Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Khái quát chung Vườn quốc gia Bái Tử Long
VQG Bái Tử Long nằm trong Vịnh Bái Tử Long và sát cạnh Di sản thiên nhiên thế giới là vịnh Hạ Long. Vườn quốc gia Bái Tử Long là Vườn quốc gia thứ 12 trong danh sách 30 Vườn quốc gia được thành lập ở Việt Nam (theo thứ tự thành lập), và là một trong 7 Vườn quốc gia vừa có diện tích trên cạn vừa có diện tích biển.
Từ truyền thuyết đến chính sử, cũng như từ huyền thoại đến hiện thực đều chứng tỏ vịnh Hạ Long và Bái Tử Long là một hệ thống nhất trong vùng biển Đông Bắc với nhiều giá trị lịch sử văn hóa và tự nhiên nổi trội.
Truyền thuyết kể rằng: Xưa kia, khi người Việt mới dựng nước đó bị giặc ngoài xâm. Ngọc Hoàng sai Rồng mẹ mang theo một đàn Rồng con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Lúc đàn Rồng tới hạ giới cũng chính là lúc thuyền giặc từ biển ào ạt tiến vào bờ. Đàn Rồng lập tức phun vô số châu ngọc và thoắt biến thành muôn vàn đảo đá trên biển, bất chờ chặn bước tiến của thuyền giặc. Sau khi giặc tan, Rồng mẹ và Rồng con không trở về mà ở lại hạ giới. Vị trí Rồng mẹ hạ xuống là Hạ Long, nơi Rồng con hạ xuống là Bái tử Long. Đuôi đàn Rồng quẫy nước trắng xóa là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay) với bãi cát mịn dài hơn chục cây số. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Vịnh Hạ Long và Bái tử Long là một trong những cái nôi của người Việt cổ với nền văn hóa Hạ Long huy hoàng thời Hậu kỳ đồ đá mới, được minh chứng bằng nhiều di chỉ khảo cổ đó được phát hiện ở 37 điểm khác nhau như hang Hà Giắt, đảo Ngọc vừng, hang Soi Nhụ, hang Đông Trong thuộc huyện Vân Đồn. Với hàng nghìn đảo lớn nhỏ che chắn tạo ra nhiều cảng biển và luồn lạch đi lại cho tàu thuyền nước ngoài và Việt Nam, thương cảng cổ Vân Đồn ở thế kỷ 12 là thương cảng đầu tiên của Việt Nam, gồm nhiều bến cảng nằm rải rác từ Quan Lạn đến đảo Cống Tây thuộc di sản vịnh Hạ Long.
Trận đánh đoàn thuyền lương của quân xâm lược Nguyên Mông năm 1288 do danh tướng Trần Khánh Dư chỉ huy diễn ra từ Quan Lạn, dọc sông Mang về tận Cửa Lục: năm trăm tàu thuyền của giặc bị đánh chiếm và bốc cháy, góp phần cho thắng lợi vang dội của trận Bạch Đằng lịch sử, đánh gục dã tâm xâm lược của giặc Nguyên Mông. Ngày nay, các luồng lạch này vẫn là cửa ngõ ra vào của nhiều tàu hàng và tàu khách du lịch vào nước ta qua cảng Bãi Cháy và Cái Lân.
Trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm và bao thăng trầm khác của lịch sử, những giá trị đặc sắc về cảnh quan tự nhiên về ĐDSH và các giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa của Hạ Long và Bái tử Long vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.
Có thể bạn quan tâm:
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Quần thể sinh thái tự nhiên (Thực vật và động vật) trên đảo Ba Mùn thuộc huyện đảo Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh được chính phủ xếp hạng là rừng cấm Quốc gia theo quyết định 41/TTg ngày 24/01/1997. Trước những năm 70 của thế kỷ 20, tài nguyên thực vật rừng và quần thể động vật hoang dã trên đảo Ba Mùn và các đảo kế cận rất phong phú về chủng loại và số lượng cá thể loài, tạo nên cảnh quan HST độc đáo và thơ mộng của vùng đảo nổi trong Vịnh Bái Tử Long. Năm 1999, Chính phủ đã chính thức phê duyệt dự án đầu tư xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên đảo Ba Mùn. Đến năm 2001, do những giá trị đặc trưng mang tính ĐDSH cao của đảo Ba Mùn và khu vực lân cận, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 85/2001/QĐ-TTg ngày 01 tháng 06 năm 2001 thành lập Vườn quốc gia Bái Tử Long, trên cơ sở chuyển hạng và mở rộng khu bảo tồn thiên nhiên Ba Mùn. Thực hiện các quyết định của Thủ tướng chính phủ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, ngày 24 tháng 04 năm 2002, Ban quản lý Vườn quốc gia Bái Tử Long đó chính thức ra đời và đi vào hoạt động. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và nhân sự
Biên chế hiện nay (năm 2009) của Ban quản lý Vườn quốc gia Bái Tử Long gồm cán bộ, nhân viên. Trong đó:
2.1.3. Vị thế của Vườn quốc gia Bái Tử Long cho phát triển Du lịch sinh thái
Trên phạm vi cả nước trong 29 tỉnh, thành phố ven biển thì Quảng Ninh đứng thứ 4 về số lượng khách du lịch quốc tế và là một trong 6 trung tâm du lịch biển quan trọng có ý nghĩa quốc gia và khu vực: Hạ Long – Bái Tử Long, Cát Bà, Đồ Sơn ( Quảng Ninh – Hải Phòng ); Huế – Đà Nẵng – Lao Bảo; Nha Trang – Ninh Chữ – Đà Lạt; Vũng Tàu – Long Hải – Côn Đảo; thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận; Hà Tiên – Phú Quốc. [2]
Các trung tâm du lịch biển lớn của khu vực Đông Bắc như: trung tâm du lịch Hạ Long, Cát Bà, Đồ Sơn có mối quan hệ mật thiết trong sự phát triển bền vững của tam giác tăng trưởng phía Bắc – dải hành lang công nghiệp. Có trục đường 18 Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, gần 2 cửa khẩu lớn của Đông Bắc là Lạng Sơn, Móng Cái.
Trong quy mô của khu vực thì Vườn quốc gia Bái Tử Long là 1 trong 5 cụm di lịch chính của tỉnh Quảng Ninh: cụm du lịch Hạ Long – Cát Bà, cụm du lịch Yên Tử, cụm du lịch Móng Cái, cụm du lịch Cô Tô và cụm du lịch Bái Tử Long.
Trong đó cụm du lịch Hạ Long – Cát Bà có sức hút du lịch rất lớn, vịnh Bái Tử Long là tâm điểm cho chương trình phát triển bền vững du lịch của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2002 – 2010, đạt mục tiêu 6 triệu khách trong đó 50% là khách quốc tế. Đặc biệt, nằm gần Vườn quốc gia Cát Bà với những kinh nghiệm phát triển bền vững Du lịch sinh thái rất thành công. Đây là tiền đề cơ bản cho hoạt động Du lịch sinh thái của Vườn quốc gia Bái Tử Long phát triển.
