Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân là một bước ngoặt đánh dấu cho vấn đề kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Sự ra đời của ngành kiểm sát nhân dân nhằm góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Do đó, việc xác định rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt đống tố tụng nói chung là vô cùng cần thiết, để từ đó có thể có cái nhìn cũng như phát huy khả năng hoạt động của bộ máy Viện kiểm sát một cách triệt để. Đặc biệt là trong tố tụng hành chính, vai trò của Viện kiểm sát càng cần được khẳng định và làm rõ, để hoạt động xét xử hành chính được phát huy một cách hiệu quả nhất cũng như giám sát quá trình thực thi pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề này đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu, cũng như có nhiều bài viết liên quan đến vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng nói chung và trong lĩnh vực tố tụng hành chính nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn ít những nghiên cứu tổng thể về vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hành chính.
3. Mục đích của Khóa luận Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
Khóa luận nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính như thẩm quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như các phương thức đảm bảo thực thi những vai trò này của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính. Đồng thời phân tích, làm rõ những thực trạng, những ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính. Trên cơ sở đó, Khóa luận cũng đưa ra một số đề xuất và giải pháp chung, cụ thể nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử hành chính nói riêng và trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung ở Việt Nam hiện nay.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Khóa luận
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chỉ dừng lại ở việc phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận về pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật có liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính. Trong đó, trọng tâm là xem xét, đánh giá Luật tố tụng hành chính và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu
5.1. Về cơ sở khoa học:
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời sử dụng nền tảng là các học thuyết, quan điểm khoa học pháp lí về vai trò của cơ quan Viện kiểm sát.
5.2. Về phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác – Lenin, phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, Khóa luận cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp lôgic, các phương pháp so sánh, đối chiếu, …
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Khóa luận Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
- Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực tiễn quá trình tiếp tục đổi mới vị trí pháp lí, vai trò và việc hoàn thiện mô hình hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính.
- Góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính. Đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án được khách quan, đúng pháp luật.
- Khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn, đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.
- Đề tài là nguồn tài liệu để phản ánh một số vấn đề từ thực tế giúp cho liên ngành Viện kiểm sát – Tòa án nghiên cứu khi ban hành các thông tư, hướng dẫn các vấn đề còn bất cập trong việc áp dụng, thực hiện Bộ luật tố tụng hành chính trong thời gian tới. Đồng thời, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn thiện Bộ luật tố tụng hành chính, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hành chính được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong toàn quốc.
7. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần Lời nói đầu, mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tham khảo, Khóa luận gồm 3 chương.
- Chương I: Khái quát chung về Viện kiểm sát nhân dân
- Chương II: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính theo pháp luật Việt Nam
- Chương III: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Việt Nam là một nước theo hệ thống Xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước được xây dựng trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện là Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, mọi quyền lực đều tập trung ở Quốc hội. Tuy nhiên, Quốc hội lại không trực tiếp thực thi quyền lực mà giao cho các cơ quan nhà nước các quyền lực riêng biệt để thực hiện những nhiệm vụ của mình, trong đó Viện kiểm sát nhân dân được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp nói chung và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự. Như vậy có thể nói, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
