Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Thực trạng xây dựng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ

2.1.1. Quy định pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ của một số quốc gia trên thế giới

Thời điểm ca mang thai hộ đầu tiên trên thế giới được xác định vào năm 1979 tại Hoa Kỳ khi bác sĩ Richard M.Levin tiếp một cặp vợ chồng mà người vợ không có khả năng sinh con. Khi đó, người vợ đã rất mong muốn có một đứa con của chồng, dù bản thân bà không mang thai được. Biết được nguyện vọng này, bác sĩ Levin đã nghĩ đến cách nhờ một phụ nữ khác mang thai giúp thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của người chồng. Tuy nhiên, để thực hiện được ý định, ông Levin đã vấp phải các vấn đề pháp lý đối với việc mang thai hộ này và mất chín tháng hợp tác với các luật sư, nghiên cứu luật của bang và của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ để hiểu rõ hơn các khía cạnh pháp luật phức tạp của mối quan hệ mang thai hộ (còn gọi là làm mẹ thuê, đẻ thuê). Các khía cạnh này cũng được nghiên cứu kỹ, có sự tham khảo ý kiến của nhiều chức sắc tôn giáo và nhà đạo đức học để đi đến một thỏa thuận không xúc phạm đến giá trị đạo đức của cộng đồng.

Cuối cùng, một “hợp đồng”, còn gọi là “biên bản ghi nhớ” đã được soạn thảo rất kín kẽ, bảo đảm quyền lợi cho cặp vợ chồng vô sinh, người mẹ mang thai hộ và cả đứa trẻ. Người mẹ mang thai hộ lần đầu tiên trên thế giới đó đã được các thầy thuốc khám, tư vấn rất kỹ lưỡng về các vấn đề y tế sinh sản cũng như được các nhà hoạt động pháp luật tư vấn về vấn đề pháp lý xoay quanh quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp mang thai hộ này. Đến đầu năm 1980, theo thỏa thuận giữa người mẹ mang thai hộ và cặp vợ chồng vô sinh, các bác sĩ đã tiến hành thụ tinh nhân tạo phôi thai bằng tinh trùng của người chồng với noãn của người vợ và phôi thai được cấy vào người phụ nữ mang thai hộ. Chín tháng sau, tại Lousville, người phụ nữ mang thai hộ đã sinh hạ một bé trai và năm ngày sau đó, người phụ nữ mang thai hộ đã trình diện trước Tòa án để chính thức chấm dứt những quyền liên quan đến việc làm mẹ của mình và trao lại con cho người bố sinh học. Sau khi đã hoàn tất các thủ tục về mối quan hệ pháp lý với đứa trẻ, cặp vợ chồng được toàn quyền chăm sóc, nuôi dạy đứa trẻ. Đó là câu chuyện về trường hợp mang thai hộ hợp pháp và có chuẩn bị kỹ lưỡng đầu tiên trên thế giới. [34, tr.6]

Đó là câu chuyện về trường hợp mang thai hộ hợp pháp và có chuẩn bị kỹ lưỡng đầu tiên trên thế giới. Cũng từ đây, các quốc gia đã có sự ghi nhận tuỳ mức độ khác nhau dưới góc độ luật pháp đến vấn đề mang thai hộ này. Theo một khảo sát của Liên đoàn Sinh sản Thế giới về vấn đề mang thai hộ được thực hiện vào năm 2013 tại 105 quốc gia, đã có 62 quốc gia phản hồi. Trong đó, 19 quốc gia có quy định, luật mang thai hộ rõ ràng; 24 quốc gia theo đạo Hồi và Thiên chúa giáo nghiêm cấm mang thai hộ; 14 quốc gia không có quy định cụ thể nhưng cho phép thực hiện dựa trên các luật liên quan. [13]

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.1.1. Các quốc gia chưa hợp pháp hóa mang thai hộ Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

  • Một số nước ở châu Âu

Tại Pháp và Italy quy định cấm phụ nữ độc thân và các cặp vợ chồng đồng tính nữ sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, TTTON và cấm mang thai hộ. Do sự phát triển mạnh mẽ của giáo hội Công giáo tới pháp luật của các quốc gia này, họ cho rằng đứa trẻ phải được sinh ra một cách tự nhiên, là món quà của Thượng đế ban tặng, con người không thể tự tạo ra trẻ. Đồng thời, kỹ thuật TTTON với việc hủy phôi đã đi ngược lại với quan điểm của

Giáo hội. Đạo luật số 94-653 năm 1994 (còn gọi là Luật đạo đức sinh học) của Pháp cấm việc mang bầu và đẻ thuê. Bất kỳ thoả thuận “mang thai hộ” nào dù mang tính thương mại hay không cũng là là bất hợp pháp.

Tại tỉnh Quebec, Canada cấm tất cả các thỏa thuận “mang thai hộ”. Bộ luật Dân sự Quebec làm cho tất cả các hợp đồng “mang thai hộ”, cho dù thương mại hay nhân đạo, đều không thể thực thi. Điều 541, Bộ luật dân sự của Quebec năm 1991 quy định: “bất kỳ thỏa thuận nào, theo đó một người phụ nữ cam kết sinh sản hoặc mang theo một đứa trẻ cho một người khác là hoàn toàn vô giá trị“.

  • Một số bang ở Mỹ

Các bang Arizona, Indiana, Michigan, Uhtar, North Dakota “mang thai hộ” lại bị cấm tuyệt đối. Pháp luật bang Michigan cấm hoàn toàn tất cả các thỏa thuận “đẻ thuê” hay nói cách khác là “mang thai hộ” có tính chất thương mại. Đó là một trọng tội nếu tham gia vào thỏa thuận như vậy, và có thể bị phạt phạt tiền lên đến 50.000 USD và tối đa năm năm tù giam. Pháp luật làm cho họ không thể thực thi việc mang thai hộ ở tiểu bang này.

  • Một số nước ở châu Á

Trung Quốc là một quốc gia còn tồn tại cấu trúc mô hình gia đình truyền thống. Trong mô hình truyền thống này, người phụ nữ sẽ kết hôn và sinh con một cách tự nhiên. Do vậy, việc mang thai bằng kỹ thuật TTTON với phụ nữ đơn thân không được khuyến khích ở Trung Quốc. Phụ nữ độc thân mang thai và sinh con tự nhiên hay bằng phương pháp TTTON đều không được cấp giấy khai sinh. Điều này dẫn tới việc đứa trẻ sẽ không có hộ khẩu (hay gọi là hukou) – giấy phép cư trú của địa phương để được tham gia vào các dịch vụ xã hội, bao gồm giáo dục công cộng, sức khỏe y tế, hộ chiếu, trừ khi họ đóng một loại phí gọi là “phí bảo trì xã hội” (social maintenance fee) đối với hành vi vi phạm “Chính sách một con” của Trung Quốc.

Nhật Bản tuy là một trong số các quốc gia đi đầu trong khu vực về khoa học và các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, tuy nhiên, Nhật Bản vẫn chưa có luật về công nghệ sinh sản. Hiện nay, dự thảo vẫn đang được thảo luận một số vấn đề gây tranh cãi, bao gồm vệc đẻ thuê, cho và nhận tinh trùng, noãn từ người hiến tặng. Do nền tảng tư duy của người Nhật Bản về tầm quan trọng của gia đình huyết thống, tức là các thành viên trong gia đình phải có mối quan hệ huyết thống với nhau. Việc cho nhận tinh trùng, noãn từ người hiến tặng sẽ vi phạm sâu sắc tới mô hình gia đình này. Bởi chưa có luật điều chỉnh, nên đã xảy ra trường hợp một người mẹ đơn thân không thể mang thai đã dùng noãn của mình và nhờ mang thai hộ, dẫn tới việc đứa trẻ sinh ra bằng phương pháp TTTON có hai người mẹ: mẹ sinh học (người mang thai và sinh ra đứa trẻ) và mẹ cung cấp noãn. Trong trường hợp này, Tòa án tối cao Nhật Bản đã phán quyết phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ hợp pháp của đứa trẻ, song Bộ luật dân sự Nhật Bản lại chưa có quy định liên quan tới vấn đề này. Do vậy, tình trạng pháp lý cũng như quyền và lợi ích của phụ nữ độc thân cũng như đứa trẻ do phụ nữ độc thân sinh ra không được đảm bảo, gây bất lợi trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc đứa trẻ cũng như quyền thừa kế của trẻ trong trường hợp không có di chúc. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

2.1.2.1.Các quốc gia hợp pháp hóa mang thai hộ

Trên thế giới hiện nay nhiều nước, vùng lãnh thổ cho phép mang thai hộ đã quy định cụ thể trong luật như: Anh, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan, Hunggari, Canada, Australia, Nam Phi, Brazin, Hy Lạp, Estonie, Equateur, Hong Kong, Ấn Độ, Iran, Nga, Salvador, Ukraine, Pháp. Và tại Mỹ, một thiểu số bang cho phép mang thai hộ như bang Arkansas, Californie, Illinois, NewHampshire, Texas, Utah, Virginie, Kentucky, Washington, thậm chí, các bang Alaska, Lowa, Nevada cho phép ngay cả khi thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích kinh tế.

  • Một số nước ở châu Âu

Tại Anh, việc mang thai hộ bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản và cả việc quảng cáo để tìm người mang thai hộ đều được cho phép, cụ thể là quy định tại Luật về thụ tinh nhân tạo năm 1994: thừa nhận tính hợp pháp của việc chuyển quyền làm cha mẹ từ người đẻ thuê sang người thuê đẻ; quan hệ cha mẹ được thiết lập bằng quyết định của tòa án sau khi đứa trẻ ra đời, từ yêu cầu của cha mẹ thuê đẻ. Người mẹ đẻ thuê có 6 tuần để phản đối việc xác định quan hệ cha mẹ này. Bộ Luật Hình sự của Anh nghiêm cấm việc trả tiền cho người môi giới cha mẹ thuê đẻ và người mang thai hộ.

