Liên kết phát triển du lịch giữa Luangprabang (Lào) và Hà Nội (Việt Nam) đã nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn về hoạt động liên kết phát triển du lịch của hai thành phố Luangprabang và thành phố Hà Nội. Từ thực tế đó, cần có một đề tài tập trung phân tích, tìm hiểu những điều kiện thuận lợi góp phần thúc đẩy phát triển quạn hệ hữu nghị giữa hai thành phố cũng như giữa hai đất nước, bài viết đề tài Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội.
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây ngành du lịch CHDCND Lào đã từng bước phát triển. Năm 2000, số khách du lịch quốc tế đến Lào chỉ có 737.208 lượt người và doanh thu chỉ đạt khoảng 113,9 triệu đô la Mỹ, nhưng đến năm 2018, con số này đã đạt gần 5 triệu lượt người với doanh thu đạt khoảng 900 triệu đô la Mỹ.
Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, năm 2017 khách du lịch qua lại giữa hai nước đạt 1.13 triệu lượt; trong đó, hơn 137.000 lượt khách du lịch Lào đến Việt Nam và khoảng 1 triệu khách du lịch Việt Nam đến Lào. Ngoài ra, số lượng khách du lịch từ nước thứ ba, nhất là các nước châu Âu, Mỹ, Úc và Nhật Bản đi du lịch cả Lào và Việt Nam theo hành trình kết nối trung tâm, di sản của Lào và Việt Nam cũng tăng đáng kể. Đây là cơ hội tốt cho ngành Du lịch hai nước Việt Nam và Lào nói chung, các địa phương của hai nước nói riêng tăng cường hợp tác phát triển du lịch.
Trước thực tế đó, việc liên kết các điểm du lịch giữa hai nước là một trong những hướng hợp tác được Đảng, Nhà nước và Chính phủ Lào và Việt Nam hết sức quan tâm. Liên kết cho phép khai thác những lợi thế về tài nguyên du lịch, hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật và các nguồn lực khác cho phát triển du lịch của cả hai bên. Liên kết còn tạo ra những sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh cao trên thị trường du lịch khu vực và quốc tế. Khi gia nhập ASEAN và Tổ chức thương mại thế giới (WTO), bên cạnh những lợi thế thì du lịch Lào và cũng như Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, liên kết sẽ tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Đồng thời, tiết kiệm chi phí, kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn và hạn chế rào cản biên giới giữa các quốc gia đối với du khách.Liên kết không chỉ thu hút được nhiều khách du lịch hơn mà còn thu hút được các nhà đầu tư vào phát triển du lịch. Bên cạnh đó, liên kết phát triển du lịch có khả năng khắc phục những hạn chế, điểm yếu của mỗi địa phương, góp phần đưa du lịch cả hai bên cùng nhau phát triển nhanh và bền vững. Liên kết phát triển du lịch cũng góp phần bảo vệ môi trường, tài nguyên chung. ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Thành phố Luangprabang CHDCND Lào có nhiều tiềm năng cho phát triển du lịch với rất nhiều di sản văn hóa, đặc biệt là những ngôi chùa hàng nghìn năm tuổi. Bên cạnh đó, Luangprabang còn lửu giữ nhiều phong tục tập quán tốt đẹp, hấp dẫn, các kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc và các làng nghề có truyền thống lâu đời. Măc dù trải qua hai cuộc chiến tranh chống Xiêm và chống Pháp, cùng với những tác động của thiên nhiên, của thời gian, song Luangprabang vẫn còn lưu giữ được rất nhiều di sản văn hóa có giá trị mang chiều sâu lịch sử văn hóa. Các di sản văn hóa đều gắn với những truyền thuyết, những nhân vật lịch sử hay liên quan đến phong cách kiến trúc đặc trưng của các thời kỳ lịch sử đáng tự hào của các bộ tộc người Lào.
Trong thời gian qua, Luangprabang và Hà Nội, những thành phố kinh tế trọng điểm của hai quốc gia, nơi có những di sản văn hóa của thế giới, có đường giao thông thuận lợi cả về đường bộ và đường hàng không, đã có những mối liên kết về mặt kinh tế- xã hội, trong đó có liên kết phát triển du lịch.
Liên kết phát triển du lịch nói riêng và liên kết phát triển kinh tế nói chung sẽ góp phần thúc đẩy phát triển quạn hệ hữu nghị giữa hai thành phố cũng như giữa hai đất nước cũng chính là một trong những định hướng chiến lược của Đảng và Chính phủ CHDCND Lào và CHXHCN Việt Nam.
Thực tế trong thời gian qua, hai thành phố Luangprabang và Hà Nội đã có nhiều hội thảo về liên kết phát triển du lịch và bước đầu đã đạt được một số kết quả tích cực. Ngày 21/11/2019, tại Luangprabang , Lãnh sự quán Việt Nam tại các tỉnh Bắc Lào phối hợp với Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch tỉnh Luangprabang tổ chức Hội nghị Xúc tiến Hợp tác Du lịch giữa các tỉnh Việt Nam trong đó có thành phố Hà Nội và Khu vực Bắc Lào với chủ đề “Hành trình đến với di sản thế giới”. Đây là một trong những hoạt động thiết thực nhằm thúc đẩy giao lưu hợp tác, xúc tiến quảng bá du lịch, kết nối đối tác tổ chức du lịch giữa các tỉnh của Việt Nam và các tỉnh Bắc Lào nói chung, Luangprabang nói riêng và ngược lại. Tại hội nghị, đại diện các tỉnh đã giới thiệu về vị trí địa lý, tiềm năng, thế mạnh, điểm đến du lịch nổi bật của từng địa phương và nhu cầu hợp tác, kết nối tour, tuyến du lịch, xúc tiến quảng bá du lịch đôi bên và hướng đến những thị trường du lịch chung như thị trường khách Thái Lan, Trung Quốc và khách du lịch quốc tế khác. Cũng tại hội nghị, đại diện các hiệp hội, công ty du lịch của Lào và Việt Nam đã trình bày tham luận, trao đổi trực tiếp nhằm tìm kiếm cơ hội liên kết, hợp tác phát triển du lịch.
