Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Luật Tố tụng hành chính được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 10, ngày 25/11/2015 (sau đây gọi là Luật Tố tụng hành chính 2015) gồm 23 chương, 372 điều với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng; trong đó, đáng chú ý có nhiều quy định mới, bổ sung về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính. Trong phần này, người viết sẽ phân tích những quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm làm rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính theo Luật Tố tụng hành chính 2015.

Viện kiếm sát nhân dân có vai trò quan trọng trong một vụ án hành chính, góp phần đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình xét xử, cũng như hạn chế được những vi phạm thủ tục hành chính hay việc tuân theo pháp luật. Trong pháp luật Việt Nam, vai trò của Viện kiểm sát dường như đóng một phần không nhỏ vào trong quá trình xét xử của vụ án hành chính và tham gia vào một vụ án hành chính. Cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân thường sẽ giám sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án liệu có đúng với quy định của pháp luật hay không.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1. Những thay đổi trong quan điểm về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng hành chính

Hiện nay, đang có rất nhiều luồng ý kiến trái chiều xoay quanh vấn đề về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính, dân sự. Vai trò của Viện kiểm sát luôn là chủ đề nóng được đưa ra bàn luận nhiều trong mỗi kỳ họp.

Trong đó, nổi bật nhất là hai luồng ý kiến của các đại biểu Quốc hộ cho rằng Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi đó phần ý kiến còn lại lại phản bác nhận định này và khẳng định rằng, Viện kiểm sát hãy nên làm đúng vai trò của mình với tư cách là một cơ quan kiểm sát.

Có ý kiến cho rằng, từ trước đến nay, Viện kiểm sát nhân dân vẫn đang thực hiện nhiệm vụ với vai trò là một cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện chức năng kiểm sát xét xử. Viện kiểm sát hoàn thành rất xuất sắc ở vai trò này nên không cần thiết phải sửa đổi nó và mong muốn vẫn tiếp tục duy trì. [16] Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

Một ý kiến khác lại cho rằng, trong tố tụng hành chính và cả tố tụng dân sự, Viện kiểm sát chỉ có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp chứ không phải là một bên có quyền có ý kiến phân xử vụ kiện. Vai trò đó hoàn toàn khác với vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự. Do đó, không nên coi Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng mà nên gọi thẳng tên là cơ quan kiểm sát. Khái niệm cơ quan tiến hành tố tụng chỉ nên sử dụng trong tố tụng hình sự mà ở đó, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án là các cơ quan thực hiện công quyền trong từng giai đoạn tố tụng để nhân danh Nhà nước điều tra, truy tố, xét xử. ý kiến này được khá nhiều người tán đồng và mong muốn sửa đổi. Bản thân người viết cũng rất đồng tình với quan điểm trên. Vì trong một vụ án hành chính, nếu Viện kiểm sát can thiệp quá sâu vào vụ án như từ trước tới nay, có thể gây ra một số sự bất công cũng như sự nhập nhằng trong việc giải quyết một vụ án hành chính.

Đầu tiên, Viện kiểm sát với tư cách một thiết chế quyền lực nhà nước:

chức năng kiểm sát hoạt động xét xử hành chính. Chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Viện kiểm sát nhân dân, trong đó có xét xử hành chính, được khẳng định một cách rõ ràng trong Hiến pháp. Kiểm sát xét xử vốn là một nội dung trong hoạt động kiểm sát chung. Đây là hoạt động đặc thù của Viện kiểm sát, vốn chỉ tồn tại ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy, sự cần thiết có một cơ quan độc lập, tập trung, đứng ra giám sát hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã hội bắt nguồn từ nguyên lý tổ chức quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nếu như trong quốc gia tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, việc giám sát các hoạt động của công quyền được đảm nhiệm bởi Tòa án, thông qua tố tụng hành chính, thì trong hệ thống tổ chức quyền lực xã hôi chủ nghĩa, sự thiếu vắng vai trò của Tòa án trong kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước – mà chủ yếu là bộ máy hành chính – đã dẫn đến một khả năng “bù đắp” bởi sự tồn tại của chức năng kiểm sát chung – một trong những đối tượng kiểm sát quan trọng là cơ quan hành chính. Theo quan sát của các học giả phương Tây, “từ góc độ lịch sử cho thấy, thiết chế Viện kiểm sát chỉ tồn tại trong những hệ thống hành chính của các nước xã hội chủ nghĩa, nơi vắng bóng vai trò của Tòa án hành chính, hoặc có Tòa án hành chính nhưng chỉ phôi thai hay không được coi trọng lắm”. [36]