Ở Ukraine, từ năm 2002, “mang thai hộ” đã được công nhận và hoàn toàn hợp pháp. “Mang thai hộ” được chính thức quy định bởi Bộ luật Gia đình Ukraine và Lệnh 771 của Bộ Y tế Ukraine. Theo đó, vợ chồng hiếm muộn có thể lựa chọn giữa thai “mang thai hộ”, hiến trứng hoặc tinh trùng, phôi thai thông qua các chương trình đặc biệt và sự kết hợp của chúng mà không cần có sự cho phép từ bất kỳ cơ quan quản lý. Sự đồng ý bằng văn bản của tất cả các bên tham gia (người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ) trong thỏa thuận “mang thai hộ” là bắt buộc. Theo luật của Ukraine, người “mang thai hộ” không có quyền đối với trẻ em sinh ra và đứa trẻ sinh ra về mặt pháp lý là con của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Tên của người “mang thai hộ” là không bao giờ được liệt kê trong giấy khai sinh. Người mang thai hộ cũng không thể giữ đứa trẻ sau khi sinh. Ngay cả khi một chương trình quyên góp đã diễn ra và không có mối quan hệ sinh học giữa đứa trẻ và cha mẹ nhờ mang thai hộ thì tên của họ vẫn được ghi trong giấy khai sinh (khoản 3 trong tổng số 123 điều của Bộ Luật Gia Đình của Ukraine. Phương pháp mang thai hộ cũng có thể được áp dụng với những người phụ nữ độc thân bằng việc áp dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của những người hiến tặng đã biết hoặc vô danh. [34, tr.30]

  • Australia Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Đạo luật mang thai hộ năm 2010 của Australia quy định, việc mang thai hộ được công nhận nếu giữa người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ có thỏa thuận đứa trẻ sau khi sinh ra là con của người nhờ mang thai hộ, chuyển giao quyền nuôi dưỡng và giám hộ đứa trẻ cho người nhờ mang thai hộ; người nhờ mang thai hộ đồng ý nhận trách nhiệm lâu dài trong việc nuôi dưỡng và giám hộ cho đứa trẻ. Luật này cũng quy định hậu quả của việc mang thai hộ theo một số nguyên tắc: một là, người phụ nữ mang thai hộ và chồng của người phụ nữ này sẽ là bố mẹ hợp pháp của đửa trẻ từ lúc bắt đầu mang thai cho đến khi chuyển giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Do đó, trong quá trình mang thai, tính mạng của đứa trẻ hoàn toàn do người phụ nữ mang thai hộ quyết định. Nếu người này muốn từ bỏ đứa trẻ thì việc đó là hợp pháp. Hai là, theo thỏa thuận giữa hai bên, sau khi đứa trẻ sinh ra mà có bất kỳ sự tranh chấp nào về quyền nuôi dưỡng hoặc giám hộ cho đứa trẻ thì quyền giám hộ hợp pháp thuộc thẩm quyền của Tòa vị thành niên. Nguyên tắc giải quyết của Tòa vị thành niên là vì lợi ích tốt nhất của đứa trẻ. [33, tr.8]

  • Một số nước ở châu Á

Mặc dù vấn đề “mang thai hộ” vẫn còn gây tranh cãi và bị cấm ở nhiều quốc gia nhưng ở Ấn Độ “mang thai hộ” lại phát triển mạnh kể từ khi Tòa án tối cao hợp pháp hóa vấn đề này. Năm 2010, Quốc hội Ấn Độ đã thông qua dự luật điều chỉnh công nghệ sinh sản có hỗ trợ. Theo luật mới này, tuổi người mang thai hộ không được dưới 21 hoặc hơn 35 nhằm hạn chế tình trạng trước đây, có nhiều người mang thai hộ ở tuổi vị thành niên hoặc trên 40 tuổi. Nếu đương sự có chồng, họ phải được sự đồng ý của chồng. Người mang thai hộ cũng không được sinh nở quá năm lần, tính cả lần sinh con ruột. Điều khoản này nhằm bảo vệ sức khỏe của mẹ và trẻ sơ sinh. Riêng mang thai hộ, luật không cho phép thực hiện quá 03 lần cho cùng một cặp vợ chồng. Trong luật cũng quy định rõ chỉ có công dân Ấn Độ mới được ký hợp đồng “mang thai hộ”. Không bệnh viện nào được phép đưa người ra nước ngoài để “mang thai hộ”. Tên tuổi người mang thai hộ phải được giữ bí mật tối đa. Đạo luật cũng có một điều khoản quan trọng quy định rằng giấy khai sinh em bé phải ghi tên cha mẹ là người nhờ “mang thai hộ” và những người này phải chấp nhận nuôi dưỡng đứa bé cho dù gặp phải trường hợp mắc bệnh bẩm sinh.

Ở Thái Lan, mang thai hộ vì mục đích thương mại bị cấm. Ngày 28/11/2014, Quốc hội Thái Lan đã bỏ phiếu lần một thông qua dự luật cấm dịch vụ mang thai hộ. Dự luật này có hiệu lực từ tháng 6 năm 2015. Theo dự luật này, người thuê sẽ bị phạt đến 10 năm tù và/hoặc phạt tiền 200.000 baht, còn người môi giới sẽ bị phạt đến 05 năm tù và/hoặc bị phạt 100.000 baht. Dự luật là một danh sách các thủ tục để bảo vệ các em bé được hình thành qua việc “mang thai hộ”, người mang thai hộ và kiểm soát mối quan hệ pháp lý giữa người “mang thai hộ”, người mẹ và người cha của bé. Dự thảo đã ghi nhận các điều kiện của mang thai hộ, cụ thể: Cha và mẹ thật của đứa bé không thể có con được và muốn có một đứa con bằng cách nhờ một người phụ nữ khác mang thai hộ. Cặp vợ chồng này phải sẵn sàng cả tâm lý, tinh thần, và vật chất để trở thành cha mẹ khi em bé ra đời; Người mang thai hộ không phải là mẹ của đứa trẻ được sinh ra; Người mang thai hộ phải có một đứa con trước khi thực hiện “mang thai hộ” và nếu đã kết hôn, phải được sự đồng ý của chồng mình. Ðiều này rõ ràng là rất cần thiết để phòng việc cô và gia đình tuyên bố bất kỳ quyền lợi gì khi em bé ra dời. Mặc dù vậy, Cơ quan y tế của Thái Lan vẫn có thể tuyên bố thêm điều kiện và điều khoản theo sự thích hợp và chứng thực của Hội đồng bảo vệ trẻ Em. [34, tr.33]

2.1.2. Lịch sử hình thành phát triển pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Ở Việt Nam, vào ngày 30/4/1998, 03 em bé TTTON đầu tiên chào đời tại bệnh viện Từ Dũ, đánh dấu một bước ngoặt lớn cho ngành sản khoa Việt Nam. Mặc dù ở nước ta, kỹ thuật TTTON được thực hiện thành công khá muộn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Song, trong những năm gần đây, nền y học nước nhà đã đạt được những bước tiến nhanh và đáng khích lệ, ngay cả khi Luật HN&GĐ năm 2000 chưa quy định về mang thai hộ. [24]

Tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 của Chính phủ quy định về sinh con theo phương pháp khoa  học đã nghiêm cấm hành vi mang thai hộ. Vì thế chưa có văn bản nào quy định hậu quả pháp lý cũng như xác định cha, mẹ đứa trẻ được sinh ra, các quyền nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan (người mang thai, người nhờ mang thai hộ).

Năm 2011, Bộ Y tế đã tổ chức Đánh giá 08 năm thi hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP. Qua khảo sát 07 Trung tâm hỗ trợ sinh sản được Bộ Y tế ra quyết định công nhận đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, TTTON, các Trung tâm đều nêu khó khăn trong việc thực hiện khoản 1 Điều 6 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP. Thực tế, pháp luật bấy giờ quy định cấm mang thai hộ, tuy nhiên các bác sĩ hay nhân viên của Trung tâm không có nghiệp vụ nên khó có thể phát hiện trường hợp mang thai hộ với trường hợp thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Qua toạ đàm, các Trung tâm đều có ý kiến hiện nay có nhiều trường hợp đến gặp bác sĩ bày tỏ nguyện vọng tha thiết được làm kỹ thuật TTTON để nhờ người mang thai hộ. Tuy nhiên, các bác sĩ đều từ chối vì pháp luật không cho phép. Có trường hợp các bác sĩ phát hiện được mang thai hộ là do nghi ngờ và yêu cầu kiểm tra chứng minh nhân dân nhưng vẫn không dám khẳng định chắc chắn là trong các ca do mình thực hiện có ca nào là mang thai hộ không. Đây cũng là một áp lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế khi thực hiện hỗ trợ sinh sản vì nếu vô tình thực hiện mang thai hộ (do không biết vì không có nghiệp vụ cũng như không có quy định pháp luật để kiểm tra trường hợp) nên có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và bị xử phạt. Trong Báo cáo tổng kết 08 năm thi hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP đề xuất xem xét bỏ quy định cấm mang thai hộ tại Việt Nam và quy định cho phép mang thai hộ cũng như cơ chế kiểm soát chặt chẽ các trường hợp này.

Do nhu cầu của xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2014, cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và đã quy định cụ thể về hậu quả pháp lý cũng như xác định cha, mẹ đứa trẻ được sinh ra, các quyền nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan. Năm 2015 đánh dấu sự ra đời của Nghị định 10/2015/NĐ-CP và Thông tư 57/2015/TT-BYT hướng dẫn thi hành Nghị định 10/2015/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành; Quyết định 7358/QĐ-BYT năm 2016 công bố thủ tục hành chính được quy định tại Nghị định 98/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 10/2015/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành. Lần đầu tiên, pháp luật Việt Nam ghi nhận việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng như đưa ra nhiều quy định cụ thể, hướng dẫn chi tiết quy trình thực hiện sinh con bằng kỹ thuật TTTON, mở đường cho hàng triệu gia đình, mang đến hy vọng cho hàng triệu người khó có khả năng mang thai tự nhiên tại Việt Nam. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP có hiệu lực pháp luật. Bệnh viện Từ Dũ đã được phép áp dụng kỹ thuật mang thai hộ tại bệnh viện bắt đầu từ tháng 7/2015, tính đến nay đã có 117 ca mang thai hộ (riêng năm 2018 có 31 ca), trong đó có 58 ca có thai, chiếm tỉ lệ 50%. Hiện đã có 33 bé được sinh ra nhờ mang thai hộ. Tại Bệnh viện Mỹ Đức, trường hợp đầu tiên sinh bé từ chương trình mang thai hộ được ghi nhận là bé trai, cân nặng 3.100g vào ngày 03/8/2018. Hiện bệnh viện đã có 04 bé chào đời và hoàn tất việc chuyển phôi cho 25 trường hợp. [17]

2.1.3. Nội dung pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay 

Theo quy định trong Luật HN&GĐ năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, pháp luật Việt Nam hiện chỉ cho phép thực hiện hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Vì đây là hoạt động có ảnh hưởng đến nhiều đối tượng chủ thể, lại là hoạt động khá đặc biệt nên pháp luật Việt Nam có những quy định rất chặt chẽ về điều kiện, về quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể, về trình tự, thủ tục, và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo này.

2.1.3.1. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

 Để tránh tình trạng nhờ người khác mang thai hộ một cách bừa bãi, pháp luật đã quy định chỉ trong những trường hợp đặc biệt mới được phép nhờ mang thai hộ và phải đáp ứng những điều kiện rất chi tiết, cụ thể theo luật định. Cụ thể, bên nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện như: người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền; vợ chồng không có con chung và đã được tư vấn về pháp lý, y tế, tâm lý… Quy định chi tiết như vậy là nhằm hạn chế việc lợi dụng mang thai hộ trong khi chính người phụ nữ vẫn có khả năng làm mẹ, đồng thời đó cũng là một cách để hạn chế việc thương mại hóa mang thai hộ.

 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định rất cụ thể về điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với đối với từng bên tham gia quan hệ pháp luật này như sau:

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản thoả thuận

 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải dựa trên sự tự nguyện của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ bằng việc tham gia kí kết văn bản thỏa thuận, gọi là thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Thỏa thuận này là sự ràng buộc trách nhiệm của các bên từ khi bắt đầu thực hiện việc mang thai hộ cho tới khi giao nhận con, đồng thời, là cơ sở pháp lý để thực hiện các thủ tục cần thiết như khai sinh cho đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ hoặc khi có tranh chấp giữa các bên.

Điều kiện đối với bên nhờ mang thai hộ

Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Khái niệm “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” theo khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để TTTON, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Ngay trong khái niệm này đã xác định cụ thể đối tượng được áp dụng mang thai hộ, mang thai hộ chỉ được đặt ra đối với những cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Vợ chồng trong trường hợp này phải là những người có hôn nhân hợp pháp, nghĩa là phải đăng kí kết hôn hoặc quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực).

