Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng

Rate this post

Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng với mục đích khai thác triệt để lý luận, thực tiễn, các số liệu cần tính toán và các bản vẽ. Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính trong việc huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất. Tuy nhiên Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động, vừa có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường và qua đó, thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình. Dưới đây là Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Hải Phòng, mời bạn tham khảo!

2.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh Hải Phòng

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển

Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Hải Phòng là một trong những chi nhánh loại I của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam. Thực hiện Nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) về chuyển hoạt động Ngân hàng sang kinh doanh và Quyết định 31 của Tổng giám đốc (nay là Thống đốc) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại Quốc doanh, ngày 01/06/1988, Chi nhánh Ngân hàng Công thương thành phố Hải Phòng được thành lập và đi vào hoạt động. Giai đoạn đầu, Ngân hàng Công thương Hải Phòng gồm Hội sở Ngân hàng thành phố và 4 chi nhánh trực thuộc ở 3 quận nội thành và thị xã Đồ Sơn, với tổng số cán bộ công nhân viên là 586 người. Ở giai đoạn này, bộ máy của Ngân hàng Công thương được hình thành tách ra khỏi Ngân hàng Nhà nước, từ đó có điều kiện tách bạch được chức năng: quản lý và kinh doanh của Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước đi vào thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, Ngân hàng Công thương đi vào hỏa động kinh doanh.

Tháng 10/1990, Pháp lệnh Ngân hàng được công bố và bắt đầu có hiệu lực thi hành trong cả nước. Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập theo quyết định 402/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng – là 1 Ngân hàng thương mại đa năng, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ trong kinh doanh và tài chính…, các chi nhánh tỉnh, thành phố là chi nhánh cơ sở, thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ. Từ đó đến nay, mô hình tổ chức của bộ máy Ngân hàng Công thương Hải Phòng không ngừng được kiện toàn từ thành phố đến các chi nhánh trực thuộc. Từ 01/10/1994 theo quyết định của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam, chi nhánh Ngân hàng Công thương Hải Phòng đã thực hiện thí điểm mô hình Ngân hàng 2 cấp, gồm 5 chi nhánh trực thuộc thẳng Ngân hàng Công thương Việt Nam và được hạch toán kinh tế nội bộ.

Từ ngày 15/04/2008, Ngân hàng Công thương Việt Nam đổi tên thương hiệu từ INCOMBANK sang thương hiệu mới là VIETINBANK. Từ ngày 08/07/2008, Ngân hàng Công thương Việt Nam chính thức chuyển đổi thành Ngân hàng thương mại Cổ Phần Công thương Việt Nam. 24 năm xây dựng và trưởng thành, hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Hải Phòng đã tập trung sức mạnh tổng hợp, phát huy nội lực, vươn lên từ khó khăn không ngừng đổi mới và phát triển, khẳng định vị trí là một trong những Ngân hàng thương mại hàng đầu, thể hiện thế đi lên vững chắc và khả năng to lớn, góp phần thực hiện có kế hoạch chính sách tiền tệ – tín dụng Quốc gia, từng bước hạn chế và đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy sự hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, góp phần vào phát triển kinh tế của cả nước với 3 chương trình kinh tế lớn, công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế của Đảng, Nhà nước, góp phần tạo ra bước phát triển mới của kinh tế xã hội thành phố Cảng Hải Phòng.

2.1.2 Cơ cấu tổ chức ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng )

Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Hải Phòng được cơ cấu tổ chức như sau:

  • Ban Giám Đốc: Là người đứng đầu chịu trách nhiệm trước Pháp luật, Nhà nước về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mình, điều hành mọi hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Xây dựng định hướng hoạt động của đơn vị trên cơ sở định hướng hoạt động kinh doanh của ngành về mục tiêu và định hướng, từ đó giao cho các phòng chức năng tổ chức thực hiện.
  • Phòng tổ chức hành chính: Thực hiện công tác văn thư, hành chính quản trị, thực hiện công tác tuyên truyền, tiếp thị, lễ tân, tiếp khách, xây dựng đơn vị văn minh lịch sự, giúp Ban giám đốc quy hoạch cán bộ, sắp xếp bố trí cán bộ, thông báo các quyết định khen thưởng, kỷ luật, thực hiện các chính sách, chế độ đối với người lao động.
  • Phòng khách hàng doanh nghiệp: Là phòng trực tiếp giao dịch với khách hàng là doanh nghiệp về khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp.
  • Phòng khách hàng cá nhân: Là phòng trực tiếp giao dịch với khách hàng là cá nhân về khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho khách hàng cá nhân.
  • Phòng kế toán: Là phòng thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng; các nghiệp vụ và các công việc liên quan đến công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ tại Chi nhánh; Cung cấp các dịch vụ Ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch của Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thực hiện tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm ngân hàng.
  • Phòng quản lý rủi ro và nợ có vấn đề: Thực hiện tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của Chi nhánh; Quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị tín dụng. Thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Chịu trách nhiệm về quản lý và đề xuất xử lý các khoản nợ có vấn đề (bao gồm các khoản nợ: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nợ quá hạn, nợ xấu) tại các Phòng có cho vay; Quản lý, khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi các khoản nợ gốc và tiền lãi vay đối với các khoản nợ xấu theo chỉ đạo của Giám đốc Chi nhánh. Quản lý, theo dõi, đề xuất các biện pháp và phối hợp với các Phòng có liên quan thu hồi các khoản nợ đã được quản lý rủi ro.
  • Phòng tiền tệ, kho quỹ: Là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ứng và thu tiền cho các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu chi tiền mặt lớn.
  • Phòng thông tin, điện toán: Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại Chi nhánh. Bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của Chi nhánh.
  • Phòng tổng hợp: Là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của Chi nhánh.