Mặc dù có nhiếu hội nghị, hội thảo khoa học về lĩnh vực du lịch giữa hai nước Lào -Việt Nam nói chúng và hai thành phố Luangprabang và Hà Nội nói riêng song, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách tổng quát, phân tích chuyên sâu về lĩnh vực liên kết phát triển du lịch giữa hai thành phố này. Do vậy việc nghiên cứu “Liên kết phát triển du lịch giữa Luangprabang (Lào) và Hà Nội (Việt Nam)”có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Có thể bạn quan tâm:
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục định của đề tài góp phần tăng cường liên kết, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch của địa phương, góp phần thúc đẩy hoạt động du lịch của hai đất nước nói chung và hai thành phố nói riêng.
2.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến liên kết phát triển du lịch
- Kết hợp với việc khảo sát thực địa, phân tích thực trạng hoạt động liên kết phát triển du lịch giữa hai địa phương để chỉ ra những ưu, nhược điểm và những nguyên nhân.
- Đưa ra các giải pháp dưới góc độ nghiên cứu tổng quát các hoạt động liên kết phát triển du lịch ở hai địa phương, làm tiền đề thúc đẩy phát triển du lịch của hai nước Lào và Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là một số vấn đề liên quan đến liên kết phát triển du lịch của thành phố Luangprabang và thành phố Hà Nội
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề liên kết phát triển du lịch là vấn đề rất rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều ngành nghề và địa phương, nên đối hỏi nhiếu thời gian. Do đó, trong khuôn khổ thời gian của luận văn, tác giả chỉ đề cập đến một số vấn đề:
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu một số nội dung liên quan đến hoạt động liên kết phát triển du lịch như: liên kết chuỗi sản phẩm dịch vụ du lịch, liên kết đào tạo phát triển nhân lực, liên kết giao thông phục vụ du lịch, liên kết quảng bá, xúc tiến du lịch.
- Về thời gian: Các số liệu, thông tin phục vụ nghiên cứu đề tài được giới hạn từ năm 2015 đến năm
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu hoạt động liên kết phát triển du lịch của hai thành phố Luangprabang và thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
Để hoàn thành luận văn, tác giả thu thập các thông tin thực tế liên quan đến hoạt động liên kết phát triển du lịch của hai đất nước Lào và Việt Nam nói chung và hai thành phố Luangprabang và thành phố Hà Nội nói riêng thông qua các trung tâm xúc tiến du lịch, các sở du lịch của hai thành phố.
4.2. Phương pháp khảo sát thực địa
Tác giả tiến hành khảo sát trên địa bàn hai thành phố Luaphabang và thành phố Hà Nội để có cơ hội tiếp cận thực tế và thu thập thông tin liên quan đến đề tài. Khảo sát được tiến hành vào nhiều thời điểm khác nhau để có kết quả khách quan và đầy đủ với nhiều đối tượng khách du lịch, nhiều loại hình du lịch với nhiều dịch vụ và loại hình kinh doanh khác nhau. ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
4.3. Phương pháp phỏng vấn
Tác giả tiến hành phỏng vấn một số cán bộ giảng dạy ở một số trường và dự án trên hai địa phương về hoạt động liên kết đào tạo nguồn nhân lực du lịch; một số nhà điều hành tour du lịch về hoạt động liên kết liên quan đến lữ hành, những thuận lợi và khó khăn của các công ty ở hai địa phương; một số cán bộ sở du lịch về chính sách, kế hoạch, chương trình… liên kết phát triển du lịch; một số nhân viên trung tâm xúc tiến của hai địa phương về hoạt động liên kết xúc tiến, quảng bá du lịch; một số khách du lịch nội địa và quốc tế về dịch vụ của hai địa phương. Trong quá trình phỏng vấn quan sát thái độ, cách trả lời của họ để có cái nhìn khách quan hơn về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, có những đánh giá chính xác và giải quyết vấn đề nghiên cứu được phù hợp với thực tiễn.
4.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Đối tượng là khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa – những người trực tiếp sử dụng dịch vụ du lịch trong đó có dịch vụ liên kết du lịch; công ty du lịch là đơn vị có hoạt động liên kết sản phẩm, dịch vụ du lịch,…
- Mục đích lấy ý kiến của khách du lịch và công ty du lịch về thực trạng hoạt động liên kết du lịch của hai địa phương. Đồng thời thu thập những phản hồi, đóng góp của họ làm cơ sở xây dựng giải pháp cho hoạt động liên kết đạt hiệu quả tốt.
4.5. Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp
Sau khi đã nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn về hoạt động liên kết phát triển du lịch của hai thành phố Luangprabang và thành phố Hà Nội. Đồng thời, thu thập đầy đủ số liệu, thông tin cần thiết rồi tiến hành quá trình sàn lọc và xử lý số liệu. Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp được sử dụng nhằm phân tích sự liên quan và ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến hoạt động liên kết phát triển du lịch của hai thành phố. Từ đó, có cơ sở đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để hoạt động liên kết được phát triển ổn định, bền vững, đủ sức cạnh tranh trong vùng và khu vực.
5. Bố cục luận văn ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khỏa và phụ lục, luận văn được chia ra làm 3 chương:
- Chương 1. Tổng quan tài liệu và cơ sở lý luận về liên kết phát triển du lịch
- Chương 2. Thực trạng hoạt động liên kết phát triển du lịch ở thành phố Luangprabang và thành phố Hà Nội.
- Chương 3. Một số giải pháp liên kết phát triển du lịch ở thành phố Luangprabang và thành phố Hà Nội.
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. Tổng quan nghiên cứu về liên kết phát triên du lịch
Dưới con mắt của Sara Nordin (2003), liên kết thể hiện ở mạng lưới và cụm. Theo tác giả, nếu mạng lưới cho phép các doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ, đặc biệt với chi phí thấp, thì cụm thu hút những dịch vụ cần thiết vào một địa bàn. Ông nhấn mạnh, những thành viên tham gia mạng lưới có chung mục đích kinh doanh, còn cụm mang đến cho các thành viên một tầm nhìn tập thể và lâu dài. Có thể hiểu rộng hơn ý tưởng của tác giả về hai kiểu liên kết này là liên kết chức năng và liên kết không gian.