2.2. Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên
2.2.1. Vị trí địa lý Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Khu Vườn quốc gia có khung tọa độ địa lý: Từ 20o55’05’’ đến 21o15’10’’ vĩ độ bắc, từ 107o46’20’’ kinh độ đông. Ranh giới Vườn quốc gia Bái Tử Long được xác định trên vùng biển tương ứng với thềm lục địa phía ngoài của hệ thống các đảo cách bờ 1 km, giáp với các huyện và xã sau:
Phía bắc giáp 2 huyện Đầm Hà, Hải Hà tỉnh Quảng Ninh. Phía nam giáp một số đảo thuộc các xã Bản Sen, Quan Lạn huyện Vân Đồn. Phía đông giáp phần biển giữa hai huyện Vân Đồn, Cô Tô tỉnh Quảng Ninh. Phía tây giáp các xã trên đảo Cái Bầu huyện Vân Đồn.
Phạm vi Vườn quốc gia Bái Tử Long dựa trên cơ sở chuyển hạng khu bảo tồn thiên nhiên Ba Mùn. Tổng diện tích của Vườn quốc gia Bái Tử Long là 15.783 ha; trong đó, diện tích biển chiếm 9.658 ha, còn lại 6.125 ha là diện tích các đảo nổi. Phần đảo bao gồm cả đảo đất và đảo đá vôi, với hơn 40 hòn đảo lớn nhỏ, chia thành 3 cụm đảo chính: Ba Mùn, Trà Ngọ và Sậu. Phần biển bao gồm phần lạch biển giữa các đảo và phần biển phía ngoài của các đảo theo đường ranh giới cách bờ trung bình là 1 km. Các lạch biển chính gồm: lạch Cái Quýt, lạch Cái Đé và một phần lạch sông Mang. Diện tích vùng đệm Vườn quốc gia Bái Tử Long là 16.534 ha nằm trên 5 xã: Vạn Yên, Minh Châu, Hạ Long, Bản Sen, Quan Lạn.
Những lợi thế về vị trí địa lý, địa hình, địa mạo đã tạo ra cho Vườn quốc gia Bái Tử Long những giá trị đặc sắc không chỉ về ĐDSH, cảnh quan thiên nhiên mà còn về giá trị lịch sử, văn hóa. Đây chính là những tiềm năng và lợi thế cho việc phát triển Du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Bái Tử Long, đồng thời nhằm hỗ trợ cho hoạt động bảo tồn thiên nhiên và cải thiện sinh kế cho người dân đang sống ở vùng lõi và vùng đệm của Vườn quốc gia.
2.2.2. Địa hình – địa mạo
Địa hình địa mạo phần đảo Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Kiểu địa hình đồi thấp: bao gồm những đỉnh cao trên dưới 300m so với mặt nước biển (các đỉnh cao 320 m trên đảo Trà Ngọ Nhỏ, 314 m trên đảo Ba Mùn, 232 m trên đảo Sậu Nam). Hình thể các đảo nói chung là hẹp về chiều ngang, phân bố thành dải dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam trùng với phương của cấu trúc địa chất, nằm song song với bờ biển của đất liền, tạo nên một vòng cung đảo rất hấp dẫn khi nhìn trên bản đồ hoặc trên máy bay.
Ngoài giá trị thẩm mỹ, dải đảo này còn giá trị quan trọng về mặt phòng hộ, nó sừng sững như một bức tường chắn sóng, chắn mưa bão che chở cho các khu vực bên trong nhất là đảo Cái Bầu. Độ dốc hai bên sườn của các đảo ở phía ngoài có sự phân hóa rõ rệt. Sườn đông là dãy Ba Mùn, Sậu Nam dốc, vách núi gần như dựng đứng sát mép biển, trong khi sườn tây khá thoải. Độ dốc trung bình 25 – 30o. Diện tích các kiểu địa hình này chiếm tới 67,78% tổng diện tích các đảo nổi.
Đây là kiểu địa hình mà hầu như chưa có sự xuất hiện của con người, cảnh vật tại đây còn hoang vu và bí ẩn, lại thêm sự đối xứng của địa hình hai bên sườn càng làm cho cảnh quan thêm hùng vĩ. Tạo điều kiện phát triển bền vững loại hình Trekking – loại hình du lịch đặc thù là đi bộ hay leo núi mạo hiểm để thưởng thức, khám phá vẻ đẹp của tự nhiên.
Kiểu địa hình Karst : thuộc đai thấp, phân bố chủ yếu ở phía Nam đảo Trà Ngọ Lớn với đỉnh cao 280 m, địa hình là những khối không liên tục tạo nên các hang động, thung áng lớn (Thung áng Cái Đé, hang Dơi, hang Soi Nhụ…) và một số đảo độc lập, vách thẳng đứng. Diện tích địa hình karst chiếm 22,54%. Đây là dạng địa hình đặc sắc của các đảo vùng Vườn quốc gia Bái Tử Long rất tiềm năng cho phát triển Du lịch sinh thái.
Địa hình tích tụ: Gồm các bãi cát, bãi triều ven chân các đảo kéo dài 30 – 70m ngập triều theo chu kỳ. Một số đảo còn nhiều vũng vịnh Bái Tử Long rộng, có chỗ sâu là nơi leo đậu của tàu thuyền, diện tích khá lớn như vũng Cái Quýt, vũng Ổ Lợn, chân đảo Ba Mùn. Kiểu địa hình này rất thích hợp cho loại hình du lịch nghỉ dưỡng như tắm biển, đi bộ, chơi các môn thể thao biển, cắm trại trên bãi cát, câu mực tại các vũng…
Địa hình địa mạo phần đáy biển
Nằm giữa các đảo là hệ thống các lạch biển có địa hình khá phức tạp. Đây được ví như những lòng sông cổ dưới đáy biển giúp tàu thuyền đi lại dễ dàng. Có 2 hệ thống lạch định hướng Tây Bắc – Đông Nam (sâu 32m ở giữa hòn Sậu Đông và Sậu Nam, 22m ở Cửa Nội, 20m ở Cửa Đối) và hệ thống lạch định hướng Đông Bắc – Tây Nam (sâu 5 – 15m).
Đa dạng địa hình là một yếu tố quan trọng của đa dạng tự nhiên làm nên sức hút du lịch tại các đảo tại Vườn quốc gia Bái Tử Long đặc biệt là loại hình Du lịch sinh thái.
