái lược như: Tháp được xây dựng vào năm 1058 thời Lý (1010 – 1225) đời vua Lý Thánh Tông, niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình (1054 – 1058). Năm sau 1059 thì đặt tên tháp là “Tường Long”. Bẵng đi một thời gian dài, mãi đến thời Nguyễn (1802 – 1945) mới thấy sách “Đại Nam nhất thống chí” ở mục “Cổ tích” có thêm đôi dòng về ngọn tháp này “Tháp cũ Đồ Sơn ở Quận Đồ Sơn” huyện Nghi Dương cao hơn trước thước.

Trong quá trình sưu tầm tư liệu để xây dựng hồ sơ khoa học này cũng đã thấy một vài tư liệu ghi chép về tháp Tường Long, song không thấy ghi xuất xứ của tư liệu. Đặc biệt là bài “Tháp Tường Long, ngọn tháp độc đáo” của tác giả – kiến trúc sư Ngô Huy Giao đăng trên tạp chí Nguyên cứu lịch sử Hải Phòng số 1 năm 1985, trang 64. Sách này viết “Tháp có 12 tầng. Năm 1288 bị sét đánh đổ ngọn. Năm 1322 lại bị sét đánh sạt 2 tầng trên. Năm 1426, giặc Minh phá tháp lấy đồng làm vũ khí. Năm 1791 triều đình Lê phá tháp lấy gạch tu bổ thành Thăng Long. Năm 1805 thời Nguyễn, đời vua Gia Long thứ 3 tiếp tục phá tháp lấy gạch xây thành ở Trấn Hải Dương….

Ngoài thông tin từ các nguồn sử liệu, nhiều sáng tác văn học của người đời sau cũng đã cho biết thêm về sự tàn lụi của tháp Tường Long. Trong đó phải kể đến bài thơ “Tháp Sơn hoài cổ” của Hương cống thời Hậu Lê, Miễn trai Hoàng Văn Hoàn hiệu là Hiếu Tử, người Đồ Sơn:

  • “Tháp cổ xưa kia cỏ mọc đầy
  • Dục vương đi khỏi cảnh hoang ngay
  • Nghìn cân chuông phật vang sông nước
  • Chín đợt tháp cao hoá bụi bay” Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Như vậy, tư liệu ghi chép về tháp Tường Long là không nhiều nhưng cũng đã phần nào giúp chúng ta hình dung một cách khái lược về thời gian xây dựng, quá trình tồn tại và sự xụp đổ của tháp. Chẳng hạn như đến năm 1322 thời Trần tháp bị sét đánh sạt 2 tầng trên – ở thời điểm này tháp đã có thời gian tồn tại tới năm – một quãng thời gian không phải là ngắn ngủi. Tuy nhiên theo các nhà khoa học, tháp Tường Long sau một thời gian tồn tại đã chỉ phát huy tác dụng trong thời đại của vương triều sản sinh ra nó. Khi nhà Trần lên ngi thì tháp Tường Long đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. Việc bị thiên tai, dịch hoạ rồi rơi vào cảnh đổ nát của tháp Tường Long, xét ở khía cạnh lịch sử kiến trúc Phật giáo ở Việt Nam là điều phù hợp với thực tiễn lúc bấy giờ.

2.3.2 Các hướng nghiên cứu chính trong việc phỏng dựng Tháp Tường Long.

Trong cuộc hội thảo khoa học năm 1997 về các hướng nghiên cứu chính trong việc phỏng dựng Tháp Tường Long xuất hiện hai luồng ý kiến khác nhau theo các xu hướng như sau:

1, Theo ý kiến của TS Trịnh Cao Tưởng căn cứ trên kết quả khai quật năm 1978.

