Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về sáp nhập công ty cổ phần tại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
M&A là hoạt động kinh doanh thương mại đặc biệt xuất hiện ở nước ta đang có những bước phát triển vượt bậc. Trong bối cảnh hiện nay, với nền kinh tế thị trường mở cửa dường như là điều kiện tốt để các thương vụ M&A trở nên sôi động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế từ tài chính ngân hàng đến đầu tư, sản xuất kinh doanh và đặc biệt rất sôi nổi giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế các hoạt động M&A vẫn chưa có một sự điều chỉnh đồng bộ và hiệu quả từ luật pháp. Để làm rõ hiện tượng này, tại chương 2, khóa luận sẽ phân tích về thực trạng các quy định pháp luật trong nước về hoạt động sáp nhập đối với Công ty cổ phần đồng thời so sánh với thực tiễn thi hành pháp luật trên thực tế. Từ đó nhằm làm rõ những khoảng cách giữa luật pháp và thực tế, tìm hiểu nguyên nhân cho những hạn chế này.
Nội dung chính
2.1. Tổng quan về hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động sáp nhập Công ty cổ phần
Bản thân hoạt động sáp nhập doanh nghiệp nói chung cũng như sáp nhập Công ty cổ phần nói riêng có thể hiểu là việc thực hiện một chuỗi nhiều hành vi có liên kết chặt chẽ với nhau để đạt được mục đích sáp nhập. Do vậy, hoạt động này sẽ thể hiện rất nhiều mặt trên nhiều phương diện khác nhau: vừa là một hoạt động đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời là một hình thức để các doanh nghiệp mở rộng quy mô của mình bằng cách huy động vốn. Mặt khác nó cũng là một hình thức tập trung kinh tế trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Chính vì thế mà không có một luật nào quy định tập trung và riêng rẽ về hoạt động sáp nhập. Tuy nhiên, nó lại được quy định rải rác ở nhiều quy phạm pháp luật ứng với mỗi lĩnh vực tương ứng. Trong pháp luật Việt Nam, có thể tìm thấy những chế định điều chỉnh hoạt động sáp nhập doanh nghiệp tại Bộ luật dân sự 2015, Luật doanh nghiệp 2014, Luật cạnh tranh 2004 hay Luật đầu tư 2014… BLDS 2015 quy định về hoạt động sáp nhập pháp nhân tại điều 89:
“Điều 89. Sáp nhập pháp nhân
- Một pháp nhân có thể được sáp nhập (sau đây gọi là pháp nhân được sáp nhập) vào một pháp nhân khác (sau đây gọi là pháp nhân sáp nhập).
- Sau khi sáp nhập, pháp nhân được sáp nhập chấm dứt tồn tại; quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được sáp nhập được chuyển giao cho pháp nhân sáp nhập.”
So với Bộ luật dân sự 2005, điều 89 này đã lược bỏ yếu tố cùng loại của các pháp nhân khi tham gia vào hoạt động sáp nhập. Điểm mới này đã mở rộng phạm vi điều chỉnh, cho phép cả những pháp nhân không cùng loại có thể thực hiện sáp nhập. LDN 2014 chưa đưa ra khái niệm thế nào là hoạt động sáp nhập công ty mà chỉ đề cập đến việc làm thể nào để sáp nhập công ty tại khoản 1 điều 195: Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
“Điều 195: Sáp nhập doanh nghiệp
Một hoặc một số công ty (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
Bên cạnh đó, khoản 3 điều 195 Luật doanh nghiệp cũng có những quy định liên quan đến việc sáp nhập những công ty có thị phần lớn trên thị trường như công ty nhận sáp nhập có thị phần từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của công ty thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành sáp nhập, cấm các trường hợp sáp nhập các công ty mà theo đó công ty nhận sáp nhập có thị phần trên 50% trên thị trường có liên quan, trừ trường hợp Luật cạnh tranh có quy định khác,… Ngoài ra còn một số điều chỉnh liên quan đến thủ tục cũng như hồ sơ sáp nhập công ty. Điểm mới của Luật doanh nghiệp 2014 so với Luật doanh nghiệp 2005 là đã bổ sung quy định hồ sơ đăng ký doanh nghiệp của công ty nhận sáp nhập phải kèm theo bản sao của: (a) Hợp đồng sáp nhập, (b) Nghị quyết và biên bản họp thông qua hợp đồng sáp nhập của các công ty nhận sáp nhập, và (c) Nghị quyết và biên bản họp thông qua hợp đồng sáp nhập của các công ty bị sáp nhập, trừ trường hợp công ty nhận sáp nhập là thành viên, cổ đông sở hữu trên 65% vốn điều lệ hoặc cổ phần có quyền biểu quyết của công ty bị sáp nhập.
Khoản 1 điều 17 Luật cạnh tranh 2004 đề cập đến sáp nhập doanh nghiệp là “việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.”. Tuy nhiên Luật cạnh tranh lại nhìn nhận hoạt động này dưới khía cạnh kiểm soát tập trung kinh tế nên chưa bộc lộ cụ thể những đặc điểm pháp lý của hoạt động này. Việc kiểm soát của Cục quản lý cạnh tranh cũng chỉ diễn ra khi xuất hiện những giao dịch rơi vào ngưỡng cạnh tranh phải khai báo hoặc bị cấm.
So với Luật đầu tư 2005, Luật đầu tư 2014 đã thể chế hóa nguyên tắc Hiến định về quyền tự do kinh doanh của công dân trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi và minh bạch hơn nữa để huy động có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Điều 25 Luật đầu tư 2014 quy định minh bạch về hình thức và điều kiện góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế:
” Điều 25. Hình thức và điều kiện góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế
- Nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn vào tổ chức kinh tế theo các hình thức sau đây:
- Mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm của công ty cổ phần;
- Góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh;
- Góp vốn vào tổ chức kinh tế khác không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.
- Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế theo các hình thức sau đây:
- Mua cổ phần của công ty cổ phần từ công ty hoặc cổ đông;
- Mua phần vốn góp của các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn để trở thành thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn; Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
- Mua phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh;
- Mua phần vốn góp của thành viên tổ chức kinh tế khác không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản này.
- Việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài theo các hình thức quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải đáp ứng điều kiện quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 22 của Luật này. “
LĐT 2014 cũng sửa đổi quy định về điều kiện thực hiện hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài theo hình thức góp vốn, mua lại phần vốn góp, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, ngoài việc đáp ứng điều kiện về tỷ lệ sở hữu và các điều kiện đầu tư khác, nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động này theo thủ tục quy định thống nhất tại Luật doanh nghiệp. Điều 6 Luật đầu tư 2014 đã vạch rõ giới hạn của các ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, thay vì cấm mông lung theo lĩnh vực như Điều 30 Luật đầu tư 2005. Quy định này có thể coi là một bước tiến quan trọng để thể chế hóa Điều 33 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.”. Luật đầu tư 2014 dành riêng một phụ lục (Phụ lục 4) liệt kê 267 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện với mục đích để tổng hợp và làm rõ hơn danh mục những ngành nghề kinh doanh có điều kiện vốn đã được liệt kê trong vô số các văn bản chuyên ngành khác. Nhờ đó, các cơ quan Nhà nước không còn quyền tự đặt ra các nghề kinh doanh có điều kiện, trừ khi được Quốc hội chấp thuận bằng việc sửa đổi Luật đầu tư. Như vậy, các quy định điều chỉnh M&A nói chung hay hoạt động sáp nhập nói riêng theo Luật đầu tư 2014 cơ bản đã thông thoáng, minh bạch, hợp lý và khả thi. Tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động này được thúc đẩy một cách mạnh mẽ.