Nguyễn Văn Huân (2012), cho rằng liên kết vùng cần được thực hiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản là: Phân bố các ngành và phân bố vùng phải dựa trên các lợi thế so sánh có thể làm tổng chi phí sản xuất và phân phối sản phẩm đến thị trường thấp nhất; là sự song hành huy động và sử dụng nguyên liệu cho nhiều nơi sẽ làm giảm hiệu suất sử dụng nguồn lợi và làm mất đi các lực liên kết vùng; dựa trên hiệu quả quy mô.
Trần Hữu Sơn (2016) chỉ ra nguyên tắc liên kết vùng, tiểu vùng du lịch là tôn trọng nguyên tắc toàn vẹn; liên kết du lịch trong khu vực là một quá trình năng động với các đặc điểm di chuyển, phối hợp, hội nhập và định kỳ. Vì vậy, cần tuân thủ các nguyên tắc phát triển tuần tự và có trật tự; nguyên tắc lợi ích, kết hợp lợi ích kinh tế và xã hội , lợi ích sinh thái.
Với cách tiếp cận nghiên cứu về đầu vào – đầu ra Hirschman (1958) khi đề cập đến liên kết kinh tế vùng, ông đã sử dụng khái niệm liên kết ngược (backward linkages, upstream linkages) và liên kết xuôi (forward linkages, downstream linkages) để nghiên cứu các mối quan hệ ngành và liên ngành. Ông cho rằng các hiệu ứng liên kết ngược (backward linkage effects) nảy sinh từ nhu cầu cung ứng đầu vào của một ngành nào đó mới được thiết lập; còn hiệu ứng liên kết xuôi phát sinh từ việc sử dụng đầu ra của ngành đó như là đầu vào các ngành khác đi theo. Hiệu ứng liên kết được xem như các xung lực tạo ra các khoản đầu tư mới thông qua sự vận động của các mối quan hệ đầu vào – đầu ra. Đây chính là điểm mấu chôt trong lý thuyết phát triển kinh tế của Hirschaman, khi ông khuyến nghị cần tập trung đầu tư vào những ngành có các mối liên kết mạnh, lan tỏa phát triển mạnh, để thông qua sức lan tỏa của chúng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (tăng trưởng không cân đối). ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Porter, M. E. (1998) cho rằng, liên kết là một trong những yếu tố của chiến lược cạnh tranh. Liên kết tạo ra giá trị sản phẩm mới mà không một thành viên nào có từ trước nên nó tạo ra lợi thế cạnh tranh cho nhóm liên kết, tức là các bên tham gia liên kết. Sau này các học giả Hy Lạp Sgouro Melisidou và cộng sự (2010) cụ thể hóa các mục tiêu của liên kết: đó là tạo các sản phẩm hoặc dịch vụ chung; cùng mua vật tư thiết bị, dịch vụ hoạc công nghệ; cùng chia sẽ kết quả dịch vụ, tạo thương hiệu phổ biến và thực hiện xúc tiến của khu vục; tăng cường các sản phẩm du lịch và các điểm đến địa phương. Mục tiêu lớn lao của liên kết phải là “ liên kết địa phương, cạnh tranh toàn cầu”, tức là liên kết phải được nâng cao được năng lực cạnh tranh vượt khỏi biên giới quốc gia. Nếu mạng lưới cho phép các doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ đặc biệt với chi phí thấp thì cụm thu hút những dịch vụ cần thiết vào một địa bàn. Những thành viên tham gia mạng lưới có chung mục đích kinh doanh, còn cụm mang đến cho các thành viên một tầm nhìn tập thể lâu dài.
Về xu thế liên kết, xu thế mở rộng địa bàn, xác lập cơ chế liên kết đa phương, đa quốc gia cũng được chú ý. Những nghiên cứu cho thấy, sự phát triển cả về qui mô, cũng như tính đa dạng, mức tạp trong thành phần, cơ chế, đặc điểm của các liên kết.
Trước tiên, phải kể đến cụ thế mở rộng địa bàn trong liên kết không gian du lịch, thể hiện ở việc liên kết nội vùng và ngoại vùng giữa các điểm du lịch biển và du lịch vùng núi ở trong và ngoài lãnh thổ, đã hình thành và phát triển từ nữa cuối thế kỷ trước như trong các công trình của Babbier (1967,1989), Balseinte R.(1977), Knafou R. (1978,1987) tại châu Âu. Đây là các liên kết “ngang”, đơn giản thông qua các tour, tuyến du lịch.
Hầu như các nghiên cứu lý thuyết, ít đề cập đến vấn đề xây dựng chính sách, đề xuất giải pháp cũng như không đưa ra các mô hình liên kết chung. Tuy nhiên, các nghiên cứu này cũng cấp các lý luận cơ bản, làm cơ sở cho việc xây dựng các chính sách, giải pháp, mô hình… Đặc biệt, chúng nhấn mạnh vai trò của cơ quan quản lý trong thành phần tham gia liên kết. Qua các công trình nghiên cứu có thể thấy, cho dù liên kết theo cách thức nào, ý kiến của chính quyền luôn giữ có vai trò quyết định.