Dẫu nguyên lý tổ chức không thay đổi nhưng cho đến nay, chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát đã bị bãi bỏ do trùng lặp với những hoạt động khác như thanh tra, kiểm tra của cơ quan hành chính, giám sát của cơ quan quyền lực. Riêng có kiểm sát xét xử là vẫn được duy trì. Lý giải điều này, theo một số luật gia, việc duy trì kiểm sát xét xử bắt nguồn từ tình hình thực tiễn của nước ta. Kiểm sát xét xử vẫn còn cần thiết khi hoạt động xét xử đang còn gặp nhiều khó khăn, do những nguyên nhân khách quan để lại (ví dụ: chiến tranh, thất lạc các giấy tờ chứng cứ) và cả nguyên nhân chủ quan (trình độ hạn chế của thẩm phán, của người đi kiện – đặc biệt trong các phiên tòa dân sự, khi đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ). Chính vì vậy, vai trò giám sát của Viện kiểm sát trong những phiên tòa này thực sự cần thiết để đảm bảo tính hợp pháp và tính vô tư trong xét xử của Tòa án. [12, tr.26]

Tuy nhiên, liệu rằng kiểm sát xét xử có được coi là cần thiết trong thời điểm hiện nay hay không? Liệu rằng chức năng này có thể dẫn đến khả năng can thiệp vào hoạt động xét xử hành chính hay không? Câu trả lời phụ thuộc vào hoạt động cũng như những uy quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình xét xử vụ án hành chính.

Thứ nhất, Viện kiểm sát hiện diện hầu khắp trong các giai đoạn của quá trình tố tụng hành chính. Về nguyên tắc, có những vụ án bắt buộc phải có mặt Viện kiểm sát. Ở cấp xử sơ thẩm, Viện kiểm sát bắt buộc phải tham gia vào các vụ án do chính cơ quan này khởi kiện, những vụ án trong đó đương sự là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, những vụ án liên quan đến việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt như đưa vào trại giáo dưỡng v.v.. Ở cấp phúc thẩm, Viện kiểm sát sẽ tiếp tục hiện diện trong những vụ việc mà Viện kiểm sát đã tham gia từ giai đoạn sơ thẩm. Riêng với cấp xử giám đốc thẩm và tái thẩm, sự có mặt của Viện kiểm sát là bắt buộc.

Thứ hai, không chỉ hiện diện hầu khắp trong các vụ xét xử hành chính, mà Viện kiểm sát còn có những thẩm quyền quan trọng có thể gây áp lực hoặc thậm chí can thiệp trực tiếp vào hoạt động này. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát có quyền đề nghị chuyển giao để kiểm tra hồ sơ tố tụng hay có quyền yêu cầu Tòa án tiến hành các biện pháp điều tra bổ sung, nếu Viện kiểm sát cho rằng cần thiết, như: xác minh, thu thập chứng cứ, giám định … Trong trường hợp đặc biệt, Viện kiểm sát còn có thể tự mình tiến hành điều tra. Tại phiên tòa, sự tham gia của Viện kiểm sát là trực tiếp: không chỉ kiểm soát diễn tiến phiên tòa mà còn có thể đề nghị triệu tập bổ sung nhân chứng, người giám định hay phiên dịch. Cũng như thế, Viện kiểm sát có quyền cung cấp những chứng cứ bổ sung ngay tại phiên tòa. Đặc biệt là trong giai đoạn thẩm vấn, đại diện của Viện kiểm sát nhân dân có quyền đặt câu hỏi, tham gia xét hỏi trực tiếp. Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

“Điều 89. Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định

Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.

Điều 93. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ

[…] 4. Trường hợp Viện kiểm sát có yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.”

