Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng địa vị pháp lý của người lao động nước ngoài tại Việt Nam và một số giải pháp, kiến nghị dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Thực trạng địa vị pháp lý của người lao động nước ngoài tại Việt Nam

3.1.1. Hoạt động cấp phép lao động cho người lao động nước ngoài

3.1.1.1. Hoạt động cấp giấy phép lao động và tình trạng lao động “chui”

Có thể thấy, trình tự thủ tục liên quan đến giấy phép lao động khá chặt chẽ, cụ thể và chi tiết tuy nhiên lại có phần rườm rà bởi có rất nhiều khâu, công đoạn, nhiều giấy tờ được yêu cầu phải cung cấp khi làm thủ tục cấp Giấy phép lao động và nhiều khi khó thực hiện. Các doanh nghiệp phản ánh các quy định về cấp phép cho lao động nước ngoài tại Việt Nam gây khó khăn bởi để xin giấy phép cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, doanh nghiệp phải chuẩn bị rất nhiều giấy tờ và phải chờ đợi lâu.

Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc khai lý lịch tư pháp cho các lao động nước ngoài, cung cấp giấy chứng nhận sức khỏe. Việc này đã khiến một số nhà thầu “lách luật”, vượt qua quy định nghiêm cấm sử dụng lao động nước ngoài làm các công việc mà lao động Việt Nam có khả năng thực hiện và đáp ứng yêu cầu của gói thầu, đặc biệt là lao động phổ thông, lao động không qua đào tạo kỹ năng nghiệp vụ. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Theo báo cáo của các địa phương, tính đến cuối năm 2014 cả nước có 76.309 lao động nước ngoài đang làm việc, trong đó, số lao động không thuộc diện cấp giấy phép lao động là 5.610 người (chiếm 7,35%), lao động thuộc diện cấp giấy phép là 70.699 người (chiếm 92,65%): số người đã được cấp giấy phép là 55.263 người (chiếm 78,17%), 15.436 người (chiếm 21,83%) gồm những người đã nộp hồ sơ chờ cấp giấy phép hoặc đang hoàn thiện các giấy tờ.[1] Số liệu thống kê là thế nhưng trên thực tế phải thừa nhận không thể thống kê được hết người lao động nước ngoài bởi số lao động nước ngoài làm việc “chui” rất nhiều.

Ở các tỉnh thành miền Đông Nam Bộ năm 2014, lúc cao điểm đã có 24,3 nghìn lao động nước ngoài vào làm việc cho các doanh nghiệp có vốn FDI; riêng Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 17 nghìn người nước ngoài đến làm việc. Lực lượng lao động nước ngoài đến làm việc khá đông, và tình trạng người nước ngoài vi phạm về không đăng ký để được cấp phép lao động cũng chiếm tỷ lệ rất cao. Lúc cao điểm nhất đã có tới 53% lao động người nước ngoài làm việc tại khu vực phía Nam chưa được cấp phép. Một số liệu khác của Ban Quản lý dự án Cụm công nghiệp khí điện đạm Cà Mau thống kê lúc cao điểm nhất tại công trường Nhà máy điện Cà Mau có 3,7 nghìn lao động làm việc và đã có tới 1,73 nghìn lao động là người nước ngoài. Nhưng trong số này cũng chỉ có 677 người được cấp phép.[2]

Tình trạng lao động nước ngoài ở Khu kinh tế Vũng Áng vào thời điểm năm 2014 có “3.730 người nước ngoài, trong đó chỉ có 1.560 người được cấp giấy phép lao động, chủ yếu là người Trung Quốc. Còn lại phần lớn lao động Trung Quốc đều sang Việt Nam bằng đường du lịch và sau đó ở lại làm thuê.[3]

Đáng báo động, là tình trạng hàng chục nghìn lao động phổ thông nước ngoài vào làm việc tại các công trình xây dựng, nhất là các dự án do Trung Quốc trúng thầu như xi măng Ninh Bình, Nhà máy nhiệt điện tại nhiều tỉnh như Quảng Ninh, Hải Phòng, Cà Mau,…mà chưa được cấp phép. Lao động nước ngoài vào Việt Nam rất dễ tìm được cách ở lại để làm việc bất hợp pháp nhưng việc xử lý của các cơ quan chức năng hiện rất lúng túng.

Việc xử lý lao động “chui” cơ bản là cho họ xuất cảnh, nếu không tuân thủ thì trục xuất. Tuy nhiên số lao động nước ngoài bị trục xuất là rất ít so với số lượng cần phải trục xuất trên thực tế. Lực lượng thanh tra mới chỉ phát hiện được một phần nhỏ lực lượng lao động bất hợp pháp. Năm 2013, tại tỉnh Hà tĩnh, Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Hà Tĩnh đã xử phạt 3 nhà thầu với số tiền 35 triệu đồng, buộc xuất cảnh lao động “chui” trước thời hạn 102 người. Với dự án Formosa triển khai tại Khu kinh tế Vũng Áng (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), nhiều doanh nghiệp, nhà thầu Trung Quốc đã trúng thầu và kéo theo hàng nghìn lao động nước ngoài vào làm việc tại đây. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Hoạt động cấp phép lao động và quản lý lao động nước ngoài của Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề.[4] Quá trình quản lý lao động nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Đây vẫn là vấn đề cần được nhiều sự quan tâm hơn nữa hướng tới mục tiêu quản lý tốt lao động nước ngoài, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của họ để có thể tận dụng những lợi ích mà người lao động nước ngoài mang lại đồng thời đảm bảo được an ninh kinh tế – xã hội.

Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lao động bất hợp pháp là do ý thức chấp hành pháp luật của các nhà thầu, do yếu tố địa lý có chung đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc; chính sách pháp luật của ta còn những nội dung chưa phù hợp (chưa có quy định cụ thể về quản lý lao động nước ngoài làm việc cho các nhà thầu); một số địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến quản lý lao động nước ngoài làm việc trên địa bàn và các yếu tố khác nên với các dự án có quy mô lớn, đang trong quá trình xây lắp, có nhiều nhà thầu nước ngoài tham gia thi công thì việc chấp hành các quy định pháp luật của các nhà thầu nước ngoài (chủ yếu là nhà thầu Trung Quốc) còn nhiều bất cập như sử dụng nhiều lao động nước ngoài, đưa lao động sang trước khi có giấy phép, một số dự án công tác đảm bảo an ninh trật tự khó thực hiện do lao động nước ngoài ở phân tán.