Các trường hợp sau đây có thể được xem xét mang thai hộ do nguyên nhân y khoa, nghĩa là một cặp vợ chồng không thể có con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hoặc việc mang thai có thể nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng của người vợ và của trẻ sinh ra: Đã phẫu thuật cắt tử cung do bệnh lý hay do các tai biến sản khoa…; Không có tử cung hay dị dạng tử cung bẩm sinh; Người vợ bị bệnh nội khoa nặng không thể mang thai: ví dụ bệnh tim,  suy tim…; Có thể xem xét các trường hợp sẩy thai nhiều lần hay thất bại TTTON nhiều lần do vấn đề liên quan đến tử cung. [32]

Do đó, điều kiện đầu tiên đối với bên nhờ mang thai hộ là phải có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tại điểm a khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014. Xác nhận này để đảm bảo hoàn toàn việc người vợ không có khả năng sinh con. Điểm đ khoản 1 Điều 14 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định trong hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cần có: “Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật TTTON về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”. Như vậy, qua quy định này có thể hiểu là cơ sở y tế được thực hiện kỹ thuật TTTON mới có thẩm quyền xác nhận người vợ không có khả năng mang thai ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Giấy xác nhận này mang ý nghĩa quan trọng và cần sự chính xác hoàn toàn vì vậy cơ sở y tế có khả năng thực hiện kỹ thuật TTTON để hỗ trợ sinh sản mới có đủ chuyên môn cần thiết để đánh giá đúng về tình trạng của người vợ xem có khả năng mang thai sinh con hay có thể áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hay không

Vợ chồng đang không có con chung

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định một trong những điều kiện đối với bên nhờ mang thai hộ là vợ chồng đang không có con chung. Quy định này có thể hiểu vợ chồng nhờ mang thai hộ phải chưa từng có con chung cho đến thời điểm nhờ người mang thai hộ hoặc vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể đã từng có con chung nhưng ở thời điểm hiện nay đứa con đã không còn sống, vì thế họ muốn có thêm con, nhưng lại không thể do không thụ thai được nữa. Trong trường hợp, vợ chồng đã có con riêng nhưng đang không có con chung thì vẫn thuộc trường hợp được nhờ mang thai hộ nhưng nếu vợ chồng không có con riêng nhưng có con chung, con chung đó đã cho người khác nhận nuôi hoặc bị mắc chứng bệnh tâm thần hoặc một số bệnh khác làm cho đứa con không phát triển được bình thường… thì lại không được nhờ mang thai hộ.

Với điều kiện trên, vợ chồng có con nhưng con bị bệnh lý di truyền, dị tật bẩm sinh nếu muốn sinh thêm con nữa thì không thể nhờ mang thai hộ. Nhưng nhiều ý kiến cho rằng xét về tình thì được nhờ mang thai hộ trong trường hợp này rất chính đáng, nhân văn. Trước vấn đề này, ông Nguyễn Hồng Hải Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự – Kinh tế, Bộ Tư pháp cũng giải thích chi tiết: “Ở đây chúng tôi quan tâm về quyền con người, đặc biệt là quyền lợi đứa con vì trong hoàn cảnh này mà cho mang thai hộ sẽ đồng nghĩa với việc không thừa nhận đứa trẻ này là người bình thường, gạt bé ra “bên lề”, vô tình gây ảnh hưởng đến sự phát triển của con. Một đứa trẻ sinh ra dù bị dị tật thì cũng là con của cha, của mẹ, cần được bảo vệ, chăm sóc chu đáo”. [25, tr.41] Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

 Quy định chỉ áp dụng mang thai hộ khi vợ chồng chưa có con chung bởi lẽ mang thai hộ là nhằm mục đích nhân đạo, là một nghĩa cử cao đẹp giữa những người phụ nữ với nhau, giống một sự hỗ trợ, giúp đỡ để những người kém may mắn có thể hưởng niềm vui được làm mẹ và khi niềm khao khát có một đứa con ruột thịt thành hiện thực, niềm hạnh phúc làm mẹ thật thiêng liêng, đáng trân trọng. Quy định này nhằm góp phần hạn chế việc nhờ mang thai hộ tràn lan, việc mang thai ảnh hưởng lớn đến người phụ nữ nên không thể xem nhẹ mà chỉ được áp dụng mang thai hộ là giải pháp tối ưu cuối cùng cho người phụ nữ không thể mang thai và sinh con.

Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý

Do mang thai hộ là một biện pháp phức tạp về mọi mặt nên người nhờ mang thai hộ cần phải được chuẩn bị đầy đủ những thông tin, kiến thức trong cả quá trình mang thai hộ về y tế, pháp lý và tâm lý.

Tư vấn về y tế thì Điều 15 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP nêu ra một số nội dung cần thiết bao gồm: “Các phương án khác ngoài việc mang thai hộ hoặc xin con nuôi; Quá trình thực hiện kỹ thuật TTTON và mang thai hộ; Các khó khăn khi thực hiện mang thai hộ; Tỷ lệ thành công của kỹ thuật có thể rất thấp nếu dự trữ buồng trứng của người vợ thấp hoặc người vợ trên 35 tuổi; Chi phí điều trị cao; Khả năng đa thai”. Việc nắm bắt đầy đủ thông tin liên quan đến y tế trong toàn bộ quá trình mang thai hộ là việc làm hết sức cần thiết đối với bên nhờ mang thai hộ. Do mang thai hộ là một biện pháp hỗ trợ sinh sản yêu cầu sự can thiệp của y tế nhiều và rất phức tạp.

Tư vấn về pháp lý là cung cấp, giải đáp thông tin để người nhờ mang thai hộ biết và hiểu được quyền cũng như nghĩa vụ của mình. Từ chỗ hiểu được các quyền và nghĩa vụ của mình, người mang thai hộ sẽ có những ứng xử phù hợp với quy định của pháp luật, gi p hạn chế những tranh chấp xảy ra giữa các bên trong quan hệ mang thai hộ. Hay những điều kiện, thủ tục cần thiết về mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ cần nắm được.

Tư vấn về tâm lý cũng là việc cần thiết đối với bên nhờ mang thai hộ dù người nhờ mang thai hộ không trải qua cảm giác mang thai và sinh con nhưng họ vẫn cần chuẩn bị tâm lý để đón nhận đứa trẻ, để sẵn sàng làm mẹ. Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã đưa ra một số nội dung tâm lý mà bên nhờ mang thai hộ cần được tư vấn trong khoản 1 Điều 17 gồm có: “Các vấn đề về tâm lý trước mắt và lâu dài của việc nhờ mang thai hộ, người thân và bản thân đứa trẻ sau này; Người mang thai hộ có thể có ý định muốn giữ đứa bé sau sinh;  Hành vi, thói quen của người mang thai hộ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của đứa trẻ; Tâm lý, tình cảm khi nhờ người mang thai và sinh con;  Thất bại và tốn kém với các đợt điều trị mang thai hộ có thể gây tâm lý căng thẳng, mệt mỏi; Các nội dung khác có liên quan.” Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Điều kiện đối với bên được nhờ mang thai hộ

Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ

Khoản 7 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP giải thích người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ gồm: “Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ”. Quy định này đã phần nào giải quyết được khúc mắc về nội hàm của khái niệm “người thân thích cùng hàng” được đặt ra trong Luật HN&GĐ năm 2014 nhằm hạn chế tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ.

Dưới góc độ đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các cặp vợ chồng vô sinh, quy định này cũng phần nào hạn chế đối tượng được nhờ mang thai hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có không ít các cặp vợ chồng là người con duy nhất trong gia đình và trong phạm vi thân thích như Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã nêu trên đều không có chị em gái, hoặc có chị em gái nhưng những người này không đáp ứng đủ các điều kiện khác như là người chưa thành niên, hay đã thành niên nhưng chưa kết hôn và mang thai lần nào. Như vậy, việc mang thai hộ sẽ không thể được tiến hành nên nhiều ý kiến cho rằng nên mở rộng đối tượng được phép mang thai hộ. Tuy nhiên, xét một khía cạnh khác của vấn đề này, việc mở rộng đối tượng cho phép mang thai hộ lại chứa đựng nhiều bất ổn có thể xảy ra trong thực tiễn, nhất là khi cơ sở để phân biệt nhân đạo và thương mại lại rất mong manh, khó xác định. Theo TS Nguyễn Văn Cừ, Chủ nhiệm Khoa Pháp luật Dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội – thành viên tổ biên tập sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000 cho biết: “Đây là điều hợp lý bởi sẽ tránh được những vấn đề phát sinh phức tạp về tranh chấp đứa trẻ.

Tuy nhiên, chưa thể mở rộng đối tượng những người được phép mang thai hộ bởi điều đó dễ gây phát sinh chuyện hợp đồng, kinh doanh”. [25, tr.45]

  • Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần

 Điều kiện yêu cầu người được nhờ mang thai hộ đã từng có thai và sinh con để đảm bảo rằng người mang thai hộ đã có kinh nghiệm cho việc mang thai, quy định này cũng nhằm đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và con. Mang thai và sinh con là cả một quá trình mà người phụ nữ phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau của thai kỳ, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, chăm sóc đặc biệt để đảm bảo thai nhi phát triển khỏe mạnh. Người đã từng mang thai sẽ có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc và giữ gìn thai nhi hơn cũng như biết cách phòng ngừa những biến chứng, những tác động không tốt đến sức khỏe của thai nhi từ đó ảnh hưởng tới sự thành công của việc mang thai hộ. Hơn nữa, người đã từng mang thai sẽ hiểu được những ảnh hưởng về sức khỏe và đặc biệt là tâm lý của thai nhi mang lại, từ đó sẽ hạn chế được phần nào khả năng tranh chấp có thể phát sinh giữa hai bên do việc phát sinh tình cảm gắn kết giữa người mang thai hộ và đứa trẻ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

 Pháp luật cũng quy định người mang thai hộ chỉ được mang thai hộ một lần nhằm đảm bảo sức khỏe cho người mang thai hộ, đồng thời hạn chế được việc biến tấu mang thai hộ trở thành dịch vụ đã được thương mại hóa. Tuy nhiên, nếu đứa trẻ trong trường hợp mang thai hộ không may chết ngay sau khi sinh hoặc trước thời điểm sinh thì mục đích cuối cùng của mang thai hộ chưa đạt được và theo quy định thì người nhận mang thai hộ không thể mang thai hộ thêm lần thứ hai. Do vậy pháp luật cần cân nhắc đến trường hợp này để quy định có thể đạt được mục đích cuối cùng của việc mang thai hộ.

  • Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ

Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ mới quy định người được nhờ mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp, tuy nhiên, độ tuổi nào là độ tuổi thích hợp thì chưa được quy định. Theo Tiến sĩ bác sĩ Lê Thị Thu Hà, Trưởng khoa Hậu sản Nhi, Bệnh viện Từ Dũ TP.HCM cho rằng: “Độ tuổi làm mẹ tốt nhất trước hết cơ thể phát triển toàn diện để đảm nhiệm khả năng sinh sản tốt, vững vàng về kiến thức, định hình về tính cách, ổn định tâm lý, tự tin vào bản thân và độc lập về tài chính. Độ tuổi sinh sản tốt là không dưới 18 tuổi. Phụ nữ còn trẻ đã mang thai, lúc này cơ thể chưa phát triển đầy đủ và cũng chưa sẵn sàng về cả mặt tâm lý lẫn sinh lý nên dễ dẫn đến sẩy thai hoặc các hiện tượng khác như thai yếu, sinh non. Bởi cơ thể người mẹ còn quá trẻ sẽ chưa phát triển đầy đủ, xương chậu chưa nở tốt dễ bị sang chấn khi sinh đẻ, tỷ lệ mổ lấy thai cũng cao hơn. Việc nuôi con của các bà mẹ trẻ cũng gặp không ít khó khăn do thiếu về tài chính lẫn kiến thức. Ngược lại với phụ nữ trên 35 tuổi thì khả năng mang thai giảm so với độ tuổi dưới 30, và nguy cơ trẻ mắc bệnh down và các hiện tượng đột biến gene cũng tăng cao. Tỷ lệ này là 1/400 đối với độ tuổi 35 và sẽ dần tăng lên mức 1/109 ở các bà mẹ sinh con khi ở tuổi 40. Khi ở tuổi 45, nguy cơ này là 1/32 (so với tỉ lệ 1/1.500 ở tuổi 25). Ngoài ra, các nguy cơ khác như các dị tật, bệnh bẩm sinh do sự biến đổi gene. Như vậy độ tuổi mang thai tốt nhất trung bình khoảng 22 – 33 tuổi” [42]. Như vậy, độ tuổi thích hợp để có một “ca” mang thai hộ thành công được khuyến khích là từ 20 đến 35 tuổi. Độ tuổi của người mang thai hộ không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe của chính người đó mà còn ảnh hưởng tới phôi được cấy vào trong tử cung của người đó. Ngoài ra, người mang thai hộ không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV-AIDS, bệnh tâm thần, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác thì việc yêu cầu khung độ tuổi được phép mang thai hộ là rất cần thiết.

Đối với việc xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ, điểm e khoản 1 Điều 14 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: “Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật TTTON đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định này và đã từng sinh con”. Vậy nên bản xác nhận về khả năng mang thai của người phụ nữ được nhờ mang thai hộ phải do cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật TTTON đối với người mang thai hộ. Quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý, do chỉ những cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật TTTON đối với người mang thai hộ mới có đủ chuyên môn để đánh giá đúng thể trạng của người phụ nữ được nhờ mang thai hộ có khả năng tiếp nhận phôi và mang thai hộ hay không vì đây là bước quan trọng nhất trong kỹ thuật thực hiện việc mang thai hộ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

  • Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng

 Điều kiện này thể hiện sự tôn trọng về mặt pháp lý của vợ chồng nhờ mang thai hộ và cả người mang thai hộ đối với chồng mình khi quyết định một chuyện hệ trọng có ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Bởi lẽ, nhu cầu có con là một nhu cầu thiết yếu thì nhu cầu được bảo vệ hạnh phúc gia đình cũng là nhu cầu chính đáng cần được bảo vệ. Mặt khác, người phụ nữ khi mang thai, đặc biệt là mang thai hộ có nhiều biến đổi về tâm lý cũng như sức khỏe nên rất cần sự động viên và quan tâm chăm sóc của người chồng để việc mang thai được thuận lợi. Hơn nữa, mang thai hộ là một vấn đề phức tạp để tránh được tối đa những tranh chấp có thể xảy ra, người vợ nhận mang thai hộ phải có sự đồng ý của người chồng và sự đồng ý phải được thể hiện bằng văn bản.

  • Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý

Mang thai hộ là việc khá phức tạp và có ảnh hưởng lớn nhất đến người được nhờ mang thai hộ cả về tâm lý và sức khỏe, do đó, người nhận mang thai hộ cần nắm rõ mọi quy định về mang thai hộ trong pháp luật, những ảnh hưởng về tâm lý, sức khỏe cũng như cần chuẩn bị tâm lý đầy đủ trước khi nhận mang thai hộ.

Nghị định số 10/2015/NĐ-CP cũng đã quy định rõ những nội dung cần tư vấn y tế cho người nhận mang thai hộ bao gồm: “Các nguy cơ, tai biến có thể xảy ra khi mang thai như sảy thai, thai ngoài tử cung, băng huyết sau sinh và các tai biến khác; Khả năng phải mổ lấy thai; Khả năng đa thai; Khả năng em bé bị dị tật và phải bỏ thai”. Đồng thời, quy định rõ hồ sơ yêu cầu mang thai hộ cần có bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ làm việc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật TTTON. Như vậy, cả bên nhờ mang thai hộ và bên được nhờ mang thai hộ đều phải được tư vấn y tế từ bác sỹ chuyên khoa sản làm việc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật TTTON. Quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý về mặt chuyên môn mà người tư vấn cần có đủ để có thể tư vấn tốt nhất cho các bên.

Đối với tư vấn về pháp lý, người được nhờ mang thai hộ cần nắm được những nội dung cơ bản như: Xác định cha mẹ con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014; Quyền, nghĩa vụ của người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014; Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại Điều 98 Luật HN&GĐ năm 2014. Việc tư vấn về pháp lý cho người mang thai hộ là việc rất cần thiết và quan trọng vì họ cần nắm rõ quyền cũng như nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định khi tham gia nhận mang thai hộ để tránh xảy ra những tranh chấp không đáng có. Nghị định số 10/2015/NĐ-CP nêu rõ người có thẩm quyền, trách nhiệm tư vấn pháp lý cho người được nhờ mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ là người có trình độ cử nhân luật trở lên làm việc tại tổ chức có tư cách pháp nhân về trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật.

Việc mang thai cũng ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của người mang thai cũng như những người xung quanh họ. Chính vì vậy, người được nhờ mang thai hộ cần được tư vấn để chuẩn bị trước tâm lý cho bản thân cũng như cho những người xung quanh họ. Người tư vấn về tâm lý cho người được nhờ mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ phải có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên làm việc tại cơ sở được cấp giấy phép hoạt động có phạm vi hoạt động chuyên môn tư vấn tâm lý và phải tư vấn tâm lý đầy đủ các nội dung cần tư vấn. Nội dung tư vấn tâm lý gồm có: Tâm lý, tình cảm của người trong gia đình, bạn bè trong thời gian mang thai hộ; Tâm lý trách nhiệm đối với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ nếu để sảy thai, Tác động tâm lý đối với con ruột của mình; Cảm giác mất mát, mặc cảm sau khi trao lại con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai; Chỉ thực hiện mang thai hộ khi động lực chính là mong muốn giúp đỡ cho cặp vợ chồng nhờ mang thai, không vì mục đích lợi nhuận;…

  • Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Mang thai hộ cũng là một trường hợp của phương pháp sinh con theo phương pháp khoa học, sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể là TTTON. Chính vì vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với những quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Quan trọng nhất là nguyên tắc cơ bản khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bao gồm:

  • Thứ nhất, các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ sống độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa;
  • Thứ hai, việc thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải theo đúng quy trình kỹ thuật do Bộ Y tế ban hành;
  • Thứ ba, TTTON, cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi, được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện;
  • Thứ tư, việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc;
  • Thứ năm, việc thực hiện kỹ thuật TTTON phải tuân theo quy trình kỹ thuật; quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người được thực hiện kỹ thuật TTTON, mang thai và sinh con do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành. (theo Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP).

2.1.3.2. Quy định pháp luật về thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và quyền và nghĩa vụ của các bên mang thai hộ

  • Thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện nay chỉ cho phép mang thai hộ trong trường hợp vì mục đích nhân đạo và để đảm bảo tính hợp pháp của việc mang thai hộ và giúp các bên phân định rõ trách nhiệm cũng như quyền lợi của mình đồng thời là căn cứ giải quyết các tranh chấp phát sinh pháp luật yêu cầu việc mang thai hộ phải được xác lập theo thỏa thuận đúng với quy định của pháp luật đặc biệt là Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2014. Theo đó, thỏa thuận phải đáp ứng những điều kiện sau:

  • Thứ nhất, về nguyên tắc thỏa thuận mang thai hộ. Về bản chất, thỏa thuận mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự, do đó cũng giống như các thỏa thuận dân sự khác, thỏa thuận mang thai hộ cũng được pháp luật ghi nhận nguyên tắc thỏa thuận chung là: tự nguyện. Đó phải là sự thỏa thuận mà có sự thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí, là sự ngang bằng về địa vị và quyền lợi, không có sự lừa dối, ép buộc giữa người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ. Việc ghi nhận nguyên tắc của thỏa thuận mang thai hộ là cần thiết bởi nó là cơ sở quan trọng để đánh giá tính hợp pháp của việc phát sinh sự kiện mang thai hộ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.
  • Thứ hai, về hình thức thỏa thuận mang thai hộ. Pháp luật quy định hình thức của thỏa thuận mang thai hộ như là một điều kiện để cặp vợ chồng vô sinh được phép nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ do thỏa thuận mang thai hộ có tính chất phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, đối tượng của hợp đồng vô cùng đặc biệt nên thỏa thuận mang thai hộ phải được lập thành văn bản với những nội dung cụ thể. Bên cạnh đó, văn bản thỏa thuận bắt buộc phải được công chứng, chứng thực tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp một trong các bên vợ (chồng) của người mang thai hộ hoặc người nhờ mang thai hộ không thể trực tiếp thỏa thuận về văn bản thì bên chồng (vợ) còn lại phải ủy quyền cho nhau và việc ủy quyền phải lập văn bản có công chứng. Quy định này nhằm đảm bảo cặp vợ chồng của mỗi bên đều biết và đồng ý với việc mang thai hộ, tránh trường hợp một bên vợ (chồng) tự thực hiện thỏa thuận dẫn đến những tranh chấp phát sinh sau này. Việc ủy quyền chỉ được thực hiện giữa hai vợ chồng của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ mà không được ủy quyền cho người thứ ba, quy định này đề cao tính ý chí, tự nguyện của hai bên tham gia thỏa thuận. Trường hợp thỏa thuận mang thai hộ có sự tham gia của cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế.
  • Thứ ba, về nội dung thỏa thuận mang thai hộ. Tương tự các thỏa thuận dân sự khác, thỏa thuận mang thai hộ cần có những nội dung cơ bản sau: Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên quan quy định tại Điều 95 của Luật này; Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98 của Luật này; Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan; Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận. (theo khoản 1 Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2014).

Quyền và nghĩa vụ các bên trong thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ gồm:

Thứ nhất, người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ và phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Đứa trẻ trong những tuần tuổi đầu cần sự chăm sóc của bên mang thai hộ nên bên mang thai hộ có nghĩa vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và nuôi dưỡng đứa trẻ cho đến khi giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Bên mang thai hộ có nghĩa vụ phải trao con cho bên nhờ mang thai hộ theo đúng thời gian đã thỏa thuận.

Thứ hai, người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế. Quy định này nhằm bảo vệ đứa trẻ sinh ra được khỏe mạnh, phát triển bình thường. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Thứ ba, người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ được quy định chi tiết trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và Nghị định 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về Bảo hiểm bắt buộc với một số quy định điển hình như sau: “Lao động nữ mang thai hộ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; Trường hợp ở xa cơ sở khám chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai; Trong trường hợp sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền với thời gian nghỉ việc tối đa cụ thể: 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi; 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi; 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi; 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên; Trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ mang thai hộ sinh con nếu lao động đó đủ điều kiện như pháp luật quy định;…”.