Cũng ở giai đoạn này, Viện kiểm sát nắm quyền lực rất lớn: đọc kết luận của mình, trong đó nêu rõ nhận định chủ quan, đường hướng xét xử của vụ án. Vai trò của đại diện Viện kiểm sát không chỉ dừng lại ở việc trình bày kết luận của mình trước Hội đồng xét xử, mà Viện kiểm sát còn có quyền kháng nghị theo tất cả các thủ tục phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm. Đó là điều khác biệt so với pháp luật nuớc ngoài – vai trò kháng nghị chỉ dành cho đương sự. Hiệu lực của kháng nghị là bắt buộc, bởi Tòa án luôn luôn phải tiến hành các thủ tục xét xử tiếp theo nếu bản án bị kháng nghị.

Kiểm sát xét xử bảo đảm cho việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động của Tòa án, tuy nhiên, Viện kiếm sát lại có quyền kháng nghị bản án hay phán quyết của Tòa. Như vậy, liệu có khả năng tồn tại việc Viện kiểm sát gây áp lực, gián tiếp thay đổi kết luận của bản án bằng việc sử dụng quyền kháng nghị này của mình? Nếu như quyền kháng nghị này được sử dụng một cách chính xác, nó không những làm tăng hiệu quả xét xử, hạn chế tối đa được những án oan sai mà còn làm gia tăng niềm tin của đương sự vào Viện kiểm sát nhân dân. Nhưng nếu sử dụng những quyền hạn này sai mục đích thì có thể can thiệp trực tiếp vào hoạt động xét xử của Tòa án, do đó sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án. Do vậy, sự tồn tại của chức năng này liệu không thực sự cần thiết, đặc biệt khi mà vẫn có nhiều con đường khác để kiểm sát sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử cũng như để bảo vệ quyền lợi của đương sự, ví dụ: thông qua quyền kháng cáo của đương sự, thông qua kháng nghị của Tòa án cấp trên, thông qua chức năng giám sát tư pháp của cơ quan quyền lực nhà nước. Vậy nên, Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính chỉ nên giữ vai trò là cơ quan kiểm sát hoạt động việc tuân thủ pháp luật và thủ tục hành chính trong vụ án hành chính.

Cùng với đó, vai trò của Viện Kiểm sát còn thể hiện ở một khía cạnh quan trọng khác với tư cách người khởi kiện trong vụ án hành chính. Theo Điều 18 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án hành chính, “đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần, nếu không có ai khởi kiện thì VKS có quyền khởi tố vụ án hành chính và có trách nhiệm cung cấp chứng cứ”. Tuy nhiên, Luật Tố tụng hành chính hiện hành chỉ quy định trong trường hợp cần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì Viện Kiểm sát có quyền kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người đó có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức đảm nhận việc giám hộ cho họ khi khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án (khoản 3 Điều 23 Luật Tố tụng hành chính 2010 và khoản 3 điều 25 Luật Tố tụng hành chính 2015).

“Điều 25. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính

[…] 3. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm sát kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người đó.”

Quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát có lẽ xuất phát từ chức năng của Viện Kiểm sát là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trừng trị tất cả các hành vi vi phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.

Nhưng bên cạnh mục tiêu đó, quyền khởi kiện của Viện kiểm sát trong vụ án hành chính có thể làm dấy lên những hoài nghi về tính độc lập của Tòa án trong giải quyết vụ án hành chính. Hơn nữa, cả về lý thuyết cũng như thực tiễn, quyền khởi kiện vụ án hành chính của Viện kiểm sát có vẻ rất khó khả thi. Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

Trước tiên, và quan trọng nhất, nếu Viện kiểm sát đứng ra khởi tố vụ án hành chính, nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án sẽ bị xâm phạm một phần, bởi lẽ trong trường hợp này, Viện kiểm sát sẽ vừa là người khởi kiện, vừa là người giám sát quá trình xét xử trong một vụ án. Nếu thực hiện chức năng kiểm sát xét xử, Viện kiểm sát sẽ có quyền can thiệp vào quá trình điều tra, thậm chí áp dụng các biện pháp điều tra độc lập, có quyền xét hỏi, kết luận về vụ việc – trong khi đó chính Viện kiểm sát lại đang đóng vai trò là một bên khởi kiện.Tình thế này có thể so sánh với tình thế trong vụ án hình sự, khi mà “Viện kiểm sát vừa là chủ thể buộc tội, một bên của tố tụng, vừa lại đứng ra kiểm sát xét xử”. Thẩm phán hành chính có lẽ khó xét xử công tâm, độc lập nếu một bên trong vụ kiện đồng thời chính là người giám sát tiến trình xét xử. Tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” đương nhiên sẽ làm tổn hại đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.