2.1.3. Kết quả hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng trong những năm gần đây. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng )

Về công tác huy động vốn: Vốn là nguồn để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động và luôn chiếm một vị trí rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh, cũng như việc mở rộng quy mô hoạt động. Trong các loại nguồn vốn của Ngân hàng thì nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất do đó việc huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư vào sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng mở rộng và phát triển, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng tín dụng. Thành phố Hải Phòng đang phát triển không ngừng, đặc biệt là ngành du lịch, dịch vụ nên cần một lượng vốn lớn để đầu tư như xây dựng khách sạn, các trung tâm thương mại…. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu lớn đó, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng đã có những biện pháp và phương hướng hợp lý để huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế trong xã hội. Nhận thức được vấn đề này, tập thể cán bộ công nhân viên chức Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của ban Giám đốc Ngân hàng, đã nỗ lực hết mình, kết quả là nguồn vốn huy động của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng đều tăng qua các năm.

Trong tổng nguồn vốn huy động đó thì nguồn chủ yếu là từ tiền gửi có kì hạn. Chúng ta xem bảng số liệu và biểu đồ thể hiện tỷ trọng của lượng tiền gửi có kì hạn và không kì hạn trong tổng nguồn vốn huy động để thấy rõ hơn điều này:

Qua bảng số liệu 2.1 ta thấy tiền gửi có kì hạn là nguồn vốn huy động chủ yếu của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng. Lượng tiền gửi có kỳ hạn này tăng đều qua các năm, năm sau cao hơn năm trước, trong khi đó thì tiền gửi không kỳ hạn lại tăng không đều, không ổn định. Cụ thể, số tiền gửi có kỳ hạn năm 2010 là 73,9%, năm 2011 tăng lên 75,8%, năm 2012 giảm còn 74,5%, trong khi đó, tiền gửi năm 2010 là 26,1%, năm 2011 giảm còn 24,2%, năm 2012 tăng nhẹ đến 25,5%.

Tiền gửi không kỳ hạn tại Chi nhánh năm 2011 đạt 387 tỷ đồng, giảm 24 tỷ so với năm 2010, năm 2012 đạt 425 tỷ đồng, tăng 38 tỷ so với năm 2011. Có thể nói trong những năm qua, Ngân hàng vẫn chưa thu hút được nhiều khách hàng tới giao dịch thường xuyên và sử dụng tối đa các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp: chuyển tiền, thu chi qua tài khoản… Tiền gửi không kỳ hạn là nguồn vốn rẻ, có thể mang lại thu nhập cao, vì vậy Chi nhánh cần tăng cường đáp ứng tối đa các dịch vụ để tận thu được tối đa phí dịch vụ và sử dụng tối đa nguồn tiền gửi của khách hàng.

Tiền gửi có kỳ hạn tại Chi nhánh năm 2011 đạt 1211 tỷ, tăng 50 tỷ đồng so với năm 2010, năm 2012 đạt 1242 tỷ đồng, tăng 31 tỷ đồng so với năm 2011. Nhìn chung trong 3 năm qua, lượng tiền gửi có kỳ hạn của Ngân hàng tăng khá đều và ổn định, điều này có ảnh hưởng tốt tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng do thu hút được lượng vốn lớn và ổn định từ tiền gửi dân cư và các Tổ chức kinh tế, Ngân hàng chủ động hơn trong việc tăng trưởng dư nợ, tuy nhiên vẫn phải thận trọng trong việc thẩm định và tiến hành cho vay.

Tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn huy động được chiếm tỷ trọng rất lớn so với tổng nguồn tiền gửi huy động được song đang có chiều hướng giảm trong thời gian gần đây (năm 2011 chiếm 75,8%, năm 2012 chiếm 74,5% ). Đây là nguồn vốn rất lợi thế nó đóng vai trò là nguồn vốn khá ổn định, chi phí trả lãi thấp, kỳ hạn của nguồn vốn này xác định được nên có thể giúp ban lãnh đạo đưa ra quyết định về quy mô hoạt động tín dụng và sử dụng hiệu quả nguồn tiền gửi huy động được. Do đó, trong thời gian tới, Ngân hàng nên có nhiều chính sách để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn này hơn nữa.