Thứ tư, bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Thứ năm, trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn có con của bên nhờ mang thai hộ nên việc mang thai hộ mới được tiến hành. Pháp luật cũng quy định đứa trẻ sinh ra trong trường hợp mang thai hộ được xác định là con của bên nhờ mang thai hộ nên bên nhờ mang thai hộ buộc phải nhận con trong mọi tình huống. Nếu bên nhờ mang thai hộ không nhận con theo thỏa thuận thì bên nhận mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ 

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ gồm:

Thứ nhất, bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế. Chế định mang thai hộ là chế định được đưa ra nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi làm cha mẹ của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, tuy rằng mang thai hộ chỉ được chấp thuận trong trường hợp vì mục đích nhân đạo nhưng trong quá trình mang thai hộ không tránh khỏi có những chi phí cần phải chi trả. Những chi phí thực tế trong quá trình mang thai hộ liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản bên nhờ mang thai hộ phải chi trả để đảm bảo sức khỏe và sự an toàn cho mẹ và con như: chi phí khám thai thường xuyên (tối thiểu phải được khám ba lần trên ba kỳ thai nghén), tiêm phòng, tiêm vắc xin, chi phí về chế độ dinh dưỡng, ăn uống, nghỉ ngơi. Quy định như vậy nhằm tránh trường hợp người mang thai hộ đưa ra những đòi hỏi vô lý, vượt quá khả năng hỗ trợ của người nhờ mang thai hộ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với cho đây phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

Thứ ba, bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.

Thứ tư, giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này, Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan. Đứa trẻ sinh ra trong trường hợp mang thai hộ theo pháp luật được xác định là con đẻ của bên nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm sinh ra, theo đó những mối quan hệ với các thành viên khác trong gia đình bên nhờ mang thai hộ cũng theo đó mà hình thành như quan hệ ông, bà, cô dì, chú bác,… với cháu, kèm theo đó là những quyền và nghĩa vụ của các mối quan hệ theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con nhằm  đảm bảo mục đích ban đầu của việc mang thai hộ pháp luật quy định bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc người mang thai hộ phải giao con.

2.1.3.3. Các quy định pháp luật liên quan trong quá trình thực hiện thoả thuận mang thai hộ

Trong quá trình thực hiện thoả thuận mang thai hộ giữa bên vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ, các bên cần tôn trọng thoả thuận và các quy định pháp luật liên quan đến các quy định về tham khám, theo dõi thai nhi, cụ thể như sau:

Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế” theo khoản 2 Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014. Trước đây, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 537 /QĐ-BYT ngày 01/02/2010 về việc ban hành quy trình sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh. Tuy nhiên, thực hiện quy định trên, ngày 21/9/2016, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 34/2016/TT-BYT quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị, xử trí các bất thường, dị tật của bào thai.

Theo thống kê của Tổng cục Dân số Việt Nam, mỗi năm Việt Nam có khoảng gần 1,5 triệu trẻ em mới được sinh ra. Nếu được sàng lọc trước sinh và sơ sinh tốt sẽ phát hiện được khoảng 1.400 -1.800 trẻ bị mắc bệnh Down, khoảng 250 – 250 trẻ mắc hội chứng Edwards, có 1.000 – 1.500 trẻ bị dị tật ống thần kinh, 300 – 400 trẻ bị suy giáp bẩm sinh. Đáng lưu ý, số trẻ sơ sinh tử vong do dị tật bẩm sinh khoảng hơn 1.700 trẻ (chiếm tỷ lệ 11%), số trẻ mắc dị tật bẩm sinh còn sống sau giai đoạn sơ sinh là khoảng 40.039 trẻ. Khoảng 60 – 70% các dị dạng, dị tật bẩm sinh đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Như vậy nếu thai phụ được sàng lọc trước sinh kết hợp với sàng lọc sơ sinh sẽ loại bỏ 95% những dị tật bất thường và cho ra đời những đứa trẻ hoàn toàn khỏe mạnh. [38] Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

“Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai” theo khoản 4 Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014. Đứng dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được nhờ mang thai hộ thì đây là một quy định hợp lý. Bởi hơn ai hết, người phụ nữ được nhờ mang thai hộ sẽ hiểu rõ tình trạng sức khỏe của mình để cân nhắc có thể tiếp tục hay không việc mang thai. Tuy nhiên, nếu xét dược góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhờ mang thai hộ quy định này còn một vấn đề như sau: Theo khoản 4 Điều 94 và Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014 bên nhờ mang thai hộ sẽ là người chịu trách nhiệm chăm sóc đứa trẻ đó từ thời điểm trẻ được sinh ra cho đến khi trưởng thành và được công nhận là cha mẹ của trẻ. Tuy nhiên, trong quá trình mang thai, bào thai phát triển không tốt do các khuyết tật bẩm sinh thì họ lại không có quyền quyết định tiếp tục duy trì thai kỳ hay chấm dứt.

Về việc giao và nhận con giữa các bên trong việc mang thai thì theo quy định tại Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014 thì: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”. Vì vậy, vợ chồng nhờ mang thai hộ sẽ có quyền và nghĩa vụ nhận trẻ ngay khi trẻ vừa được sinh ra. Tuy nhiên, để bao quát các khả năng phát sinh, luật cũng có quy định thêm rằng: “Trong trường hộ bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con” (khoản 5 Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014). Mặt khác, khoản 5 Điều 98 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng có quy định: “Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con cho thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con”. Căn cứ vào quy định này có thể thấy rằng luật chỉ mới dự liệu được hai trường hợp: Thứ nhất, bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và bên được nhờ mang thai hộ cũng không muốn nuôi con. Nếu trường hợp này xảy ra thì bên được nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Thứ hai, bên được nhờ mang thai hộ từ chối giao con và bên nhờ mang thai hộ cũng muốn nhận con. Nếu phát sinh trường hợp này thì bên nhờ mang thai hộ sẽ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên được nhờ mang thai hộ giao con. Tuy nhiên, luật lại chưa dự liệu được trường hợp: bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và bên được nhờ mang thai hộ đồng ý nhận nuôi con. Trong trường hợp này cần phải có quy định ghi nhận quyền được nhận nuôi con của bên được nhờ mang thai hộ nếu bên nhờ mang thai hộ đã từ chối nhận con và bên được nhờ mang thai hộ đủ điều kiện để nhận con nuôi theo quy định tại Luật nuôi con nuôi năm 2010.

Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đã quy định rất chi tiết về thời điểm chấm dứt quyền, nghĩa vụ chăm sóc con như cha mẹ của cặp vợ chồng được nhờ mang thai hộ là từ thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Đây là một quy định hợp lý, đảm bảo tính nhân văn. Bởi vì, quy định này sẽ đảm bảo tốt về sức khỏe cho những đứa trẻ vừa được sinh ra, tránh những trường hợp bên nhờ mang thai hộ không quan tâm chăm sóc vì cho đó không phải là con đẻ của mình sẽ dẫn đến những hậu quả không tốt cho đứa trẻ, hoặc ngược lại bên nhờ mang thai hộ ngăn cản việc chăm sóc sức khỏe cho đứa trẻ từ phía người được nhờ mang thai dù người này có đủ các điều kiện tốt nhất để chăm sóc cho trẻ sơ sinh như nguồn sữa mẹ.

2.1.3.4. Việc xác định thời điểm, quan hệ cha mẹ, con và việc giải quyết tranh chấp, vi phạm nếu có khi thực hiện thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Xác định thời điểm và quan hệ cha mẹ, con trong thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Theo pháp luật HN&GĐ năm 2014, căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện sinh đẻ và sự kiện nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên, trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này dựa trên yếu tố huyết thống. Huyết thống là quan hệ di truyền sinh học, là quan hệ giữa cha, mẹ và con. Trong trường hợp mang thai hộ, đây là sự kết hợp giữa noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng được TTTON thành phôi, sau đó, mới cấy vào tử cung của người phụ nữ mang thai hộ. Nhóm máu, cũng như bộ gen di truyền của đứa trẻ được hình thành ngay khi tinh trùng của người cha kết hợp với trứng của người mẹ. Vì thế, xét về mặt sinh học thì người mang thai hộ hoàn toàn không phải là mẹ của đứa bé, mà chỉ là người giúp cho phôi thai phát triển hình hài rồi khi đủ ngày đủ tháng, đứa trẻ ra đời và tính cách của đứa trẻ hoàn toàn không bị tác động bởi người mang thai hộ. Hiện nay, để xác định được mối quan hệ cha, mẹ và con, người ta thường sử dụng kỹ thuật khoa học mới nhất là xét nghiệm ADN xem có sự trung khớp hay không, đây là biện pháp xét nghiệm trên bộ gen di truyền cho kết quả chính xác đến 99,9% và biện pháp này cũng đã được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Trong trường hợp mang thai hộ, nếu như áp dụng kỹ thuật xét nghiệm ADN để xác định mẹ đứa trẻ được sinh ra thì kết quả ADN của đứa trẻ sẽ trùng khớp với kết quả ADN của người mẹ nhờ mang thai hộ, do đứa trẻ được hình thành từ trứng đã chứa bộ gen của người mẹ này.

Xét về góc độ pháp lý, Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra” và tại khoản 2 Điều 98 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng có quy định: “Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh từ thời điểm con được sinh ra”. Điều này có nghĩa các quyền dân sự như: quyền đại diện cho con, quyền quản lý tài sản của con hay quyền thừa kế tài sản của con… thì sẽ phát sinh giữa người nhờ mang thai hộ và chồng của người đó đối với con. Vì vậy, nếu có tranh chấp phát sinh giữa người mang thai hộ và đứa con mang hộ thì hoàn toàn có thể căn cứ vào các quy định của pháp luật dân sự và pháp Luật HN&GĐ năm 2014 hiện hành để giải quyết. Việc xác định mối quan hệ cha mẹ con trong mang thai hộ có ý nghĩa rất quan trọng, từ đó xác định phát sinh quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật giữa các chủ thể.

Giải quyết tranh chấp phát sinh trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và xử lý vi phạm.

Pháp luật quy định nếu các bên trong quan hệ pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo vi phạm điều kiện, nghĩa vụ phải thực hiện thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý theo trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự.

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định tại khoản 1 Điều 99: “Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ”. Theo quy định này, những tranh chấp phát sinh trong mang thai hộ sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án, tuy nhiên luật lại không quy định rõ đó là những tranh chấp nào. Hiện nay, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 tại Điều 28 và Điều 29 quy định về những tranh chấp, yêu cầu dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án có những tranh chấp, yêu cầu liên quan đến mang thai hộ theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014. Tuy nhiên, vẫn cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể các trường hợp tranh chấp có thể phát sinh và thẩm quyền cũng như hướng giải quyết cho vấn đề về mang thai hộ.   Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Ngoài ra, đối nới vi phạm hành chính trong hoạt động thực hiện mang thai hộ thì quy định tại khoản 3 Điều 33 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện kỹ thuật mang thai hộ.

Chế tài hình sự được áp dụng để ngăn chặn hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại. Tại Điều 187 BLHS năm 2015 quy định về Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại như sau: “1. Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Đối với 02 người trở lên; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Pháp luật Hình sự Việt Nam chú trọng xử lý người tổ chức mang thai hộ mà chưa mở rộng xử lý các bên tham gia hoạt động mang thai hộ.

Các quy định về giải quyết các tranh chấp cũng như xử lý các vi phạm trong hoạt động thực hiện mang thai hộ còn chưa đầy đủ và thống nhất, tuy nhiên, khi pháp sinh những tranh chấp hoặc xuất hiện những vi phạm mới mà pháp luật chưa điều chỉnh được hết và những tranh chấp sẽ được giải quyết theo hướng sau:

Một là, ưu tiên sự thỏa thuận giữa các bên. Mang thai hộ được tiến hành giữa các bên theo thỏa thuận và được lập thành văn bản có công chứng vì vậy khi các tranh chấp xảy ra văn bản thỏa thuận giữa các bên sẽ là minh chứng có hiệu lực nhất để giải quyết những tranh chấp ấy.