  • Mặt bằng tổng thể: Phía Bắc Tháp Tường Long có một ngôi chùa vết tích còn lại là đá bó vỉa nền, ngói mũi hài, tượng thú (thời Lý).
  • Sân tháp: Hình vuông (4×4)m.
  • Móng tháp: Ba tầng hình vuông, rỗng lòng, xây dật cấp chồng lên nhau với kích thước như sau:
  • Bề mặt của móng tháp không bằng phẳng mà uốn cong ở 4 gốc kiểu đao đình.
  • Vật liệu: Có hai loại là gạch xây lòng thấp và gạch trang trí mặt ngoài.
  • Ngoài ra còn tìm thấy một số chi tiết đá như cối cửa, bệ tượng….
  • Việc phát hiện chiếc bệ tượng và một phần của pho tượng cho biết trong lòng tháp có một bệ đá hoa sen, trên bệ là tượng đá Adiđà.
  • Phần suy luận: Có 3 vấn đề còn chưa biết là chiều cao tháp, số tầng tháp và độ cao mỗi tầng; gạch tranh trí của mỗi tầng tháp. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Theo TS Trịnh Cao Tưởng thì có thể tham khảo nhiều ở Tháp Bình Sơn vì kiến trúc tháp Phật giáo hai đời Lý Trần là tương đối giống nhau. Có khác chăng là ở chi tiết trang trí – điều này có thể khắc phục được ở những mẩu gạch ốp đã thu thập được.

Về chiều cao tháp: Khoảng 18 – 20m dựa trên hai luận cứ:

Một là: Chiều cao tháp cổ còn lại trên đất nước ta không có tháp nào vượt quá 20m. Theo L. Bezacier chiều cao tháp thường gấp 2,5 lần chiều dài cạnh đáy. Vậy chiều cao Tháp Tường Long: h = 2,5 x 7,36m = 18,4m. Đây là con số có tính thuyết phục.

Hai là: Về số tầng của Tháp thì theo nguyên lý tháp Phật, có thể là 13 tầng, 11 tầng, 9 tầng, 4 tầng….đồng thời căn cứ vào bài thơ “Đồ Sơn bát vịnh” của nhà thơ Hoàng Miễu Trai.

  • “Nghìn cân chuông phật vang sông réo
  • Chín đột tháp cao hóa bụi bay”

Thì có thể cho rằng tháp có 9 tầng (cũng là phù hợp với nguyên lý).

Về chiều cao của các tầng: nên tham khảo từ các số đo của Tháp Bình Sơn (số liệu của L. Bezaciier)

2, Theo ý kiến của giáo sư Nguyễn Duy Hinh:

  • Khẳng định Tháp Tường Long có 9 tầng, 1 đế, 1 khám thờ và 1 chóp. (Tương đương tháp Long – Ấn Độ) có thể tham khảo các tháp 9 tầng khác như tháp Cửu Phẩm Liên Hoa, tháp trước chùa Liên Phái, tháp nhỏ bằng đá trước cổng chuà Hòe Nhai.
  • Chiều cao tháp: Đại Nam Nhất Thống Chí ghi là 100 xích, tương đương 33m tham khảo Tháp Bình Sơn: Tháp gần như thẳng đứng, mỗi cạnh mỗi tầng lên cao chỉ thu dật cấp vào mỗi bên từ 0,03 đến 0,07m. Dáng tháp Phổ Minh cũng tương tự.

Còn chiều cao các tầng từ tầng 1 đến tầng 10 các tầng thấp dần 0,4 – 0,04 – 0,18 – 0,05 – 0,05 – 0,10 – 0,00 – 0,15 – 0,05m. Trung bình thấp dần khoảng 10 – 15cm. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Chiều cao của đế tháp còn bao gồm cả khám và chóp. Đế Tháp Tường Long cao khoảng 1m. Khám thờ phụ thuộc vào chiều cao pho tượng đặt bên trong. Bệ tượng Tháp Tường Long hình lục giác, chiều rộng mặt bệ khoảng 1,5m. Có thể dùng bệ và tượng Adiđà chùa Phật Tích để tham khảo có thể suy ra tượng ở Tháp Tường Long cao khoảng 11,8m khám thờ khoảng 2,5m đến 3,5m.

Nếu ai cho mỗi tầng thấp dần 0,15cm thì 9 tầng lần lượt cao khoảng 3,50 – 3,35 – 3,20 – 3,05 – 2,90 – 2,75 – 2,60 – 2,45 – 2,30 – 2,15m. Bên trên là mui luyện và chóp khoảng 2m nữa. Như vậy toàn bộ tháp cao khoảng 3m tương ứng với con số 100 xích của Đại Nam Nhất Thống Chí.