Có thể nói trong những năm qua, tình hình tài chính gặp nhiều biến động, nền kinh tế suy thoái trong thời gian dài ảnh hưởng khá nhiều đến hoạt động kinh doanh cũng như đời sống của các đơn vị, các cá nhân. Do đó, công tác huy động vốn gặp nhiều khó khăn, nhất là trong tình hình có sự cạnh tranh quyết liệt về thị phần, đặc biệt là huy động vốn giữa các Ngân hàng trên địa bàn thành phố. Hiện nay, trên địa bàn Hải Phòng có hơn 80 chi nhánh các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng chính sách xã hội, Công ty tài chính, ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng )

Phòng giao dịch, Điểm giao dịch của Ngân hàng. Vậy nên, đạt được kết quả này có thể đánh giá là thành công của chi nhánh, góp phần vào ổn định lưu thông tiền tệ trên địa bàn, tạo lập được đủ nguồn vốn, đáp ứng mở rộng đầu tư cho các thành phần kinh tế trên địa bàn và tăng trưởng tín dụng.

Về công tác tín dụng: Hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ quan trọng, nó quyết định đến nguồn thu nhập của Ngân hàng. Làm tốt công tác tín dụng đồng nghĩa với việc Ngân hàng càng phát triển lớn mạnh. Để làm được điều này thì cán bộ tín dụng nói riêng và toàn thể cán bộ công nhân viên của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng nói chung phải am hiểu tình hình kinh tế xã hội, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn giỏi, tâm huyết và trách nhiệm. Đặc biệt là một khoản vay được coi là kết thúc có hiệu quả khi khách hàng vay trả hết nợ lãi, nợ gốc đúng hạn. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải được trang bị kiến thức nghiệp vụ, thông thạo nghiệp vụ cụ thể trong quá trình thẩm định, xử lý và thu hồi nợ.

Qua bảng 2.2 ta thấy, công tác tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng không đồng đều và có nhiều biến động. Năm 2011 dư nợ cho vay VNĐ có xu hướng giảm mạnh, năm 2011 là 1.510 tỷ đồng, giảm 552 tỷ đồng, tỷ trọng giảm từ 82,8% còn 75,8% trong tổng dư nợ. Sang năm 2012, dư nợ cho vay VND tiếp tục giảm xuống còn 1.159 tỷ đồng, giảm 351 tỷ đồng, song tỷ trọng lại tăng lên 79% trong tổng dư nợ. Ngược lại, dư nợ cho vay ngoại tệ có xu hướng tăng trong năm 2011, tăng 55 tỷ đồng so với năm 2010, tương đương tăng 7% tỷ trọng trong tổng dư nợ. Tuy nhiên, sang năm 2012, dư nợ cho vay ngoại tệ lại giảm mạnh xuống còn 308 tỷ, giảm 175 tỷ đồng so với năm 2011, tương đương giảm 3,2% tỷ trọng trong tổng dư nợ.

Dư nợ cho vay ngắn hạn và trung dài hạn khá đồng đều, dư nợ cho vay trung dài hạn cao hơn dư nợ cho vay ngắn hạn song khoảng cách không đáng kể, có xu hướng dần tiến tới trạng thái cân bằng.

Tình hình nợ quá hạn:

Nhìn vào bảng số liệu 2.3 và biểu đồ 1 ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ chiếm một phần không lớn. Tuy nhiên, nhìn vào sự tăng lên của tỷ lệ nợ quá hạn ta thấy chất lượng tín dụng của Ngân hàng vẫn chưa được cải thiện là bao.

Về chứng từ giao dịch:

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, doanh số mua và doanh số bán của Chi nhánh khá đồng đều và có xu hướng tăng qua các năm. Năm 2012 doanh số mua đạt 31,46 tỷ đồng, tăng 1,26 tỷ so với năm 2011. Doanh số bán năm 2012 đạt 32,6 tỷ, tăng 3,3 so với năm 2011. Chi trả kiều hối năm 2012 đạt 2,15 tỷ, tăng 0,2 so với năm 2011. Có thể nói tình hình kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh khá ổn định và có xu hướng tăng lên qua các năm, đó là dấu hiệu tốt trong tình hình kinh tế nhiều biến động hiện nay.

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

2.2 Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Hải Phòng.