Từ góc độ thực tiễn, sau khi gia nhập WTO, du lịch Việt Nam đứng trước một thị trường rộng mở hơn với nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt không ít thách thức. Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã thấy được vai trò to lớn của việc liên kết trong phát triển du lịch. Trước nhu cầu phát triển du lịch trong những năm qua, nhiều địa phương đã quan tâm và triển khai liên kết du lịch giữa các tỉnh trong nước và liên kết với các tỉnh khác ở nước ngoài. Nhiều hội thảo bàn luận về liên kết phát triển du lịch trong và ngoài nước đã được tổ chức như hội thảo quốc tế “ Liên kết phát triển du lịch giữa Bình Định và các tỉnh Đông Bắc Việt Nam, Thái Lan, Campuchia, Lào”, hội thảo “ Liên kết phát triển du lịch vùng duyên hải miền trung với vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, các tỉnh Nam Lào và Đông Bắc Campuchia ”, hội nghị khoa học
Sau khi gia nhập WTO, du lịch Lào đứng trước một thị trường rộng mở hơn với nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt không ít thách thức. Đảng, Nhà nước và Chính phủ Lào đã thấy được vai trò to lớn của việc liên kết trong phát triển du lịch. Các hội nghi trong và ngoài nước đã được tổ chức với sự tham gia Bộ Du lịch Lào như: ngày 4/01/2016 Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF) được tổ chức tại Philippines, các Bộ trưởng Du lịch ASEAN đã công bố Chiến lược phát triển du lịch ASEAN đến năm 2025. Đây là định hướng quan trọng đối với sự phát triển của du lịch ASEAN nói chung và du lịch Lào nói riêng trong bối cảnh Cộng đồng kinh tế ASEAN đã chính thức được thành lập, sự liên kết giữa các nước ASEAN nói chung, du lịch các nước nói riêng ngày càng chặt chẽ. Hội nghị này giới thiệu và phân tích một số đặc điểm nổi bật để phát triển du lịch ở các nước ASEAN, đồng thời đề xuất một số nội dung cần chú trọng nhằm hội nhập du lịch khu vực một cách hiệu quả và bền vững. ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Ngày 19/7/ 2017, tại Cung Văn hóa quốc gia Lào, Thủ đô Viêng Chăn, Tổng cục du lịch Lào kết hợp với Tổng cục Du lịch Việt Nam đã tổ chức hội nghị xúc tiến quảng bá du lịch Lào – Việt Nam. Nhân dịp này, lãnh đạo ngành Du lịch hai quốc gia cùng 80 đại biểu là đại diện các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, lữ hành, khách sạn của Lào, cùng các doanh nghiệp du lịch Việt Nam đã thảo luận các vấn đề về giới thiệu điểm đến, thông tin về vấn đề quản lý và xúc tiến du lịch, giới thiệu và trao đổi thông tin về hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch cũng như khó khăn vướng mắc và biện pháp tháo gỡ để Du lịch hai nước cùng phát triển. Bà Sengsoda Vanthannouvong, Phó Cục trưởng cục Xúc tiến Du lịch, Bộ Thôngtin, Văn hóa và Du lịch Lào giới thiệu về các điểm đến của Lào, chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch, tiềm năng, thế mạnh, điểm đến của du lịch Lào tới các đối tác Việt Nam. Tại hội nghị, Cục trưởng Cục Xúc tiến Du lịch, Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch Lào Sounh Manivong chia sẻ: Lào và Việt Nam có nhiều thế mạnh để cùng hợp tác, phát triển du lịch. Hợp tác du lịch giữa hai nước đã thực hiện từ Hiệp định hợp tác Du lịch năm 1991, từ đó đến nay, hai bên đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi, ưu tiên thủ tục, quảng bá xúc tiến… ở cả cấp cơ quan quản lý nhà nước về Du lịch và cả địa phương, đặc biệt là ở các tỉnh biên giới hai nước. Thông thường, hai bên đều tổ chức các hoạt động carnaval, hội thảo, hội nghị xúc tiến hoặc trao đổi các đoàn du lịch qua nhau. Đặc biệt, những tuyến du lịch kết nối giữa hai nước trong khu vựcnhư Luangprabang với Hà Nội, Luangprabang với TP Hồ Chí Minh cũng được giới thiệu tại hội nghị. Theo đó, với những thuận lợi khi hai hãng hàng không quốc gia Lao Airlines và Vietnam Airlines đều có những chuyến bay thẳng nối các thành phố lớn của Lào như Viêng Chăn, Luangprabang, Pakse tới Hà Nội sẽ có nhiều trải nghiệm thú vị cho du khách. Bên cạnh đó, sự quan tâm của hai Đảng và Nhà nước chính phủ Lào và chính phủ Việt Nam tới các chính sách phát triển du lịch Việt Nam – Lào thời gian gần đây sẽ tạo nhiều thuận lợi để việc liên kết, phát triển du lịch hợp tác giữa Việt Nam với Lào được thuận lợi.
Ngày 21/11/2018, tại tỉnh Luông Pra Băng (Luangprabang), Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lãnh sự quán Việt Nam tại các tỉnh Bắc Lào phối hợp với Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch tỉnh Luông Pra Băng tổ chức Hội nghị Xúc tiến Hợp tác Du lịch giữa các tỉnh Việt Nam và Khu vực Bắc Lào với chủ đề “Hành trình đến với di sản thế giới”. Đây là một trong những hoạt động thiết thực nhằm thúc đẩy giao lưu hợp tác, xúc tiến quảng bá du lịch, kết nối đối tác tổ chức du lịch giữa các tỉnh của Việt Nam và các tỉnh Bắc Lào nói chung, tỉnh Luangprabang nói riêng và ngược lại.
Nhận biết được tình hình thực tế, Luangprabang và Hà Nội là hai thành phố lớn của Lào và Việt Nam, nơi có nhiều di sản văn hóa thế giới. Chính vì vậy, việc liên kết để phát triển du lịch là vấn đề hết sức quan trọng trong việc phát triển ngành du lịch của hai thành phố nói riêng và đất nước Lào và Việt Nam nói chung, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của hai nước.
Trong quá trình tìm hiểu liên quan đến đề tài của mình, tác giả nhận thấy chưa có một công trình khoa học nào của Lào nghiên cứu về vấn đề liên quan đến liên kết phát triển du lịch giữa các tỉnh thành của Láo với các tỉnh thành Việt Nam nói chung, giữa Luangprabang và Việt Nam nói riêng. Như vậy, để hoàn thành công trình nghiên cứu này, trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu về lý thuyết ở Việt Nam, tiếp thu những nghiên cứu đã có về văn hóa du lịch ở Lào, đồng thời với kết quả thu thập trực tiếp tại địa phương sẽ giúp tác giả có được những bài học tốt, góp phần không nhỏ trong việc phát triển du lịch giữa hai thành phố Luangprabang và Hà Nội trong thời gian tới.