Bên cạnh đó, một bộ phận lao động nước ngoài không đủ điều kiện làm việc tại Việt Nam đã tìm cách “lách” quy định của pháp luật bằng cách sử dụng giấy thông hành có thời hạn 90 ngày (dưới 3 tháng) hoặc xin VISA du lịch rồi vào Việt Nam lao động. Hiện nay, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam (có hiều lực từ ngày 01/01/2015) đã quy định thị thực không được phép chuyển đổi mục đích, quy định này nhằm ngăn chặn tình trạng người nước ngoài vào Việt Nam với mục đích du lịch nhưng lại ở lại Việt Nam để lao động, sinh sống.

Vấn đề lao động nước ngoài không phép tràn lan là vấn đề nhức nhối của Bộ LĐTBXH cũng như các bộ, ngành có liên quan từ nhiều năm nay. Lực lượng lao động “chui” này không chỉ gây mất trật tự an ninh xã hội, mà còn cạnh tranh không lành mạnh với lao động Việt Nam tại các dự án nằm ngay trên mảnh đất quê hương. Việt Nam xuất khẩu lao động phổ thông rất nhiều, trong khi đó những công việc trong nước lại để cho người nước ngoài đến Việt Nam làm việc “chui”. Tồn tại đã lâu và có nhiều bất cập, nhưng dường như các cơ quan chức năng đang khá “lúng túng” trong việc quản lý và xử lý. Bởi hiện Bộ LĐTBXH chỉ quản lý thị trường lao động, cấp phép cho lao động nước ngoài, còn chuyện thực thi thế nào và phải rà soát ngay từ đầu vào lại thuộc về cơ quan xuất nhập cảnh và ngành Công an dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

Thiếu quy định dành cho người lao động không có quốc tịch tại Việt Nam

Trong quy định cũ trước đây của Việt Nam là Nghị định số 105/2003/NĐ-CP ngày 17 tháng 9 năm 2003 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một sổ điều của Bộ luật Lao động về tuyển dụng và quản lý người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam (Nghị định số 105/2003/NĐ-CP), tại Điều 2 có quy định: “Người lao động nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao động quy định tại Điều 1 Nghị định này là người không có quốc tịch Việt Nam theo Luật Quốc tịch Việt Nam”. Quy định này dường như đưa ra định nghĩa về người lao động nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam làm việc cho người sử dụng lao động tại Việt Nam. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Nếu vậy theo quy định này, người lao động nước ngoài sẽ bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật thay thế sau đó của Việt Nam không còn quy định này nữa.

Tại Nghị định số 34/2008/NĐ-CP quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam (Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ) ra đời thay thế cho Nghị định số 105/2003/NĐ-CP có quy định về đối tượng áp dụng trong đó có “Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam” và đồng thời quy định “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam theo Luật Quốc tịch Việt Nam”. Như vậy theo nghị định này thì người lao động nước ngoài sẽ bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch.

Cho đến khi có Nghị định số 102/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và mới đây nhất là Nghị định số 11/2016/NĐ-CP thay thế cho Nghị định số 102/2013/NĐ-CP thì đối tượng điều chỉnh của nghị định này không còn là “người nước ngoài làm việc tại Việt Nam” mà là “Lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam”. Bộ luật Lao động năm 2012 cũng quy định về đối tượng áp dụng của Bộ luật tại Điều 2, theo đó, đối tượng áp dụng của Bộ luật này có cả “người lao động nước ngoài” làm việc tại Việt Nam nhưng khi vào các quy định cụ thể có liên quan tới người lao động nước ngoài tại Mục 3, Chương XI về “người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, lao động cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam, lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam” thì các quy định lại chỉ dành cho đối tượng lao động là công dân nước ngoài mà không có các quy định dành cho người không có quốc tịch. Như vậy, phải chăng quy định mới đã lờ đi một bộ phận người lao động nước ngoài là người không có quốc tịch hay quy định mới chỉ thừa nhận người lao động nước ngoài là công dân nước ngoài (tức là người có quốc tịch nước ngoài) chứ không bao gồm người không có quốc tịch nữa?

Các quốc gia, tổ chức quốc tế, trong đó có cả Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn để hạn chế tình trạng không có quốc tịch. Luật Quốc tịch năm 2008 của Việt Nam có quy định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam” (Điều 8). Đối với người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam (Điều 22). Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Thực tế cũng cho thấy, do các nguyên nhân khác nhau như xung đột pháp luật, di cư tự phát, kết hôn không giá thú, nuôi con nuôi chưa được cấp có thẩm quyền công nhận, cư trú dưới 20 năm,… nên tình trạng không quốc tịch vẫn khó có thể giải quyết dứt điểm. Số liệu tổng hợp từ 63 tỉnh, thành phố cho thấy, cả nước vẫn còn hàng nghìn người chưa đủ điều kiện gia nhập quốc tịch Việt Nam.[5] Trong số này, có cả những người đã thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài song vì nhiều lý do khác nhau không được nhập quốc tịch nước ngoài nên trở về Việt Nam sinh sống. Ta có thể thấy địa vị pháp lý của người lao động không có quốc tịch bị hạn chế nhiều so với công dân Việt Nam và người lao động có quốc tịch nước ngoài, họ cũng không nhận được sự bảo hộ từ bất kì nước nào. Việt Nam hiện nay thiếu các quy định pháp luạt dành cho người lao động không có quốc tịch tại Việt Nam. Các quy định về cấp phép lao động chỉ dành cho lao động là công dân nước ngoài, tức người lao động có quốc tịch nước ngoài. Người lao động không có quốc tịch vào Việt Nam làm việc có bị coi là lao động chui hay lao động bất hợp pháp, lao động không có giấy tờ hợp pháp không? Nhiều chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng Việt Nam nên tham gia Công ước 1954 của Liên Hợp Quốc về quy chế của người không quốc tịch. Công ước 1954 sẽ giúp Việt Nam cải thiện được tình trạng pháp lý và nâng cao vị thế của người không quốc tịch, bảo đảm các quyền cơ bản của con người đối với người không quốc tịch.