1.1. Sơ lược về sự hình thành của Viện kiểm sát nhân dân
Năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám thành công rực rỡ, nước ta giành lấy được chính quyền, độc lập và tự do. Chính quyền của ta bấy giờ vẫn còn non trẻ, chưa thể hoàn toàn gánh vác cũng như giải quyết được những vấn đề sau cuộc Tổng khởi nghĩa và một Nhà nước mới cần phải đối mặt. Dưới tình hình rối ren trong nước lúc bấy giờ, cần có một cơ quan công tố được thành lập để giải quyết những vấn đề tồn đọng cũng như kiểm soát các hành vi của người dân. Trên thế giới, cơ quan công tố đã xuất hiện từ rất sớm, vào khoảng đầu thế kỉ 13 tại Pháp với tư cách là cơ quan đại diện của nhà Vua, có nhiệm vụ phát hiện và đưa các vụ việc vi phạm pháp luật của nhà Vua đến Toà án để xử lý và tác động sao cho quyết định của Toà án có lợi cho Nhà nước. Căn cứ vào vị trí của cơ quan công tố trong bộ máy Nhà nước, chúng ta có thể thấy mô hình Viện công tố được chia làm ba nhóm: nhóm các nước mà Viện kiểm sát hay cơ quan công tố nằm trong cơ cấu của Bộ tư pháp (điển hình như Mỹ, Pháp, Nhật, Hà Lan…); nhóm các nước mà cơ quan công tố nằm hoàn toàn trong thành phần của hệ thống tư pháp được đặt tại các Tòa án, nhưng độc lập với Tòa án về mặt chức năng (ví dụ như Tây Ban Nha, Bungaria…) và cuối cùng là nhóm gồm các nước có Viện kiểm sát hay cơ quan công tố là một hệ thống riêng biệt, trực thuộc Quốc hội hoặc trực thuộc Nguyên thủ quốc gia (điển hình như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và một số nước châu Mỹ – Latin…). Vào thời Pháp thuộc, Viện công tố đã được thành lập ở nước ta và vẫn tiếp tục duy trì sau cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cơ cấu hệ thống tổ chức của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, và vẫn chịu sự ảnh hưởng của Pháp.
Hiến pháp năm 1946 tuy không đề cập đến Viện công tố nhưng trong cơ cấu của Toà án có các Công tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh Nhà nước trước phiên toà trong các vụ án hình sự. Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, từ năm 1958, Viện công tố được tách ra khỏi Toà án nhưng trực thuộc Chính phủ và hình thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với Toà án từ Trung ương tới địa phương và hoạt động chủ yếu của Viện công tố vẫn là hoạt động công tố trước Toà án. Sau này, do yêu cầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, nên theo quy định của Hiến pháp năm 1959 một loại hình cơ quan Nhà nước mới trong bộ máy Nhà nước được hình thành.
Có thể nói, tổ chức cơ quan viện kiểm sát nhân dân của nước ta đã trải qua những bước phát triển khác nhau phù hợp với nhận thức, mức độ phát triển của xã hội và đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đặt ra đối với từng giai đoạn lịch sử. Quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân có thể được phân theo các giai đoạn lịch sử khác nhau như sau:
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành nhiều Sắc lệnh về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Một trong số các Sắc lệnh đầu tiên là Sắc lệnh số 33A ngày 14/09/1945, có quy định mỗi khi bắt người phải thông báo ngay cho ông Biện lý biết (tức Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố). [35]
Trong thời gian từ năm 1946 đến năm 1959, Nhà nước ta không thành lập cơ quan thực hành quyền công tố riêng. Hoạt động điều tra không chỉ nằm trong một Cơ quan điều tra mà còn ở nhiều bộ phận khác: Kiểm soát viên Kiểm lâm, Hoả xa, Thương chính và tất cả các viên chức mà pháp luật giao phó nhiệm vụ cho tư pháp công an đối với những việc phạm pháp riêng cho từng ngành (Điều 3 sắc lệnh số 131). Trong cơ cấu Toà án, các Thẩm phán được chia làm hai loại:
- Các Thẩm phán xét xử do Chánh án Toà thượng thẩm đứng đầu.
- Các Thẩm phán công tố viên (Thẩm phán buộc tội) hợp thành một đoàn thể độc lập (công tố viện) với các Thẩm phán xét xử do Chưởng lý đứng đầu. [29]
Vào cuối những năm 50, tổ chức của Viện công tố lại được kiện toàn và tăng cường một bước quan trọng. Viện công tố đã được tổ chức thành hệ thống gồm:
- Viện công tố Trung ương
- Viện công tố thành phố, tỉnh
- Viện công tố huyện và các đơn vị hành chính tương đương;
- Viện công tố quân sự các cấp. [35]
Đây là bước phát triển quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố, tiến tới việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân vào giữa năm 1960.