Hơn nữa, quyền khởi kiện của Viện kiểm sát rất khó thực hiện trên thực tiễn. Có lẽ hạn chế này nảy sinh từ những khó khăn được thể hiện ngay trên các văn bản pháp luật. Theo quy định về tố tụng hành chính, trước khi khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án, người khởi kiện phải bắt buộc thực hiện thủ tục khiếu nại hành chính. Đây là điều kiện không thể thiếu để thụ lý vụ án [23, Khoản 1 Điều 2 và mục c Khoản 1 Điều 3]. Có thể hiểu rằng Tòa án sẽ không thể thụ lý vụ kiện nếu như Viện kiểm sát không khiếu nại. Tòa án sẽ vi phạm quy định của pháp luật về điều kiện thụ lý vụ án hành chính nếu như thụ lý vụ kiện mà không có khiếu nại của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, trên thực tế quyền hạn này của Viện kiểm sát rất ít khi được thực hiện. Bởi lẽ, để có thể đại diện cho những đối tượng kể trên Viện kiểm sát phải biết chắc chắn không có bất kì ai khác đại diện cho họ thực hiện quyền khởi kiện. Chỉ khi hết thời hiệu khởi kiện của vụ án mới có thể xác định được là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có nguyện vọng muốn khởi kiện hay là không có người đại diện nào đứng ra khởi kiện vụ án hành chính. Do đó, việc quy định Viện kiểm sát chỉ kiến nghị cử người giám hộ cho nhóm người này là một bước đổi mới quan trọng và cần thiết. Không những thế quyền khởi kiện vụ án hành chính của Viện kiểm sát có thể được thực hiện dễ dàng hơn trong điều kiện Viện kiểm sát còn thực hiện chức năng kiểm sát chung. Bởi Viện kiểm sát có thể dễ dàng phát hiện các trường hợp vi phạm và xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân – đặc biệt là những người thuộc diện cần bảo vệ của các cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước trong quá trình kiểm sát các hành vi vi phạm pháp luật của những đối tượng trên. Nhưng khi chức năng kiểm sát chung bị bãi bỏ theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, thì quyền khởi kiện vụ án hành chính của Viện kiểm sát cũng ít nhiều mất đi tính khả thi. Hơn nữa, khi tước đi quyền kiểm sát chung của Viện kiểm sát, Nhà nước cũng đã đặt ra những thiết chế pháp luật khác để có thể bảo vệ cho nhóm người yếu thế trong xã hội, ví dụ như cơ quan, đoàn thể, hiệp hội… quyền khởi kiện của họ sẽ do những tổ chức, đoàn thể này đại diện cho họ thực hiện. Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

Về nguyên tắc, chức năng kiểm sát xét xử và khởi kiện vụ án hành chính của Viện kiểm sát đều nhằm mục đích bảo đảm pháp chế và bảo vệ quyền lợi của người dân, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội. Nhưng khởi kiện vụ án hành chính không những ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa hành chính mà còn không khả thi. Do đó, những tác động của các quyền hạn của Viện kiểm sát cần phải được xem xét và cân nhắc trên cả bình diện lý thuyết và thực tiễn. Bởi hơn tất cả, Tòa án chính là “người” bảo vệ công lý, niềm tin về công lý nên được đặt trên nhất và cuối cùng, bởi lẽ “nếu như Tòa án là thành trì cuối cùng của việc bảo vệ tự do cá nhân, thì Tòa án cũng là thành trì cuối cùng chống lại những sự vi phạm Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan và nhân viên nhà nước – một thành trì cuối cùng của sự hạn chế quyền lực của Nhà nước.”