Giáo sư Nguyễn Duy Hinh cũng cho rằng “Đây là ngôi tháp thờ thời Lý duy nhất và cũng là duy nhất trong toàn bộ tháp thờ ở nước ta nằm trên đồi cao ven biển nên cảnh quan vô cùng thanh cao, vừa thỏa mãn thú đăng cao, vừa đưa tầm mắt ra biển cả mênh mông, vừa ngoái nhìn đồng bằng lượn lờ. Thật nên thơ, thu hút khách tham quan thanh lịch bốn phương.

Tất nhiên ở đây chỉ về cây tháp, thực tế còn phải nhiều kiến trúc nữa. Tất cả tạo thành một tổng thể hài hòa mới đạt yêu cầu”

2.3.3 Những nguyên tắc chủ đạo trong việc phục dựng tôn tạo quần thể di tích Tháp Chùa Tường Long.

1, Trong dự án này không thể áp dụng các nguyên lý phục hồi một cách chặt chẽ vì đó là việc không thể làm được.

Chúng ta không thể dựa vào những mảnh nhỏ rời rạc ghép nối lại rồi dùng những “suy luận logic” để xây dựng nên bức tranh hoàn chỉnh. (Ngay cả để giảm nhẹ ý nghĩa phục hồi nguyên gốc, ta dùng chữ “Phục dựng” để tránh một phần sự ràng buộc chặt chẽ của khái niệm “phục hồi” cũng đều là không thỏa đáng).

2, Vì vậy phải xác định tiêu chí việc làm của chúng ta là nhằm ghi nhận một di sản văn hóa trong đó phản ánh được không gian, thời gian, tín ngưỡng, nghệ thuật, công nghệ xây dựng của một thời đại. Có thể coi đó như là một tượng đài chân dung của quá khứ không có hình mẫu chuẩn.

Ở nước ngoài cũng có trường hợp tương tự. Thí dụ:

Hoàng Hạc Lâu (Trung Quốc) là một di tích rất nổi tiếng nhờ bài thơ của Thôi Hiệu (? – 754). Hoàng Hạc Lâu đã sụp đổ từ lâu nhưng cái hiện nay là công trình phỏng dựng bằng bê tông hồi nửa thế kỷ XX thời Dân Quốc. Dù vậy, nó vẫn được người trong và ngoài nước mến mộ, tham quan. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Thí dụ thứ hai là thư viện Alexandrie. Alexandrie ở Ai Cập đã bị tàn phá không còn vết tích từ đầu công nguyên. Hiện nay người ta xây dựng ở đây một thư viện Alexandrie mới, hoàn toàn hiện đại song phong cách kiến trúc mang ý tưởng của một đài kỷ niệm về một kỳ quan của nhân loại trong quá khứ.

3, Vả lại, nếu có những sai lệch khó tránh so với bản gốc thì đó cũng nằm trong tình trạng chung của di tích Việt Nam qua các thời đại: bị thay đổi diện mạo sau mỗi lần trùng tu, phục dựng. Kết cục là trong một di tích có thể mang nhiều yếu tố khác nhau của nhiều thời đại. Song điều quan trọng là chúng vẫn rất ăn nhập với nhau tạo thành một thể thống nhất (trong một công trình hay tổng thể công trình).

Với quan điểm như vậy, chúng ta sử dụng thuật ngữ “phỏng dựng” là hợp lý hơn cả.

4, Vì là phỏng dựng nên không được phép đặt trên nền di tích cũ, và cũng không nên mang tên là “Tháp Tường Long” – Chùa Vân Bản”.

5, Đặt tháp và chùa phỏng dựng trong cùng một tổng thể, khai thác, phong cách kiến trúc Phật giáo thời Lý – Trần (thể hiện trong vật liệu, trang trí, cấu trúc và quy hoạch).

6, Cứ liệu chính làm cơ sở phỏng dựng là :

  • Hiện trạng.
  • Các nguồn tư liệu
  • Tham khảo các tháp thời Trần còn lại như Phổ Minh, Bình Sơn và ngay cả các tháp nung thu nhỏ đương thời.
  • Tham khảo mặt bằng các ngôi chùa thời Lý – Trần như Phật Tích, Sùng Nghiêm Diện Khánh, Chùa Lấm (trên đảo Thừa Cống vịnh Bái Tử Long)…..kiến trúc gỗ thời Trần còn sót lại như tòa thượng điện còn khá nguyên vẹn của Chùa Bối Khê (Thanh Oai – Hà Tây).