Toàn bộ hoạt động điều tra trong giai đoạn này đều thuộc quyền kiểm soát, điều hành của Công tố Viện, mà trực tiếp là Biện lý, Phó Biện lý và trên hết là Chưởng lý ở Toà thượng thẩm. Quy định này của pháp luật cho thấy hoạt động điều tra thực chất là hoạt động công tố (nhưng ở giai đoạn tiền công tố), giúp cơ quan công tố thay mặt Nhà nước buộc tội người phạm tội trước Toà án. Các nhân viên và cơ quan có thẩm quyền điều tra không theo sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản hành chính mà đều dưới sự chỉ đạo của Công tố Viện; đồng thời, pháp luật cũng có quy định bảo đảm để các cơ quan này phải tuân theo sự chi đạo đó, như Điều 13 sắc lệnh số 131 đã ghi nhận: “Việc bổ sung, thăng thưởng và trừng phạt hành chính những uỷ viên Tư pháp công an không phải là Thẩm phán viên đều làm sau khi hỏi ý kiến của Biện lý và Chưởng lý”. [14]
Hoạt động điều tra ở giai đoạn đầu (từ 1945 – 1950) có hình thức là điều tra ban đầu và điều tra thẩm cứu. Thẩm quyền điều tra của các nhân viên và cơ quan có trách nhiệm điều tra ngày càng được hình thành rõ nét hơn. Tuy nhiên, việc điều tra đối với một số đối tượng có đặc quyền miễn trừ tư pháp như Thẩm phán, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Đại biểu Quốc hội… thì thẩm quyền điều tra thuộc về Công tố Viện; đồng thời, pháp luật cũng giành quyền chủ động cho Chưởng lý Toà thượng thẩm trong việc điều tra của Công tố Viện. Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
Về tổ chức, thời kỳ đầu, Công tố Viện được tổ chức trong hệ thống Toà án. Những năm 50, theo sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950, Thông tư số 21/TTg ngày 07/6/1950, cơ quan công tố chịu sự điều khiển, chi phối của ủy ban kháng chiến hành chính trên cùng địa hạt về đường lối công tố chung và mệnh lệnh riêng về từng vụ việc. Đến kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá I (họp từ ngày 16/4/1958 đến ngày 29/4/1958) đã quyết định hệ thống Toà án và hệ thống Công tố trực thuộc Hội đồng Chính phủ và có trách nhiệm, quyền hạn ngang với một Bộ. Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959 quy định nhiệm vụ và tổ chức của Viện Công tố. Ngày 6/8/1959, Viện trưởng Viện công tố Trung ương ban hành Thông tư số 601/TCCB giải thích và hướng dẫn thi hành văn bản trên, quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố. Theo quy định của các văn bản này, hệ thống các cơ quan công tố được thành lập từ trung ương đến cấp huyện và trở thành hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập, không còn trực thuộc Bộ Tư pháp, không còn chịu sự chỉ đạo cụ thể và trực tiếp của Ủy ban hành chính cùng cấp ở địa phương. Nhiệm vụ cụ thể của Viện công tố theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 256/TTg là có nhiệm vụ điều tra và truy tố trước Toà án những kẻ phạm pháp về hình sự. [14]
1.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội thông qua ngày 31/12/1959 đã có những sửa đổi căn bản về tổ chức bộ máy nhà nước so với Hiến pháp 1946. Tên Viện công tố được thay thế bằng Viện kiểm soát nhân dân, lần đầu tiên quy định về chế định Viện kiểm sát nhân dân, trong đó xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ và các nguyên tắc cơ bản cho việc thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm soát nhân dân cùng với Toà án nhân dân là các cơ quan tư pháp, độc lập trong tổ chức quyền lực nhà nước. Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 thì Viện kiểm sát nhân dân các cấp được tổ chức thành một hệ thống nhất, độc lập với cơ quan xét xử và cơ quan hành chính, chỉ chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Những quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà khoá II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 15/7/1960 và được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 20-L/CTN ngày 26/7/1960 công bố đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy Nhà nước ta.
Theo quy định tại Điều 4 của Luật này thì các Viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương gồm có : Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương, Viện kiểm sát nhân dân ở các khu vực tự trị.