3.1.1.2. Những điểm mới trong Nghị định số 11/2016/NĐ-CP

Thứ nhất, quy định rõ một số khái niệm chức danh.  Nghị định này quy định chi tiết một số về khái niệm chức danh như sau:  

Chuyên gia là người lao động nước ngoài thuộc một trong các trường hợp: Có văn bản xác nhận là chuyên gia của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tại nước ngoài hoặc có bằng đại học trở lên hoặc tương đương và có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm việc trong chuyên ngành được đào tạo phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến làm việc tại Việt Nam; trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Trước đây, theo nghị định 102/2013/NĐ-CP, đối với trường hợp là chuyên gia thì người lao động nước ngoài phải đáp ứng điều kiện đã được nước ngoài công nhận là chuyên gia hoặc người lao động nước ngoài có trình độ kỹ sư, cử nhân trở lên hoặc tương đương và có ít nhất 05 năm làm việc trong chuyên ngành được đào tạo. Như vậy, ngoài Bằng tốt nghiệp đại học, cao học, tiến sỹ nếu người lao động không chứng minh được 05 năm kinh nghiệm thì không được cấp giấy phép lao động. Trong khi đó có những trường hợp được xác nhận kinh nghiệm mang tính hình thức chưa xác định được mức độ đào tạo cụ thể do ai kiểm chứng vẫn đủ điều kiện xin cấp giấy phép lao động. Nay, theo quy định mới tại Nghị định 11/2016/NĐ-CP thì rút ngắn thời gian làm việc xuống 03 năm để đảm bảo tính hợp lý.

Nhà quản lý, giám đốc điều hành là người lao động nước ngoài thuộc một trong các trường hợp sau: Nhà quản lý là người quản lý doanh nghiệp theo quy định tại Khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp hoặc là người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu của cơ quan, tổ chức; Giám đốc điều hành là người đứng đầu và trực tiếp điều hành đơn vị trực thuộc cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Thứ hai, bổ sung quy định về trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động không cần phải làm thủ tục xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Theo quy định cũ tại Nghị định số 102/2013/NĐ-CP thì đối với tất cả người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động, người sử dụng lao động phải đề nghị Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài thường xuyên làm việc trước ít nhất 07 ngày làm việc, kể từ ngày người lao động nước ngoài bắt đầu làm việc. Trên thực tế, nhiều trường hợp các công ty đa quốc gia gửi nhân viên nước ngoài đến Việt Nam trong một thời gian ngắn để thực hiện các công việc chẳng hạn như cung cấp đào tạo, thực hiện kiểm toán nội bộ, lắp đặt thiết bị. Luật yêu cầu họ phải thực hiện thủ tục không thuộc diện xin giấy phép lao động trong khi thủ tục hành chính khá rườm ra, thời gian xử lý hồ sơ lâu trong và họ chỉ ở Việt Nam một vài ngày hoặc một vài tuần. Có khi nhận được chấp thuận không thuộc diện xin giấy phép lao động thì họ đã không còn làm việc tại Việt Nam. Vì vậy, Nghị định 11/2016/NĐCP đã quy định một số trường hợp không thuộc diện cấp giấy phép lao động không cần làm thủ tục xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Họ bao gồm người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch vụ, xử lý những sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh làm ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên gia Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử lý được, dưới 30 ngày và thời gian cộng dồn không quá 90 ngày trong 01 năm khi làm việc tại vị trí chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc lao động kỹ thuật.  

Thứ ba, thay đổi quy định về lý lịch tư pháp.Theo quy định mới hiện nay thì đối với trường hợp người lao động nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam thì chỉ cần phiếu lý lịch tư pháp do Việt Nam cấp, quy định này đã đơn giản hơn rất nhiều so với quy định trước đây (khi người lao động nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam thì yêu cầu cả Phiếu lí lịch tư pháp tại Việt Nam và Phiếu lí lịch tư pháp cấp tại nước ngoài được hợp pháp hóa lãnh sự, dịch ra tiếng Việt và chứng thực).

Thứ tư, thay đổi quy định về giấy chứng nhận sức khỏe hoặc giấy khám sức khỏe.Theo quy định cũ, người lao động nước ngoài cần có Giấy chứng nhận sức khỏe được cấp ở nước ngoài hoặc ở Việt Nam theo quy định của Bộ Y tế. Tuy nhiên, trong thực tế, trường hợp khám sức khỏe tại Việt Nam thì không thực hiện được vì lúc đó người lao động nước ngoài chưa nhập cảnh vào Việt Nam. Còn nếu khám ở nước ngoài thì Việt Nam chưa ký thỏa thuận với nước ngoài nên rất khó. Vì thế, quy định mới đã sửa thành giấy chứng nhận sức khỏe hoặc giấy khám sức khỏe do cơ quan, tổ chức y tế có thẩm quyền của nước ngoài hoặc của Việt Nam cấp có giá trị trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày ký kết luận sức khỏe đến ngày nộp hồ sơ.   

Thứ năm, thời hạn cấp Giấy phép lao động được rút ngắn. Theo quy định mới thì “ Trong 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài theo mẫu do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định. Trường hợp không cấp giấy phép lao động thì có văn bản trả lời và nêu rõ lý do”. Như vậy, so với quy định hiện hành thời gian cấp Giấy phép lao động đã giảm từ 10 ngày xuống còn 7 ngày.

Thứ sáu, kế thừa giá trị sử dụng một số loại giấy tờ trong hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép lao động đối với một số trường hợp đặc biệt.Quy định mới cũng đã giảm một số giấy tờ trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động của những trường hợp sau: Người lao động nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động và đang còn hiệu lực có nhu cầu làm việc cho người sử dụng lao động khác cùng vị trí công việc ghi trong giấy phép lao động hoặc làm khác vị trí công việc ghi trong giấy phép lao động theo quy định của pháp luật nhưng không thay đổi người sử dụng lao động; người lao động nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động nhưng hết thời hạn và có nhu cầu làm việc cho người sử dụng lao động khác cùng vị trí công việc đã ghi trong giấy phép. Quy định đảm bảo có sự kế thừa giá trị sử dụng đối với một số loại giấy tờ như giấy chứng nhận sức khỏe, phiếu lý lịch tư pháp, văn bản chứng minh là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật trong hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại giấy phép lao động. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Thư bảy, bổ sung trường hợp cấp lại giấy phép lao động. Nghị định 11/2016/NĐ-CP bổ sung thêm trường hợp nếu giấy phép lao động còn thời hạn ít nhất 5 ngày nhưng không quá 45 ngày thì sẽ được cấp lại.