LCK 2013 điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán của các công ty đại chúng, mặc dù không liên quan nhiều đến hoạt động sáp nhập công ty, tuy nhiên trong tương lai, có khả năng nhiều công ty đại chúng sẽ bị “thôn tính” thông qua cách chuyển nhượng cổ phần tự do hoặc mua dần trên thị trường chứng khoán phục vụ cho hoạt động sáp nhập. Vì vậy, Luật chứng khoán có một số điều khoản nhằm điều tiết hoạt động này:
Khoản 1 điều 29 quy định: “Tổ chức, cá nhân trở thành cổ đông lớn của công ty đại chúng phải báo cáo công ty đại chúng, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Sở giao dịch chứng khoán nơi cổ phiếu của công ty đại chúng đó được niêm yết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày trở thành cổ đông lớn.”. Đây sẽ là dấu hiệu để các cổ đông công ty sớm phát hiện mục đích “thôn tính” công ty của một nhà đầu tư. Khoản 1 điều 32 quy định về chào mua công khai, theo đó các tổ chức, cá nhân chào mua công khai số cổ phiếu biểu quyết dẫn đến việc sở hữu từ 25% trở lên số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty đại chúng phải gửi đăng ký chào mua đến Ủy ban chứng khoán Nhà nước. Có thể coi đây là bước thứ hai đối với các nhà đầu tư có ý định thôn tính công ty theo hình thức mua dần cổ phần. Những điều khoản này góp phần bảo vệ cho cổ đông thiểu số và đồng thời cũng tạo ra một cơ chế cho nhà đầu tư tiến hành hoạt động thâu tóm công ty đại chúng hay như trong đề tài này, nhà đầu tư sẽ tiến hành hoạt động sáp nhập công ty. Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
LTCTD 2010 đề cập đến việc sáp nhập tổ chức tín dụng phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản (Điều 34). Ngoài ra, một số quy định liên quan giúp hỗ trợ cho hoạt động kiểm soát tập trung kinh tế, như: tổ chức được cấp giấy phép có thể bị Ngân hàng nhà nước thu hồi giấy phép khi chia, sáp nhập, hợp nhất. phá sản (Điều 29); tổ chức tín dụng phải được
Ngân hàng nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi thực hiện chuyển nhượng cổ phần có ghi tên quá tỷ lệ quy định của Ngân hàng nhà nước, hoặc khi thay đổi tỷ lệ cổ phần của các cổ đông lớn (Điều 31).
- Sáp nhập Công ty cổ phần cũng được đề cập đến trực tiếp hoặc gián tiếp trong một số nghị định, văn bản hướng dẫn như:
- Nghị định 96/2015/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều của Luật doanh nghiệp.
- Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 09 năm 2015 của Chính phủ Về đăng ký doanh nghiệp.
- Nghị định 24/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2007 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 09 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh.
Qua đây, có thể thấy khung pháp lý điều chỉnh hoạt động sáp nhập Công ty cổ phần chưa được hoàn thiện. Hoạt động sáp nhập công ty còn được quy định khá rời rạc tại nhiều văn bản khác nhau, và chưa có sự thống nhất. Mỗi một văn bản pháp luật lại điều chỉnh hoạt động này dưới một góc nhìn khác nhau. Như Luật cạnh tranh điều chỉnh dưới góc độ sáp nhập là một hình thức tập trung kinh tế, trong khi Luật doanh nghiệp lại có xu hướng điều chỉnh dưới góc độ coi hoạt động này là cách thức tổ chức, cơ cấu lại công ty còn Luật đầu tư thì coi đây là một hoạt động đầu tư quan trọng. Luật chứng khoán cũng không trực tiếp nhắc đến hoạt động này song lại điều chỉnh thông qua các điều khoản về bảo vệ cổ đông, công bố thông tin… Những điều trên có thể thể hiện được tính linh hoạt khi áp dụng cho hoạt động sáp nhập trong từng lĩnh vực cụ thể tuy nhiên một phần nào đó tạo khó khăn trong việc tìm hiểu pháp luật. Trong khi đó, với quá trình phát triển kinh tế mạnh mẽ, quá trình hội nhập sâu rộng vào đời sống thương mại quốc tế, sáp nhập công ty đang trở thành một kênh đầu tư có quy mô lớn, một hình thức đầu tư trực tiếp được nhiều nhà đầu tư ưa chuộng. Dẫn đến nhu cầu điều chỉnh hoạt động sáp nhập công ty ở Việt Nam là vô cùng cần thiết.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2.2. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về sáp nhập Công ty cổ phần Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
2.2.1. Các quy định về thủ tục sáp nhập Công ty cổ phần
Thủ tục sáp nhập Công ty cổ phần được quy định chi tiết tại điều 195 Luật doanh nghiệp 2014. Đồng thời, thủ tục cũng được dựa trên Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 09 năm 2015 của Chính phủ Về đăng ký doanh nghiệp.
Trước hết, công ty liên quan chuẩn bị hợp đồng sáp nhập và dự thảo Điều lệ công ty nhận sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu về tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty nhận sáp nhập; tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty bị sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; cách thức, thủ tục, thời hạn và điều kiện chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện sáp nhập.
Tiếp đến, các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của các công ty liên quan thông qua hợp đồng sáp nhập, Điều lệ công ty nhận sáp nhập và tiến hành đăng ký doanh nghiệp công ty nhận sáp nhập theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014. Hợp đồng sáp nhập phải được gửi đến tất cả các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông qua.
Khi có hợp đồng sáp nhập rồi thì các công ty bị sáp nhập phải nộp hồ sơ xin xác nhận đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và xin đóng mã số thuế lên cơ quan thuế quản lý, cơ quan bảo hiểm xã hội (nếu có), tổng cục hải quan (nếu có)…
Sau đó, công ty nhận sáp nhập tiến hành chuẩn bị hồ sơ sáp nhập để thực hiện đăng ký kinh doanh cho công ty nhận sáp nhập. Hồ sơ sáp nhập gồm:
- Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh.
- Hợp đồng sáp nhập.
- Điều lệ của công ty nhận sáp nhập.
- Nghị quyết và biên bản họp thông qua hợp đồng sáp nhập của Đại hội đồng cổ đông của công ty nhận sáp nhập về việc sáp nhập công ty.
- Nghị quyết và biên bản họp thông qua hợp đồng sáp nhập của Đại hội đồng cổ đông của công ty bị sáp nhập về việc sáp nhập công ty, trừ trường hợp công ty nhận sáp nhập là thành viên, cổ đông sở hữu trên 65% vốn điều lệ hoặc cổ phần có quyền biểu quyết của công ty bị sáp nhập.
- Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của công ty bị sáp nhập và công ty nhận sáp nhập.
- Bản sao hợp lệ Thẻ căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu Việt Nam còn hiệu lực của các sáng lập viên của công ty nhận sáp nhập.
Công ty nhận sáp nhập sẽ tiến hành nộp hồ sơ tại Sở kế hoạch và đầu tư. Nếu hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ra phiếu nhận và hẹn ngày trả kết quả. Nếu hồ sơ chưa đúng, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả yêu cầu bổ sung. Nếu hồ sơ thiếu, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ra văn bản yêu cầu bổ sung.
Cuối cùng, khi có kết quả, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ tiến hành cập nhật tình trạng pháp lý của công ty bị sáp nhập trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và thực hiện thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cho công ty nhận sáp nhập.