Từ thực tế đó, cần có một đề tài tập trung phân tích, tìm hiểu những điều kiện thuận lợi, những kết quả đạt được cũng như nguyên nhân, rào cản làm cản trở việc liên kết phát triển du lịch giữa hai thành phố Luangprabang và Hà Nội, đề xuất được định hướng phù hợp để thúc đẩy liên kết, phát triển du lịch giữa hai thành phố Luangprabang và Hà Nội nói riêng và hai nước Việt Nam – Lào nói chung, góp phần đẩy mạnh quá trình hội nhập với khu vực và thế giới.
1.2. Cơ sở lý luận về liên kết phát triển du lịch ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
1.2.1. Khái niệm
Luận văn sẽ làm rõ ba khái niệm liên quan là liên kết, liên kết vùng và liên kết phát triển du lịch.
Liên kết là sự kết hợp giữa hai hay nhiều thực thể phản ánh sự ràng buộc trong quản lý. Đặc biệt: Một thực thể có thể liên kết với chính nó ta thường gọi là tự liên kết. Giữa hai thực thể có thể có nhiều hơn một liên kết.
Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam thì: “ liên kết là sự gắn kết hai hay nhiều người, địa điểm, sự việc hoặc sự kiện, đặc biệt khi một trong số đó ảnh hưởng hoặc gây ra bởi những cái còn lại”.
Trong kinh doanh, liên kết được hiểu như sự hợp tác giữa các thành phần có chung mục đích, nhằm tối ưu hóa lợi nhuận, phục vụ mục đích kinh doanh ngắn hạn cũng như dài hạn của các bên tham gia. Hiểu một cách đơn giản nhất, liên kết kinh tế là những hình thức phối hợp hoạt động, do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng nhau bàn bạc và đề ra các biện pháp có liên quan đến hoạt động của mình, nhằm thúc đẩy việc kinh doanh theo chiều hướng có lợi nhất. Liên kết kinh tế được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi hoặc thông qua hợp đồng kinh tế, ký kết giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ pháp luật của các nước.
Trong du lịch, liên kết được hiểu như một hình thức hợp tác giữa các địa phương, các doanh nghiệp để kết hợp thế mạnh của từng bên, cùng nhau thực hiện và hỗ trợ nhau trong các hoạt động du lịch như: hợp tác xây dựng quy hoạch, xây dựng sản phẩm du lịch, xúc tiến quảng bá, xây dựng thương hiệu, kêu gọi đầu tư, đào tạo, kiểm tra và giám sát…. với mục đích tạo khả năng đáp ứng tối đa mọi nhu cầu khác nhau của khách du lịch với chi phí thấp nhất.
Vậy, liên kết là sự gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể có mối quan hệ trực tiếp hoạc gián tiếp với nhau vì mục đích có lợi nhất cho các bên tham gia.
Liên kết vùng “là phát triển mối quan hệ giữa không gian kinh tế với không gian tự nhiên, sinh thái, xã hội và không gian chính sách, thể chế để tạo ra lợi thế cạnh tranh động cho vùng, quốc gia, là cơ sở phát triển kinh tế – xã hội bền vững”(1).“Liên kết vùng là thuật ngữ dành cho những khu vực tiếp giáp với nhau, có liên quan và bổ trợ lẫn nhau trong một lĩnh vực nào đó. Sự phân bố và liên kết này giúp việc quản lý dễ dàng và thống nhất hơn. Nhờ đó mà các bộ phận trong liên kế vùng có thể dễ dàng hỗ trợ để đạt được mục tiêu chung hơn so với việc tập trung vào một cá thể duy nhất”(2).“Liên kết kinh tế vùng thực chất là sự liên kết giữa các chủ thể kinh tế khác nhau trong một vùng, dựa trên lợi ích kinh tế là chính, nhằm phát huy lợi thế so sánh, tạo ra tính cạnh tranh kinh tế cao hơn cho một vùng. Các hình thức liên kết kinh tế vùng có thể trên các khía cạnh không gian kinh tế theo lãnh thổ, chuỗi ngành hàng, tổ chức sản xuất. Chủ trương, chính sách phát triển vùng, liên kết vùng không những tạo động lực phát triển kinh tế mà còn giúp các vùng khó khăn thực hiện tốt chức năng bảo tồn tài nguyên, sinh thái, ổn định an ninh, chính trị, xã hội” (3).
Như vậy, liên kết vùng làm tăng khả năng kết nối về mặt không gian kinh tế – tự nhiên và kinh tế – xã hội (KT-XH); tăng hiệu quả quản lý vĩ mô và vi mô của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp; tạo lợi thế so sánh trong cạnh tranh và động lực phát triển để phát triển KT-XH hiệu quả và bền vững.
Liên kết du lịch giữa các địa phương là liên kết không gian du lịch, bao gồm các đối tượng du lịch và các cơ sở phục vụ có liên quan dựa trên việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên du lịch, kết cấu hạ tầng và các nhân tố khác nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội môi trường cao nhất.
Theo Lê Huy Bá, việc xác định mối quan hệ lợi ích giữa các đối tượng du lịch và các cơ sở phục vụ có liên quan là hết sức quan trọng. Từ đó, tìm ra những cách thức hợp tác, để khai thác tối ưu các nguồn lực du lịch, đạt hiệu quả toàn diện về kinh tế, xã hội và môi trường một cách bền vững.
Như vậy, liên kết vùng, tiểu vùng trong phát triển du lịch là sự kết hợp giữa các bên tham gia ( chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng,…) ở các lãnh thổ ( vùng, tiểu vùng) khác nhau, trong việc làm tăng hiệu quả kinh doanh du lịch một cách bền vững.
1.2.2. Các hình thức liên kết phát triển du lịch ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Có thể phân biệt 4 hình thức liên kết phổ biến trong du lịch là liên kết dọc, liên kết ngang, liên kết chức năng và liên kết không gian.