Như vậy, kể từ 01/04/2016, việc xin cấp Giấy phép lao động cho người nước ngoài đã có nhiều quy định thuận lợi hơn so với Nghị định 102/2013/NĐ-CP, đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian xin cấp phép cho người lao động.

3.1.1.3. Một số vướng mắc trong quy định liên quan tới giấy phép lao động

Trường hợp người lao động nước ngoài ký kết nhiều hợp đồng lao động

Pháp luật Việt Nam cho phép người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động. Điều này góp phần đảm bảo cho quyền được tự do làm việc của người lao động. Trên thực tế, hoàn toàn có khả năng người lao động nước ngoài muốn làm việc cho nhiều người sử dụng lao động cùng một lúc. Vậy trong trường hợp người nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động và giấy phép đó đang còn hiệu lực nếu có nhu cầu giao kết thêm hợp đồng lao động khác thì có phải làm thủ tục để xin giấy phép khác không và nếu có thì hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động sẽ như thế nào? Ở đây sẽ có ba trường hợp: Làm việc cho người sử dụng lao động khác ở cùng vị trí công việc; làm việc cho người sử dụng lao động khác ở khác vị trí công việc; làm khác vị trí công việc ghi trong giấy phép lao động theo quy định của pháp luật nhưng không thay đổi người sử dụng lao động.

Tại khoản 8, Điều 10, Nghị định số 11/2016/NĐ-CP chỉ quy định hai trong ba trường hợp trên, đó là trường hợp mà người lao động nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao động khác ở cùng vị trí công việc và trường hợp làm khác vị trí công việc không thay đổi người sử dụng lao động. Hai trường hợp này khi làm thủ tục xin cấp giấy phép lao động thì hồ sơ xin cấp giấp phép sẽ có sự kế thừa giá trị của một số loại giấy tờ như giấy khám sức khỏe, phiếu lý lịch tư pháp. Còn trường hợp người lao động nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao động khác ở cùng vị trí công việc thì không có quy định, tức là trong trường hợp này phải làm một hồ sơ xin cấp phép đầy đủ giấy tờ theo quy định mà không có sự kế thừa giá trị sử dụng các loại giấy tờ. Mặt khác, từ quy định ta có thể thấy trong trường hợp mà người lao động nước ngoài muốn ký kết nhiều hợp đồng lao động thì lại phải làm thêm một giấy phép lao động nữa. Vậy, một người lao động nước ngoài có thể được cấp nhiều giấy phép lao động cùng một lúc, điều này có cần thiết?

Chưa có quy định tạo điều kiện thuận lợi dịch chuyển lao động cho các đối tượng được phép di chuyển tự do trong khu vực Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Từ 31/12/2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) chính thức được thành lập, đưa Cộng đồng ASEAN hoàn chỉnh với ba trụ cột là chính trị – an ninh; kinh tế; văn hóa và xã hội ra đời, hứa hẹn nhiều cơ hội cho người dân và doanh nghiệp Việt. Một trong những thỏa thuận trong Cộng đồng ASEAN đáng chú ý, tác động trực tiếp tới người dân, nhất là lao động trẻ, có trình độ là 8 nhóm lĩnh vực nghề nghiệp hiện nay được tự do dịch chuyển giữa các quốc gia bao gồm bác sỹ, nha sỹ, hộ lý, kỹ sư, kiến trúc sư, kiểm toán viên, giám sát viên và nhân viên du lịch. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định để tạo điều kiện thuận lợi dịch chuyển lao động cho các đối tượng nêu trên.

Phiếu lý lịch tư pháp hoặc văn bản xác nhận người lao động nước ngoài không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Quy định về lý lịch tư pháp là giấy tờ bắt buộc phải có trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động là không cần thiết. Bởi theo Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư  trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 thì trường hợp người nước ngoài là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan quản lý xuất nhập cảnh sẽ chưa cho nhập cảnh vì lý do quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Mặt khác, trong quá trình tuyển dụng người lao động nước ngoài vào làm việc thì người sử dụng lao động đã nắm được các thông tin về người lao động rồi và chẳng ai lại muốn tuyển một người không có thông tin nguồn gốc rõ ràng thậm chí là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự vào làm việc cho mình. Bởi vậy, việc yêu cầu đếu lý lịch tư pháp là nhu cầu của người sử dụng lao động hơn là một điều kiện để người lao động nước ngoài phải đáp ứng có thể vào làm việc tại Việt Nam.

Quy định nhà thầu cần sử dụng lao động nước ngoài đề nghị tuyển lao động Việt Nam vào các vị trí công việc dự kiến tuyển lao động nước ngoài không hiệu quả

Đối với trường hợp nhà thầu cần sử dụng người nước ngoài thì trước khi tuyển người nước ngoài, nhà thầu có trách nhiệm đề nghị tuyển lao động Việt Nam vào các vị trí công việc dự kiến tuyển lao động nước ngoài. Trường hợp không tuyển được lao động Việt Nam thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc nhà thầu được tuyển người  lao động nước ngoài vào các vị trí công việc không tuyển được lao động Việt Nam. Chính sách này nhằm tạo cơ hội việc làm cho lao động Việt Nam, thực hiện đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước là không cho phép sử dụng người lao động nước ngoài không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, đặc biệt nghiêm cấm sử dụng lao động phổ thông là người nước ngoài. Đối với vị trí công việc là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật cũng chỉ cho phép tuyển và sử dụng người lao động nước ngoài khi mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được theo yêu cầu  sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động (Khoản 1 Điều 170 Bộ luật lao động 2012). Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình tổ chức thực hiện, quy định này chưa thực sự phát huy hiệu quả. Trên thực tế, khi nhà thầu có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài thì thường để đảm nhận những công việc đặc thù, đòi hỏi lao động có chuyên môn đáp ứng được ngay yêu cầu công việc mà không cần phải qua đào tạo (do phần lớn là những công việc có thời hạn ngắn, phục vụ cho từng giai đoạn của gói thầu). Do đó, quy định đề nghị tuyển lao động Việt Nam vào các vị trí công việc dự kiến tuyển lao động nước ngoài không hiệu quả. Thực tế cho thấy, tỷ lệ tuyển được người lao động Việt Nam là rất thấp. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Khắt khe về điều kiện xin giấy phép lao động

 Đối với lao động là giáo viên dạy ngoại ngữ cũng phải chứng minh 03 năm kinh nghiệm giảng dạy tại nước ngoài trong khi đó nhu cầu giáo viên dạy ngoại ngữ của Việt Nam là cần những người thành thạo ngôn ngữ của họ mà giáo viên dạy ngoại ngữ Việt Nam không đáp ứng được. Thiết nghĩ họ có bằng cấp sư phạm là hoàn toàn đáp ứng nhu cầu giảng dạy ngoại ngữ tại Việt Nam.