2.2. Những điểm mới về vai trò của Viện kiểm sát trong luật tố tụng hành chính 2015

Trải qua nhiều năm, kinh tế đất nước càng phát triển, đời sống nhân dân càng được cải thiện, kéo theo đó là những thay đổi không ngừng về đời sống pháp luật. Những quy định cũ đã có phần không phù hợp với bước tiến của xã hội, đòi hỏi nó phải có sự thay đổi cần thiết, nhất định để phù hợp với tình hình xã hội hiện đại ngày nay. Đặc biệt là về hành chính, những thủ tục rườm rà và quy định đã phần nào không đáp ứng được nhu cầu của người dân trong việc giải quyết các vụ án hành chính, do đó sự thay đổi, cải cách Luật Tố tụng hành chính là điều cần thiết.

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 gồm có 23 chương, 372 điều (tăng 05 chương và 107 điều so với Luật Tố tụng hành chính năm 2010), khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập, kế thừa những quy định còn phù hợp; đồng thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về tố tụng hành chính, bảo đảm các quy định của Luật tố tụng hành chính không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.Luật Tố tụng hành chính 2015 đã ghi nhận những điểm mới khác biệt với luật cũ cả về vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân. Sự khác biệt về vai trò của Viện kiểm sát trong việc tham gia vào vụ án hành chính cũng là một bước đột phá quan trọng của những nhà làm luật trong việc nhìn nhận sự cần thiết của Viện kiểm sát cũng như việc tham gia của họ vào quá trình xét xử vụ án hành chính.

2.2.1. Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành chính Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

Luật Tố tụng hành chính 2015 có quy định về sự có mặt của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa như sau:

“Điều 156. Sự có mặt của Kiểm sát viên

  1. Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.
  2. Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu.”

Với quy định trên chúng ta có thể thấy Luật Tố tụng hành chính năm 2015 kế thừa Luật Tố tụng hành chính năm 2010 ở hai điểm: Một là, kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công phải có mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính; hai là, trường hợp kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có kiểm sát viên dự khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu. Tuy nhiên, Luật Tố  hành tụng chính năm 2015 có một điểm sửa đổi so với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 là trong trường hợp kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử như bình thường thay vì phải hoãn phiên tòa như quy định trước đây. Như vậy, dường như việc có mặt hay không có mặt của kiểm sát viên trong một vụ án hành chính dường như đã trở nên không quá quan trọng. Quy định này được đặt ra nhằm bảo đảm tiến độ giải quyết vụ án hành chính được xét xử một cách kịp thời, theo đúng quy định về thời hạn tố tụng.

Điều 224 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định về sự có mặt của kiểm sát viên trong phiên tòa phúc thẩm

“Điều 224. Sự có mặt của Kiểm sát viên

  1. Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa khi Kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị.
  2. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì người này được thay thế Kiểm sát viên vắng mặt tham gia phiên tòa xét xử vụ án.”

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có điểm kế thừa quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 ở điểm quy định kiểm sát viên được phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa phúc thẩm nếu vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, nhưng có kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì người này được thay thế kiểm sát viên vắng mặt tham gia phiên tòa xét xử vụ án. Tuy nhiên, nếu như Điều 194 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 trước đây quy định trong trường hợp kiểm sát viên vắng mặt nếu không có kiểm sát viên dự khuyết tham dự phiên tòa ngay từ đầu thay thế thì bắt buộc phải hoãn phiên tòa, trong khi đó theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015 trong trường hợp kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa khi kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị. Tương tự với thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, theo khoản 4 Điều 243 thì: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm và phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định. Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên họp khi Kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị”. Với quy định trên có thể hiểu, nếu kiểm sát viên vắng mặt nhưng vụ án hành chính phát sinh do có sự kháng cáo của đương sự mà không phải là kháng nghị của Viện kiểm sát thì trong trường hợp này vẫn tiến hành xét xử bình thường mà không cần phải hoãn phiên tòa. Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

Về sự có mặt của kiểm sát viên tại phiên tòa giám đốc thẩm thì Luật Tố tụng hành chính năm 2015 vẫn tiếp tục kế thừa quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 khi Điều 267 quy định “Phiên tòa giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp”. Quy định này cũng được áp dụng tương tự tại thủ tục tái thẩm. Bên cạnh đó, đối với thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì theo quy định tại Điều 290 về thành phần tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét kiến nghị, đề nghị thì nêu rõ “Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định tại khoản 4 Điều 287 của Luật này”.