2.2.3. Các thành tạo địa chất Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Thành tạo địa chất cổ nhất trong Vườn quốc gia Bái Tử Long là các đá cuội kết, sạn kết, cát kết dạng quaczit, bột kết, đá phiến sét, đá phiến silic, sét vôi, đá vôi màu nâu đỏ, xám nâu thuộc loạt Sông Cầu (D1sc) tạo nên các đảo đá Sậu Đông, Sậu Nam, phần đông nam đảo Ba Mùn. Tiếp theo là các đá cát kết thạch anh, cát kết dạng quaczit, bột kết, phiến sét, phiến silic và sét vôi thuộc hệ tầng Dưỡng Động (D1-2dđ). Tạo nên Hòn Chín, Đông Ma, Trà Ngọ Nhỏ, phần tây bắc đảo Trà Ngọ Lớn, Hòn Vành, phần tây bắc đảo Ba Mùn và hòn Lỗ Hố. Đá vôi phân lớp màu xám sẫm xen đá silic vôi và sét vôi thuộc hệ tầng Bản Páp (D2bp) tạo nên phần đông nam đảo Trà Ngọ Lớn và các đảo nhỏ khác phân bố rải rác trong phạm vi Vườn quốc gia. [7]
2.2.4. Khí hậu thủy văn
- Nhiệt độ không khí
VQG Bái Tử Long chịu ảnh hưởng chung của vùng nhiệt đới gió mùa cận chí tuyến bắc có mùa đông lạnh từ tháng 10 tới tháng 3 năm sau và mùa hè nắng nóng từ tháng 5 tới tháng 8; Tháng 4 và tháng 9 là thời kỳ chuyển tiếp với khí hậu ôn hòa. Theo số liệu quan trắc của 4 trạm Khí tượng khu vực xung quanh (trạm Móng Cái, Tiên Yên, Cô Tô và Cửa Ông) trong thời gian 1956 – 2003 cho thấy nhiệt độ trung bình năm trong khoảng 22,4 – 22,8oC, trong khoảng thời gian nóng nhất vào các tháng 6 – 8 và đặc biệt vào tháng 7. [1]
- Gió Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Chịu ảnh hưởng chung của vùng nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh. Tốc độ gió trung bình của khu vực thay đổi giữa các trạm quan trắc trong khoảng 1,7 – 4,3 m/s và tốc độ gió lớn nhất trong khoảng 40 – 47 m/s. Do không chịu ảnh hưởng của địa hình, gió tại Cô Tô luôn có tốc độ cao hơn và ổn định hướng hơn so với các trạm ven bờ.
- Bão và áp thấp nhiệt đới
Khu vực Vườn quốc gia Bái Tử Long nằm trong vùng ảnh hưởng chung của bão và áp thấp nhiệt đới từ Quảng Ninh tới Ninh Bình, kể cả khu vực Đông Hưng của Trung Quốc. Trong thời gian 1884 – 1997, có 403 cơn bão và áp thấp nhiệt đới xảy tới vùng bờ biển Việt Nam, trong đó vùng bờ biển Quảng Ninh – Ninh Bình chiếm 31%, lớn nhất trong số 5 vùng ảnh hưởng (Nguyễn Văn Viết, 1985). [1]
- Các hiện tượng thời tiết đặc biệt
Gió mùa đông bắc: Hàng năm có tới 20 – 25 đợt gió mùa đông bắc ảnh hưởng tới khu vực từ tháng 9 tới tháng 4 năm sau nhưng chủ yếu trong các tháng 11, 12 và tháng 1 năm sau. Nhiệt độ giảm 4 – 5o C và thậm chí 10o C trong các đợt gió mùa đông bắc và kéo dài thường 3 – 4 ngày. Tốc độ gió trung bình 5 – 10 m/s, cao nhất tới 15 m/s.
- Dông xuất hiện trong khu vực tương đối nhiều so với các nơi khác của vùng bờ biển Việt Nam với số ngày dông trong khoảng 65,6 – 94,7 mỗi năm. Thời kỳ nhiều dông vào các tháng 5 – 9, chủ yếu vào các tháng 6 – 8.
- Các hiện tượng thời tiết đặc biệt khác: Kết quả quan trắc của các trạm trong khu vực trong thời gian 1956 – 1999 cho thấy hầu như không có mưa đá và sương muối, trong khi mưa phùn có 12,0 – 18,6 ngày/năm chủ yếu vào các tháng 1 – 4 và có 10,8 – 32,6 ngày, sương mù mỗi năm chủ yếu vào các tháng 1–3.
2.2.5. Sóng và nhiệt độ nước biển
- Sóng Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Chế độ sóng khác nhau giữa bờ đông hệ thống đảo chắn ngoài và vùng nước trung tâm Vườn quốc gia Bái Tử Long. Ở vùng biển phía đông, độ cao sóng tương đối lớn, đạt trung bình 0,82 m cả năm và trung bình riêng các tháng chưa tới 1,0 m. Sóng hợp với trường gió theo mùa, có hướng đông vào thời kỳ chuyển tiếp. Sóng hướng tây, tây nam hay tây bắc rất hiếm. Độ cao sóng lớn nhất có thể tới 4 m trong bão.
- Nhiệt độ nước biển
Nhiệt độ nước biển tầng mặt trung bình năm đạt khoảng 22 – 24o C, cao hơn vào các tháng mùa hè (tháng 5 – 10), đạt trung bình khoảng 28oC. Vào các tháng mùa đông nhiệt độ thấp hơn, thấp nhất vào tháng 01 thì trung bình khoảng 17,8o C.
Trong đợt khảo sát vào tháng 9/2003, nhiệt độ nước đo được tại các trạm tương đối ổn định, trong khoảng 29 – 31o C, còn trong đợt khảo sát vào tháng 5/2004, nhiệt độ đo được năm trong khoảng 27 – 29oC. [7]
2.2.6. Tài nguyên sinh vật Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
2.2.6.1. Các HST của Vườn quốc gia Bái Tử Long
Ngoài giá trị về ĐDSH, các HST Vườn quốc gia Bái Tử Long còn có giá trị cảnh quan. Chỉ thống kê những HST có giá trị cao trong bảo tồn, nghiên cứu khoa học và du lịch thì vùng sinh thái Vườn quốc gia Bái Tử Long được chia thành các kiểu HST sau:
HST rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên đảo đá vôi: gồm các quần thể động, thực vật hình thành và phát triển bền vững trên đảo đá vôi. HST bao gồm nhiều loài thực vật chịu hạn với các quần thể thực vật ưu thế thuộc họ dâu tằm, các quần thể phất dụ núi dựng đứng. Các loài thực vật đặc trưng gồm: trai, lý, Tuế đá vôi, Lan hài vệ nữ hoa vàng, Kim giao núi đá, Lát hoa… HST này còn nổi bật với nhiều cảnh quan thiên nhiên phong phú và hấp dẫn được tạo nên bởi hệ thống Karst và hình thù đa dạng của núi đá vôi trên biển. Đây thực sự là một tiềm năng lớn để phát triển bền vững Du lịch sinh thái.
HST rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên đảo đất: Đây là HST chiếm phần lớn diện tích các đảo nổi với quần thể thực vật thuộc họ Sồi dẻ, Long não, họ Vàng, Ba mảnh vỏ, họ Sim và các loài cây quý hiếm có giá trị kinh tế cao như : Lim xanh, Re hương, Kim giao núi đất, Táu mật.