3.1.2. Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế

Theo Luật Bảo hiểm xã hội 2006, người lao động nước ngoài tại Việt Nam không phải là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện. Tuy nhiên, theo quy định mới tại Luật Bảo hiểm xã hội 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016, người lao động là công dân nước ngoài nếu được cấp giấy phép lao động, chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề bởi cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì “được” tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định Chính phủ, điều khoản này có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội với mong muốn có thể duy trì và ổn định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao động khi hưu trí, về già. Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm về vật chất cho người lao động thông qua các chế độ bảo hiểm xã hội nhằm góp phần ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ. Nhu cầu bảo đảm an toàn trong cuộc sống và làm việc của người lao động ngày càng trở nên thường xuyên tự nhiên và chính đáng của con người. Chính vì vậy, quy định cho phép người lao động nước ngoài tham gia bảo hiểm xã hội sẽ góp phần làm cho người lao động yên tâm làm việc và đó cũng là một yếu tố làm cho năng suất lao động được nâng cao. Tuy nhiên, quy định này dường như chỉ là một quy định định hướng trong tương lai, một bộ phận người lao động nước ngoài sẽ phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc mà chưa có hướng dẫn cụ thể. Thoạt tiên, khi đọc điều luât này ta thấy có vẻ điều luật trao quyền cho một bộ phận người lao động nước ngoài được tham gia bảo hiểm xã hội nhưng khi nhắc đến bảo hiểm xã hội bắt buộc thì đó lại là một nghĩa vụ “bắt buộc”.

Về bảo hiểm y tế, người lao động nước ngoài (kể cả người quản lý doanh nghiệp có hưởng lương) làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên tại Việt Nam là đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm y tế theo quy định hiện hàn, đây là một tiến bộ rất lớn trong lĩnh vực bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh ở nước ta.

Trên thực tế, người lao động nước ngoài đã phải đóng các chi phí tương tự tại nước mà họ là công dân nên rất có thể họ sẽ phải đóng phí hai lần cho bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Vì vậy trước khi điều khoản về bảo hiểm xã hội trên có hiệu lực, các nước cần thiết phải có một điều ước thống nhất vấn đề này để đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Cho đến thời điểm này, Việt Nam vẫn chưa có một quy định hướng dẫn cụ thể, chi tiết về việc người lao động nước ngoài tham gia bảo hiểm xã hội.

3.1.3. Quyền về công đoàn Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, Luật Công đoàn của Việt Nam chỉ trao quyền cho những người lao động Việt Nam trong việc thành lập và gia nhập công đoàn.

Theo Điều 5, Luật Công đoàn năm 2012:

Điều 5. Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn

  1. Người lao động là người Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.
  2. Trình tự, thủ tục thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam.”

Thêm vào đó, theo quy định của Điều lệ công đoàn Việt Nam 2013 và Hướng dẫn 238/2014/ND-TLĐ ngày 4 tháng 3 năm 2014 quy định về đối tượng không kết nạp vào tổ chức Công đoàn, trong đó có người lao động có quốc tịch nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam. Như vậy, về mặt pháp lý, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không có quyền thành lập công đoàn và không được trở thành công đoàn viên. Họ sẽ không được hưởng các quyền lợi với tư cách là một công đoàn viên (như quyền ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo công đoàn, kiến nghị bãi miễn cán bộ công đoàn có sai phạm) trong các doanh nghiệp nơi họ lao động, không có quyền tham gia vào Ban chấp hành công đoàn cơ sở và không thể trở thành người đại diện cho tập thể lao động của doanh nghiệp trong các hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động trong doanh nghiệp. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Theo quy định hiện hành của pháp luật lao động, người lao động nước ngoài chỉ có được một số quyền liên quan đến tổ chức công đoàn mà thôi. Họ có thể tham gia các hoạt động trong khuôn khổ của công đoàn, do công đoàn tổ chức nhưng chỉ với tư cách là người lao động trong doanh nghiệp và là thành viên trong một tập thể lao động của doanh nghiệp, chứ không phải với tư cách là công đoàn viên. Theo Điều 157 của Bộ luật Lao động, tập thể lao động là những người lao động cùng làm việc trong một doanh nghiệp hoặc một bộ phận của doanh nghiệp. Do đó, khi công đoàn lấy ý kiến của tập thể lao động trong các vấn đề liên quan đển thỏa ước lao động tập thể, đình công… thì phải lấy ý kiến của tất cả những người lao động trong đơn vị, bao gồm cả người lao động nước ngoài.  

Vấn đề nên hay không cho phép lao động người nước ngoài được gia nhập các tổ chức công đoàn như tất cả những công dân Việt Nam khác vẫn tiếp tục là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng, số lượng lao động là người nước ngoài ngày càng đông, các cơ quan nhà nước cũng chưa quản lý chặt, mọi nghĩa vụ và quyền lợi của lao động nước ngoài cũng đã được nêu trong các điều ước quốc tế chung nên việc họ tham gia hay không tham gia tổ chức công đoàn không có ý nghĩa quan trọng, do vậy, không nên cho phép đối tượng này gia nhập tổ chức công đoàn. Trong thực tế quan hệ lao động giữa người lao động là người nước ngoài với người sử dụng lao động cũng bắt đầu có những phát sinh mâu thuẫn, nhưng chưa có tổ chức công đoàn để bảo vệ họ.