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn: Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa phương, kiểm sát việc tuân theo những luật của nhân viên cơ quan nhà nước và công dân;
- Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Toà án nhân dân những người phạm pháp về hình sự;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và của cơ quan Điều tra khác;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, trong việc xét xử của Toà án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam;
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. [21, điều 3]
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Sau khi đất nước được hoàn toàn thống nhất, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980, so với Hiến pháp năm 1959 thì vai trò vị trí của Viện kiểm sát nhân dân đã được khẳng định rõ hơn và có những điểm bổ sung mới, đặc biệt trong Hiến pháp năm 1980 đã nhấn mạnh đến chức năng “thực hành quyền công tố” của Viện kiểm sát, cụ thể ở điều 138 lần đầu tiên quy định về việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát.
Để cụ thể hoá những quy định trên đây về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp năm 1980, Quốc hội khoá VII đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và được sửa đổi bổ sung vào năm 1989, so với Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, thì Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được sửa đổi bổ sung vào năm 1989 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn rất nhiều về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và thực hiện công tác kiểm sát chung.
Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát có tính độc lập tương đối so với công tác kiểm sát, nhưng thực chất cũng là nhằm tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát, đồng thời, tạo thế chủ động cho ngành Kiểm sát trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; tránh làm oan cho người vô tội…
Với quy định “Viện trưởng Viện kiểm sát thấy cần thiết phải trực tiếp điều tra”, hoạt động điều tra thẩm cứu (với ý nghĩa đi sâu nghiên cứu, điều tra; xét kỹ một vụ án) trong thời kỳ này đã chú trọng đến công tác điều tra, xác minh những vụ án “mang tính chất minh oan” cho người đã bị kết án. Pháp luật tố tụng hình sự giai đoạn này đã giành quyền chủ động cho Viện trường Viện kiểm sát các cấp trong việc điều tra vụ án. [14]
1.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2001 Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
Sau một thời gian có hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước lúc bấy giờ. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, xây dựng Hiến pháp năm 1992, một Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đất nước. Việc cải cách bộ máy Nhà nước cũng được ưu tiên đặt lên hàng đầu, được xác định bằng phương hướng cơ bản: quán triệt yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tìm tòi những thiết chế mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc “quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Phương hướng này đòi hỏi phải thể chế hóa đầy đủ các quyền tự do dân chủ, cũng như xây dựng được mối quan hệ đúng đắn giữa các ba nhánh quyền lực nhà nước là lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trên mục tiêu đó, về mặt cơ cấu tổ chức, sau khi ban hành Hiến pháp năm 1992, cơ bản Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã kiện toàn và đổi mới một bước quan trọng. Với cơ cấu tổ chức như vậy, trong hoạt động Viện kiểm sát nhân dân đã đạt được những kết quả nhất định, tạo nên một số chuyển biến tích cực trong hoạt động tư pháp của nước ta cùng với các cơ quan nhà nước khác thực hiện một cách có hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Cụ thể là:
Điều 137 Hiến pháp 1992 quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định.”