Hai là, đảm bảo duy trì mục đích của mang thai hộ theo đúng quy định của pháp luật HN&GĐ, giữ vững tính nhân văn sâu sắc của mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Ba là, đảm bảo quyền lợi cũng như sức khỏe của phụ nữ và đứa trẻ trong mang thai hộ. Mang thai hộ là một vấn đề phức tạp và phải trải qua quá trình dài với khá nhiều rủi ro đặc biệt là người mang thai hộ, chính vì vậy, quyền lợi và sức khỏe của người phụ nữ mang thai hộ cần được đặt lên vị trí ưu tiên khi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong vấn đề về mang thai hộ.

Bên cạnh đó, trẻ em là sinh linh bé nhỏ yêu ớt cần được chăm sóc và bảo vệ nên khi giải quyết tranh chấp trong mang thai hộ, quyền lợi của đứa trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ cũng cần được ưu tiên xem xét.

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trong lĩnh vực mang thai hộ Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam trước khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

Trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 (có hiệu lực ngày 01/01/2015) được ban hành thì pháp luật Việt Nam vẫn cấm “mang thai hộ”. Tuy nhiên, với mong muốn được làm cha, làm mẹ thì thực tế, nhiều cặp vợ chồng đã tìm đến dịch vụ mang thai chui hoặc nhờ môi giới  tìm người mang thai hộ. “Chị Thủy 32 tuổi, quê tỉnh Quảng Bình, vào TP HCM làm công nhân được hơn một năm. Trước đây, chị đã có chồng và 1 con gái. Sau khi chồng chết do tai nạn giao thông, chị phải để con ở lại và nhờ bên nội nuôi giùm. Vào TP HCM, hằng tháng, chị gửi tiền về quê cho mẹ chồng nuôi con. Chị đã giấu gia đình chuyện làm thuê này. Xoa bàn tay lên bụng, nơi đang có một sinh linh đang lớn lên từng ngày, chị Thủy nói: “Chỉ mong 09 tháng qua mau để mẹ tròn con vuông, giao bé cho cha mẹ ruột của nó rồi lấy tiền về quê buôn bán nuôi con”. Theo thỏa thuận, trừ tiền ăn hằng tháng do người thuê cung cấp, sau khi sinh, Thủy sẽ được 400 triệu đồng nếu là con trai, 350 triệu đồng nếu là con gái. Để ở lại TP HCM sinh con trong dịp Tết này, chị phải tìm cách nói dối gia đình để không ai nghi ngờ. Dự định, sau khi sinh khoảng 01 tháng, chị mới về quê. Khác với chị Thủy, tình cảnh của chị Yến (quê Bến Tre) còn bi đát hơn. Chị Yến cũng có chồng và 01 bé trai 03 tuổi. Chồng chị chỉ lo nhậu nhẹt, đánh đề khiến cuộc sống gia đình trở nên ngột ngạt. Cách đây khoảng 01 năm, chẳng lẽ ôm con chờ chết đói, sau khi ly dị chồng, chị thuê người thân dưới quê nuôi con rồi lên TP HCM làm công nhân may giày. Tiền lương tháng nào “xào” hết tháng đó, nếu con bệnh thì phải vay mượn . Vì vậy, chị phải nhận lời đẻ thuê cho cặp vợ chồng vô sinh và đã mang thai được 06 tháng. Vừa rồi, nghe tin mẹ mất, dù rất thương nhưng Yến không thể bụng mang dạ chửa về quê chịu tang mẹ. Biết tin này, vợ chồng người thuê đẻ cấm cô không được khóc vì sợ ảnh hưởng đến thai nhi. Những ngày đó, mỗi tối, chị Yến ôm nằm khóc rưng rức trong phòng trọ. Chị tâm sự: “Nếu biết trước, em sẽ không nhận làm chuyện này đâu. Sau khi sinh, giao đứa bé lại cho chủ, việc đầu tiên là em chạy ngay về quê đốt nén nhang tạ lỗi với mẹ và quyết không rời con nửa bước””. [14]

Trong khi pháp luật Việt Nam còn đang nghiêm cấm mọi hoạt động mang thai hộ thì quốc gia láng giềng Thái Lan đã hợp pháp hóa mang thai hộ. Ngoài được luật pháp bảo hộ, đánh giá về chuyên môn cao còn thuận tiện về mặt địa lý, mang thai hộ ở Thái Lan là lựa chọn hàng đầu của nhiều người, nhiều cặp vợ chồng Việt Nam có điều kiện kinh tế hơn. “Sang Thái Lan thuê đẻ nhưng vợ chồng chị B ở quận 2, TP HCM lại thỏa thuận trong hợp đồng phải là bé trai vì gia đình này đã có 2 bé gái. Chị B kể rằng sau khi lấy tinh trùng của chồng để phối vào trứng của chị, bệnh viện ở Thái Lan cho chị tiếp xúc với luật sư và người đẻ thuê để thỏa thuận, trong đó có rất nhiều điều ràng buộc từ tài chính cho đến các xét nghiệm, giới tính, ADN… để có một đứa bé hoàn hảo nhất cho thân chủ và tuyệt đối không có tình trạng nhùng nhằng đòi thêm tiền hoặc không giao con. Một tháng sau khi ra đời, bé trai được trao về cho gia đình chị. Nhìn đứa trẻ giống hệt cha và mang nhiều nét của mẹ, gia đình chị B vui mừng khôn xiết. Thằng bé này nay đã hơn 1 tuổi, lanh lợi và hiếu động như bao đứa trẻ khác nhưng nếu không được chị B “bật mí” thì chẳng ai biết được bé là sản phẩm của dịch vụ mang thai hộ”. [19] Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Tuy nhiên, mang thai là một quá trình hết sức phức tạp và phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan nên không phải trường hợp nào cũng thành công. “Vợ chồng chị L ở quận 7, TP HCM làm đủ các thủ tục từ xét nghiệm, lấy trứng và tinh trùng rồi tìm người mang thai hộ. Mọi ràng buộc đã được ký kết trong hợp đồng. Khi người mang thai hộ có bầu đến tháng thứ 4 thì phát hiện đứa bé trong bụng bị dị tật. Thế là bệnh viện phải bỏ thai nhi bằng phương pháp cho sinh non. Đây là trường hợp bất khả kháng nên gia đình chị L phải trả cho người mang thai hộ 1/3 số tiền theo hợp đồng. Chuyện xảy ra đã gần 1 năm nhưng mỗi lần nhắc lại, chị L cho biết vẫn còn ân hận và quyết từ bỏ ý định thuê đẻ”. [19]

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng mang thai chui “nở rộ” là do tỷ lệ vô sinh, hiếm muộn ở Việt Nam ngày càng có xu hướng trẻ, nhu cầu làm cha, mẹ của các cặp vợ chồng vô sinh ngày càng cao…. Pháp luật trong giai đoạn này cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức nhưng thực tế ghi nhận tình trạng mang thai hộ vẫn diễn ra. Nhà nước vẫn phải áp dụng các biện pháp hành chính và pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích của những đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ. Do đó, pháp luật cần có phương thức điều chỉnh hợp lý để vừa giảm thiểu những tác động tiêu cực của việc mang thai hộ vừa tạo điều kiện cho những cặp vợ chồng không thể có con được thực hiện quyền làm cha mẹ.

2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực cho đến nay

2.2.2.1. Thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực cho đến nay

Khó khăn từ bước chuẩn bị hồ sơ đề nghị mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về các mẫu biên bản, đơn cam kết, thỏa thuận, báo cáo thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có tới 07 mẫu đơn cho cả cơ sở y tế thực hiện kỹ thuật mang thai hộ cũng như cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, người nhận mang thai hộ. Nhưng tại khoản 1 Điều 14 cũng của Nghị định này hồ sơ  mà cặp vợ chồng vô sinh phải gửi đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để đề nghị thực hiện “kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” lại bao gồm 12 loại giấy tờ (theo mẫu) sau:

  1. Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ;
  2. Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;
  3. Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào;
  4. Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.
  5. Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
  6. Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định này và đã từng sinh con;
  7. Bản xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này;
  8. Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ.
  9. Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;
  10. Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên;
  11. Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý;
  12. Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định.”

Sau bước chuẩn bị hồ sơ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì khó khăn lại tiếp tục trong việc xin xác nhận hành chính đối với các giấy tờ trong bộ hồ sơ. Theo bà Phan Thị Yến – y tá trưởng Trung tâm hỗ trợ sinh sản Quốc gia: “Hai bên nhờ mang thai hộ phải hoàn tất 13 cam kết, trong đó có nhiều cam kết cần hỗ trợ của chính quyền địa phương, luật sư tư vấn và hai đơn đề nghị mới đủ thủ tục nhờ – nhận mang thai hộ khó khăn nhất hiện nay là thủ tục hành chính, nhiều trường hợp đã có chỉ định của trung tâm là cần nhờ mang thai hộ, nhưng về địa phương chính quyền lại không xác nhận vì họ nói chưa có ai hướng dẫn. Có trường hợp có xác nhận chưa có con nào thì địa phương lại bảo nhỡ đâu chồng có con ở ngoài. Có trường hợp ngay tại Hà Nội là nơi thông tin về cho phép mang thai rất nhiều nhưng chính quyền cũng không xác nhận hoặc xác nhận chung chung”. [10]

Ngoài những khó khăn trên thì việc xin xác nhận tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý cũng gây trở ngại cho vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ. BS. Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu di truyền và sức khỏe sinh sản (CGRH) – khoa Y, Đại học Quốc gia TPHCM, cho biết:

Để thực hiện được một ca mang thai hộ hoàn chỉnh, người có nhu cầu mang thai hộ phải được tư vấn và xác nhận 5 chữ ký: Của trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm có chuyên khoa hiếm muộn xác nhận người phụ nữ không có khả năng mang thai; Chữ ký của một luật sư tư vấn cho vợ chồng cần mang thai hộ để họ nắm được luật; Chữ ký xác nhận của một chuyên gia tâm lý tư vấn về các vấn đề tâm lý cho vợ chồng người mang thai hộ; Và đặc biệt là chữ ký của một chuyên gia về xã hội học tư vấn về những thuận lợi và phức tạp trong các mối quan hệ gia đình huyết thống sau này. Từ đó, cơ sở y tế – nơi thụ tinh trong ống nghiệm xác nhận xem các chữ ký có đúng không, nếu đúng thì mới được thực hiện kỹ thuật này.” [11]

Mang thai hộ là vấn đề nhạy cảm, song việc thực hiện nó lại rất phức tạp nên pháp luật quy định rất chặt chẽ về hồ sơ “mang thai hộ”. Hồ sơ phải đầy đủ và quan trọng nhất là cam kết giữa hai bên phải đúng theo quy định của pháp luật, chỉ cần một trong số các cam kết bị thiếu thì lập tức hồ sơ sẽ bị bác bỏ và cặp vợ chồng hiếm muộn dù có tìm được người đồng ý và đủ điều kiện để “mang thai hộ” cũng không thể thực hiện được mong muốn có con bấy lâu nay của mình.