2.2.1. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng )

Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng là Ngân hàng có địa bàn hoạt động với số lượng dân cư đông đúc và hoạt động kinh doanh phát triển nên có nhiều khách hàng đến gửi tiền, thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, tạo nguồn vốn lớn cho Ngân hàng và mang lại lợi nhuận cho khách hàng. Bên cạnh đó nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp, cá nhân ngày càng tăng đòi hỏi Ngân hàng phải tăng nguồn vốn. Để đạt được những mục tiêu về tăng trưởng nguồn vốn Ngân hàng Công thương chi nhánh Hải Phòng đã sử dụng nhiều hình thức huy động vốn khác nhau, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng về gửi và rút tiền. Đảm bảo giữ bí mật cho khách hàng về số dư tài khoản của khách hàng. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng đưa ra nhiều biện pháp nhằm thu hút lượng khách hàng mới và giữ lại nguồn khách hàng tiềm năng. Một trong những biện pháp đó là Ngân hàng đã đưa ra mức lãi suất và hình thức huy động hấp dẫn nhằm cạnh tranh với các Ngân hàng và các Tổ chức tín dụng khác trên địa bàn.

Lãi suất huy động: Qua bảng số liệu 2.2 cho thấy, tổng nguồn vốn huy động qua các năm đều tăng. Năm 2010 tổng nguồn vốn huy động được là 1572 tỷ đồng, sang năm 2011 nguồn vốn đạt 1598 tỷ đồng, tăng hơn so với 2010 là 26 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng 1,65%. Năm 2012 nguồn vốn huy động này đạt 1667 tỷ đồng, tăng 69 tỷ đồng so với năm 2011, tốc độ tăng 4,32%. Nhìn chung trong 3 năm qua thì nguồn vốn huy động của Ngân hàng tăng cao, song tốc độ còn thấp. Thực trạng công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng không chỉ biểu hiện qua các số liệu phản ánh tình hình tăng trưởng mà còn được thể hiện qua các số liệu phản ánh cơ cấu vốn huy động.

2.2.2 Cơ cấu nguồn vốn huy động

2.2.2.1 Cơ cấu huy động theo kỳ hạn

Qua bảng báo cáo 2.7, ta thấy nguồn vốn ngân hàng huy động được chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, nguồn vốn này có xu hướng tăng lên mỗi năm. Cụ thể, năm 2010, tiền gửi ngắn hạn của Chi nhánh đạt 937 tỷ đồng, chiếm 59,6% tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động. Sang năm 2011 đạt 1.019 tỷ đồng, chiếm 63,8% tỷ trọng trong tổng nguồn vốn, con số này tiếp tục tăng lên 1.090 tỷ đồng, chiếm 65,4% tỷ trọng trong tổng nguồn vốn vào năm 2012.

Tiền gửi trung dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn so với tiền gửi ngắn hạn và có xu hướng giảm qua những năm gần đây. Cụ thể, năm 2010 Chi nhánh huy động được 635 tỷ đồng, tương đương 40,4% tỷ trọng trong tổng nguồn vốn. Sang năm 2011, con số này giảm xuống còn 579 tỷ đồng, chiếm 36,2% tỷ trọng, con số này tiếp tục giảm xuống còn 577 tỷ đồng, đạt 34,6% tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động vào năm 2012. Đạt được kết quả như trên có thể lý giải bởi nhiều nguyên nhân:

Do tâm lý người dân muốn gửi ngắn hạn để đề phòng rủi ro khi có việc đột xuất có thể rút ra, nếu gửi dài hạn phải đợi đến đúng kỳ nhập lãi mới được rút, như các loại tiền gửi 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng và trên 36 tháng, nếu không thì sẽ bị tính theo lãi suất không kỳ hạn.

Do bản thân Ngân hàng cũng định hướng trong việc nâng cao tỷ trọng tiền gửi ngắn hạn trong tổng nguồn vốn, bởi đây là nguồn vốn có chi phí và tỷ lệ rủi ro thấp hơn tiền gửi trung dài hạn, có thể mang lại thu nhập cao cho Ngân hàng.

2.2.2.2 Cơ cấu theo thành phần

Dựa vào bảng số liệu ta thấy: Cơ cấu nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương chi nhánh Hải Phòng không ổn định và không đồng đều, nguồn vốn huy động từ dân cư (Khách hàng cá nhân) chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng. Năm 2011 tăng 124 tỷ đồng tương đương tăng 7,1% tỷ trọng trong tổng nguồn vốn so với năm 2010, năm 2012 tăng 245 tỷ đồng tương đương tăng 12,7% tỷ trọng trong tổng nguồn vốn so với năm 2011. Tiền gửi Doanh nghiệp giảm cả về tỷ trọng, số tuyệt đối và số tương đối. Năm 2011 giảm 133 tỷ đồng tương đương giảm 9% tỷ trọng trong tổng nguồn vốn so với năm 2010, năm 2012 tiếp tục giảm 133 tỷ đồng tương đương giảm 9,5% tỷ trọng trong tổng nguồn vốn so với năm 2011. Theo Báo cáo của Ngân hàng, nguyên nhân là do một số doanh nghiệp rút tiền để trả nợ giảm bớt dư nợ, rút tiền để thanh toán tiền hàng và chi phí; ngoài ra còn do sự cạnh tranh quyết liệt về thị phần, đặc biệt là huy động vốn giữa các Ngân hàng trên địa bàn. Hiện nay trên địa bàn Hải Phòng có hơn 80 chi nhánh các Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, Phòng giao dịch…