HST rừng ngập mặn: Quần thể thực vật trong HST này mang đặc trưng của vùng Đông Bắc Việt Nam, tổng diện tích là 100 ha. HST RNM là nguồn cung cấp thức ăn vô cùng phong phú cho nhiều loài hải sản, là nơi cư trú, bãi đẻ của các loài tôm, cua, cá, sá sùng…là nơi kiếm ăn của nhiều loài động vật trên cạn như các loài thú móng guốc ăn thực vật, các loài khỉ (Macaca sp), nhiều loài chim, côn trùng đặc biệt là ong mật. HST RNM với cảnh quan hấp dẫn, đặc sắc và ĐDSH cao là nơi tổ chức hoạt động Du lịch sinh thái, giáo dục môi trường và nghiên cứu khoa học. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
HST thảm cỏ biển khoảng 10 ha, phân bố rải rác tại các khu vực có đáy dạng cát – bùn như Chương Di, sông Mang, vụng Lỗ Hố, vụng Cái Đé, vụng Trà Thần, áng Ông Tích. Thảm cỏ biển bao gồm các loài thực vật bậc cao thuộc lớp một lá mầm, bộ thủy thảo. Trong Vườn quốc gia phát hiện có 2 loài gồm cỏ Xoan thuộc họ Tủy Thảo và cỏ Lươn Nhật Bản thuộc họ cỏ Lươn. Đây là HST rất quan trọng trong Vườn quốc gia vì là nơi cư trú và nguồn cung cấp thức ăn của nhiều loài hải sản quý như Ốc nhảy, Tôm rảo. Đặc biệt sự tồn tại của HST này gắn liền với nguồn thức ăn của một số loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng như Dugong, Rùa biển – những loài có số lượng khá phong phú trong Vườn quốc gia trong vài thập kỷ trước đây.
HST rạn san hô: là một HST đa dạng nhất hành tinh và được ví như “rừng mưa nhiệt đới dưới đáy biển”, chỉ phân bố ở vùng biển nông ven bờ. Đây là nơi cư trú, đẻ trứng, ẩn náu, kiếm mồi cho nhiều loài hải sản. HST rạn san hô còn có năng suất sinh học cao, là nguồn sản sinh ra các chất hữu cơ, cung cấp thức ăn không chỉ cho chính nó, cho các sinh vật sống trong rạn mà còn có ý nghĩa cao cho toàn vùng biển. Vì vậy, đây là nơi lưu trữ nguồn gen của nhiều loài hải sản. Các rạn san hô khu vực Bái Tử Long đều thuộc kiểu rạn không điển hình, rạn viền bờ ven đảo.
HST thung áng trong đảo đá vôi: được hình thành trong các thung lũng đá vôi, có nước biển xâm thực, điển hình như thung áng Cái Đé. Nước trong thung chỉ lưu thông với vùng biển bên ngoài qua những khe rãnh nhỏ hoặc các hang ngầm. Tại đây tồn tại nhiều loài sinh vật được hình thành từ xa xưa, nên HST này được coi như bảo tàng sống thể hiện lịch sử tiến hóa của sinh vật. HST thung áng không những là những nhân tố hợp thành giá trị ĐDSH, mà còn góp phần tạo nên các giá trị cảnh quan phong phú và hấp dẫn của Vườn quốc gia Bái Tử Long.
2.2.6.2. Khu hệ thực vật rừng
VQG Bái Tử Long có hệ thực vật khá phong phú và đa dạng. Thành phần loài bước đầu thống kê của viện điều tra quy hoạch rừng và tổ chức Fontirer – Việt Nam có 780 loài trong đó:
Bảng 2.2: Thành phần loài thực vật rừng của Vườn quốc gia Bái Tử Long.
Trong tổng số 135 họ thực vật có ở vườn, hai họ có số lượng trên 40 loài là Rubiaceae (47 loài) và Euphorbiacege (41 loài). Đây cũng là những họ có số chi và loài đa dạng nhất trong hệ thực vật Việt Nam.
Nguồn tài nguyên cây có ích bao gồm: 431 loài cây thuốc, 126 loài cây cho gỗ, 44 loài cây cho quả và hạt ăn được, 33 loài cây làm rau ăn, 27 loài cây cho tinh dầu và dầu béo, 14 loài cây làm thức ăn cho gia súc. [7]
Vùng sinh thái Vườn quốc gia Bái Tử Long được rừng kín thường xanh bao phủ tới gần 85% diện tích toàn vùng, trong đó rừng tự nhiên chiếm 90% tổng diện tích. Ngoài ra còn rừng trâm tự nhiên thuần loại diện tích 13 ha, phân bố trên đảo Minh Châu như: Trâm Muỗi, Trâm Đỏ, Trâm Trắng… Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
2.2.6.3. Khu hệ động vật rừng
Bảng 2.3: Thành phần loài động vật hoang dã Vườn quốc gia Bái Tử Long
Nằm trong danh sách được đưa vào sách đỏ về động vật rừng có: Báo gấm, Báo lửa, Sơn dương, Rùa hộp ba vạch, Kỳ đà hoa, Trăn đất, Cạp Nong, rắn Hổ mang chúa, Chồn bạc má…một số loài chim thuộc họ Hồng Hoàng, họ Ưng…
Bảng 2.4: So sánh số lượng loài giữa các Vườn quốc gia biển Việt Nam.
2.2.6.4. Hệ động – thực vật biển
VQG Bái Tử Long không chỉ đa dạng, phong phú về động – thực vật trên cạn mà còn giàu về động – thực vật dưới biển. Đây là nguồn gen quy hiếm của nước ta.
Thực vật ngập mặn: 19 loài thuộc hai nhóm là nhóm loài chủ yếu và nhóm loài chịu mặn gia nhập vào RNM. Trong thành phần của khu hệ loài Sú chiếm ưu thế trong toàn khu vực.
- Thực vật phù du:
Bảng 2.5: Thực vật phù du ở vùng biển Bái Tử Long
So sánh với các kết quả nghiên cứu gần đây về TVPD ở thấy rằng: thành phần TVPD ở vùng biển Bái Tử Long đa dạng hơn các khu vực lân cận như Cô Tô (đã gặp 130 loài), Thanh Lân (128 loài), Hạ Mai (146 loài), Hạ Long (209 loài).
Hình 2.1: Tỷ lệ của các lớp TVPD ở vùng biển Bái Tử Long Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Rong biển: 44 loài thuộc 4 ngành là Rong lam, Rong đỏ, Rong nâu và Rong lục. Trong 44 loài rong biển đã phát hiện được tại vùng biển Vườn quốc gia Bái Tử Long, có 5 loài có giá trị kinh tế có thể khai thác và sử dụng trong nhiều lĩnh vực như làm thực phẩm, nguyên liệu chế biến các loại dược phẩm dùng để chữa bệnh.