Một số thỏa thuận thương mại mà Việt Nam mới ký kết như TPP, EVFTA thừa nhận quyền tham gia, thành lập tổ chức công đoàn độc lập của người lao động. Việt Nam đã chấp thuận việc thành lập các tổ chức đại diện cho người lao động ở cấp cơ sở, độc lập với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Bản Kế Hoạch giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cũng đưa ra năm nguyên tắc mà Việt Nam phải tuân thủ khi sửa đổi hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do công đoàn: Nguyên tắc số 1 là Công nhân được tự do tham gia các tổ chức công đoàn theo lựa chọn của họ; Nguyên tắc số 2: Các tổ chức công đoàn phải được tự quản; Nguyên tắc số 3: Tự chủ trong việc nhận đại diện của công đoàn trong các đơn vị không có công đoàn; Nguyên tắc số 4: Tính đại diện trong việc lựa chọn cán bộ công đoàn; Nguyên tắc số 5: Ngăn chặn việc can thiệp của giới chủ vào hoạt động của công đoàn. Như vậy, từ kết quả của TPP, chúng ta có thể chờ đợi vào một sự thay đổi lớn trong hệ thống pháp luật lao động và pháp luật về hội của Việt Nam mang lại lợi ích chính đáng cho người lao động, trong thời gian không xa người lao động nước ngoài hoàn toàn có quyền tham gia, thành lập tổ chức công đoàn.

Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, đặc biệt là người lao động nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài khi thừa nhận quyền tham gia, thành lập tổ chức công đoàn độc lập của người lao động là việc thương lượng tập thể, đình công, biểu tình để đòi quyền lợi của người lao động sẽ diễn ra mạnh mẽ dưới sự dẫn dắt của công đoàn thì lo ngại về sự mất ổn định khi các quyền này bị lợi dụng sẽ gia tăng. “Tuy nhiên, một Nhà nước minh bạch – như những gì TPP đòi hỏi – phải là một Nhà nước biết định hướng và dung hòa sao để có thể thực thi quyền đó ở tối đa, chứ không phải là hạn chế nó hay định nghĩa nó theo cách khác đi”[6].

3.1.4. Các điều kiện kinh tế – văn hóa – xã hội để đảm bảo sự hội nhập của người lao động nước ngoài Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Mức độ hiểu biết của người lao động nước ngoài tới các vấn đề như pháp luật, phong tục tập quán, môi trường làm việc, môi trường sống tại Việt Nam rất khác nhau và còn nhiều hạn chế. Số lượng hiểu biết về đời sống môi trường ở Việt Nam của họ chỉ ở mực độ tương đối. Những vấn đề người lao động nước ngoài quan tâm tìm hiểu nhất là “trật tự an toàn” với 25,7% lao động nước ngoài hiểu biết đầy đủ, 62,1% biết tương đối về vấn đề này[7]. Mối quan tâm lớn thứ hai của họ là “môi trường sống” tại Việt Nam ra sao, liệu họ thích nghi và hoà nhập được hay không? Các chương trình, hoạt động văn hóa – xã hội, trợ giúp hòa nhập dành cho người lao động nước ngoài chưa được Việt Nam quan tâm. Các nước trên thế giới thường có các hoạt động dành cho người lao động nước ngoài, ví dụ như ở Hàn Quốc, họ có Ngày lao động Việt Nam, Chương trình thể dục thể thao dành cho người lao động nước ngoài giúp họ có cơ hội cùng tham gia, vui chơi để hiểu thêm về nền văn hóa của nhau, tăng mối liên kết giữa họ và các trung tâm hỗ trợ người lao động nước ngoài, giúp họ được hỗ trợ tư vấn về khiếu nại.  

Điều đáng ngạc nhiên là mối quan tâm của người lao động nước ngoài tới “Pháp luật Việt Nam” không nhiều bằng các vấn đề nêu trên, chỉ có gần 12% người lao động nước ngoài trả lời “hiểu đầy đủ” về pháp luật Việt Nam[8]. Chính vì hiểu biết chưa đầy đủ về quy định pháp luật nên một bộ phận người lao động nước ngoài không trực tiếp làm các thủ tục pháp lý tại các cơ quan công quyền của Việt Nam. Họ thường dựa vào công ty hay tổ chức đang làm việc, hoặc thuê các doanh nghiệp hoặc tổ chức dịch vụ luật thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết. Điều này có những thuận lợi nhưng cũng tạo ra nhiều rủi ro đối với người người lao động nước ngoài do nguy cơ bị lừa đảo, mất chi phí cao. Mặt khác, sự kém hiểu biết pháp luật của người lao động nước ngoài đang là mối lo tiềm ẩn của những tội phạm, trật tự an ninh trong địa bàn nhất là đối với lao động phổ thông bất hợp pháp đến từ các nước trên thế giới.

Thực tế cho thấy, người nước ngoài sau một thời gian sang làm việc tại Việt Nam có mong muốn sinh sống và làm việc lâu dài tại Việt Nam. Đây cũng là nguyên nhân của hiện tượng khi hết thời hạn lao động, người nước ngoài tiếp tục ở lại, lập gia đình và lao động “chui” tạo bức xúc trong xã hội. Người lao động nước ngoài sẽ lấy đi những cơ hội việc làm của lao động trong nước. Cùng với những yếu tố văn minh, hiện đại; đồng thời họ cũng mang theo lối sống, văn hoá độc hại không phù hợp với thuần phong, mỹ tục và bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Những xung đột về văn hóa mà không được giải quyết sẽ kéo theo nhiều bất ổn về chính trị và xã hội. Rõ ràng cần siết chặt sự quản lý đối với người lao động nước ngoài khi hết hạn giấy phép lao động nhưng cũng cần phải có những biện pháp hài hòa.

Việt Nam cần chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tiếp nhận người lao động nước ngoài. Đặc biệt, khi Việt Nam tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN, ký kết Hiệp định Đối tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương – TPP, thị trường lao động phải mở cửa, các vấn đề tiêu chuẩn lao động tối thiểu ngày càng được quan tâm. Việc tham gia và thực hiện các quy định về tiêu chuẩn lao động tối thiểu là điều cần thiết. Ngoài đảm bảo về các tiêu chuẩn trong lao động thì cần chuẩn bị những điều kiện về kinh tế – văn hóa xã hội để sẵn sàng chào đón người lao động nước ngoài, giúp họ hòa nhập.

3.2. Một số giải pháp, kiến nghị Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

3.2.1. Giải pháp, kiến nghị chung

  • Kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật

Chúng ta cần tiếp tục có sự rà soát để kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh các quy định pháp luật để tạo ra khung pháp lý phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với công ước, điều ước quốc tế, đảm lợi ích quốc gia, tôn trọng lợi ích của người lao động.

Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, phê chuẩn các công ước quốc tế liên quan đến di cư lao động nói chung. Xây dựng Luật cho lao động di cư bao gồm cả đối tượng lao động đi làm việc ở nước ngoài và lao động người nước ngoài đến Việt nam làm việc, cho phép điều chỉnh tất cả các đối tượng hướng khuyến khích di cư hợp pháp, an toàn, phòng chống di cư trái phép trên cơ sở xem xét quá trình di cư như một chỉnh thể liên tục, thống nhất và bao trùm được các đối tượng di cư và mọi giai đoạn của quá trình di cư (trước khi đi, xuất cảnh, nhập cảnh, hồi hương và tái hoà nhập). Tăng cường hợp tác quốc tế, chia sẻ, trao đổi thông tin thị trường lao động quốc tế và các dịch vụ bảo vệ tốt hơn cho người lao động di cư, bảo đảm việc làm bền vững và hiệu quả; cung cấp cơ hội cho người lao động nước ngoài thực hiện quyền lao động của họ phù hợp với pháp luật của nước ta cũng như pháp luật của nước mà họ có quốc tịch hoặc thường trú và các nước trong khu vực; thúc đẩy các mối liên kết song phương, đa phương với các cộng đồng xuyên quốc gia và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao vốn, kỹ năng và công nghệ.

  • Tăng cường công tác thực hiện quy định pháp luật

Cho dù có các quy định pháp luật điều chỉnh có đầy đủ đến đâu nhưng công tác thực thi không tốt, không hiệu quả thì những quy định đó cũng không mang ý nghĩa.  Cần tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và các cấp trong công tác quản lý người nước ngoài; hiện đại hóa quy trình hướng dẫn các thủ tục visa, cấp phép, tuyển dụng bằng nhiều thứ tiếng và xây dựng cơ sở dữ liệu, trang WEB về người lao động nước ngoài ở Việt Nam; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về lao động nước ngoài tại Việt Nam. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể như công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ trong công tác tuyên truyền, vận động, quản lý để người lao động nhanh chóng hội nhập với môi trường, điều kiện làm việc tại Việt Nam, giúp họ tuân thủ pháp luật và các quy định tại Việt Nam, đảm bảo quyền lợi cho người lao động và lợi ích quốc gia.

  • Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

Lực lượng công an cần tăng cường thanh tra, xử lý những đối tượng người nước ngoài cư trú không đúng mục đích (ví dụ như nhập cảnh theo hình thức du lịch nhưng thực chất lại làm việc khi chưa có giấy phép lao động, lợi dụng quy định người nước ngoài vào làm việc dưới 03 tháng để không thuộc trường hợp phải có giấy phép lao động). Việc gia hạn VISA cũng phải siết chặt, nhất là đối với những người làm việc không có giấy phép lao động cũng như không chuyển mục đích từ VISA du lịch sang lao động. Nếu như việc thanh tra và xử lý không nghiêm minh thì sẽ tạo điều kiện cho tình trạng sử dụng trái phép lao động nước ngoài gia tăng. Tuy nhiên, để cho công tác thanh tra, xử lý vi phạm đạt hiệu quả thì còn phải cần những biện pháp chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe.

3.2.2. Giải  pháp, kiến nghị cụ thể Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

  • Giải pháp giải quyết tình trạng lao động chui

Việc cư trú bất hợp pháp của người nước ngoài không chỉ ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội mà còn có các yếu tố liên quan đến an ninh quốc gia. Nếu ở lại cư trú bất hợp pháp, người lao động nước ngoài sẽ đối mặt nhiều rủi ro, bất ổn; khi về nước còn có thể bị xử phạt như bị phạt tiền, bị cấm ra nước ngoài làm việc trong một khoảng thời gian nhất định.

Để xử lý cũng như ngăn ngừa các trường hợp lao động nước ngoài bất hợp pháp, nhiều nước trên thế giới đưa ra những quy định nghiêm khắc và thực hiện hết sức nghiêm túc. Ở một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia thì mọi hành vi như nhập cảnh làm việc bằng VISA du lịch, làm việc không có giấy phép lao động hoặc hết hạn hợp đồng mà không về nước đều bị coi là vi phạm pháp luật, bị xếp vào diện lao động bất hợp pháp. Những trường hợp này nếu phát hiện sẽ bị bắt giam, bị trục xuất và cấm nhập cảnh vĩnh viễn.

Ví dụ như Hàn Quốc, họ thực hiện chiến dịch truy bắt lao động bất hợp pháp. Từ ngày 22/5/2015, Hàn Quốc triển khai rộng rãi chương trình đăng ký tự nguyện về nước dành cho người nước ngoài cư trú bất hợp pháp. Theo đó, người nước ngoài cư trú bất hợp pháp bất kể từ thời gian nào, có thể mang theo hộ chiếu hoặc giấy thông hành còn hiệu lực và vé máy bay đến phòng xuất nhập cảnh ở sân bay nơi dự định xuất cảnh để làm thủ tục về nước. Trường hợp này, người lao động không bị giam giữ, miễn đóng phạt và được xem xét rút ngắn thời gian cấm nhập cảnh trở lại Hàn Quốc xuống còn 2 năm. Những người cố tình bỏ trốn, nếu bị bắt sẽ bị giam giữ, phạt tiền, trục xuất và cấm nhập cảnh Hàn Quốc thời hạn 10 năm.[9]

Muốn ngăn ngừa tình trạng lao động chui (bất hợp pháp), cần có sự thắt chặt trong công tác quản lý lao động nước ngoài, thực hiện nghiêm các quy định pháp luật. Chúng ta cần tăng cường thực thi pháp luật về lao động nước ngoài, hướng dẫn, hỗ trợ thực thi pháp luật cho các cơ quan, cán bộ quản lý các cấp trong lĩnh vực quản lý lao động nước ngoài. Xây dựng các bộ hồ sơ, thủ tục, quy trình, cẩm nang giải thích, hướng dẫn pháp luật, chính sách đối với lao động nước ngoài.