Tiền gửi Kho bạc Nhà nước là nguồn tiền gửi ko ổn định, phụ thuộc vào chính sách quản lý, điều hành của Kho bạc Nhà nước nên Ngân hàng Công thương chi nhánh Hải Phòng ko chủ động được. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng )

2.2.2.3 Cơ cấu theo bản tệ

Qua bảng số liệu ta thấy nguồn vốn huy động bằng nội là nguồn vốn huy động chủ yếu của Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hải Phòng. Lượng vốn nội tệ này đều tăng qua các năm, năm sau cao hơn năm trước. Trong khi đó lượng vốn ngoại tệ tăng không đều, tốc độ tăng không ổn định. Cụ thể:

  • Nguồn vốn huy động VNĐ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Chi nhánh Hải Phòng năm 2010 là 1.298 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 82,56% trong tổng nguồn vốn huy động. Sang năm 2011, con số đó tăng lên 1.320 tỷ đồng, tăng 22 tỷ đồng so với năm 2010, chiếm tỷ trọng 82,6%. Năm 2012, lượng vốn này lại tăng lên là 1.411 tỷ đồng, tăng 91 tỷ đồng so với năm 2011, chiếm tỷ trọng 84,64% trong tổng nguồn vốn huy động được năm
  • Nguồn vốn huy động ngoại tệ quy VNĐ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Chi nhánh Hải Phòng năm 2010 là 274 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 17,44% trong tổng nguồn vốn huy động. Sang năm 2011, lượng vốn ngoại tệ quy VND huy động được là 278 tỷ đồng, tăng 4 tỷ so với năm 2010, chiếm tỷ trọng 17,4%. Năm 2012, con số này còn là 256 tỷ đồng, giảm 22 tỷ đồng so với năm 2011, chiếm tỷ trọng 15,36% trong tổng nguồn vốn huy động năm

Lượng tiền gửi ngoại tệ chiếm tỷ trọng nhỏ, có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây là do tâm lý người dân nghĩ rằng gửi bằng nội tệ thì độ rủi ro thấp hơn, đỡ rườm rà trong việc quy đổi và tránh bị mất mát do sự chênh lệch về tỷ giá hối đoái. Hơn nữa, trong những năm gần đây, giá vàng tăng nên người dân có xu hướng tích trữ vàng hơn là tích trữ ngoại tệ. Vậy nên hầu hết lượng tiền gửi ngoại tệ tại Chi nhánh là của các doanh nghiệp có quan hệ thương mại với các doanh nghiệp nước ngoài để thuận tiện cho việc chi trả, mua bán hàng hóa.

2.2.3 Cân đối nguồn vốn và cho vay tại Ngân hàng ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng )

Ta thấy rằng tại Chi nhánh Hải Phòng, vào năm 2010, cứ 1,02 đồng dư nợ thì có sự đóng góp của 1 đồng vốn huy động; sang năm 2011, tỷ lệ này giảm xuống, cứ 0,98 đồng dư nợ thì có sự đóng góp của 1 đồng vốn huy động. Nhận xét qua 2 năm cho thấy, số dư nợ đã vượt qua số vốn huy động, như vậy nhu cầu sử dụng vốn cho sản xuất và tiêu dùng của các cá nhân và các doanh nghiệp tăng đáng kể và tình hình huy động vốn của Ngân hàng Công thương chi nhánh Hải Phòng chưa đủ mạnh nên phải sử dụng vốn điều chuyển từ hội sở, mà thường thì lãi suất điều chuyển sẽ cao hơn lãi suất huy động vốn từ nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khả năng huy động vốn từ dân cư của Ngân hàng còn thấp.

Xét đến năm 2012, tổng dư nợ/tổng vốn huy động là 0,88 có nghĩa, cứ 0,88 đồng dư nợ thì có sự đóng góp của 1 đồng vốn huy động, tỷ lệ này đã giảm so với 2 năm trước đó, đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy Chi nhánh đã và đang chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn của mình. Tuy nhiên, bên cạnh việc đầu tư vào hoạt động tín dụng thì Ngân hàng cần chú trọng đa dạng hóa các hình thức huy động vốn nhằm đạt được số vốn huy động nhiều hơn nữa, đem lại lợi nhuận cho chi nhánh.