- Liên kết dọc
Liên kết dọc là liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi. Mụ đích giảm chi phí chuỗi, có cùng tiếng nói của những người trong chuỗi, tất cả các thông tin thị trường đều được các tác nhân nắm rõ để sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường.
Trong kinh doanh, liên kết dọc được hiểu là sự liên minh giữa các nhà sản xuất các loại sản phẩm có liên quan với nhau, thông thường là liên kết giữa các nhà sản xuất sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng.
Có nhiều hình thức liên kết dọc:
Sản xuất theo hợp đồng như: mô hình tập trung, mô hình trang trại hạt nhân, mô hình đa chủ thể, mô hình phi chính thức, mô hình trung gian.
Hình thức bao tiêu sản phẩm
Hình thức hội nhập dọc: Doanh nghiệp tự đảm nhận sản xuất và cung ứng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất (hội nhập dọc ngược chiều), hoặc tự giải quyết khâu tiêu thụ của mình ( hội nhập dọc xuôi chiều ).
+ Nhược điểm: Nhưng cũng có khó khăn là sẽ bị phân tán nguồn lực, khó tập trung vào hoạt động chủ yếu tạo giá trị gia tăng cao nhất trong chuỗi giá trị.
Trong liên kết giữa các chủ thể vĩ mô của liên kết vùng trong di lịch, thì liên kết dọc là phân cấp Trung ương, chính quyền địa phương; Bộ với các sở ban ngành; liên kết quản lý ngành và quản lý lãnh thổ theo địa phương.
- Liên kết ngang
Liên kết ngang là liên kết giữa các tác nhân trong cùng một khâu để giảm chi phí, tăng giá bán sản phẩm.Trong kinh doanh, liên két ngang là liên minh của các nhà sản xuất cùng một loại sản phẩm. Liên kết ngang mang lại những lợi thế như:
- Giảm chi phí sản xuất, kinh doanh cho từng thành viên của tổ/nhóm qua đó tăng lợi ích kinh tế cho từng thành viên của tổ/nhóm.
- Tổ/nhóm có thể đảm bảo chất lượng và số lượng cho khách hàng. Tổ/nhóm có thể ký hợp đồng đầu ra, sản xuất quy mô lớn.
- Tổ/nhóm có thể sản xuất, kinh doanh một cách bền vững. ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Mục đích của liên kết ngang thường là hoặc tìm kiếm sự hợp tác của những tổ chức có cùng chức năng để tăng cường công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm hay dịch vụ hoặc thực hiện những hoạt động nhằm tăng cường khả năng bán hàng của các doanh nghiệp.
+ Nhược điểm: Có trở ngại là thiếu sự chủ động ở một số khâu như cung ứng nguyên liệu, sản xuất, kho vận,.. so với liên kết dọc.
Trong liên kết các chủ thể vĩ mô của liên kết vùng trong du lịch, thì liên kết ngang là liên kết các bộ chuyên ngành trong xử lý các vấn đề liên ngành, liên kết giữa các địa phương với nhau.
- Liên kết chức năng
Liên kết chức năng là liên kết giữa các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch như: liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch với nhau, giữa doanh nghiệp du lịch với chính quyền và cộng đồng địa phương, liên kết giữa du lịch và các lĩnh vực khác nhau như giao thông vận tải, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (làng nghề), bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh…liên kết giữa du lịch và phát triển các ngành kinh tế khác nhau, liên kết phát triển du lịch với bảo vệ môi trường, liên kết giữa phát triển du lịch với an sinh xã hội, liên kết giữa du lịch và quốc phòng.
Liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch: Bao gồm các mối liên kết giữa các doanh nghiệp nội tỉnh với nhau và với các doanh nghiệp ngoại tỉnh. Giữa các doanh nghiệp du lịch có thể hợp tác để nối tour, chia sẽ dịch vụ, gửi khách, giới thiệu sản phẩm và mở rộng thị trường,… hỗ trợ nhau đặc biệt trong mùa cao điểm là hết sức cần thiết.
Liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch với chính quyền và cộng đồng địa phương. Chính quyền địa phương là đơn vị tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý và hậu thuẫn nhiều vấn đề trong quá trình doanh nghiệp hoạt động tại địa phương. Doanh nghiệp lại là đơn vị đưa khách du lịch đến với địa phương, tạo điều kiện cho địa phương phát triển kinh tế,quản bá hình ảnh và tạo công ăn việc làm. Vì vậy, doanh nghiệp và chính quyền địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ để liên kết có hiệu quả. Với doanh nghiệp địa phương, các doanh nghiệp cần chú ý đến quyền lợi của họ khi tham gia vào liên kết. Bản thân họ chính là một phần của dịch vụ, vì vậy nếu liên kết cùng có lợi sẽ tạo được mối quan hệ phát triển bền vững, tạo được sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương.
Liên kết giữa du lịch với các lĩnh vực khác như: giao thông vận tải, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,… là mối quan hệ hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của ngành. Du lịch vốn là ngành kinh tế tổng hợp, liên quan đến nhiều ngành nghề khác nhau. Liên kết với giao thông để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình vận chuyển du khách và hàng hóa. Liên kết với nông nghiệp để có thực phẩm sạch, an toàn và cả sản phẩm du lịch nông nghiệp. Với tiểu thụ công nghiệp để có những mặt hàng phục vụ du lịch,… Ngược lại, du lịch cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành liên quan, tăng doanh thu cho kinh tế địa phương.
- Liên kết không gian
Liên kết không gian là liên kết giữa các lãnh thổ. Bản chất của kiểu liên kết này là liên kết giữa chính quyền các địa phương. Liên kết không gian bao gồm: liên kết liền kề, liên kết phi liền kề, liên kết tiểu vùng và liên kết vùng.
Liên kết liền kề: liên kết giữa các địa phương liền kề nhau về mặt lãnh thổ
Liên kết phi liền kề: liên kết giữa các địa phương không liền kề nhau về mặt lãnh thổ, có thể gần và cách xa nhau tùy theo mục đích liên kết.
Liên kết tiểu vùng: liên kết những địa phương liền kề với nhau, có chung những đặc điểm về địa lý, kinh tế,… của vùng đó.