[24] Quy định này làm tăng quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát khi được tham gia vào việc xem xét kiến nghị để quyết định có hay không tái thẩm vụ án hành chính, có thể làm tăng khả năng tái thẩm cao hơn cho vụ án hành chính đó.

2.2.2. Phát biểu của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành chính

So với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính có sự sửa đổi quan trọng.

“Điều 190. Phát biểu của Kiểm sát viên

Sau khi những người tham gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.”

(Theo điều 190 Luật Tố tụng hành chính 2015)

Như vậy, theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, kiểm sát viên được quyền phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án hành chính. Việc sửa đổi này hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ, kiểm sát viên là người kiểm sát việc giải quyết vụ án ngay từ khi vụ án hành chính được khởi kiện, kiểm sát viên cũng được quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án nên họ là người nắm rõ bản chất vụ việc hơn bất cứ ai. Do đó, quan điểm của kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án cũng được xem như nguồn tham khảo, đánh giá về tính hợp pháp của đối tượng khiếu kiện. Bên cạnh điểm mới như trên, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 còn bổ sung thêm quy định: “Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án” nhằm đảm bảo việc hoàn tất hồ sơ vụ việc theo đúng quy định của pháp luật cũng như chấp nhận quan điểm của kiểm sát viên như nguồn tham khảo có giá trị. Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

“Điều 240. Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm

Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm.

Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.”

(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)

Đối với việc phát biểu của kiểm sát viên trong phiên tòa phúc thẩm, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 kế thừa những quy định trước đây của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 khi quy định “Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm” và khoản 4 Điều 243 quy định phát biểu của kiểm sát viên tại phiên họp phúc thẩm đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm và phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định. Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên họp khi Kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị”. Tương tự như quy định ở cấp xét xử sơ thẩm, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã bổ sung thêm quy định “Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án”.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm và tái thẩm, đại diện của Viện kiểm sát không chỉ phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án hành chính như trước mà còn có thể phát biểu ý kiến về quyết định kháng nghị theo quy định mới của Luật Tố tụng hành chính 2015. Việc bổ sung này tăng thêm một nguồn thông tin quan trọng giúp cho Hội đồng xét xử dễ dàng xem xét việc kháng nghị có căn cứ hay không, để từ đó quyết định việc chấp nhận hay không chấp nhận kháng nghị và đưa ra phán quyết đúng với sự thật khách quan của vụ án. [24]

Tuy nhiên trên thực tế, quyền phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát hầu như không được sử dụng trong các vụ án hành chính. Hầu hết trong các phiên tòa vụ án hành chính, đại diện của Viện kiểm sát chỉ phát biểu ý kiến của mình về vấn đề việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính của thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật.

2.2.3. Kiểm sát hoạt động thu thập chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hành chính Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính góp phần giúp cho hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, đương sự được diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Vì vậy, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 tiếp tục dành một số điều khoản quy định về vấn đề này, trong đó chủ yếu tập trung tại Chương VI về chứng cứ, chứng minh.

“Điều 84. Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ

Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì Viện kiểm sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc kháng nghị.”

Đối với việc xác minh và thu thập chứng cứ, khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 kế thừa quy định trước đây của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 khi quy định “Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì Viện kiểm sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc kháng nghị”; bên cạnh đó, việc kiểm sát hoạt động thu thập chứng cứ, chứng minh có những điểm mới sau:

Thứ nhất, đối với hoạt động trưng cầu giám định và yêu cầu giám định, khoản 5 Điều 89 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã bổ sung quy định Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được quyền yêu cầu giám định lại trong trường hợp đặc biệt.

“Điều 89. Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định

Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.”

Thứ hai, đối việc bảo vệ chứng cứ, khoản 2 Điều 97 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định “Trường hợp người làm chứng bị đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Tòa án có quyền quyết định buộc người có hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp hành vi đó có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét về trách nhiệm hình sự”, đã có sự khác biệt rất lớn khi so sánh với khoản 2 điều 91 Luật Tố tụng hành chính 2010: “… Trường hợp hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì Toà án chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét về trách nhiệm hình sự”. Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

Có thể thấy, quy định mới đã có sự cụ thể, rõ ràng và chi tiết hơn giúp cho Tòa án thuận lợi trong công tác xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính được kịp thời, đúng pháp luật.