  • Khó khăn đến từ việc không đáp ứng đủ điều kiện theo luật định Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Thứ nhất, pháp luật quy định vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đang không có con chung. Tuy nhiên, trên thực tế có khá nhiều cặp vợ chồng đã có con chung nhưng đứa con bị bệnh tâm thần hoặc một số bệnh khác mà là cho đứa trẻ không thể phát triển bình thường. Đây là trường hợp phổ biến khiến nhiều cặp vợ chồng phải trăn trở ví dụ như trường hợp chị Thy Hồng (Q.Bình Thạnh) gửi đến Báo Phụ Nữ lá thư đẫm nước mắt: “Nghe luật mới cho phép mang thai hộ, vợ chồng tôi mừng đến phát khóc. Nhưng, tìm hiểu thì thấy thất vọng vì vợ chồng tôi đã có con chung – một bé gái tám tuổi bị bại não, không biết tự ăn uống, đi vệ sinh, chỉ nằm oặt ẹo trên giường. Tôi không may bị u xơ tử cung mà lại có đến ba khối u, vài lần liều mang thai nhưng thai cứ bị chết lưu, may mà còn cứu kịp tôi. Hằng đêm, nằm bên con, vợ chồng tôi ngậm ngùi hỏi nhau: “Mai này mình qua đời, con sẽ sống sao đây?” [17]. Do đó, pháp luật cần xem xét, cân nhắc thật kỹ lưỡng đến các trường hợp như thế này. Liệu rằng cho phép mang thai hộ trong trường hợp này có làm suy giảm hoặc mất đi sự quan tâm, chăm sóc đối với đứa con bị bệnh hay không? hoặc có thực sự làm giảm gánh nặng cho gia đình đó không?.

Thứ hai, pháp luật quy định vợ chồng muốn nhờ mang thai hộ phải có họ hàng thân thích cùng hàng đủ điều kiện mang thai hộ. “Thực tế, tìm được một người họ hàng cùng hàng tự nguyện mang thai hộ đã khó vì không phải gia đình nào cũng đông anh chị em họ hàng lại thêm các điều kiện khác đi kèm càng làm thu hẹp phạm vi người mang thai hộ phù hợp cũng như thu hẹp cơ hội thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của các cặp vợ chồng vô sinh. Anh K và chị H (Hưng Yên) đã kết hôn gần 04 năm nay nhưng vẫn chưa có con, dù đã đi thụ tinh nhân tạo nhưng vẫn không thực hiện được vì chị H bị ung thư cổ tử cung. Tháng 3/2015 khi biết tin Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chính thức có hiệu lực, anh K đã “hùng hục” để hoàn tất hồ sơ với mong muốn có con. Một lần nữa số phận lại thật trớ trêu khi hồ sơ của anh không đủ tiêu chuẩn xét duyệt để làm kỹ thuật này vì người mang thai hộ không có họ hàng thân thích” [12]. Việc xem xét mở rộng phạm vi đối tượng mang thai hộ có thể là mong muốn của nhiều cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn nhưng bên cạnh đó, pháp luật cũng phải đảm bảo mang thai hộ không bị lợi dụng để thương mại hóa.

Thứ ba, ngay cả khi cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và đã tìm được người phụ nữ đủ điều kiện để mang thai hộ, thì thoả thuận mang thai hộ vẫn khó có thể tiến hành vì vướng quy định pháp luật về việc phải có sự đồng ý của người chồng người mang thai hộ nếu người được nhờ mang thai hộ đã lập gia đình. Chị L.T.H nhà tại Cống Vị – Ba Đình cho biết: “Tôi lấy chồng đã gần 4 năm, đến nay vẫn chưa có con. Sau khi biết pháp luật đồng ý cho phép mang thai hộ, ngay lập tức tôi tìm đến những người họ hàng để xem ai hội đủ các điều kiện. May mắn thay, cũng có một chị thỏa mãn yêu cầu. Tuy nhiên, niềm vui chẳng được bao khi anh chồng của chị nhất quyết không đồng ý, với quan niệm con do vợ mình sinh ra lại không phải của mình, sợ người đời cười chê” [21, tr.79]. Điều kiện này tuy không có ảnh hưởng đến hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng nó thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ vợ chồng của người mang thai hộ nên điều kiện “phải có sự đồng ý của người chồng của người mang thai hộ” là cần thiết. Đảm bảo hạnh phúc gia đình cho người phụ nữ mang thai hộ đã có chồng cũng là điều pháp luật quan tâm. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

  • Pháp luật đã cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng vẫn còn nhiều trường hợp thực hiện chui các dịch vụ mang thai hộ

Mặc dù mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã được pháp luật cho phép và có những quy định cụ thể về điều kiện mang thai hộ, các thủ tục, giấy tờ liên quan để xét duyệt hồ sơ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo những dịch vụ bất chính về mang thai hộ vẫn tồn tại và chúng hoạt động dưới nhiều hình thức tinh vi, kín kẽ hơn. Ngoài những cặp vợ chồng tìm đến dịch vụ mang thai hộ “chui” vì vướng mắc thủ tục hành chính trong quá trình hoàn thiện hồ sơ hoặc không đủ điều kiện mang thai hộ, thì một số khác tìm đến dịch vụ này với những lý do khác nhau nhưng tiêu biểu và điển hình nhất vẫn vì:

Một là, tìm người sinh con để nối dõi. Trường hợp này họ biết không đủ điều kiện để nhờ mang thai hộ theo quy định pháp luật nên quyết định tìm đến các dịch vụ mang thai hộ chui (không còn vì mục đích nhân đạo mà thường vì mục đích thương mại). “Một người đàn ông khuyết tật, không thể lập gia đình nhưng luôn mang nỗi khát khao được ẵm bồng đứa con bé bỏng của chính mình. Hơn nữa, chính anh cũng chịu áp lực có người nối dõi tông đường khi là con trai duy nhất trong gia đình. Sau nhiều lần bàn bạc, cuối cùng anh H đã lựa chọn con đường có được đứa trẻ nối dõi nhờ qua dịch vụ mang thai hộ. Sau nhiều ngày tìm kiếm, cuối cùng một người phụ nữ quê Nghệ An gần 40 tuổi cũng đồng ý mang thai giúp anh H. Gia đình anh H biết rõ về người phụ nữ này nhưng cô thì tuyệt nhiên không biết gì về gia đình anh. Kể cả việc anh H bị khuyết tật, người phụ nữ mang thai hộ cũng không có thông tin. Sau khi mang thai bằng phương pháp chuyển phôi, người phụ nữ được bố trí ăn ở và chăm sóc rất chu đáo. Lúc sinh con xong, cô này cũng về quê và giao lại con cho phía gia đình anh H và không vương vấn gì. Anh H vui như bắt được vàng vì trải qua một thời gian dài trông ngóng, nay anh đã có đứa con để ẵm bồng…” [18]. Một trong những yếu tố tiên quyết để có thể nhờ mang thai hộ là bên nhờ mang thai hộ phải là vợ chồng hợp pháp, có giấy đăng ký kết hôn và trong trường hợp trên anh H là một người đàn ông độc thân dù bị tật nguyền thì không được thực hiện hoạt động mang thai hộ. Pháp luật không có quy định đàn ông hay phụ nữ độc thân được phép mang thai hộ mà chỉ có phụ nữ độc thân được phép sinh con bằng kỹ thuật TTTON. Do đó, để thỏa mãn niềm mong mỏi có cháu nối của gia đình thì mang thai hộ “chui” là lựa chọn cuối cùng và duy nhất có thể giúp anh H đạt được mục đích. Trường hợp như của anh H, pháp luật có thể đã lường trước được nhưng việc quy định đàn ông hay phụ nữ độc thân có thể nhờ mang thai hộ sẽ gián tiếp cho phép các cặp đôi đồng tính nhờ mang thai hộ mà pháp luật Việt Nam không thừa nhận các quan hệ đồng tính, trong đó có hôn nhân đồng tính.

Hai là, một biến tướng của hoạt động mang thai hộ chính là việc những người đàn ông lợi dụng hoạt động mang thai hộ đã tìm đến những người phụ nữ (để lại thông tin trên các trang mạng hoặc qua thực tế biết được), để đề nghị được hỗ trợ mang thai hộ nhưng thông qua hình thức trực tiếp… “Vợ chồng tôi cưới nhau gần 10 năm nhưng chưa có con dù đã chạy chữa khắp nơi với đủ đông y lẫn tây y. Mọi hy vọng đã tắt ngóm khi cách đây hai năm, tôi phải cắt bỏ hai bên buồng trứng do biến chứng của bệnh u xơ. Thêm nữa, sau ca phẫu thuật, tôi bị nhiễm trùng nặng phải cắt bỏ cả tử cung. Chồng tôi không chấp nhận phương án nhận con nuôi. Cách đây gần một năm, chồng tôi về bảo đã liên hệ được người nhờ mang thai hộ với chi phí khá thấp. Nghe đâu, phụ nữ này còn khá trẻ, muốn có vốn làm ăn nên chấp nhận làm cho một đường dây đẻ thuê cho những cặp vợ chồng hiếm muộn. Vì không công khai nên giá chỉ 60 triệu, chưa kể tiền dưỡng thai và bồi dưỡng thêm cho mẹ. Tính ra, để đến khi đón đứa bé về, mất gần 100 triệu chứ không hơn. Nhưng để giảm bớt chi phí thì bỏ qua công đoạn thụ tinh ống nghiệm ở bệnh viện mà dùng phương pháp “truyền trực tiếp” tại nhà cho nhanh. Lúc đầu, tôi không hiểu làm vậy nghĩa là như thế nào thì chồng giải thích, không cần đến bệnh viện lấy trứng và tinh trùng thụ tinh như người ta thường làm mà cả hai quan hệ trực tiếp luôn. Tôi giật mình khi nghĩ chồng sẽ ngủ với người khác để có con thì anh an ủi, chỉ vài lần đến khi có thai thôi chứ đâu phải ăn nằm với nhau đâu mà lo. Anh bảo, làm thế vừa giảm chi phí lại chắc ăn hơn thụ tinh. Thêm nữa, hai bên thỏa thuận, lúc nào gặp mặt đều có tôi đi cùng. Cô ta hứa, sau khi sinh con xong sẽ đi nơi khác, hoàn toàn cắt đứt liên lạc để chúng tôi yên tâm. Khi cái thai được bốn tháng, kết quả siêu âm là con trai khiến chồng tôi vui mừng khôn xiết. Thông thường, mỗi lần đến gặp người phụ nữ đó, vợ chồng tôi đi cùng nhau nhưng tôi phát hiện không ít lần anh đi gặp riêng. Thế rồi, đứa bé sinh ra khỏe mạnh nhưng người phụ nữ đó lần nữa không chịu giao con mà chồng tôi cũng chẳng hối thúc gì. Anh ở hẳn bên nhà trọ để chăm con dù tôi đã thuê dịch vụ..” [15]. Trường hợp trên, người chồng đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật về mang thai hộ, sự cả tin và mong muốn có con của người vợ vô sinh, lấy 60 triệu và ngoại tình có con với người phụ nữ khác. Lấy danh “mang thai hộ”, không ít người chồng đi “lang chạ”, khi có con riêng thì lấy cớ chăm lo cho con để chung sống như vợ chồng với người phụ nữ khác. Điều này, không chỉ trái với các chuẩn mực đạo đức, xã hội mà còn trái pháp luật, đi ngược lại chế độ hôn nhân một vợ một chồng của pháp luật Việt Nam, đáng bị lên án và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Ba là, có những người phụ nữ coi mang thai hộ như là một “nghề”; hoặc có những “cò mồi” coi mang thai hộ như một dịch vụ siêu lợi nhuận. Ví dụ như trường hợp sau: “Huyền sinh con khi vừa tròn 20 tuổi. Không đủ điều kiện nuôi dạy đứa trẻ, Huyền quyết định cho đi đứa con dứt ruột đẻ ra, nhờ người dắt mối cô tìm được gia đình có điều kiện nhận nuôi đứa trẻ. Sau khi ký cam kết dứt bỏ mối quan hệ máu mủ với đứa trẻ, chị được gia đình này hậu tạ một khoản tiền. Cầm tiền trên tay, Huyền bỗng nảy sinh ra ý nghĩ sẽ làm cái “nghề”, không quá nhọc công tốn sức, lại kiếm tiền dễ dàng này và Huyền quyết định tận dụng thân xác của mình để dấn thân vào nghề đẻ thuê. Theo hợp đồng, Huyền chấp nhận để người ta cấy trứng đã được thụ tinh vào cơ thể. Để đảm bảo đứa trẻ được ra đời khỏe mạnh và thông minh, Huyền phải chấp nhận cuộc sống theo yêu cầu của đối tác. Cô không được phép giữ mối quan hệ với bên ngoài, cắt đứt hoàn toàn liên lạc với người quen. Phần lớn khoảng thời gian mang thai, Huyền phải nghe nhạc, tập yoga để “mẹ thoải mái, con khỏe mạnh”. Huyền chỉ được ra ngoài trong những lần khám thai định kỳ. Mỗi hợp đồng “đẻ thuê” đạt chất lượng, đứa trẻ được ra đời khỏe mạnh, Huyền sẽ được “đối tác” trả 150 – 200 triệu đồng” [16]. Việc Huyền nhận những khoản tiền lớn lên đến vài trăm triệu sau mỗi hợp đồng “đẻ thuê” chính là thương mại hóa mang thai hộ. Điều này đã là mất đi giá trị nhân đạo mà pháp luật Việt Nam hướng đến.