2.2.2. Các quy định về bảo đảm sự công bằng trong hoạt động sáp nhập Công ty cổ phần Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
Khi thực hiện sáp nhập, vấn đề đặt ra làm thế nào để tạo được sự công bằng giữa các chủ thể khi tham gia hoạt động này. Muốn vậy, Nhà nước cần thể hiện vai trò khách quan của mình trong việc điều tiết hoạt động này thông qua một loạt các quy định pháp luật. Từ đó tạo ra một sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trên một sân chơi bình đẳng.
Nếu như pháp luật Việt Nam thừa nhận các quyền tự do hoạt động kinh doanh để công ty có thể chủ động cũng như dễ dàng thực hiện hoạt động sáp nhập với một công ty mục tiêu nào đó thì ngược lại, về phía công ty mục tiêu cũng cần có những sự thừa nhận về quyền cũng như các cơ chế hỗ trợ để những doanh nghiệp này có khả năng tự bảo vệ quyền kinh doanh, sở hữu của mình trước nguy cơ bị những công ty khác “thâu tóm”. Điều này đã được các nhà làm luật tính đến và được cụ thể hóa trong một số quy định pháp luật khác nhau.
Bảo đảm sự công bằng trong hoạt động sáp nhập Công ty cổ phần thông qua các quy định về công bố thông tin
Các công ty có quyền được yêu cầu thông tin một cách đầy đủ, điều 29 và điều 32 Luật chứng khoán 2013 cũng như nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 07 năm 2012 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán và Thông tư 155/2015/TT-BTC ngày 06 tháng 10 năm 2015 của Bộ tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán đã có những quy định về nghĩa vụ công bố thông tin sở hữu số lượng lớn cổ phiếu cũng như các quy định về việc công bố thông tin trong hoạt động chào mua công khai. Bởi sự tích luỹ cổ phiếu có thể uy hiếp đến quyền kinh doanh. Vì vậy, để ngăn chặn quyền kinh doanh bị thâu tóm một cách bất công bằng, họ nảy sinh nhu cầu được minh bạch hoá về thông tin sở hữu cổ phiếu số lượng lớn. Mặt khác, khi công ty có sự thay đổi bất thường về cơ cấu hay tỉ lệ sở hữu cổ phần giữa các cổ đông,… thì cũng đều cần phải công bố thông tin. Dựa vào đây, công ty mục tiêu có thể nhận thức được nguy cơ bị thâu tóm từ những công ty khác từ khá sớm. Qua đó sẽ có những sự chuẩn bị cần thiết cũng như những phương án, hướng đi để điều chỉnh lại hoạt động công ty phù hợp với hoàn cảnh hiện tại.
Bảo đảm sự công bằng trong hoạt động sáp nhập Công ty cổ phần thông qua các quy định về tỉ lệ sở hữu cổ phần
Chúng ta có thể nhận biết được ý đồ của một công ty muốn nhận sáp nhập thông qua tỉ lệ sở hữu cổ phần. Tỷ lệ sở hữu cổ phần, nghĩa vụ báo cáo thông tin và chào mua công khai là ba yếu tố quan trọng trong việc kiểm soát hoạt động sáp nhập. Thực tiễn cho thấy, tuỳ từng nhu cầu điều chỉnh (nới lỏng hay siết chặt hoạt động sáp nhập), pháp luật sẽ sử dụng các công cụ này theo cách linh hoạt nhất. Ví dụ, khi cần bảo vệ quyền kinh doanh, siết chặt hoạt động sáp nhập, nhà làm luật thường quy định giới hạn tỷ lệ sở hữu bằng một con số cụ thể. Khi cần nâng cao tính công bằng trong hoạt động sáp nhập thì sẽ bãi bỏ các quy định giới hạn này và thay vào đó bằng chế độ chào mua công khai. Như vậy, việc kết hợp, sử dụng khéo léo những yếu tố trên đã khiến cho sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động sáp nhập trở nên linh hoạt hơn là những kỹ thuật lập pháp cấm đoán và hệ thống các chế tài cứng nhắc. Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
Pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về tỉ lệ sở hữu cổ phần trong các công ty. Tỉ lệ này được thông qua các quy định về nghĩa vụ báo cáo sở hữu cổ phần của các cổ đông lớn (cổ đông lớn là cổ đông nắm giữ từ 5% trở lên cổ phần có quyền biểu quyết) hay trong hoạt động chào mua công khai (một trong những trường hợp phải chào mua công khai là chào mua cổ phiếu có quyền biểu quyết, chứng chỉ quỹ đóng dẫn đến việc sở hữu từ hai mươi lăm phần trăm trở lên cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đang lưu hành của một công ty đại chúng, quỹ đóng)…
Bảo đảm sự công bằng trong hoạt động sáp nhập Công ty cổ phần thông qua các quy định về chào mua công khai
Chào mua công khai là một trong những cách thức để bản thân công ty muốn nhận sáp nhập có thể chủ động mua được số lượng lớn cổ phần, nhờ đó có thể nhanh chóng tiến hành chi phối hoặc kiểm soát công ty mục tiêu. Đây cùng là một cách để cảnh báo trước với công ty mục tiêu, tạo điều kiện cho công ty này có đủ thời gian hợp lý để lên kế hoạch bảo vệ quyền kinh doanh của mình.Trong thời gian chào mua công khai, pháp luật cũng cho phép công ty mục tiêu thực hiện một số quyền nhất định như quyền phát hành chứng khoán bổ sung, quyền mua lại cổ phiếu của chính mình,… Có thể coi đây là biện pháp đáp trả của công ty mục tiêu với kế hoạch thâu tóm của công ty muốn nhận sáp nhập. Nó có thể làm cho quá trình thực hiện việc tiếp cận sáp nhập trở nên khó khăn hơn và buộc công ty muốn nhận sáp nhập phải xem xét lại mục tiêu của mình. Nhờ vậy mà tạo ra được sự cân bằng giữa việc công ty mục tiêu có quyền đáp trả còn công ty muốn nhận sáp nhập có quyền rút lui nếu thấy mình không có khả năng đối phó được với sự đáp trả ấy
2.2.3. Các quy định về bảo vệ cổ đông trong hoạt động sáp nhập Công ty cổ phần
Có thể thấy, hoạt động sáp nhập thể hiện quyền quyết định của người lãnh đạo hoặc những cổ đông lớn trong công ty. Vì vậy, chắc chắn một bộ phận các cổ đông nhỏ lẻ sẽ chịu ảnh hưởng, quyền lợi của họ sẽ dễ bị xâm phạm. Do đó, đặt ra nhu cầu cần phải có những cơ chế để bảo vệ bộ phận yếu thế này trong hoạt động sáp nhập Công ty cổ phần.
Sau khi đạt được thỏa thuận về sáp nhập công ty, cổ đông của công ty bị sáp nhập sẽ phải quyết định có trở thành cổ đông của công ty nhận sáp nhập hay lựa chọn phương án rút lui khỏi công ty bị sáp nhập trước khi hợp đồng sáp nhập có hiệu lực.Từ đó, việc cụ thể hóa các quyền của cổ đông trong những quy định pháp luật là cơ sở để các cổ đông có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình. Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
Trong quyết định sáp nhập, pháp luật bảo vệ quyền lợi của cổ đông bằng cách bắt buộc phải có nghị quyết tán thành của Đại hội đồng cổ đông của công ty nhận và bị sáp nhập. Riêng đối với công ty bị sáp nhập, phải có Nghị quyết và biên bản họp thông qua hợp đồng sáp nhập, trừ trường hợp công ty nhận sáp nhập là thành viên, cổ đông sở hữu trên 65% vốn điều lệ hoặc cổ phần có quyền biểu quyết của công ty bị sáp nhập (Điểm c khoản 4 Điều 195 Luật doanh nghiệp
2014). Đa số những thương vụ sáp nhập được quyết định bởi nhóm cổ đông lớn, nắm đa số quyền biểu quyết. Lá phiếu của cổ đông thiểu số chỉ đóng vai trò thứ yếu trong hoạt động này. Vậy nên, khi các cổ đông thiểu số không tán thành với việc sáp nhập, họ có thể yêu cầu công ty mua lại cổ phần theo điều 129 Luật doanh nghiệp 2014:
” Điều 129. Mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông
- Cổ đông biểu quyết phản đối nghị quyết về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Yêu cầu phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Yêu cầu phải được gửi đến công ty trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Đại hội đồng cổ đông thông qua nghị quyết về các vấn đề quy định tại khoản này.