2.2.4. Kiểm sát thi hành án hành chính

Thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có bước sửa đổi quan trọng khi cho phép Tòa án được quyền ra quyết định buộc thi hành án hành chính. Chính vì vậy mà nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân cũng được bổ sung thêm quy định mới tại khoản 2 Điều 312 của luật này:

“Điều 312. Yêu cầu, quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu của người được thi hành án, Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định buộc thi hành án hành chính. Quyết định buộc thi hành án phải được gửi cho người phải thi hành án, người được thi hành án, thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp. Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc và xử lý trách nhiệm của người phải thi hành án theo quy định của pháp luật. Quyết định buộc thi hành án cũng phải gửi cho cơ quan thi hành án dân sự nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm để theo dõi việc thi hành án hành chính theo quyết định của Tòa án.

Chính phủ quy định cụ thể về thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án.”

Ngoài ra, quy định về kiểm sát thi hành án hành chính cũng được Luật Tố tụng hành chính 2015 kế thừa và phát huy:

“Điều 315. Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án

Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật.

Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ thi hành án hành chính và cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án để có biện pháp tổ chức thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án.”

Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính là một trong những biện pháp bảo đảm thi hành án hành chính do Viện kiểm sát nhân dân các cấp trực tiếp thực hiện. Cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án về vụ án hành chính là hệ thống các yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ với nhau làm cơ sở cho việc thi hành phán quyết của Tòa án về vụ án hành chính [28, tr.445 – 446]. Việc quy định quyết định buộc thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp giúp kịp thời thực hiện công tác kiểm sát để phát hiện ra các sai phạm trong hoạt động thi hành án, từ đó đề ra những biện pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thi hành nghiêm chỉnh và kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.Việc quy định này làm tăng khả năng chấp hành thi hành án cao hơn so với trước đây, do có thêm một cơ quan chức năng đảm nhiệm nhiệm vụ này.

2.3. Điểm mới về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 khẳng định rõ hơn vị trí của Viện kiểm sát là thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định rõ phạm vi, nội dung, mục đích của từng chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Luật quy định, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố trong các giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, trong tương trợ tư pháp về hình sự; thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đối với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, do Luật hiện hành chưa quy định hoặc quy định chưa rõ nên Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 đã bổ sung các quy định về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; kiểm sát trong giai đoạn truy tố; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp.Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng đã phân định các trường hợp Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị hoặc quyền kiến nghị.

Luật hiện hành đã quy định quyền kháng nghị, quyền kiến nghị nhưng chưa phân định rõ trong trường hợp nào thì Viện kiểm sát kháng nghị, và trong trường hợp nào thì kiến nghị. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 nêu rõ, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị trong trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị trong trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng hoặc khi phát hiện cơ quan, tổ chức hữu quan có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý. Luật cũng quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết, trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả khi Viện kiểm sát thực hiện các quyền này trên thực tế (Điều 5). Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

Luật Tổ chức Viện kiểm sát 2014 quy định 04 cấp Viện kiểm sát, bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện. Trong đó Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là cấp kiểm sát mới, có nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao, cụ thể: Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm, kiểm sát xét xử thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Việc tăng thêm một cấp Viện kiểm sát được kỳ vọng sẽ góp phần hạn chế được những vụ án oan sai, những vi phạm trong thủ tục xét xử, bảo đảm tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết công việc theo đúng quy định của pháp luật và bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và hiệu quả trong mọi hoạt động tố tụng. [27]

KẾT LUẬN

Tóm lại, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã kế thừa và phát huy được những quy định cơ bản về vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hành chính của Luật Tố tụng hành chính năm 2010; đồng thời, sửa đổi và bổ sung thêm nhiều quy định mới phù hợp với sự phát triển của đất nước cũng như phù hợp với tính thời sự của xã hội hiện đại. Đây là những sửa đổi, bổ sung quan trọng giúp Viện kiểm sát thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình trong hoạt động tố tụng hành chính được quy định tại Điều 22 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 “Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993