Hiến pháp 1992 từ điều 137 đến 140 quy định tính chất, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn Viện kiểm sát nhân dân không có gì thay đổi so với hai bản hiến pháp trước, tuy nhiên lại có sự thay đổi nhất định về tổ chức và trách nhiệm. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ban hành năm 1992 cụ thể hoá quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Uỷ ban kiểm sát. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng cử và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Viện trưởng cử và trình Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn. Một số vấn đề quan trọng trước đây do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định được chuyển cho Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các quy định trên về Viện kiểm sát nhân dân cho chúng ta thấy rằng: Hiến pháp 1992 một mặt vẫn đề cao chế độ làm việc theo nguyên tắc thủ trưởng và trực thuộc một chiều để đề cao tính độc lập của Viện kiểm sát, mặt khác phải kết hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể khi Viện kiểm sát quyết định những vấn đề quan trọng (điều 138 Hiến pháp 1992). Đồng thời Hiến pháp 1992 cũng xác định tính chất giám sát của Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. [15]
1.1.5. Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013 Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
Qua gần 10 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã trải qua nhiều sự thay đổi lớn và đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử to lớn. Trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi sâu sắc và phức tạp, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là yêu cầu khách quan và cần thiết vì Hiến pháp 1992 đã không thể đáp ứng được những yêu cầu của đất nước thời kì này. Ngày 25/12/2001, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Hiến pháp 1992 (sửa đổi), tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Năm 2002 đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng về chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và những quy định mới của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). [3] Theo đó, nội dung điều 137 về Viện kiểm sát nhân dân không còn quy định chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội mà chỉ còn “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Trước đây, theo quy định của Hiến pháp năm 1992, chức năng kiểm sát chung được giao cho Viện Kiểm sát. Theo đó, Viện Kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan từ cấp Bộ trở xuống, kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang và công dân. Tuy nhiên đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì Viện kiểm sát không còn thực hiện chức năng kiểm sát chung nữa và chỉ còn tập trung vào thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, có rất nhiều người không đồng ý quan điểm bỏ đi chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát, cho rằng Viện kiểm sát thực hiện rất tốt chức năng này, kịp thời phát hiện tội phạm và giải quyết được nhiều sai phạm trong thời gian giữ chức năng kiểm sát chung [30]. Bên cạnh đó, không thiếu ý kiến của các luật sư rằng cần bỏ đi chức năng này của Viện kiểm sát. Bởi nếu để Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát chung này thì lại quá bao trùm và gây sự chồng chéo với chức năng kiểm tra của các cơ quan khác, nhất là với hệ thống thanh tra nhà nước. Từ đó, có khả năng cao sẽ dẫn đến những tiêu cực trong công tác kiểm sát, ảnh hưởng đến sự nghiêm minh và công bằng của Viện kiểm sát. [2]
1.1.6. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay
Năm 2013, đất nước ta tiến hành sửa đổi Hiến pháp lần thứ sáu, được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua vào sáng ngày 28 tháng 11 năm 2013, có hiệu lực pháp lý đến bây giờ. Trên cơ sở bản Hiến pháp 2013 này, Nhà nước cũng tiến hành sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Quốc hội ban hành văn bản Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014. Văn bản luật này đã đạt bước tiến mới về kỹ thuật lập pháp, đã quy định một cách hoàn thiện hơn các vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trên cơ sở pháp điển hoá các văn bản Luật, Pháp lệnh hiện hành và nhiều quy định của các văn bản dưới luật, khắc phục tình trạng nhiều văn bản tản mạn, chồng chéo, trùng lặp với các luật về tố tụng, bảo đảm tính thống nhất, ổn định của hệ thống pháp luật; nâng cao hiệu lực pháp lý các quy định của pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân.
1.2. Vị trí và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp tạo thành quyền lực thống nhất của Nhà nước, được quy định tại khoản 3 Điều 2: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Mục đích thực hiện quyền tư pháp là xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh, bổ sung, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do Tòa án thực hiện bằng thủ tục tố tụng chặt chẽ, dân chủ, công khai và công bằng, nhằm khôi phục, duy trì trật tự pháp luật, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm, góp phần bảo đảm pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm minh. Theo quy định hiện nay, Viện kiểm sát được coi là một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với các cơ quan hành pháp, tư pháp. Tư pháp là một dạng quyền lực nhà nước mang tính xét xử. Quyền tư pháp là quyền xét xử và việc xét xử là Tòa án, nhân danh nhà nước giải quyết tranh chấp, giải quyết xung đột xã hội bằng việc xét xử, thông qua thủ tục xét xử do luật định. Chỉ có Tòa án cơ quan xét xử, nên việc coi Viện kiểm sát là một cơ quan thuộc nhánh tư pháp có không thỏa đáng. Viện kiểm sát các cấp chịu sự lãnh đạo chỉ đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, nên có khả năng rất cao trong việc loại trừ sự lạm dụng quyền hạn hành chính, kép kín, cục bộ địa phương … Tuy nhiên, Viện kiểm sát lại được Nhà nước trao cho quyền lực công, đại diện cho Nhà nước thực hành quyền công tố,nhưng lại không phải quyền phân định đúng sai phải trái như Tòa án, do đó, không có lý do nào lại xếp Viện kiểm sát vào nhánh tư pháp. Bản thân việc phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh là để có thể phân định được quyền lực một cách rõ ràng nhất, nên việc độc lập với các nhánh quyền lực còn lại dẫn đến một sự mâu thuẫn. Việc Viện kiểm sát được nhà nước trao quyền lực công, đại diện cho nhà nước thì đã không thể có được sự độc lập cần có như mục tiêu ban đầu khi lập ra Viện kiểm sát. Mà bản chất của quyền lực công kia lại là quyền thực hành, sử dụng quyền lực để thực hiện nhiệm vụ của mình, nên ta có thể xem xét việc xếp Viện kiểm sát vào nhánh quyền lực hành pháp.
Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được xác lập rõ ràng trong Hiến pháp 2013 (được quy định tại Điều 107) và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Nghị quyết số 82/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội và Nghị quyết số 953/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, cũng như nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
“Điều 107. Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
- Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định.
- Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”
(Theo Hiến pháp 2013)
Bên cạnh đó, luật Tổ chức Viện kiểm sát cũng có quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân như sau:
“Điều 2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
- Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”
Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận quan trọng trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được thể hiện rõ ràng hơn nhờ việc quy định cụ thể về chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật. Điều 3 và 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng những công tác sau đây:
“Điều 3. Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
- Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
- Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
- Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;
- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
- Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định;
- Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
- Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội;
- Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội;
- Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật;
- Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố;
- Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 4. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
- Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
- Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp;
- Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
- Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm;
- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp;
- Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.”
Chính sự phân công trách nhiệm rõ ràng của Nhà nước đối với Viện kiểm sát nhân dân góp phần làm nâng cao hiệu quả và phát huy được tối đa vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong cả chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hai chức năng này của Viện kiểm sát luôn có mối quan hệ khăng khít, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế – hành chính có tính phòng ngừa, ngăn chặn, răn đe cao và có mối quan hệ trực tiếp đến hiệu quả đấu tranh chống tội phạm vì khả năng phát hiện tội phạm lớn và loại bỏ những hành vi coi thường pháp luật, đặc biệt những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng chỉ bị xử lý nội bộ, xử lý hành chính… Kết quả hoạt động kiểm sát trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế, hành chính là một nguồn thông tin vô cùng quan trọng cho Viện kiểm sát chủ động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, như quyết định khởi tố vụ án, truy cứu trách nhiệm hình sự của những người phạm tội, ngăn chặn hậu quả của tội phạm một cách kịp thời, chủ động trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; không phải là tình trạng thụ động chờ để “tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan Nhà nước chuyển đến và có trách nhiệm chuyển ngay các thông tin, tài liệu đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền” (theo khoản 2 điều 146 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015). Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát đã tạo cho Viện kiểm sát có những lợi thế hơn bất kỳ cơ quan Nhà nước nào trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. [9]
1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
Hiến pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng hành chính 2015 đều khẳng định Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Để có thể thực hiện cũng như sử dụng những quyền năng, biện pháp một cách hiệu quả nhất, Nhà nước đã trao cho Viện kiểm sát nhân dân những nhiệm vụ và quyền hạn nhất định.
Thuật ngữ “nhiệm vụ”, theo Đại Từ điển tiếng Việt được hiểu là “công việc phải làm, gách vác” hay “công việc phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định”. Theo cách giải thích này thì nhiệm vụ nói chung là chỉ một công việc có tính chất bắt buộc phải được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định đối với chủ thể có trách nhiệm thực hiện nó. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách của chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng tồn tại quan hệ xã hội khác nhau thì quy định của pháp luật để xác định nhiệm vụ với mỗi chủ thể cũng không giống nhau [11]. Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân là những hoạt động cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân trong một khoảng thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để thực hiện nhiệm vụ được giao trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính nói riêng là nhiệm vụ cụ thể do Nhà nước đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật liên quan khác mà Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hiện bằng những giải pháp, hình thức và phương thức nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc hành chính, cụ thể là:
“Điều 22. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
- Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân.
- Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. […].”