- Công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông quy định tại khoản 1 Điều này với giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì các bên có thể yêu cầu một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Công ty giới thiệu ít nhất 03 tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng.”
Ngoài ra, tỷ lệ hoán đổi cổ phần cũng là một yếu tố giúp cân bằng quyền lợi của những cổ đông thiểu số khi đưa ra quyết định sáp nhập. Dựa vào giá trị tài sản cũng như khả năng sinh lời của công ty bị sáp nhập mà tỷ lệ hoán đổi sẽ được xác định và tỷ lệ này phải được thẩm định bởi một tổ chức thẩm định giá. Tỷ lệ hoán đổi được thỏa thuận, quyết định theo nguyên tắc đa số biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông của Công ty cổ phần nhận sáp nhập dựa trên đề xuất của Hội đồng quản trị và người đại diện theo pháp luật. Cụ thể, tại điểm a khoản 3 điều 3
Nghị định 60/2015/NĐ-CP ngày 26 tháng 05 năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điều nghị định 58/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán quy định như sau: Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
a) Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án chào bán. Phương án chào bán phải nêu rõ mục đích, số lượng cổ phiếu dự kiến chào bán, danh sách nhà đầu tư, số lượng cổ phiếu dự kiến phát hành hoán đổi và số lượng cổ phiếu, phần vốn góp nhận hoán đổi của từng nhà đầu tư, phương pháp xác định và tỷ lệ hoán đổi. Phương pháp xác định và tỷ lệ hoán đổi phải có ý kiến của tổ chức thẩm định giá độc lập. Trường hợp có ý kiến khác nhau giữa tỷ lệ hoán đổi dự kiến thực hiện và tỷ lệ hoán đổi hợp lý do tổ chức thẩm định giá độc lập xác định, thì Hội đồng quản trị phải có văn bản giải trình để Đại hội đồng cổ đông xem xét quyết định.
Trường hợp hoán đổi cổ phiếu của một hoặc một số cổ đông xác định của công ty đại chúng khác thì phải được Đại hội đồng cổ đông của công ty được hoán đổi thông qua trong trường hợp tỷ lệ sở hữu của tổ chức phát hành tại công ty đại chúng có cổ phiếu được hoán đổi vượt mức chào mua công khai theo quy định tại Khoản 11 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán;
Ví dụ, trong vụ sáp nhập giữa Công ty cổ phần Vinpearl (VPL) vào Công ty cổ phần Vincom (VIC) năm 2011, cổ phiếu VPL được chuyển đổi thành cổ phiếu VIC theo tỷ lệ VPL:VIC là 1:0,77 (nghĩa là 1 cổ phần VPL đổi 0,77 cổ phần VIC). Vincom đã phát hành thêm 158.233.837 cổ phần để hoán đổi lấy 100% cổ phần của Vinpearl, tương đương với 205.498.489 cổ phần. triệu cổ phần. Tổng giá trị phát hành theo mệnh giá là hơn 1.582 tỷ đồng, đối tượng phát hành cho các cổ đông Vinpearl tại thời điểm chốt danh sách để thực hiện hoán đổi cổ phần. Sau khi sáp nhập, VIC sẽ đổi tên thành Công ty cổ phần Tập đoàn Đầu tư Việt Nam, tên viết tắt là Vingroup JSC với tổng vốn điều lệ là 5.900 tỷ đồng[32].
Trong thương vụ sáp nhập, không chỉ có quyền lợi của cổ đông phía công bị sáp nhập cần bảo vệ mà còn cần phải chú ý đến cả quyền lợi của cổ đông phía công ty nhận sáp nhập. Bởi không phải lúc nào công ty nhận sáp nhập sau khi sáp nhập thêm công ty mới cũng hoạt động hiệu quả. Việc sáp nhập này có thể làm gia tăng lợi ích của cổ đông của Công ty cổ phần nhận sáp nhập khi làm tăng giá cổ phiếu và tăng mức cổ tức chi trả hoặc giảm lợi ích của cổ đông của Công ty cổ phần nhận sáp nhập khi làm giảm giá cổ phiếu và giảm mức cổ tức chi trả. Điển hình có thể kể đến vụ sáp nhập Ngân hàng Nhà Hà Nội (Habubank) vào Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB) năm 2012 đã khiến cho SHB phải chịu gánh nặng xử lý nợ xấu hàng nghìn tỷ đồng trong khi dự kiến sẽ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng này. Tại đại hội cổ đông thường niên 2017, lãnh đạo SHB cho biết thời điểm sáp nhập Habubank, nợ xấu của Habubank chuyển sang là 8.600 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu của SHB tăng từ 2,23% lên 8,81%. Đến nay, SHB đã thu hồi 2.800 tỷ đồng, bán 3.500 tỷ đồng cho VAMC, nhưng trong quá trình hoạt động nên ngân hàng vẫn tiếp tục phát sinh nợ xấu[33].
Chính vì những điều trên mà đặt ra cho các nhà làm luật làm thế nào để các quy định có thể dung hòa được lợi ích của các bên cổ đông, đảm bảo sự công bằng cho một sân chơi lành mạnh. Việc này thể hiện ở những quy định pháp luật về nguyên tắc định giá tài sản của Công ty cổ phần bị sáp nhập, cũng như cụ thể hóa quy định về nghĩa vụ công ty mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông. Tuy nhiên những quy định về định giá giá tài sản của Công ty cổ phần bị sáp nhập cũng khá phức tạp. Giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty, trong trường hợp không thỏa thuận được về giá thì giá do tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Như vậy, cổ đông sẽ luôn ở thế “bị động” khi muốn quyết định rút lui. Ngoài ra, khi các cổ đông không đồng ý về một vụ sáp nhập, họ có thể yêu cầu được nhận lại tiền thay vì nhận cổ phiếu thông qua yêu cầu mua lại cổ phiếu. Đây là cách thức “giải thoát” hiệu quả cho những cổ đông không đồng ý với quyết định sáp nhập mà không nhất thiết phải hạn chế hoạt động sáp nhập. Luật doanh nghiệp 2014 quy định:
” Điều 129. Mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
- Cổ đông biểu quyết phản đối nghị quyết về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Yêu cầu phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Yêu cầu phải được gửi đến công ty trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Đại hội đồng cổ đông thông qua nghị quyết về các vấn đề quy định tại khoản này.
- Công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông quy định tại khoản 1 Điều này với giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì các bên có thể yêu cầu một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Công ty giới thiệu ít nhất 03 tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng.”