Trong 3 năm 2010-2012, cả vốn huy động và số dư nợ của Chi nhánh đều có xu hướng giảm, trong đó tổng dư nợ có xu hướng giảm nhanh hơn. Nguyên nhân là do lạm phát tăng cao, vấn đề lãi suất huy động vốn có những biến động bất ổn, dẫn đến lãi suất cho vay tăng cao, doanh nghiệp khó tiếp cận với nguồn vốn vay từ ngân hàng; thị trường bất động sản đóng băng tạo ra nguy cơ về thanh khoản nên Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các Ngân hàng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thắt chặt cho vay khiến cho hoạt động tín dụng tại Chi nhánh gặp nhiều khó khăn.

Nhìn vào cơ cấu cho vay theo thời hạn của Chi nhánh Hải Phòng trong 3 năm gần đây, có thể thấy Chi nhánh tập trung cho vay trung dài hạn nhiều hơn cho vay ngắn hạn, song tỷ lệ chênh lệch giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn không nhiều. Tuy nhiên, cơ cấu huy động và cho vay của Ngân hàng chưa được hợp lý. Trong năm 2010 và 2011, Ngân hàng bị thiếu vốn trong cả ngắn hạn và dài hạn, huy động không đáp ứng đủ cho vay, chi phí gia tăng nhiều do phải sử dụng nhiều vốn điều hòa từ hội sở chính.

Sang năm 2012, tình hình cải thiện hơn khi số vốn Ngân hàng huy động được đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, tuy nhiên lại có sự mất cân đối giữa nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn trung dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn huy động được nhiều, đáp ứng đủ nhu cầu về vốn ngắn hạn, song lại thiếu trầm trọng vốn trung dài hạn để cho vay. Vậy nên để đáp ứng nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, Ngân hàng đã phải tiến hành dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Biện pháp này có thể nói có tác dụng kịp thời trong việc cho vay nền kinh tế, song nếu kéo dài tình trạng này có thể Ngân hàng sẽ gặp rủi ro trong việc mất cân đối giữa huy động và cho vay. Để khắc phục điều này, Chi nhánh Hải Phòng phải đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp giúp huy động vốn có hiệu quả hơn, đảm bảo cân đối giữa huy động và cho vay.

2.2.4 Chi phí huy động vốn ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng )

Dựa vào bảng số liệu ta thấy, chi phí huy động vốn có sự biến động thất thường trong 3 năm trở lại đây. Năm 2011, chi phí cho 1 đồng vốn huy động đạt 0,146 đồng, tăng so với năm 2010 là 0,022 đồng. Nguyên nhân là do năm 2011, Chi nhánh chịu ảnh hưởng của cuộc chạy đua lãi suất huy động giữa các Ngân hàng thương mại nên chi phí huy động vốn đã tăng so với năm 2010. Nhưng sang năm 2012, chi phí cho 1 đồng vốn huy động của Ngân hàng giảm xuống còn 0,078 đồng, giảm 0,068 đồng so với năm 2011. Nguyên nhân là do Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng chính sách trần lãi suất huy động đối với tất cả các Ngân hàng thương mại để giảm sự căng thẳng về thanh khoản, giảm sự bất ổn về lãi suất huy động sau cuộc chạy đua lãi suất giữa các Ngân hàng thương mại vào năm 2011. Việc giảm chi phí huy động vốn vào năm 2012 có thể thấy là một dấu hiệu tốt cho Ngân hàng trong việc giảm chi phí, nâng cao lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh.

Song, so sánh các số liệu trong bảng, ta thấy rằng, việc giảm được chi phí huy động vốn của Ngân hàng nguyên nhân một phần là do các chỉ tiêu tổng vốn huy động và tổng chi phí huy động đồng loạt giảm đáng kể vào năm 2012. Việc giảm các chỉ tiêu đánh giá này, nguyên nhân là do nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong tình trạng suy thoái, cuộc sống của người dân gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ lạm phát cao khiến người dân lựa chọn nhiều mục tiêu khác như dự trữ vàng, ngoại tệ, đầu tư dự trữ bất động sản… thay vì gửi tiền vào Ngân hàng để lấy lãi, điều đó gây ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, bên cạnh đó, lãi suất cho vay cao khiến các doanh nghiệp khó tiếp cận được nguồn vốn, gây ảnh hưởng tới công tác tín dụng của Chi nhánh. Tình trạng giảm số lượng cũng như thu hẹp quy mô ở cả hoạt động huy động vốn và tín dụng của Ngân hàng có thể nói là do hậu quả khó tránh khỏi trong tình hình kinh tế hiện nay, song nếu tiếp tục kéo dài trong những năm tới thì đây là điều đáng báo động cho chính bản thân Ngân hàng. Do đó, để khắc phục tình trạng này, Ngân hàng cần có biện pháp tích cực hơn nữa trong việc mở rộng, thu hút khách hàng tới gửi tiền, đồng thời đẩy mạnh công tác tìm kiếm khách hàng có uy tín, tiềm năng để cho vay trong thời gian tới.