Bốn là, những người tìm đến dịch vụ mang thai hộ vì thẩm mĩ, đặc thù nghề nghiệp. Điển hình như trường hợp của ca sĩ N: “Sang Thái Lan thuê đẻ được cặp song sinh 1 trai 1 gái đẹp như mơ. Để tránh dư luận lùm xùm, gần ngày sinh, cô ca sĩ này độn bụng như đang mang bầu. Ngay sau đó, cô tuyên bố sang Thái Lan sinh con rồi đưa về Mỹ nhờ gia đình chồng chăm sóc. Cây kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, những bạn thân của ca sĩ này khẳng định cô đã thuê đẻ với giá 1 tỉ đồng/ca song sinh với ràng buộc sẽ là 1 trai 1 gái. Hợp đồng này đã mang lại cho cô ca sĩ sự an toàn về sức khỏe vì tuổi cô đã trên 40, lại giữ được vóc dáng mảnh mai để tiếp tục sự nghiệp ca hát [19].

2.2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến các thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam từ khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 

  • Nguyên nhân dẫn đến thực trạng các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ gặp khó khăn trong việc thực hiện hồ sơ

Để chuẩn bị hồ sơ đề nghị mang thai hộ, theo quy định pháp luật hiện hành, bên cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải chuẩn bị 12 loại văn bản, giấy tờ được quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Với quy định về mẫu biên bản, đơn cam kết, thỏa thuận trong hồ sơ đề nghị mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nêu trên là tương đối nhiều, và trong số đó có những loại gây khó khăn rất lớn đối với các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, nhất là những cặp vợ chồng có xuất thân từ nông dân không có nhiều hiểu biết về lĩnh vực này cũng như không có nhiều mối quan hệ. Chính những quy định chặt chẽ, cũng như thủ tục hành chính này là nguyên nhân dẫn đến việc cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, thậm chí người nhận mang thai hộ trong thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có khi phải mất cả năm trời mới hoàn thiện được hồ sơ.

  • Nguyên nhân dẫn đến thực trạng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo khó thực hiện do các cặp vợ chồng không đáp ứng đủ điều kiện theo luật định Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Để giải thích rõ “gốc rễ” các thực trạng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo khó thực hiện do các cặp vợ chồng không đáp ứng đủ điều kiện theo luật định đã nêu ở, tác giả xin chỉ ra 03 nguyên nhân tương ướng với mỗi thực trạng như sau:

Thứ nhất, điểm b khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định điều kiện của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải “đang không có con chung”. Việc xác nhận điều kiện này thuộc về Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ. Song trách nhiệm xác nhận này cũng không hề đơn giản trong bối cảnh hiện nay. Cụ thể sẽ có các trường hợp sau đây liên quan đến nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ phát sinh: Một là, vợ chồng nhờ mang thai hộ có nơi thường trú khác nhau. Đây không phải là một trường hợp hiếm gặp. Bởi lẽ, quyền có nơi cư trú khác nhau của vợ chồng là một quyền nhân thân cơ bản và đã được quy định từ rất lâu trong pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp này, thiết nghĩ vợ chồng nhờ mang thai hộ cần phải có bản xác nhận của cả hai nơi: một là nơi vợ thường trú, hai là nơi chồng thường trú về việc họ đang không có con chung thì mới đáp ứng đủ yêu cầu. Hai là, vợ chồng nhờ mang thai hộ thường trú cùng một nơi nhưng đồng thời cũng có nơi tạm trú do tính chất công việc hoặc học tập. Ở trường hợp này, vấn đề chỉ thật sự trở nên phức tạp khi cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ trước đây đã có con chung và họ đăng ký khai sinh cho con chung tại nơi người mẹ tạm trú. Dù rằng, luật đã có quy định về trách nhiệm thông báo của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người mẹ tạm trú cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người mẹ thường trú biết để ghi nhận và lưu giữ thông tin. Trên thực tế, công việc này được thực hiện bằng đường bưu điện và vì vậy hồ sơ về việc đã đăng ký khai sinh có khả năng sẽ bị thất lạc. Thậm chí, cũng có những trường hợp do nhiều nguyên nhân, việc thông báo này không được thực hiện. Trong những trường hợp như vậy, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người mẹ thường trú – cũng chính là nơi vợ chồng thường trú, sẽ không xác định được cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đã từng có con chung hay chưa để từ đó xác nhận cho chính xác theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014, người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Mục đích của quy định này là nhằm hạn chế tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ. Tuy nhiên, quy định này có mang lại hiệu quả hay không khi nhu cầu của việc mang thai hộ ngày càng lớn và tính thương mại chưa hẳn chỉ tồn tại ở những mối quan hệ không thân thích. Mặt khác, dưới góc độ đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các cặp vợ chồng vô sinh, quy định này cũng phần nào hạn chế đối tượng được nhờ mang thai hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có không ít các cặp vợ chồng là người con duy nhất trong gia đình và trong phạm vi thân thích như Nghị định 10/2015/NĐ-CP đã nêu trên đều không có chị em gái. Hoặc giả sử họ có chị em gái nhưng những người này là người chưa thành niên, hay đã thành niên nhưng chưa kết hôn và chưa mang thai lần nào. Như vậy, việc mang thai hộ sẽ không thể được tiến hành dù không phải là vì mục đích thương mại. Chính vì vậy, quy định pháp luật với sự hạn chế quá ít đối tượng có thể nhờ mang thai hộ này tiềm ẩn khả năng dẫn đến việc các cặp vợ chồng vô sinh sẽ nhờ người mang thai hộ một cách lén lút; và khi đó, tính chất thương mại vi phạm pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chắc chắn sẽ xảy ra.

Thứ ba, theo điểm b khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng có quy định người được nhờ mang thai hộ “chỉ được mang thai hộ một lần”. Cần xác định rõ đối tượng của quy định này chỉ áp dụng đối với người được nhờ mang thai hộ. Điều đó có nghĩa, người được nhờ mang thai hộ chỉ được mang thai hộ một lần. Luật quy định như vậy là chưa rõ trong việc không phân biệt người nhờ mang thai hộ là ai, cũng như việc mang thai hộ thực hiện thành công hay không (mà chỉ quy định chỉ được mang thai hộ một lần). Mặt khác, do quy định này không áp dụng đối với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, vì vậy, nếu việc mang thai hộ đã được tiến hành nhưng cuối cùng không thành công thì cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể nhờ người khác đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để tiếp tục thực hiện việc mang thai hộ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

Thứ tư, minh chứng cho việc các bên tham gia quan hệ pháp luật mang thai hộ đã thỏa điều kiện này thì trong bộ hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, vợ chồng nhờ mang thai hộ phải có bản xác nhận của chồng người mang thai hộ về việc đồng ý cho mang thai hộ. Điều kiện này thể hiện sự tôn trọng về mặt pháp lý của vợ chồng nhờ mang thai hộ và cả người mang thai hộ đối với chồng mình khi quyết định một chuyện hệ trọng có ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Bởi lẽ, nhu cầu có con là một nhu cầu thiết yếu thì nhu cầu được bảo vệ hạnh phúc gia đình cũng là nhu cầu chính đáng cần được bảo vệ. Tuy vậy, không thể phủ nhận đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự khó khăn chồng chất khó khăn trong quá trình đáp ứng đủ các điều kiện để có thể thực hiện hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

  • Nguyên nhân dẫn đến thực trạng dù pháp luật đã cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng vẫn còn nhiều trường hợp thực hiện chui các dịch vụ mang thai hộ

Sau đây là các nguyên nhân tương ứng dẫn đến thực trạng dù pháp luật đã cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng vẫn còn nhiều trường hợp thực hiện chui các dịch vụ mang thai hộ.

Thứ nhất, đối với mang thai hộ “chui” để “nối dõi tông đường”. Một trong những ý nghĩa của mang thai hộ là duy trì nòi giống nhưng trong trường hợp này thể hiện sự một hệ tư tưởng trọng nam vốn đã lạc hậu, cổ hủ, ăn sâu trong suy nghĩ nhiều gia đình, nhiều lớp thế hệ. Tức là bằng mọi giá phải sinh con trai nối dõi nếu không theo quan niệm xưa sẽ phạm phải một trong ba tội lớn nhất đời người, đó là tội bất hiếu.

Thứ hai, nguyên nhân của việc lợi dụng mang thai hộ để quan hệ tình dục với người phụ nữ mang thai hộ này một phần cũng do tư tưởng trọng nam khinh nữ, cho phép người đàn ông có “ba thê tứ thiếp” ở chế độ phong kiến còn tàn dư đến bây giờ và quan trọng nhất vẫn là do bản chất “trăng hoa” của họ. Mặt khác, rất khó phát hiện các trường hợp trên.

Thứ ba, nguyên nhân khiến nhiều người coi mang thai hộ trở thành một nghề hay một dịch vụ kiếm sống vì lợi nhuận, giá trị kinh mà mang thai hộ đem lại vô cùng lớn. Họ dễ dàng kiếm tiền trên chính thể xác của mình để có tiền chi tiêu mà không phải lao động chân tay hay trí óc.

Cuối cùng, là do đặc tính nghề nghiệp, yếu tố thẩm mỹ. Mang thai và sinh con là cả một quá trình rất vất vả và khả năng hồi sức sau sinh tốn rất nhiều thời gian. Như trong giới giải trí, thời gian nghỉ hoạt động nghệ thuật tỷ lệ nghịch với mức độ nổi tiếng, sự quan tâm và yêu thích của công chúng. Đồng thời, việc mang thai cũng để lại nhiều đấu tích trên cơ thể như rạn da, vết mổ khi sinh…. Tùy vào mỗi thực trạng thì lại có những nguyên nhân khác nhau để lý giải, tuy nhiên các thực trạng trên đều bắt nguồn từ việc chưa có quy định cụ thể để xử lý vi phạm khi xảy ra các vi phạm khi thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ nhằm răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở VN

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993