Trong quan hệ với chủ nợ, vấn đề đặt ra với Công ty cổ phần nhận sáp nhập là sẽ ưu tiên quyền lợi của các cổ đông thuộc công ty mình hay ưu tiên quyền lợi của chủ nợ của Công ty cổ phần bị sáp nhập. Có thể thấy, chủ nợ là đối tượng có quyền lợi trực tiếp liên quan đến thương vụ. Do đó, chủ nợ có quyền được biết đầy đủ thông tin về thương vụ sáp nhập. Trước khi tiến hành sáp nhập, công ty nhận sáp nhập cần phải có những đánh giá về các khoản nợ của công ty bị sáp nhập và xác định trách nhiệm của người quản lý đối với khoản nợ. Vì suy cho cùng, nguyên nhân chính dẫn đến những thương vụ sáp nhập chính là những khoản nợ không thể thanh toán. Ngược lại, các cổ đông của các bên công ty cũng phải được cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình tài chính, các khoản nợ của công ty bị sáp nhập để có thời gian xem xét, suy nghĩ tiến tới việc thực hiện quyền biểu quyết tới số phận của thương vụ sáp nhập trước khi hợp đồng sáp nhập có hiệu lực. Điều này được thể hiện trong các quy định yêu cầu công ty công bố các thông tin đã nêu ở phần trên.
Như vậy, việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông trong hoạt động sáp nhập có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức đa dạng và đan xen nhau. Như việc đảm bảo sự công bằng trong hoạt động sáp nhập cũng đã bao hàm bảo vệ cổ đông thông qua việc công bố thông tin và minh bạch hóa các chỉ số về tình hình tài chính.
2.2.4. Các quy định về kiểm soát tập trung kinh tế trong hoạt động sáp nhập Công ty cổ phần Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
Pháp luật công nhận và tạo rất nhiều điều kiện cho hoạt động sáp nhập công ty. Tuy nhiên, sự công nhận này cũng có một số giới hạn. Có thể hiểu hoạt động sáp nhập sẽ giúp giảm đi về mặt số lượng của các công ty hoạt động trên thị trường do không đáp ứng được những yêu cầu của quy luật cạnh tranh trước sự phát triển mạnh của các công ty khác, từ đó dẫn đến sự thay đổi về cấu trúc và phân vùng thị trường. Song nếu kiểm soát không tốt sự tập trung này sẽ dẫn đến tình trạng độc quyền của các công ty lớn đối với nền kinh tế thị trường hiện nay. Vì thế cần phải có những giới hạn được ghi nhận bởi pháp luật để kiểm soát hoạt động này, tránh sự lạm quyền.
LCT 2005 coi sáp nhập là một trong những hành vi tập trung kinh tế. Theo đó, các công ty tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các công ty đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh (Cục quản lý cạnh tranh) trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Với những trường hợp thị phần kết hợp của các công ty tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% trên thị trường liên quan hoặc trường hợp công ty sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại công ty nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải thông báo (điều 20 Luật cạnh tranh 2005). Ngoài ra, điều 18, điều 19 Luật cạnh tranh 2005 quy định thêm về các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm và miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm:
“Điều 18. Trường hợp tập trung kinh tế bị cấm
Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 19 của Luật này hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.”
“Điều 19. Trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm
Tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét miễn trừ trong các trường hợp sau đây:
- Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản;
- Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.” Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
Từ một số quy định trên, chúng ta có thể thấy tiêu chí về thị phần là tiêu chí để xác định mức độ tập trung kinh tế của một công ty. Nếu như hai Công ty cổ phần tiến hành sáp nhập dẫn đến tình trạng chiễm lĩnh hơn 50% trên thị trường liên quan thì sẽ thuộc những trường hợp bị cấm. Tuy nhiên, ở đây lại không quy định rõ ràng thế nào là “thị trường liên quan”. Về phần các công ty tham gia sáp nhập, họ chỉ có thể biết và chịu trách nhiệm về doanh số của mình mà không có nghĩa vụ phải nắm được doanh số của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, trong khi đây lại là căn cứ để tính toán thị phần của các bên tham gia tập trung kinh tế. Dẫn đến việc các công ty phải đi thu thập một lượng thông tin khổng lồ liên quan đến thị trường nói chung cũng như thị phần nói riêng, tạo ra một áp lực rất lớn cho các doanh nghiệp mong muốn thực hiện thủ tục thông báo hoặc tham vấn ý kiến của cơ quan cạnh tranh về tập trung kinh tế. Hơn nữa, sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan trong việc giám sát, kiểm tra hoạt động tập trung kinh tế lại chưa thực sự tốt. Những hạn chế trên dẫn đến việc khi xem xét hồ sơ đề nghị tập trung kinh tế, hầu hết các cơ quan Nhà nước sẽ dựa trên cảm tính của mình để đánh giá mức độ tập trung kinh tế của một công ty liệu có dẫn đến vị trí độc quyền trên thị trường hay không.
Tính đến hết tháng 12/2014, cơ quan cạnh tranh mới chỉ tiếp nhận 26 vụ việc thông báo tập trung kinh tế, trong số đó 20 vụ việc đã được thông qua, 01 vụ việc rút hồ sơ và 5 vụ việc đang trong quá trình xem xét (con số này là quá ít so với khoảng hơn 1.200 các thương vụ mua bán sáp nhập diễn ra tại Việt Nam trong cùng giai đoạn này). Những con số trên phần nào thể hiện được thêm công tác kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua hoạt động không thực sự hiệu quả[34].
Như vậy, hoạt động sáp nhập trên thực tế hoàn toàn có thể gây ảnh hưởng đến thị trường thông qua việc tập trung kinh tế với quy mô lớn. Bên cạnh những tác động tích cực đến nền kinh tế thì đây chính là điểm hạn chế của hoạt động này. Nếu như không kiểm soát tốt sẽ rất dễ dẫn đến nguy cơ hình thành độc quyền, triệt tiêu cạnh tranh. Có thể thấy rằng thời gian qua, Nhà nước đã có nỗ lực trong việc thực hiện kiểm soát tập trung kinh tế thông qua việc ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng. Tuy nhiên, từ những vụ việc thực tế đã phát sinh ra nhiều vấn đề chưa có cơ chế điều chỉnh hiệu quả, tạo ra những khó khăn đối với các công ty và cả nền kinh tế của nước ta. Chính vì thế, điều cần thiết ở thời điểm này là hoàn thiện hơn các văn bản pháp lý để tạo ra một khung pháp lý đầy đủ và rõ ràng hơn để công việc quản lý của Nhà nước đạt được hiệu quả nhất định cũng như bảo vệ nền kinh tế khỏi những rủi ro từ nguy cơ độc quyền. Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
2.2.5. Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến M&A
Trong quá trình hội nhập với thế giới, việc cập nhật xu thế trên thị trường quốc tế là vô cùng quan trọng. Muốn tham gia được sân chơi mở này, đòi hỏi cần phải có một hệ thống pháp luật trong nước hoàn thiện cũng như mở cửa thị trường, gia nhập những tổ chức quốc tế lớn như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),… Chấp nhận tham gia những tổ chức này đồng nghĩa với việc chúng ta phải chủ động tham gia các cam kết quốc tế để chứng minh khả năng hội nhập và tiềm năng phát triển trên một thị trường rộng mở. Tính đến nay Việt Nam đã ký kết và tham gia rất nhiều cam kết quốc tế về đầu tư hoặc liên quan đến đầu tư, bao gồm: các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký kết với 55 nước; các Hiệp định/Chương Đầu tư trong khuôn khổ FTA; và các cam kết khác liên quan đến đầu tư như Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) của WTO, các hiệp định về dịch vụ trong WTO và các FTA, hiệp định thành lập tổ chức bảo đảm đầu tư đa phương (MIGA), Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, các cam kết đầu tư song phương và đa phương v..v… Có thể dễ dàng nhận thấy, các Hiệp định, cam kết của Việt Nam liên quan đến hoạt động M&A nói chung cũng như sáp nhập nói riêng hầu hết thể hiện dưới hình thức tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp Việt Nam hoặc được thể hiện dưới dạng cam kết cho phép các nhà đầu tư nước ngoài hiện diện thương mại, thâm nhập trong các ngành hay lĩnh vực đầu tư tại Việt Nam.
Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
Sau hơn mười năm gia nhập WTO, Việt Nam đã và đang ngày càng mở rộng cánh cửa thị trường của mình để các nhà đầu tư có thể gia nhập một cách có lộ trình. Chính vì thế mà hoạt động M&A được coi là một cách để các nhà đầu tư tiếp cận vào thị trường trong nước thuận tiện, nhanh chóng và dễ dàng (chủ yếu qua việc góp vốn, mua cổ phần). Việc nhà đầu tư góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại tại Việt Nam. Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
Trong phần cam kết chung khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết:
“Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép góp vốn dưới hình thức mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam. Trong trường hợp này, tổng mức vốn cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trong một doanh nghiệp không được vượt quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó, trừ khi luật pháp Việt Nam có quy định khác hoặc được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép. Một năm sau khi gia nhập, hạn chế 30% cổ phần nước ngoài trong việc mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được bãi bỏ, ngoại trừ đối với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần trong các ngân hàng thương mại cổ phần và với những ngành không cam kết trong Biểu cam kết này. Với các ngành và phân ngành khác đã cam kết trong Biểu cam kết này, mức cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ khi mua cổ phần tại doanh nghiệp Việt Nam phải phù hợp với các hạn chế về tỷ lệ tham gia vốn của nước ngoài được quy định trong các ngành và phân ngành đó, bao gồm cả hạn chế dưới dạng thời gian chuyển đổi, nếu có”[35]. Có thể thấy, các hạn chế đối với tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp nói chung cũng như các Công ty cổ phần nói riêng tại Việt Nam đã bị xóa bỏ, trừ một số lĩnh vực đặc thù như ngân hàng và chứng khoán. Ngoài ra, một số hạn chế về tỷ lệ sở hữu cổ phần hạn chế không có thời hạn dỡ bỏ:
- Dịch vụ liên quan đến lâm nghiệp, săn bắn và nông nghiệp: Chỉ cho phép thành lập liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phần vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 51% vốn pháp định của liên doanh.
- Dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng: Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không vượt quá 65% vốn pháp định của liên doanh.
Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp và công ty trong nước, chúng ta có thể thấy sự dè dặt trong việc áp dụng các cam kết quốc tế khi mà các cam kết quốc tế đó quy định khác với luật trong nước vẫn đang tồn tại, gây cản trở một phần không nhỏ đến sự phát triển và hòa mình vào xu hướng hội nhập của các công ty trong nước. Nguyên nhân của vấn đề này một phần là do các chủ thể áp dụng pháp luật không có sự hiểu biết về các cam kết quốc tế hoặc do e ngại sẽ vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam. Mặt khác, mặc dù các tập đoàn đa ngành ở nước ta đang phát triển khá mạnh, song số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam vẫn luôn chiếm đa số, chưa thực sự đáp ứng đủ những yêu cầu cần thiết để gia nhập thị trường này.
Thực tế cho thấy, sau khi Việt Nam gia nhập WTO ngày 7/11/2006, hoạt động M&A phát triển đặc biệt mạnh mẽ trong những năm gần đây. Một số vụ thương vụ M&A điển hình trong giai đoạn này là: Công ty Cổ phần Doanh nghiệp trẻ Đồng Nai mua lại Cheerfield Rama, Dai-ichi mua lại Bảo Minh CMG, Kinh Đô mua lại Kem Wall’s, Anco mua lại nhà máy sữa của Nestlé. Trong năm 2008, các hoạt động này cũng diễn ra khá mạnh mẽ: Indochina Capital Vietnam Holding mua 20% cổ phần của Công ty Thời trang Việt – Ninomaxx, Tập đoàn Goldman Sachs đầu tư 30% cổ phần của Công ty cổ phần Diana, hay việc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho Eximbank bán 25% vốn điều lệ cho nhà đầu tư nước ngoài là: Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC),… Năm 2016, tổng giá trị các thương vụ M&A của Việt Nam đạt mức kỷ lục trong vòng 9 năm gần đây với con số 5,82 tỷ USD, tăng trưởng gần 12%. Trong tổng số hơn 500 thương vụ diễn ra trong năm 2016, số thương vụ có giá trị lớn trên 1 tỷ USD chỉ là 2 thương vụ. Phần lớn các thương vụ có giá trị khiêm tốn, khoảng dưới 20 triệu USD. Bước sang quý I/2017, tổng giá trị các thương vụ M&A lại giảm 25% so với cùng kỳ năm trước, chỉ đạt 1,1 tỷ USD. Tuy nhiên, thương vụ “bom tấn” bán thành công hơn 343 triệu cổ phần của Sabeco vừa qua đã phá toàn bộ kỷ lục trong các thương vụ M&A trước đó. Đồng thời, thương vụ này cũng đưa tổng giá trị các thương vụ M&A trong năm nay lên con số 8 tỷ USD. Ngoài ra, thị trường cũng chứng kiến những sự đầu tư mạnh mẽ của các nhà đầu tư trong nước ra thị trường nước ngoài như Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel đầu tư vào thị trường Campuchia, Lào; tập đoàn FPT đầu tư vào thị trường Cambodia, Myanmar, Isreal,…
Những con số biết nói trên đã cho thấy, mở cửa thị trường không chỉ đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mà nếu như các doanh nghiệp, công ty trong nước cũng biết tận dụng lợi thế về thị trường mở cửa, có am hiểu vững về pháp luật cùng với khả năng tài chính tốt thì hoàn toàn có thể tham gia vào thị trường M&A quốc tế một cách hiệu quả.
Cam kết trong khu vực ASESAN Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
Đối với khu vực ASEAN, nhiều dự đoán cho rằng hoạt động M&A trong khu vực ASEAN sẽ diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và năng lượng, do các Hiệp định được ký kết giữa các quốc gia ASEAN đã tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, các rào cản thương mại, thuế quan hầu như không còn trong khu vực này. Các cam kết của Việt Nam trong khu vực ASEAN về hoạt động M&A chủ yếu được thể hiện ở các hiệp định hợp tác về đầu tư.
Ngày 15/12/1987 những nhà lãnh đạo phụ trách các vấn đề kinh tế của các nước ASEAN 6 đã kí kết hiệp định hợp tác về đầu tư mang quy mô toàn ASEAN đầu tiên có tên là Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư (AIGA) để tiến hành hợp tác sâu hơn trong lĩnh vực đầu tư trong khu vực. Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư có hiệu lực từ ngày 2/8/1988, sau đó được sửa đổi một lần vào năm 1996. Hiệp định này khá ngắn, chỉ bao gồm 13 điều khoản và mới chỉ dừng lại ở những qui định liên quan tới các yếu tố về bảo hộ đầu tư và xúc tiến đầu tư. Cụ thể, theo qui định tại Khoản 1 Điều IV “Mỗi bên kí kết trong phạm vi lãnh thổ của mình sẽ đảm bảo bảo hộ đầy đủ đối với các khoản đầu tư được thực hiện bởi nhà đầu tư của bên kí kết khác theo qui định của bên kí kết đó”.