Bảng 2.6: Rong biển làm thực phẩm, nguyên liệu chế biến dược phẩm
- Động vật phù du: 90 loài thuộc 52 giống 43 họ và 10 bộ, 5 ngành. Trong đó:
- Ngành Giun đốt (Anneliada) Gồm 1 loài chiếm 1%
- Ngành Chân đốt (Arthropoda) Gồm 76 loài chiếm 85%
- Ngành Thân mềm (Mollusca) Gồm 3 loài chiếm 3%
- Ngành Hàm tơ (Chaetognatha) Gồm 3 loài chiếm 3 %
- Ngành Có bao (Tunicata) Gồm 2 loài chiếm 2 %
Thành phần loài động vật phù du vùng biển Bái tử Long bằng 86,4 % so với vùng biển Cát Bà – Hạ Long, chiếm 74,3% số loài thu được trên toàn vùng biển Quảng Ninh – Hải Phòng. Như vậy có thể thấy quần thể động vật phù du lịch vùng biển Bái Tử Long khá phong phú.
Hình 2.2: Tỷ lệ các nhóm động vật phù du
San hô: 106 loài san hô cứng thuộc 34 giống 12 họ trong khu vực Vườn quốc gia Bái Tử Long. Nếu xét mức độ đa dạng về số lượng giống thì họ Faviidae có số lượng giống nhiều nhất và vượt trội so với các giống khác là 12 giống, chiếm 35,3 %, các họ khác đều ít, chỉ 1 – 4 giống. Khác với các khu vực khác, các đảo có phân bố san hô thường bị tác động mạnh bởi các động lực biển như sóng và dòng chảy nên địa hình thường dựng đứng và có nhiều đá tảng lớn, do đó san hô phân bố rải rác không tập trung và chủ yếu là san hô dạng khối và dạng phủ bám chắc vào đá không bị sóng đánh bật ra khỏi vật bám.
Dựa trên kết quả khảo sát và đánh giá nhanh trên 6 rạn trong Vườn quốc gia Bái Tử Long, kết quả được thể hiện trên bảng 2.7
Bảng 2.7: Độ phủ san hô sống tại các điểm khảo sát khu vực Bái Tử Long
Cá biển: 68 loài thuộc 38 giống trong 19 họ. Các họ có tổng số loài lớn chiếm ưu thế là:
- Họ cá Thia có 13 loài chiếm 19,12% tổng số loài đã được phát hiện. – Họ cá Mú có 9 loài chiếm 13,24%
- Họ cá Bàng chài có 6 loài chiếm 8,82% Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
- Họ cá Sơn và họ cá Phèn có 5 loài chiếm 7,35%
- Họ cá Lượng, cá Bướm và cá Bống trắng có 4 loài chiếm 5,88%
So sánh số lượng loài giữa các vùng rạn trong khu vực các đảo Đông bắc vịnh Bắc Bộ (bảng 2.8) cho thấy đây là khu hệ cá rạn có tính ĐDSH thấp nhất sau cả các rạn lân cận như Cô Tô, đảo Trần và Hạ Long.
Bảng 2.8: So sánh số lượng loài giữa các vùng rạn san hô khu vực các đảo Đông bắc vịnh Bắc Bộ
Loài có ý nghĩa khoa học cao và thuộc nhóm loài quý hiếm đã được ghi trong Sách đỏ của Việt Nam để bảo vệ là loài cá Lưỡng tiêm, có giá trị trong nghiên cứu về tiến hóa.
Giun đốt: Có 60 loài, trong đó lớp Giun nhiều tơ có 58 loài và lớp Sâu đất có 2 loài. Số loài trên thuộc vào 48 giống và 25 họ. Số loài Giun nhiều tơ trên thể hiện tính thích nghi với hai thể nền đáy chính là đáy mềm vùng ngập nước và đáy cứng trong các thân san hô.
- Động vật thân mềm: 197 loài, trong đó:
- Lớp Chân bụng gồm 97 loài chiếm 49,2%.
- Lớp Hai mảnh gồm 96 loài chiếm 48,8%.
- Lớp Chân đào gồm 2 loài chiếm 1%.
- Lớp Nhiều tấm (Song kinh) gồm 2 loài chiếm 1%.
Giáp xác : Phần lớn số loài thuộc lớp phụ Giáp xác vỏ mềm, bộ Mười chân. Trong số 40 loài Giáp xác thống kê được có một số loài có giá trị kinh tế cao. Đáng chú ý hơn cả có Cua xanh, 7 loài ghẹ và 2 loài Tôm he và Tôm rảo. Trong số Giáp xác phát hiện được không có loài nào thuộc nhóm quý hiếm được ghi vào Sách đỏ của Việt Nam.
Bảng 2.9: Cấu trúc khu hệ Giáp xác Vườn quốc gia Bái Tử Long và Hạ Long
- Động vật da gai: Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Bảng 2.10: Cấu trúc thành phần khu hệ động vật Da gai Vườn quốc gia Bái Tử Long
Các loài Da gai Vườn quốc gia Bái Tử Long được phát hiện thì loài có giá trị kinh tế tập trung vào nhóm Hải sâm là chủ yếu, hải sâm được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như làm thực phẩm, làm thuốc. Vì vậy cần có biện pháp quản lý thích hợp để duy trì nguồn lợi của biển cho này.
So với các vùng biển gần đó như Cô Tô mới phát hiện được 8 loài và vùng Hạ Long – Cát Bà cũng mới chỉ phát hiện được 20 loài, với khu hệ Da gai biển Việt Nam nói chung, khoảng 300 loài (Đào Tấn Hổ, 1994) thì chỉ chiếm khoảng 10%. Còn nếu so sánh với toàn vịnh Bắc Bộ, khoảng 70 loài (tổng hợp các báo cáo điều tra của Vườn quốc gia Bái Tử Long) thì chúng chiếm khoảng 45%.
2.2.7. Tiềm năng du lịch tự nhiên
Cảnh quan địa hình
Nằm giữa vùng biển – đảo Đông Bắc Việt Nam, Vườn quốc gia Bái Tử Long nổi lên như một vật phẩm vô giá, mà tạo hóa ban tặng cho mảnh đất Vân Đồn ngàn năm lịch sử. Nơi đây không chỉ có non xanh – biển biếc, phong cảnh thơ mộng hữu tình, mà còn chứa đựng những giá trị ĐDSH đặc sắc hiếm có.