2.2.5 Các chỉ tiêu đánh giá khác

Vốn huy động/ Tổng nguồn vốn: Hoạt động của Chi nhánh phụ thuộc chủ yếu vào vốn huy động, nó phải chiếm tỷ trọng từ 70-80% trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thì mới tốt. Dựa vào bảng số liệu, ta thấy nguồn vốn huy động của Chi nhánh đã đạt được điều đó, mặc dù qua các năm, tỷ trọng có sự thay đổi không đồng đều nhưng nó vẫn nằm trong mức tốt, chứng tỏ được sự hiệu quả trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng.

  Tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động: Chỉ tiêu này qua các năm có sự biến đổi rõ rệt, song có thể thấy chỉ tiêu có xu hướng đang tăng dần qua các năm gần đây. Đây là dấu hiệu tốt, thể hiện được Chi nhánh đang thực hiện hoạt động huy động vốn một cách có hiệu quả.

  Chi phí huy động vốn/ Tổng chi phí: Chỉ tiêu này đánh giá chi phí của Ngân hàng phải bỏ ra cho hoạt động huy động vốn so với tổng chi phí. Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy chi phí huy động vốn chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng chi phí, song đang có xu hướng giảm dần qua các năm. Điều đó thể hiện được rằng, Ngân hàng đang cố gắng giảm thiểu được chi phí cho hoạt động huy động vốn, góp phần nâng cao lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình.

2.3 Đánh giá chung

2.3.1. Những kết quả đạt được ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng )

Về tình hình huy động vốn: như đã phân tích ở trên, ta thấy nguồn vốn huy động qua các năm đều tăng cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối, tốc độ tăng trưởng khá cao. Mặc dù trong điều kiện trên địa bàn có sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng, nhưng Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng đã không ngừng cố gắng để bám sát định hướng, tăng cường nội lực bản thân. Trong những năm qua Ngân hàng đã không ngừng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như sản phẩm tiền gửi tiết kiệm thông minh, tiền gửi lãi suất bậc thang, sản phẩm tiết kiệm tích lũy, tiền gửi tiết kiệm trúng thưởng…, do đó nguồn vốn huy động từ dân cư tăng trưởng khá cao, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm. Lợi thế mạng lưới được phát huy cao độ, tu sửa các phòng giao dịch để làm cơ sở mở rộng nguồn vốn huy động. Vì vậy, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận. Kết quả đạt được nổi bật ở những điểm sau:

Doanh số vốn huy động tăng, và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Có thể thấy Chi nhánh có cố gắng và thành công lớn trong việc nâng cao uy tín với khách hàng, thu hút được nguồn vốn huy động trong tình hình cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng trên địa bàn và sự suy thoái của nền kinh tế.

Nhờ cải tiến quy trình tín dụng, rút ngắn trong từng khâu. Việc rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay được rút ngắn giúp cho ngân hàng có được lợi thế cạnh tranh so với các Ngân hàng thương mại quốc doanh, thủ tục phức tạp và kéo dài hơn. Lợi thế này sẽ giúp ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng luôn có thủ tục nhanh gọn.

Các sản phẩm dịch vụ được Ngân hàng ngày càng hoàn thiện, đội ngũ cán bộ nhân viên luôn được đầu tư nâng cao trình độ chuyên môn để phục vụ khách hàng, nâng cao uy tín chất lượng cho bản thân Chi nhánh cũng như cho Ngân hàng Công thương Việt Nam.

Các chỉ tiêu đánh giá đều phản ánh được Ngân hàng đang duy trì hoạt động huy động vốn một cách có hiệu quả, dù thành tích chưa thực sự xuất sắc, song nó là một dấu hiệu tốt trong tình hình kinh tế còn đang suy thoái như hiện nay.

2.3.2 Những tồn tại và nguyên nhân

2.3.2.1 Tồn tại.

 Nguồn vốn huy động của Chi nhánh có sự tăng trưởng nhưng cơ cấu chưa hợp lý, thiếu tính cân đối. Nguồn tiền gửi không có kỷ hạn chiếm tỷ trọng nhỏ, song có xu hướng giảm, không ổn định, tiền gửi có kỳ hạn tăng lên song chủ yếu lại là tiền gửi ngắn hạn dẫn đến các cơ hội đầu tư dài hạn còn hạn chế, ngân hàng phải đi tìm nguồn vốn khác có chi phí cao hơn. Ngân hàng bị thiếu vốn trong cả trung và dài hạn.

Cơ cấu tiền gửi về loại tiền còn chưa hợp lý., chi nhánh chủ yếu huy động được đồng nội tệ, trong khi đó đồng ngoại tệ chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm. Với một nền kinh tế đang trên đà hội nhập như Việt Nam thì việc gia tăng thêm giao dịch bằng ngoại tệ giúp ngân hàng linh hoạt hơn trong chính sách sử dụng vốn, đáp ứng xu thế hội nhập của đất nước.