Liên kết Vùng: là liên kết những khu vực tiếp giáp với nhau, có liên quan và bổ trợ lẫn nhau trong một lĩnh vực nào đó.
Sự phân bố và liên kết này giúp việc quản lý trở nên dễ dàng và thống nhất hơn. Nhờ đó, mà các bộ phận trong liên kết vùng có thể dễ dàng hổ trợ, để đạt được mục tiêu chung hơn so với việc tập trung vào một cá thể duy nhất.
1.2.3. Vai trò và ý nghĩa liên kết phát triển du lịch ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển nhảy vọt của khoa học, công nghệ, kỹ thuật đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa. Liên kết trở thành một đòi hỏi bức thiết để tăng cường sức mạnh cạnh tranh của các thành phần tham gia.
Thúc đẩy du lịch địa phương và vùng phát triển
Về bản chất, liên kết kinh tế chính là hình thức hợp tác và phối hợp của các doanh nghiệp với nhau để thực hiện những biện pháp nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều hướng có lợi chocác doanh nghiệp. Thông qua việc tận dụng tiềm năng hoặc những điểm mạnh của các bên tham gia, các hoạt động liên kết được thực thi nhằm phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu giữa các doanh nghiệp.
Mặt khác, du lịch lại là một ngành kinh tế tổng hợp. Vì vậy, việc liên kết giữa các đơn vị cung ứng du lịch và đơn vị liên quan càng trở nên cần thiết. Khi các bên tham gia vào hoạt động liên kết sẽ giúp hoạt động du lịch được liên tục và nhịp nhàng. Hoạt động du lịch ở các địa phương sẽ được bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau giúp tận dụng những lợi thế của từng vùng, giảm chi phí đầu tư và tăng hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt, các cực tăng trưởng sẽ thúc đẩy du lịch vùng phụ cận phát triển và du lịch toàn vùng phát triển.
Phát triển du lịch một cách bền vững
Khi hoạt động liên kết được tiến hành có hiệu quả, từng bên tham gia sẽ có ý thức cùng đóng góp để xây dựng. Vì chỉ một động tác nhỏ của mỗi bên tham gia sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động du lịch chung của cả vùng. Nên bên cạnh những quyền lợi, các bên tham gia sẽ có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ giá trị liên kết của mình. Từ chính sách giá, xây dựng sản phẩm đặc thù, hỗ trợ đào tạo, trao đổi nhân sự đến các vấn đề về môi trường, y tế,… đều được quan tâm.Những hoạt động tích cực đó sẽ giúp cho hoạt động du lịch phát triển một cách bền vững.
Việc liên kết phát triển du lịch cũng mang nhiều ý nghĩa không thể phủ nhận. Thứ nhất, phát huy hết khả năng nguồn lực từ con người tới tài nguyên vào hoạt động phát triển du lịch.. Thứ hai, ngành du lịch cạnh tranh với các nước trong khu vực; các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với các doanh nghiệp du lịch nước ngoài. Thứ ba, chia sẽ và đóng góp trách nhiệm đối với xã hội là một trong những mục tiêu chiến lược mà bất kì doanh nghiệp nào cũng hướng tới. Thứ tư, kéo dài thời gian lưu lại của khách, tăng thêm nguồn thu cho doanh nghiệp và cho ngành du lịch. Thứ năm, giúp các doanh nghiệp du lịch tiết kiệm chi phí “ sản xuất” sản phẩm, dịch vụ.
1.2.4. Một số nội dung liên kết phát triển du lịch ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
- Liên kết phát triển chuỗi sản phẩm du lịch
Sản phẩm, dịch vụ chính là yếu tố sống còn của hoạt động kinh doanh du lịch. Muốn có hoạt động liên kết phát triển du lịch thì không thể tập trung vào nội dung liên kết để tạo chuỗi sản phẩm du lịch cho vùng liên kết.
Nội dung
Nội dung của liên kết phát triển chuỗi sản phẩm du lịch bao gồm những hoạt động nhằm mục đích tạo ra chuỗi những sản phẩm du lịch chung của vùng liên kết. Có thể là mối quan hệ song phương hoặc đa phương thì liên kết phát triển chuỗi sản phẩm du lịch cũng liên quan đến một số nội dung sau:
Tạo thành chuỗi sản phẩm chung cho toàn vùng. Du lịch mang đậm nét đặc trưng của ngành dịch vụ với tập hợp của nhiều phân ngành dịch vụ khác nhau, gồm cả hữu hình và vô hình. Bên cạnh những yếu tố cố lõi như tài nguyên du lịch, cơ sở lưu trú và các hãng lữ hành, thì sản phẩm du lịch còn bao gồm: nhà hàng, khu vui chơi giải trí, Casino, trung tâm mua sắm, các hãng hàng không, tàu biển, tàu hỏa, xe buýt, dịch vụ thuê xe, dịch vụ ngân hàng, các điểm thu đổi ngoại tệ, trạm bán xăng dầu, bệnh viện, phòng khám, dịch vụ vui chơi thể thao, trung tâm hội nghị, truyền hình, đài phát thanh, dịch vụ bảo hiểm, các cơ sở giáo dục và đào tạo…Mỗi mắt xích trong chuỗi sản phẩm này tương ứng với một loại kinh doanh dịch vụ. Chúng hoạt động theo nguyên tắc vừa độc lập, vừa gắn kết với nhau và cùng điều chỉnh để hướng tới hình thành nên một sản phẩm dịch vụ chung, đạt chất lượng hài hòa, đáp ứng và thõa mãn nhu cầu của du khách.
Tuy nhiên trên thực tế, do quy mô tổ chức và mục tiêu kinh doanh của mỗi loại hình dịch vụ tồn tại sự khác biệt, chất lượng dịch vụ không đồng đều. Do vậy, sản phẩm đầu cuối hầu như chưa đạt tới chuẩn mực chung. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng nhằm thõa mản nhu cầu của khách. Vì vậy, mỗi địa phương đều là thành phần trong chuỗi này, phải gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của từng địa phương để xây dựng chuỗi sản phẩm du lịch có hiệu quả cao. Một chuỗi sản phẩm tốt đòi hỏi mỗi khâu, giai đoạn, thành phần của chuỗi phải tốt. Đòi hỏi sự thống nhất liên hoàn và chuyên nghiệp mà liên kết du lịch sẽ giúp các địa phương làm được điều đó.