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) được các quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á lập ngày 07-10-1998 nhằm khẳng định lại tầm quan trọng của việc giữ vững sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở tất cả các quốc gia, đồng thời ghi nhớ những thỏa thuận nhằm hình thành Khu vực Đầu tư ASEAN có tính cạnh tranh vào năm 2010 sẽ góp phần hướng tới Tầm nhìn ASEAN năm 2020. Hiệp định này chính thức có hiệu lực vào ngày 21 tháng 6 năm 1999 chứa đựng 21 điều khoản. Với mục tiêu tạo ra môi trường kinh doanh cạnh tranh, tự do, minh bạch, so với IGA (Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư), AIA tiếp tục đưa ra các thỏa thuận nâng cao hơn nữa tiến trình tự do hóa, xúc tiến, thuận lợi hóa và hài hòa hóa chính sách đầu tư nước ngoài đang được thực hiện trong ASEAN; loại trừ danh mục đầu tư và bổ sung điều khoản về áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối hệ quốc, bảo hộ đầu tư.
Năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đưa ra quyết định thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN. Trong xu thế này, nhiều điều khoản trong AIA và IGA không đáp ứng được mục tiêu mà AEC đặt ra như AIA chỉ bao gồm các thỏa thuận về tiếp cận thị trường, các thỏa thuận về bảo hộ đầu tư theo IGA cũng trở nên lạc hậu với tình hình đầu tư, thương mại trong khu vực. Vì vậy, các nước thành viên ASEAN đã thống nhất quan điểm soạn thảo văn bản mới thay thế hai Hiệp định về đầu tư hiện hành nhằm cải thiện môi trường đầu tư cạnh tranh, minh bạch, tự do và thông thoáng hơn. Sau hơn 2 năm chuẩn bị và soạn thảo, Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) đã được kí kết vào ngày 26/02/2009 và có hiệu lực vào ngày 29/3/2012. Hiệp định ACIA gồm 3 phần với 49 Điều khoản, trong đó, ngoài việc kế thừa các quy định trong IGA và AIA, căn cứ vào thực tiễn đầu tư quốc tế và khu vực, ACIA còn đưa ra những điều chỉnh mới nhằm cải thiện môi trường đầu tư ASEAN như: mở rộng khái niệm nhà đầu tư ASEAN, đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh giữa nhà đầu tư nước ngoài và quốc gia thành viên, bổ sung những điều khoản với về chuyển giao và đãi ngộ đầu tư, đưa ra một danh sách các biện pháp hạn chế đầu tư và các tiêu cực trong đầu tư…
Các hiệp định thương mại tự do có cam kết về đầu tư Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
Hiệp định thương mại tự do (FTA) là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng việc cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên[34] Theo báo cáo của Chính phủ do Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh ký gửi Thường vụ Quốc hội ngày 21-12 liên quan đến Nghị quyết số 1052/NQ-UBTVQH13 về một số định hướng, nhiệm vụ và giải pháp thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tính đến nay Việt Nam đã ký kết và thực thi 10 FTA, kết thúc đàm phán 2 FTA, và đang đang đàm phán 4 FTA khác (bao gồm Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA ASEAN- Hồng Kông, FTA với Israel và FTA với Khối thương mại tự do châu Âu). Trong 10 FTA đã ký kết và thực thi có 6 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN (gồm AFTA, 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và New Zealand), 4 FTA ký kết với tư cách là một bên độc lập (Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế ÁÂu)[35]. Hai FTA đã kết thúc đàm phán là FTA với Liên minh châu Âu, và Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Cụ thể:
Hiệp định Hợp tác Kinh tế Việt Nam -Nhật Bản (VJEPA): Nội dung về đầu tư của Hiệp định này dẫn chiếu đến toàn bộ Hiệp định Khuyến khích, Bảo hộ và Tự do hoá đầu tư Việt Nam – Nhật Bản.
Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA): Đây là một hiệp định về đầu tư độc lập, trong khuôn khổ hợp tác kinh tế của Cộng đồng ASEAN. Hiệp định này thay thế hai hiệp định về đầu tư của ASEAN đã ký trước đây là Hiệp định Khu vực Đầu tư ASEAN (về tự do hoá và thuận lợi hoá đầu tư, ký năm 1998) và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN (IGA –ký năm 1986);
- Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN –Australia & New Zealand (AANZFTA). Đây là một Hiệp định trọn gói, trong đó Chương Đầu tư được đàm phán và ký kết cùng lúc với các chương khác của Hiệp định.
- Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA)
- Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA)
Nhìn chung, các cam kết quốc tế Việt Nam tham gia khá đầy đủ và đa dạng, góp phần thúc đẩy sự đầu tư mạnh mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường trong nước cũng như thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước mạnh dạn đầu tư vào thị trường quốc tế. Tuy nhiên việc nội luật hóa những quy định quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế, đòi hỏi cần phải có những thay đổi tích cực hơn.
2.3. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về sáp nhập công ty cổ phần có yếu tố nước ngoài Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
2.3.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về điều kiện đối với hoạt động sáp nhập công ty cổ phần có yếu tố nước ngoài
Việc nhà đầu tư nước ngoài sở hữu cổ phần của các công ty trong nước – một trong những cách để tiến hành sáp nhập công ty nội địa là một vấn đề khá nhạy cảm. Đó có thể trở thành một trong những cách thức để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, đó cũng có khả năng là cách thức dễ dàng nhất để thâm nhập thị trường, biến thị trường nước nhà trở thành thị trường nội địa của các nhà tư bản nước ngoài.
Để điều chỉnh vấn đề trên, xu hướng pháp luật Việt Nam đang ngày càng nới lỏng tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Nghị định 60/2015/NĐCP ngày 26 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 7 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán quy định về tỉ lệ sở hữu với các nhà đầu tư nước ngoài như sau:
“1. Tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại công ty đại chúng như sau:
- Trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì thực hiện theo điều ước quốc tế;
- Trường hợp công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh mà pháp luật về đầu tư, pháp luật liên quan có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài thì thực hiện theo quy định tại pháp luật đó.
- Đối với công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài mà chưa có quy định cụ thể về sở hữu nước ngoài, thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa là 49%;
- Trường hợp công ty đại chúng hoạt động đa ngành, nghề, có quy định khác nhau về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài không vượt quá mức thấp nhất trong các ngành, nghề (mà công ty đó hoạt động) có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định khác;
- Đối với công ty đại chúng không thuộc các trường hợp quy định tại Điểm a, b, c khoản này, tỷ lệ sở hữu nước ngoài là không hạn chế, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.”
Với tỉ lệ nêu trên, việc các nhà đầu tư nước ngoài muốn gia nhập thị trường trong nước hoàn toàn đã dễ dàng hơn rất nhiều khi mức tỉ lệ tối đa mà nhà đầu tư có thể sở hữu là 49% (đối với công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài mà chưa có quy định cụ thể) và không giới hạn (đối với công ty đại chúng không nằm trong trường hợp bị hạn chế tỉ lệ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
LĐT 2014 quy định hoạt động sáp nhập như là một cách đầu tư kinh doanh đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Khoản 5 điều 3 Luật đầu tư 2014 quy định:
“Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.”
Các hình thức đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài bao gồm:
- Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế: Quy định tại Điều 22 Luật đầu tư 2014 và được hướng dẫn cụ thể tại Điều 44 Nghị định 118/2015/NĐ-CP.
Điểm mới của Luật đầu tư 2014 so với Luật đầu tư 2005 là trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và phải đáp ứng các điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ và các điều kiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ, nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu vốn điều lệ không hạn chế trong tổ chức kinh tế, trừ một số trường hợp hạn chế theo quy định của pháp luật về chứng khoán, về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như đã trình bày ở phần trên.
- Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế: Được quy định tại Điều 24 Luật đầu tư 2014.
Hình thức đầu tư này được hiểu là nhà đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế để thực hiện hoạt động đầu tư. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn vào tổ chức kinh tế theo các hình thức sau đây (Khoản 1 điều 25 Luật đầu tư 2014):
- + Mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm của công ty cổ phần;
- + Góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh;
- + Góp vốn vào tổ chức kinh tế khác không thuộc trường hợp quy định tại hai trường hợp trên
Và mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế theo các hình thức sau đây:
- + Mua cổ phần của công ty cổ phần từ công ty hoặc cổ đông;
- + Mua phần vốn góp của các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn để trở thành thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn;
- + Mua phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh; Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
- + Mua phần vốn góp của thành viên tổ chức kinh tế khác không thuộc ba trường hợp trên.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP: Hình thức đầu tư này được quy định tại Điều 27 Luật đầu tư 2014 và được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định 15/2015/NĐ-CP.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC: Hình thức đầu tư này được quy định tại Điều 28 Luật đầu tư 2014.
2.3.2. Các quy định quy trình, thủ tục sáp nhập công ty cổ phần có yếu tố nước ngoài
Các nhà đầu tư nước ngoài muốn thực hiện hoạt động đầu tư vào thị trường Việt Nam thì cần phải tuân theo một số thủ tục nhất định. Để một dự án đầu tư muốn được triển khai trên lãnh thổ Việt Nam, thông thường nhà đầu tư sẽ phải xem xét rằng dự án đó có thuộc trường hợp phải quyết định chủ trương đầu tư hay thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư hay không để thực hiện trước khi triển khai dự án trên thực tế.
Hiện nay, các dự án phải quyết định chủ trương đầu tư đang được quy định tại Điều 30, 31 và 32 Luật đầu tư năm 2014, lần lượt tương ứng với thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Khi dự án của nhà đâu tư thuộc những trường hợp luật định phải quyết định chủ trương đầu tư, nhà đầu tư nộp hồ sơ dự án đầu tư cho cơ quan quản lý đâu tư có thẩm quyền. Nếu dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì sau 35 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư thì cơ quan đăng kí đầu tư sẽ thông báo kết quả cho nhà đầu tư, tuy nhiên đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ hiện nay pháp luật chưa quy định về thời gian cụ thể thông báo kết quả cho nhà đầu tư.
Cũng như thủ tục quyết định chủ trương đầu tư thì không phải mọi dự án đầu tư đều phải có Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư, mà chỉ những dự án được pháp luật quy định mới phải có Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư. Hiện nay những trường hợp phải thực hiện và không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư đang được quy định tại Khoản 1 và Khoản 2
Điều 36 Luật đầu tư năm 2014: Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
“Điều 36. Trường hợp thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
- Các trường hợp phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư:
- Dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài;
- Dự án đầu tư của tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này.
- Các trường hợp không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư:
- Dự án đầu tư của nhà đầu tư trong nước;
- Dự án đầu tư của tổ chức kinh tế quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này;
- Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế.”
Như vậy nhà đầu tư nước ngoài sẽ thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho dự án với thành lập doanh nghiệp trên cơ sở sáp nhập. Chỉ những dự án của nhà đầu tư nước ngoài và của tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật đầu tư 2014 mới bắt buộc phải có giấy chứng nhận đăng kí đầu tư. Tuy nhiên những dự án thuộc trường hợp không bắt buộc phải có Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư (Khoản 2 Điều 36 Luật đầu tư) vẫn có thể thực hiện thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư nếu nhà đầu tư có nhu cầu.
Hồ sơ cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư bao gồm:
- Văn bản đề nghị/đăng ký điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư theo mẫu
- Văn bản đề nghị sáp nhập, mua lại doanh nghiệp
- Biên bản họp và Quyết định của Đại hội đồng cổ đông đối với Công ty cổ phần về việc sáp nhập doanh nghiêp
- Bản giải trình những nội dung điều chỉnh đối với dự án đầu tư (ghi rõ những thay đổi so với dự án đang triển khai) và lý do điều chỉnh
- Bản sửa đổi, bổ sung của hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh (nếu có)
- Bản sao Điều lệ của doanh nghiệp
- Bản sao Giấy chứng nhận đầu tư
- Danh sách cổ đông sáng lập Công ty cổ phần theo mẫu kèm theo các giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của cổ đông đã được hợp pháp hóa lãnh sự
- Báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp và dự án đầu tư đến thời điểm điều chỉnh
- Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo qui định của pháp luật phải có vốn pháp định
- Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một hoặc một số cá nhân khác đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo qui định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề (chứng chỉ hành nghề được cấp ở nước ngoài không có hiệu lực thi hành tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có qui định khác). Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
Nếu người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người nước ngoài thì phải có thêm các giấy tờ sau:
- Hộ chiếu Việt Nam; Hộ chiếu nước ngoài (hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu nước ngoài) và một trong các giấy tờ chứng minh người gốc Việt Nam ở nước ngoài. Các giấy tờ này phải được hợp pháp hóa lãnh sự.
- Giấy đăng ký tạm trú do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và Hộ chiếu còn hiệu lực đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam.
- Nếu người đại diện theo pháp luật không phải cổ đông của công ty thì phải có thêm Hợp đồng lao động
Để được cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư thì nhà đầu tư nộp hồ sơ cho cơ quan đăng kí đầu tư theo quy định của pháp luật, khi nhận đủ hồ sơ thì cơ quan đăng kí đầu tư sẽ cấp Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư cho nhà đầu tư sau 15 ngày. Trường hợp dự án thuộc trường hợp phải quyết định chủ trương đầu tư thì Giấy chứng nhận đăng kí đầu từ sẽ được cấp sau 5 ngày làm việc kể từ kí cơ quan đăng kí đầu tư nhận được văn bản chấp thuận đầu tư và như thế nhà đầu tư chỉ phải nộp hồ sơ 1 lần nếu thuộc trường hợp phải quyết định chủ trương đầu tư và phải có Giấy chứng nhận đăng kí đầu tư. Quy trình này đã tạo thuận lợi cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện các thủ tục đầu tư.
Tiểu kết chương II
Để tiến hành thành công một thương vụ sáp nhập Công ty cổ phần, các công ty phải trải qua rất nhiều bước khác nhau. Chính vì vậy mỗi nội dung, mỗi vấn đề khi tiến hành sáp nhập Công ty cổ phần đều cần phải được điều chỉnh của các quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia hoạt động sáp nhập. Những quy định này nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau như: Bộ luật dân sự 2015, Luật doanh nghiệp 2014, Luật đầu tư 2014, Luật chứng khoán 2010,… và một số các văn bản hướng dẫn khác. Có thể thấy pháp luật đã điều chỉnh hoạt động này ở nhiều khía cạnh khác nhau. Song các quy định này không nằm tập trung cho nên dẫn đến tình trạng khi cùng điều chỉnh một vấn đề sẽ thiếu tính đồng bộ, thống nhất. Do đó có thể gây ảnh hưởng đến các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật và làm giảm hiệu quả. Vì vậy mà thực tiễn thực thi pháp luật về hoạt động sáp nhập đang đòi hỏi các quy phạm điều chỉnh hoạt động này cần được hoàn thiện hơn. Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật về sáp nhập công ty cổ phần ở VN

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật sáp nhập công ty cổ phần ở VN […]