Hơn 40 đảo đá vôi và đảo đất xen kẽ nhau tạo ra một cảnh quan địa hình với cảnh sắc tuyệt vời còn giữ nguyên vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên kỳ thú. Những đảo đá như bồng bềnh trên mặt biển với bao hình thù kỳ lạ luôn thay hình đổi dạng, tạo cho du khách niềm thích thú khi chiêm ngưỡng, làm giàu thêm trí tưởng tượng vốn đã bay bổng của con người. Có đảo trông giống con Công hoặc thiên nga đang bơi lội, có đảo lại trông giống một con Ngựa khổng lồ. Cũng giống như vịnh Hạ Long, vịnh Bái tử Long có hàng trăm đảo có tên gọi riêng gắn với những truyền thuyết, sự tích hay tên loài vật nào đó theo trí tưởng tượng của con người. Đó là hòn Mẫu Tử kể về nghĩa mẹ thiêng liêng, qua câu chuyện một người mẹ trẻ vì chút tình thơ ngây bị vua cha quở trách đầy xuống thủy cung không cho nhận con nhỏ, những ngày người mẹ trẻ vẫn nâng bầu sữa tràn đầy sức sống lên trên mặt nước, để con mình được nuôi dưỡng bằng tình thương của mẹ. Còn hòn Thiên Thư là niềm an ủi của những bậc văn nhân miệt mài đèn sách. Thiên Thư là chồng sách của trời, cả một hòn đảo đá khổng lồ được hình thành bởi những phiến đá phẳng xếp hơi nghiêng như những trang sách đang mở ra trước mắt một bậc hiền triết. Quay lại nhìn phía sau thì thấy hòn Con Quy như hứa hẹn đón ta về trong quang vinh, sau những vất vả nhọc nhằn mà ta đã vượt qua để tô đẹp thêm cuộc sống. Xa hơn nữa là hòn Thạch Mã xung quanh ngổn ngang nào cung, kiếm, khiên, đao, gậy tày, giáo vạt. Phải chăng nơi đây xưa kia một vị đại tướng nhà trời trên đường trở về sau cuộc chinh chiến, vì mải mê cảnh đẹp đã trút bỏ ngựa chiến và binh khí, ở lại nơi đây để xây đắp hạnh phúc và hòa bình cho mình và cho người dân trên mảnh đất này. Nơi đây còn có Bàn Cờ Tiên với bàn cờ bằng phẳng trải ngay mép nước, bên cạnh một ngọn đèn lớn luôn sẵn sàng thắp sáng. Và còn biết bao dáng hình của đá, một thế giới hình khối cứng rắn như đá mà mềm mại như nước, một phòng trưng bày rộng đến khôn cùng, đủ sức chứa mọi trí tưởng tượng của Con người. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Không chỉ có thế, các hang động khổng lồ trong lòng núi đá vôi, điển hình là hang Cái Đé, một hang luồn lớn nhất vùng Hạ Long – Bái Tử Long, xuyên qua lòng núi với chiều dài 300 m, vừa cho ta cảm nhận sức mạnh không cưỡng nổi của thủy thần, vừa đem lại cảm giác huyền bí khó quên cho những ai có đủ bản lĩnh và sức khỏe khám phá và thám hiểm công trình thiên tạo vĩ đại này. Cùng với đó là quần thể thực vật tươi tốt quanh năm che phủ trên đảo đá như mái tóc của các mỹ nhân. Những lạch biển trong xanh chạy giữa hai bên là các đảo có rừng thường xanh che phủ. Còn một dáng vẻ khác đầy quyến rũ, nối liền non nước đó là những bãi cát vàng, cát trắng nơi chân đảo. Có những bãi cát nhỏ như e ấp, ẩn hiện nơi chân đảo đá, lại có bãi cát trắng mịn trải dài hàng cây số với vẻ đẹp lộng lẫy thiết tha mời chào, một điểm đến đẹp nhất trên vùng Đông Bắc. Còn nếu là những người quan tâm đến lịch sử địa phương, ta có thể tìm hiểu và nghiên cứu một hình ảnh kì thú: đó là sự liền kề tới mức gối lên nhau của hai thân đảo có nguồn gốc hình thành từ các loại đá mẹ và những vận động địa chất hoàn toàn khác nhau ở phần tiếp giáp giữa đảo đất và đảo đá vôi trên đảo Trà Ngọ. Khi triều xuống thấp, những ngấn đá hằn sâu dưới chân đảo cũng là những biểu hiện ngàn năm của các vận động địa chất hải văn, biển tiến, biển lùi và thủy triều lên xuống. Tất cả những giá trị trên càng tô thêm vẻ đẹp hấp dẫn và sự cuốn hút đối với du khách mỗi khi thăm quan Vườn quốc gia Bái Tử Long.
Đỉnh Mắp Chương Sam: Đây là điểm ngắm cảnh quan làng xóm và địa hình xung quanh. Với những ai thích khám phá thiên nhiên và ưa leo núi có thể trèo lên đỉnh Mắp thuộc xã Minh Châu để nhìn phóng tầm mắt thỏa sức ngắm nhìn xung quanh, bạn mới thấy được hết vẻ đẹp toàn cảnh của thiên nhiên trên vịnh cũng như quang cảnh làng xóm thân thương, xa hơn còn có thể quan sát được cảnh quan đảo Cô Tô. Vào ngày nắng vẻ đẹp mặt vịnh như long lanh hơn, các đảo uy nghi hơn, những mái nhà như nồng ấm hơn và cây rừng như xanh tốt hơn. Bốn bãi tắm dài, rộng (Bãi Giữa, bãi Bể Thích, bãi Nhãng Rìa, bãi Chương Nẹp) của Minh Châu rất đẹp, cảnh sắc lạ, hoang sơ tạo niềm hứng thú mới cho khách du lịch: Cát trắng như thủy tinh, độ dốc thoải, nước trong xanh có thể nhìn thấy đáy, sóng vừa phải, có nhiều Sao biển, ốc biển, Hải sâm, cá nhỏ…Đặc biệt là có những bãi đá với nhiều viên đá nhẵn hình thù đẹp mắt.
- Cảnh quan rừng mưa nhiệt đới trên các đảo đất, các đảo đá vôi
HST rừng kín thường xanh thứ sinh trên đảo: HST núi đá chứa đựng nhiều loài động thực vật rất phong phú và đặc sắc đã và đang được thống kê chi tiết và đầy đủ hơn trước. Trong đó phải kể đến một số loài thực vật quý hiếm như nhóm cây gỗ có Trai Lý, Kim Giao núi đá, Lát Hoa, Tắc Kè đá, Tuế, nhóm Lan Hài… Về động vật đó là các loài thuộc bộ linh trưởng như: Khỉ vàng, một số loài chim quý như Phượng Hoàng đất, Cao Cát bụng trắng, các loài thuộc bộ chim Ưng. Khi đến Vườn quốc gia Bái Tử Long, bằng hệ thống rừng mòn trên đảo Ba Mùn, Trà Ngọ du khách sẽ có dịp được thưởng thức loại hình du lịch Trekking và cơ hội tự mình khám phá về những loại này. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
RNM trong thung – áng Cái Đé: Đây là một hang động có quy mô lớn nhất đã được phát hiện tại Vịnh Bái Tử Long cho tới nay. Hang dài chừng hơn 300 m, xuyên qua lòng núi. Cửa bên ngoài thông với áng Đé, cửa bên trong rừng thường xanh che phủ, phần ngập nước có RNM tự nhiên đã nhiều năm tuổi hấp dẫn đối với các chuyên gia nghiên cứu về HST đất ngập nước.