  • Bổ sung quy định trường hợp người lao động nước ngoài giao kết nhiều hợp đồng với nhiều người sử dụng lao động

Bổ sung thêm trường hợp “người lao động nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động và đang còn hiệu lực mà muốn giao kết thêm hợp đồng lao động mới với người sử dụng khác với vị trí lao động khác trong giấy phép lao động trong quy định về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động đối với một số trường hợp đặc biệt. Hoặc ta có thể sửa đổi khoản 8-b, Điều 10, Nghị định số 11/2016/NĐ-CP thành: “Đối với người lao động nước ngoài đã được cấp giấy phép lao động và đang còn hiệu lực mà làm khác vị trí công việc ghi trong giấy phép lao động theo quy định của pháp luật nhưng không thay đổi người sử dụng lao động hoặc thay đổi cả người sử dụng lao động thì hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động gồm các giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 4, 5, 6 và 7 Điều này và giấy phép lao động hoặc bản sao chứng thực giấy phép lao động đã được cấp”.

  • Bổ sung quy định miễn giấy phép lao động hoặc giảm tối đa thủ tục trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động cho các đối tượng được phép di chuyển tự do trong khu vực Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
  • Đẩy mạnh việc ký kết các điều ước quốc tế song phương về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.

Với quy định người lao động phải tham gia bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội thì có thể người lao động nước ngoài phải đóng khản phí tương tự ở hai quốc gia. Như vậy thì không công bằng, phí chồng phí sẽ đề nặng lên vai người lao động. Thiết nghĩa ta nên để đến khi có điều ước quốc tế về vấn đề này rồi mới thực hiện quy định để không xảy ra tình trạng người lao động nước ngoài phải đóng phí hai lần. Như vậy trước ngày 01 tháng 01 năm 2018, nước ta cần gấp rút ký kết các điều ước song phương với các quốc gia trên thế giới về vấn đề bảo hiểm xã hội. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

  • Xem xét quyền gia nhập công đoàn của người lao động nước ngoài

Vấn đề kết nạp người lao động là người nước ngoài vào tổ chức Công đoàn Việt Nam cũng cần được xem xét, đảm bảo lao động trong và ngoài nước được đối xử bình đẳng và được pháp luật bảo hộ, nên không có lý do gì để đội ngũ này đứng ngoài tổ chức công đoàn. Tất nhiên, điều kiện cụ thể phải được nêu rõ trong luật, ví dụ như với thời hạn lao động còn hiệu lực từ một thời gian nhất định chẳng hạn là 1 năm trở lên kể từ ngày làm đơn xin gia nhập công đoàn, có giấy phép lao động và các điều kiện nhất định khác.

  • Bổ sung các quy định pháp luật cho người không có quốc tịch

Việt Nam nên xem xét tham gia Công ước 1954 của Liên Hợp Quốc về quy chế của người không quốc tịch. Công ước 1954 sẽ giúp Việt Nam cải thiện được tình trạng pháp lý và nâng cao vị thế của người không quốc tịch, bảo đảm các quyền cơ bản của con người đối với người không quốc tịch.

  • Có biện pháp giúp người lao động nước ngoài hòa nhập tại Việt Nam

Tập trung tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ, quyền lợi của người lao động như Bộ luật Lao động (trọng tâm về các vấn đề như hợp đồng lao động, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ sinh lao động), Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản pháp luật có liên quan khác. Người sử dụng lao động, các cấp công đoàn tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho người lao động nước ngoài nhằm từng bước hình thành thói quen hành động theo pháp luật; giúp người lao động giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội theo pháp luật; hạn chế tình trạng xung đột trong mối quan hệ với người sử dụng lao động.

Để có thể hòa nhập thì hiểu biết ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng. Tiếng Việt là một ngôn ngữ được nhận xét là khó học, cần quan tâm mở các lớp dạy tiếng Việt miễn phí cho người nước ngoài nói chung để giúp họ hiểu biết rộng rãi về ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, giúp họ hòa nhập với cộng đồng.

PHẦN KẾT LUẬN Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

Như vậy, địa vị pháp lý của người lao động nước ngoài tại Việt nam được xác định trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Người lao động nước ngoài tại Việt nam vừa phải chịu sự điều chỉnh pháp luật Việt Nam, vừa phải chịu sự điều chỉnh pháp luật của nước mà họ có quốc tịch hoặc nơi họ cư trú nếu họ không có quốc tịch. Mặc dù chưa có một đạo luật riêng về địa vị pháp lý của người lao động nước ngoài tại Việt Nam nhưng về cơ bản có thể nhận thấy địa vị pháp lý của họ được thể hiện qua năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi, điều kiện để họ có thể vào làm việc tại Việt Nam, trong đó, có chế độ cấp phép lao động, các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ cũng như cơ chế thực thi và bảo vệ các quyền và nghĩa vụ đó.

Giấy phép lao động là một quy định đặc thù dành cho người lao động nước ngoài, mặc dù những quy định liên quan về giấy phép lao động được nhà nước quan tâm điều chỉnh nhưng có thể thấy trình tự thủ tục còn khá rườm rà. Người lao động nước ngoài cũng như người sử dụng lao động nước ngoài phải có sự tìm hiểu kỹ lưỡng về các quy định pháp luật có liên quan để từ đó nắm được các quyền, nghĩa vụ và lợi ích của mình. Nói chung, pháp luật Việt Nam ngày càng có những quy định tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động nước ngoài tại Việt Nam, quyền, nghĩa vụ và lợi ích của họ về cơ bản được đảm bảo và được đối xử như đối với người lao động Việt Nam.

Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà phục hồi và phát triển mạnh, hiệu quả đầu tư trong nước cải thiện nhờ các nỗ lực và cải cách trong nước tái cơ cấu nền kinh tế cùng với sự tham gia ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào các hiệp định tự do thương mại phải kể đến như Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương – TPP, Hiệp định thương mại tự do – FTA. Tăng trưởng kinh tế phục hồi sẽ tác động tích cực tới thị trường lao động và việc gia tăng lao động nước ngoài là xu thế tất yếu. Vì vậy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, để đáp ứng công cuộc đổi mới, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy chế pháp lý dành cho người lao động nước ngoài tại Việt Nam để tạo ra một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ theo định hướng mở rộng hơn nữa quy chế pháp lý dành cho người lao động nước ngoài hướng đến mục tiêu quản lý tốt người lao động nước ngoài, đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho họ, đồng thời có thể tận dụng được những lợi ích mà người lao động nước ngoài đem lại song phải đảm bảo không ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội. Khóa luận: Thực trạng pháp lý của người lao động nước ngoài.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Địa vị pháp lý của người lao động nước ngoài

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993