Công tác thu hút khách hàng của Chi nhánh còn hạn chế, Chi nhánh chủ yếu tập trung vào các hoạt động bề nổi nhờ quảng cáo, khuyếch trương thương hiệu của Ngân hàng Vietinbank…còn việc vận dụng marketting nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, đi sâu sát vào hoạt động, quan tâm đến từng khách hàng chưa cụ thể. Thu thập thông tín về khách hàng còn thiếu thường xuyên và không đầy đủ.

2.3.2.2 Nguyên nhân

  Nguyên nhân khách quan:

  • Cuộc khủng hoảng kinh tế vào năm 2008 và tình hình kinh tế biến động trong nước trong những năm đây đã khiến cho hoạt động của ngân hàng bị ảnh hưởng. Ngân hàng trung ương đã có nhiều biện pháp, đưa ra các chỉ thị nhằm ổn định thị trường tiền tệ trong nước: yêu cầu tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, áp dụng chính sách lãi suất trần huy động một cách nghiêm khắc đã gây khó khăn cho ngân hàng trong việc huy động vốn cho vay.
  • Do nền kinh tế chưa thực sự phát triển nên khả năng tạo việc làm cho người dân lao động, đặc biệt là nông dân còn hạn chế, mức sống nói chung còn thấp… gây ảnh hưởng tới tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư. Và tâm lý ưa dùng tiền mặt của dân chúng cũng ảnh hưởng rất nhiều tới công tác huy động vốn.
  • Trong thời gian qua, tỷ lệ lạm phát trong nước tăng cao đã làm cho thu nhập của người dân giảm sút. Việc áp dụng trần lãi suất huy động đã gây ra sụt giảm nguồn vốn huy động từ tiền gửi dân cư, đồng thời khuyến khích sự tích lũy “đóng băng” dưới nhiều dạng tài sản khác (chủ yếu là vàng, ngoại tệ, bất động sản…) của dân chúng. ( Khóa luận: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng )
  • Môi trường pháp lý còn thiếu đồng bộ và nhất quán, các văn bản luật và dưới luật cũng như các văn bản hướng dẫn thực hiện nó còn nhiều bất cập, nhiều chồng chéo, nhiều khi không phù hợp với thực tế. Mặt khác hoạt động Ngân hàng là hoạt động liên quan đến nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực và nhiều chế tài luật pháp khác nhau. Chính vì vậy, trong hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là việc thực hiện chính sách huy động vốn.
  • Với sự cạnh trạnh gay gắt giữa các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tín dụng, Tổ chức tài chính ngày càng quyết liệt, nên phần nào gây khó khăn tới hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng, nhất là trong việc huy động vốn.

  Nguyên nhân chủ quan

  • Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương chi nhánh Hải Phòng chưa có bộ phận chuyên nghiên cứu, nắm bắt khả năng tiềm tàng về nguồn vốn trên địa bàn, về thói quen, tập quán trong tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư để từ đó tạo ra những sản phẩm dịch vụ huy động vốn một cách phù hợp, đem lại hiệu quả cao, đa dạng chính sách khuyến khích người gửi tiền.
  • Các công cụ huy động vốn chưa thực sự đa dạng, nguồn huy động chủ yếu thông qua hình thức nhận tiền gửi, uỷ thác đầu tư và phát hành giấy tờ có giá. Tuy nhiên phương thức nhận tiền gửi còn đơn giản, nên cơ cấu vốn chưa hợp lý giữa kỳ hạn, loại đồng tiền gửi. Mặc dù đã áp dụng hình thức tiết kiệm có thưởng, và tiết kiệm bậc thang nhưng kết quả thu được chưa thực sự cao, nguồn chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn và nội tệ.

Ngân hàng chưa quan tâm tới phát hành giấy tờ có giá bằng ngoại tệ.

  • Công tác thu hút khách hàng của Ngân hàng còn hạn chế, Ngân hàng chủ yếu tập trung vào các hoạt động bề nổi nhờ quảng cáo, khuyếch trương thương hiệu của Ngân hàng Vietinbank…còn việc vận dụng marketing nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, đi sâu sát vào hoạt động, quan tâm đến từng khách hàng chưa cụ thể. Thu thập thông tin về khách hàng còn thiếu thường xuyên và không đầy đủ.
  • Thủ tục đôi chỗ còn chồng chéo, quy trình liên quan đến nhiều loại giấy tờ và chữ ký dẫn tới việc chậm trễ trong quyết định giải ngân cho khách hàng vay tín dụng.
  • Chưa tạo được sự thoải mái cho khách hàng khi đến ngân hàng giao dịch. Thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng đôi khi còn chưa được nhiệt tình, vui vẻ khi tiếp đón khách hàng. Việc bố trí các quầy giao dịch còn chưa hợp lý, chưa hoàn toàn tạo được thuận lợi cho khách hàng khi tới chi nhánh.

Mời bạn tham khảo thêm:

→ Khóa luận: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn Ngân hàng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993