Khám phá hang luồn là một hoạt động dành cho những khách du lịch ưa mạo hiểm. Khi vào sâu trong lòng hang ta được cảm nhận một không khí âm u, huyền bí, những tiếng động như từ đời xưa vọng lại.
RNM tại Vũng Cái Quýt (Đảo Ba Mùn): RNM ở đây rộng 24 ha, là RNM đặc trưng nhất của Vườn quốc gia Bái Tử Long. Đây là một cảnh quan sinh vật khá hiếm, vì ở các nơi khác thì đới trên cùng của rừng ngập mặn thường tiếp xúc với HST nông nghiệp, không còn cảnh quan và HST tự nhiên, nên đới chuyển tiếp không có trạng thái điển hình như ở đây. Khi đến Vũng được ngắm nhìn những quần thể TVNM đùa giỡn, ngụp lặn trong thủy triều, du khách không thể không kinh ngạc và thích thú trước sự kỳ lạ và sự biến hóa khôn cùng của nhóm loài thực vật này
- Đa dạng về nguồn gen sinh vật cảnh
Từ sinh vật biển cũng như sinh vật trên cạn liên quan đến các HST đặc trưng là rạn san hô và rừng trên núi đá vôi:
Hai điểm ngắm san hô là Đầu Cào và Mang Khơi: Đến với Vườn quốc gia Bái Tử Long, du khách sẽ bị lôi cuốn bởi những rạn san hô, không chỉ lôi cuốn về khía cạnh thẩm mĩ mà còn trên cả phương diện khoa học. Mặc dù không đặc sắc về quy mô và kích thước rạn nhưng được ví như vườn thượng uyển của Long Vương bởi sự trang trí tài hoa lộng lẫy của tạo hóa. Đây là một loại hình du lịch hấp dẫn hiện nay mới chỉ có ở biển Nha Trang khi khách có nhu cầu.
Một bãi Rùa đẻ: Bãi Dưới nằm gần mũi Cồn Trụi có cảnh quan tự nhiên thích hợp cho rùa biển làm tổ và đẻ trứng – một trong những loài được bảo vệ cấp toàn cầu. Tại đây, năm 2004 đã phát hiện 2 ổ trứng Vích, năm 2007 phát hiện 1 ổ và cứu hộ thả về biển 1 rùa mẹ. Rùa thường vào bãi đẻ khi con nước lên cao nhất từ tháng 5 đến tháng 7. Nơi đây, nếu được bảo vệ tốt sẽ trở thành điểm Du lịch sinh thái hấp dẫn. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Rừng Trâm tự nhiên thuần loại: Với diện tích 13 ha, trải dài theo hình vòng cung, đây là rừng Trâm tự nhiên thuần lại duy nhất của nước ta. Rừng Trâm đối với dân làng nơi đây như vị “Thần Mộc”, còn đối với du khách đây là một môi trường, một giáo cụ trực quan, sinh động cho việc nghiên cứu, học tập về lâm sinh học nhiệt đới. Do đó, hãy đến với Minh Châu để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của rừng Trâm và hít thở khí thiêng ẩn trong từng thớ gỗ của vị “Thần Mộc”.
Du lịch sinh thái kết hợp với du lịch chữa bệnh và tìm hiểu về các loài cây thuốc quý hiếm
- Cây Bách Bệnh với các tác dụng dược lý như sau:
Rễ cây Bách bệnh (có vị đắng, tính mát) băm nhỏ đem tẩm rượu sao vàng để chữa nhiều bệnh như: Khí huyết kém (biểu hiện của ngời mệt mỏi, lười hoạt động, thiếu máu), gân xương yếu mỏi, ăn uống không tiêu, no hơi đầy bụng, trong ngực có cục tức (tức ngực, nghẹn, khó thở) chân tay tê nhức, nôn mửa, tả lị, tức thời cảm mạo (cảm ho thể phong hàn hay phong nhiệt cả bốn mùa trong năm), say rượu và tẩy giun. Các Quassinoid từ rễ còn có tác dụng diệt ký sinh trùng sốt rét do Plasmodium falciparum ở bệnh nhân đã kháng Chloroquine. Theo kinh nghiệm cổ truyền của các nước châu á thì dùng cây Bách Bệnh để tăng cường khả năng sinh dục cho nam giới làm tăng sức khỏe nói chung và còn nhiều tác dụng đáng quý khác.
- Vỏ cây và thân cây dùng làm thuốc bổ, chưa trị ăn uống không tiêu; phối hợp với rễ chữa đau lưng nhức mỏi, đau bụng kinh của phụ nữ.
- Qủa cây dùng để chữa lỵ, tiêu chảy. Lá dùng nấu nước tắm trị ghẻ, lở ngứa.
(Theo tài liệu của PGS.TS Trần Công Khánh, Viện Dược liệu).
Cây lá khôi với các tác dụng dược lí: Theo kinh nghiệm của dân gian, Lá khôi là một vị thuốc đóng vai trò chủ trị trong chữa bệnh đau dạ dày, liều dùng từ 50 – 60g dưới dạng sắc uống, ngoài ra có thể nấu cao lỏng để uống.
Lá khôi tươi, lá vối, lá hòe còn dùng để nấu nước tắm cho trẻ em đỡ lở, ngứa. [9]
2.3. Các đặc điểm kinh tế – xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
2.3.1. Đặc điểm dân cư
Ranh giới Vườn quốc gia Bái Tử Long thuộc địa bàn quản lý hành chính của 3 xã Minh Châu, Vạn Yên, Hạ Long. Nhưng chỉ có người dân 4 thôn (Quang Trung, Ninh Hải, Nam Hải, Tiền Hải) thuộc xã Minh Châu sống trong phạm
Tổng dân số 968 người, 222 hộ, dân tộc kinh có 959 người chỉ có 5 người là dân tộc Hoa, 4 người là dân tộc Sán Dìu. Tổng số lao động của xã Minh Châu khá dồi dào 520 lao động chủ yếu tham gia vào hoạt động ngư nghiệp. Trong số lao động có trình độ học vấn phổ thông, tiểu học và trung học cơ sở chiếm 94,5%.
Bảng 2.11: Cơ cấu lao động xã Minh Châu năm 2009.
2.3.2. Đặc điểm kinh tế
2.3.2.1 Cơ cấu kinh tế Huyện Vân Đồn
Về cơ bản vẫn trên nền kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp; kinh tế hàng hóa chưa phát triển. Trong những năm gần đây, huyện Vân Đồn có xu hướng tăng tỷ trọng các ngành du lịch – dịch vụ và ngành thủy sản, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và lâm nghiệp.