(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)
Về khái niệm “quyền hạn” được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho phép. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật (theo Đại Từ điển tiếng Việt). Quyền hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó [11]. Quyền hạn của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của người có thẩm quyền là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của người đó.
Quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong Tố tụng hành chính nói riêng cũng được quy định rõ ràng, cụ thể ở các bộ luật, luật và các văn bản liên quan khác, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật. Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
“Điều 25. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính
- Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật.
- Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
- Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm sát kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người đó.”
(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)
1.4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí, chức năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù nhằm bảo đảm cho các Viện kiểm sát hoạt động có hiệu quả cao hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những nguyên tắc đó được quy định ở Điều 108, 109 Hiến pháp năm 2013 và Điều 7 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Đó là nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
1.4.1. Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp chế. Các cơ quan nhà nước ở địa phương một mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ chủ quản, mặt khác lại trực thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân địa phương. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc phụ thuộc hai chiều. Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta không được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều nêu trên, mà theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
Theo nguyên tắc này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 109 Hiến pháp 2013 và Điều 7 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014). Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Phó viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tố cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức (Điều 9 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). [31]
“Điều 7. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ quyết định trái pháp luật của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới. […]
Điều 109 Hiến pháp 2013 quy định
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. […]”.
Như vậy, tất cả các Viện kiểm sát nhân dân từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống thống nhất. Mọi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của toàn ngành kiểm sát trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành bảo đảm cho các cấp kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát.
1.4.2. Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương
Trong tổ chức và hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. Nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung, thống nhất lành đạo trong ngành. Nguyên tắc này nhằm tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Nguyên tắc này được đặt ra nhằm đảm bảo sự công bằng, vô tư, khách quan và nghiêm túc của cơ quan giám sát, đảm bảo thực thi cũng như chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh theo như những gì pháp luật quy định.
Nội dung nguyên tắc Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương thể hiện ở chỗ: Các Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối bởi các cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện kiểm sát nhân dân chỉ phụ thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cũng như trực tiếp thực hiện theo chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó cũng có nghĩa là các cơ quan nhà nước ở địa phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
Thừa nhận nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương cũng cần lưu ý là, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn của các đại biểu Hội đồng nhân dân về tình hình chấp hành pháp luật ở địa phương và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương. Mặt khác, qua thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng có quyền kiến nghị với Hội đồng nhân dân về việc phòng ngừa tội phạm và những biểu hiện vi phạm pháp luật để bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. [31]
Những nguyên tắc này đảm bảo được phần nào sự vô tư và độc lập của Viện kiểm sát trong khi thực hiện vai trò của mình. Nguyên tắc tập trung, thống nhất được thực hiện có hiệu quả rõ ràng trên thực tế. Nếu Viện kiểm sát nhân dân các địa phương không thống nhất, đồng bộ trong việc yêu cầu các cơ quan tư pháp địa phương cùng cấp khắc phục, sửa chữa các việc làm vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp thì không thể thực hiện tốt được các chức năng giám sát, những việc sai phạm của các cơ quan không thể kịp thời sửa chữa, giải quyết có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng hơn. Viện kiểm sát nhân dân các địa phương không báo cáo kết quả công tác, không tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Cấp uỷ địa phương cũng như không tranh thủ sự hỗ trợ kinh phí hoạt động, sự chỉ đạo của Hội đồng nhân dân địa phương cùng cấp trong việc yêu cầu các cơ quan tư pháp địa phương cùng cấp khắc phục, sửa chữa các việc làm vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp thì các kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân địa phương sẽ trở nên ít hiệu quả, ít có tác dụng giáo dục, phòng ngừa sâu rộng.
KẾT LUẬN
Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng chính đó là quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đặc biệt, trong tố tụng hành chính, Viện kiểm sát nhân có nhiệm vụ chủ yếu là kiểm sát hoạt động tư pháp, giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền cũng như đảm bảo sự tham gia cũng như chấp hành đầy đủ và nghiêm túc của những người tham gia vào hoạt động tố tụng hành chính. Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Thực trạng vai trò pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>> Khóa luận: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong luật tố tụng […]