2.3.4 Dự kiến phỏng dựng Tháp Tường Long. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Gồm hai phương án:

Phương án 1: Lấy luận cứ của Tiến sĩ Trịnh Cao Tưởng (và nhiều người khác) làm phương án chủ đạo cho thiết kế theo đó:

  • Chiều cao tháp: 18,4m
  • Số tầng: 9 tầng
  • Kỹ, mĩ thuật: Mô phỏng Tháp Bình Sơn

Phương án 2: Lấy cơ sở lý luận của giáo sư Nguyễn Duy Hinh làm phương hướng chủ đạo cho thiết kế. Cụ thể:

  • Chiều cao: 31m
  • Số tầng: 12 tầng
  • Kỹ, mĩ thuật: Mô phỏng Tháp Bình Sơn

Phương án chọn:

Theo phương hướng lý luận của Giáo sư Nguyễn Duy Hinh vì những lý do sau đây:

  • Công thức chiều cao tháp bằng 2,5 lần cạnh đáy của L. Bezacier chỉ là một giả thuyết mà số đối tượng đưa ra để phân tích theo xác suất là quá ít nên không đủ độ tin cậy.
  • Lấy chiều cao tháp là 31m ngoài các lập luận của giáo sư Nguyễn Duy Hinh còn vì những lý do sau: Năm 1288 bị sét đánh đổ ngọn (lần 1)
  • Năm 1322 bị sét đánh sụt 2 tầng (lần 2)
  • Năm 1426 giặc Minh phá tháp lấy đồng
  • Năm 1791 nhà Lê phá tháp lấy gạch

Năm 1805 nhà Nguyễn tiếp tục phá

Những thời đại tiếp theo sau còn bị phá rỡ tiếp Vậy mà đến những năm 60 của thế kỷ XX phần tháp còn lại vẫn còn 5 – 6 met. Điều đó nói nên: Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

Khối lượng xây của tháp là rất lớn có như vậy người ta mới bỏ công trèo lên núi cao phá tháp lấy đồng, rỡ gạch mang về tận Thăng Long để xây thành.

Qua ngót 1000 năm, bị sét đánh đổ 2 lần, con người đập phá nhiều lần vậy mà đến những năm 60 phần còn lại vẫn là 5 – 6m (Gần bằng 1/3 của chiều cao 18,4m) sẽ là vô lý nếu chiều cao của tháp chỉ có 18,4m.

Dù rằng sử sách ghi sơ lược, đơn vị đo lường không thống nhất song dù sao “Đại Nam Nhất Thống Chí” ghi tháp cao 100 xích (tương đương 31m) vẫn là bằng chứng “Giấy trắng mực đen”.

Lập luận cho rằng tháp xây trên núi cao ở vùng gió bão nên chiều cao phải hạn chế (ở khoảng 18 – 20m là vừa) cũng là không chắc chắn bởi vì tháp tuy có khối lượng lớn song diện hứng gió không nhiều.

Ngoài ra lập luận Tháp Tương Long không thể cao cũng có yếu tố tâm lý cho rằng trình độ người xưa về kỹ thuật xây dựng thấp hơn nhiều so với ngày nay. Cứ lấy ta mà suy ra và nếu suy nghĩ như vậy thì ta không thể nào giải thích được sự ra đời của những tháp Chăm, đền Ăngco…

  • Điều cuối cùng: ở trên núi cao, để phát huy ưu thế của vị trí, tháp phải cao thì mới tương xứng với tương quan tỉ lệ của không gian lớn.
  • Nếu lấy chiều cao tháp là 31m các nhà khoa học kiến nghị lấy số tầng là vì:
  • Phù hợp với qui cách của tháp Báo Thiên – người anh em sinh đôi – đã được sử sách ghi nhận (Đại Việt sử kí tòan thư).
  • Hợp với độ mảnh của tháp. Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Giải pháp du lịch văn hóa di tích tháp tường Long

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng du lịch văn hóa di tích tháp tường Long […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993