Ngày 04/01/2008 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số: 06/QĐ-TTg thành lập Ban quản lý khu Kinh tế Vân Đồn với trọng tâm phát triển Du lịch sinh thái biển đạt chất lượng cao và môi trường chế biến thủy hải sản xuất khẩu.
2.3.2.2 Cơ cấu kinh tế của xã Minh Châu Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
Nhìn chung kinh tế chưa phát triển, chủ yếu phụ thuộc ngành ngư nghiệp và lâm nghiệp, công nghiệp dịch vụ chưa phát triển tuy có nhiều tiềm năng để phát trển du lịch và nuôi trồng thủy sản.
- Nông nghiệp
Ngành trồng trọt: Xã Minh Châu có 29 ha (2010) đất canh tác nông nghiệp sản lượng quy ra thóc đạt mỗi năm tương ứng 60 tấn, giá trị sản phẩm trồng trọt trung bình mỗi năm đạt 160 triệu đồng = 103% so với kế hoạch.
Ngành chăn nuôi: không phát triển rộng, hình thức chăn nuôi hộ gia đình mang tính nhỏ lẻ, tự cung tự cấp và chủ yếu là nuôi các loại gia cầm nhỏ.
- Lâm nghiệp
Năm 1992, thực hiện chính sách giao đất giao rừng của Chính phủ, hạt Kiểm lâm huyện Cẩm Phả đã giao đất giao rừng trên các đảo cho các hộ gia đình quản lý bảo vệ (rừng ở đảo Ba Mùn không giao). Người dân đã thực hiện tốt công tác quản lý bảo vệ rừng, các hoạt động khai thác gỗ và săn bắn trái phép đã giảm. HST tự nhiên được phục hồi trở lại với nguồn gốc vốn có của nó.
- Ngư nghiệp
Toàn xã hiện nay có 160 phương tiện tàu thuyền, tổng sản phẩm khai thác hải sản các loại đạt khoảng 1870 tấn = 12,6 tỉ đồng.
- Khai thác chế biến Sứa: trên địa bàn hiện nay đã có 18 xưởng thu mua và chế và biến sứa theo thời vụ.
- Khai thác sá sùng: Việt Nam duy nhất chỉ có ở hai bãi Sá Sùng dọc sông Mang ở Minh Châu, đây là đặc sản quý của xã. Hàng năm nguồn thu từ Sá Sùng có thể đạt tới hơn 1 tỷ đồng.
- Nghề đánh lưới ghẹ: Hiện nay địa bàn xã có 20 phương tiện nhỏ đánh lưới gần bờ, khai thác ghẹ, thời vụ từ tháng 4 đến tháng 11.
- Khai thác nhuyễn thể trên các ghềnh đá bãi triều: có nhiều loại nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao như: Hải sâm, ốc hương, Sò huyết, điệp, ốc màu…góp phần nâng cao thu nhập của người dân địa phương.
- Về nuôi trồng thủy hải sản: hiện nay đã có 19 hộ nuôi với số lượng trên 100 vạn con giống. Khai thác Tu hài thương phẩm trung bình hàng năm khoảng 3 – 5 tấn, trị giá khoảng 400 – 600 triệu đồng.
2.3.3. Tiềm năng du lịch nhân văn Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
VQG Bái Tử Long là một nơi có cảnh quan thiên nhiên tuyệt mỹ có sức thu hút rất lớn đối với du lịch khách trong và ngoài nước. Không chỉ có vậy, nơi đây còn có một truyền thống lịch sử hào hùng và những nét văn hóa độc đáo cũng như những giá trị khảo cổ có ý nghĩa về mặt khoa học:
- Di tích dòng sông Mang lịch sử: nơi ghi dầu chiến công lẫy lừng của tướng Trần Khánh Dư đánh tan thuyền lương trên 500 tàu quân xâm lược Nguyên Mông do Trương Văn Hổ cầm đầu diễn ra từ năm 1288 nhưng vẫn vang dội đến ngày nay.
- Dấu tích khảo cổ thương cảng Vân Đồn: Nằm trên tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng nên 1149 vua Lý Anh Tông cho thành lập trang Vân Đồn để buôn bán với nước ngoài. Đến nay nhiều dấu tích vẫn còn hiện hữu ở bến Cái Làng và nhiều địa danh khác ở Bái Tử Long.
- Di tích khảo cổ hang Soi Nhụ: Đây là nơi phát tích của nền văn hóa người Việt thời tiền sử với những di vật được phát hiện và minh chứng cho một nền văn hóa Việt cổ cách đây 14.000 năm.
- Đình Quan Lạn: Xây dựng từ thế kỉ 18, nay còn giữ được gần như nguyên vẹn các đường nét hoa văn chạm khắc tinh xảo xưa. Đình được xây dựng theo kiến trúc và phong cách của đồng bằng Bắc Bộ, cửa hướng về đất liền. Đình được bộ văn hóa thông tin cấp bằng công nhận cụm di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Đây sẽ là điểm thu hút du khách yêu kiến trúc cổ muốn tìm hiểu về nghệ thuật dân gian Việt Nam.
- Đền thờ Trần Khánh Dư: Đền thờ một vị tướng danh tiếng của nhà Trần đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.
- Lễ hội Quan Lạn: Bắt đầu từ ngày 10 đến ngày 20 tháng 6 âm lịch (lễ chính vào 18 tháng 6 âm lịch). Đây là một hoạt động văn hóa tín ngưỡng mang đậm tinh thần đoàn kết dân tộc và tinh thần thượng võ của cộng đồng địa phương với vùng đất này. Hiện nay lễ hội này đã trở thành lễ hội truyền thống của toàn huyện Vân Đồn.
Bên cạnh nhiều văn hóa phi vật thể Quan Lạn còn có nhiều giá trị văn hóa phi vật thể khác: hát giao duyên vùng biển và nhiều phong tục tập quán mang bản sắc riêng của người miền biển.
Tiểu kết chương
Trên cơ sở nghiên cứu các điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội ở khu vực Vườn quốc gia Bái Tử Long, dựa vào các tiêu chí đánh giá tiềm năng Du lịch sinh thái thì đề tài đã tiến hành đánh giá tiềm năng Du lịch sinh thái của Vườn quốc gia Bái Tử Long. Kết quả đánh giá cho thấy Vườn quốc gia Bái Tử Long là một Vườn quốc gia có tiềm năng Du lịch sinh thái với giá trị ĐDSH cao, nhiều loài động thực vật quý hiếm, đặc hữu; nhiều cảnh quan đẹp và tiềm năng văn hóa địa phương đặc sắc; vị thế của Vườn quốc gia trong phát triển Du lịch sinh thái thuận lợi. Tuy nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch cũng thiếu thốn đặc biệt là phương tiện đi lại, điện lưới quốc gia và hệ thống nước ngọt nên chưa tạo thuận lợi cho khai thác tiềm năng này để phát triển du lịch. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Thực trạng hoạt động du lịch ở vườn quốc gia Tử Long
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của vườn quốc gia […]