Mỗi tỉnh phải có sản phẩm dị biệt, phải định vị được sản phẩm của tỉnh mình. Những sản phẩm đặc trưng của từng tỉnh chính là điểm nhấn tạo ra chuỗi sản phẩm đa dạng và hấp dẫn. Tránh sự nhàm chán, đơn điệu và na ná giống nhau ở các địa phương. Mỗi địa phương có một nét đặc trưng về văn hóa nên sẽ tạo ra những sản phẩm riêng biệt để đa dạng hóa sản phẩm vùng liên kết. Trong quá trình xây dựng sản phẩm, việc đầu tư nghiên cứu thiết kế các chương trình du lịch hấp dẫn mang tính sáng tạo là vô cùng cần thiết. Tính hấp dẫn của một sản phẩm du lịch cùng loại có thể xem được nhiều góc độ. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tính khác biệt của sản phẩm là yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu với quyết định chọn sản phẩm của khách du lịch cho dù giá sản phẩm có giá cao hơn.
Tính cạnh tranh, thu hút khách của một điểm đến phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản bao gồm: mức độ hấp dẫn dựa trên tính khác biệt của sản phẩm du lịch so với những điểm đến khác; tình trạng môi trường (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội); sự thuận lợi trong tiếp cận điểm đến (thủ tục ra vào, phương tiện); và hình ảnh, thông tin về điểm đến. Tính khác biệt của sản phẩm du lịch có thể tạo được tạo ra bởi sự khác biệt về chất lượng (đối với những sản phẩm du lịch cùng loại), song thường được thể hiện trong những sản phẩm du lịch đặc thù. ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Trong trường hợp sự phân bố tài nguyên du lịch dựa trên đó để phát triển sản phẩm du lịch đặc thù nằm trên lãnh thổ của một địa phương. Tuy nhiên, nếu tính độc đáo/duy nhất, tính nguyên bản và đại diện của tài nguyên du lịch mà dựa trên đó để phát triển du lịch đặc thù vượt ra khỏi qui mô địa phương thì sản phẩm du lịch đặc thù trong trường hợp này sẽ được xem là của cấp vùng, cấp quốc gia, thậm chí cấp khu vực. Ví dụ, tham quan trải nghiệm giá trị cảnh quan sinh thái hồ Ba Bểcó thể được xem là sản phẩm du lịch đặc thù cấp địa phương tỉnh Bắc Kạn, song cũng có thể coi đó là sản phẩm đặc thù cấp vùng và cấp quốc gia bởi hồ Ba Bể là hồ tự nhiên trên núi đá vôi duy nhất ở Việt Nam.
Trong trường hợp sự phân bố tài nguyên du lịch dựa trên đó để phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của vùng hoặc quốc gia. Ví dụ, tham quan trải nghiệm giá trị cảnh quan di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long được xem là sản phẩm du lịch đặc thù của vùng duyên hải Đông Bắc và của quốc gia vì giá trị cảnh quan của di sản nằm trên lảnh thổ Quảng Ninh và Hải Phòng, là duy nhất ở vùng nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch trong liên kết. Chất lượng sản phẩm du lịch trong liên kết đòi hỏi các bên tham gia phải hiểu nhau, không chỉ nhìn vào lợi ích của riêng địa phương mình, mà cần nhìn vào lợi ích chung của toàn vùng, để hỗ trợ nhau, quảng bá hình ảnh của nhau và cả vùng liên kết. Để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch cần tạo sự đồng bộ trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch. Không chỉ tăng cường mạng lưới tour, tuyến điểm du lịch mà công tác tuyên truyền quản bá, xây dựng thương hiệu, xúc tiến mở rộng thị trường mới, củng cố các thị trường tiềm năng, thường xuyên đổi mới chất lượng dịch vụ… cũng cần phải được quan tâm. Khi liên kết phát triển du lịch của vùng, bản thân mỗi địa phương cũng tự nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch của họ, để thích hợp với sản phẩm du lịch của toàn vùng. Điều đó, cũng góp phần làm nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch toàn vùng.
Đổi mới sản phẩm du lịch. Dịch vụ chỉ có thể nhận thức được bằng tư duy hay giác quan, chứ không thể “sờ mó” sản phẩm dịch vụ được, dịch vụ cũng không thể đo lường được bằng các phương pháp đo lường thông thường về thể tích, trọng lượng. Khách du lịch không biết trước tác động của những dịch vụ được cung cấp trước khi chúng được cung ứng và tiếp nhận.
Mời bạn tham khảo thêm:
Một hình thức tồn tại đặc biệt của dịch vụ ngày càng phổ biến đó là thông tin. Đặc biệt, trong những ngành dịch vụ mang tính hiện đại như: tư vấn, pháp lý, dịch vụ nghe nhìn, viễn thông, máy tính… quá trình sản xuất và tiêu thụ gắn với các hoạt động dịch vụ này có thể diễn ra không đồng thời như thường thấy ở những dịch vụ thông thường khác như: phân phối, y tế, vận tải hay du lịch… mà vốn đòi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp giữa người cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng. Sản phẩm du lịch thường là một kinh nghiệm nên rất dễ dàng bị sao chép, bắt trước và việc làm khác biệt hóa sản phẩm mang tính cạnh tranh, khó khăn hơn kinh doanh hàng hóa.
Liên kết phát triển du lịch mục đích nâng cao tính cạnh trang và phát triển bền vững. Vì vậy, sản phẩm du lịch phải luôn được đổi mới. Khi liên kết việc đổi mới sản phẩm sẽ thuận lợi hơn dựa vào tài nguyên, nguồn lực, tài chính,.. dồi dào hơn. Các sự kiện có thể luân phiên tổ chức. Các tour tuyến có thể thay đổi linh hoạt, theo từng thời điểm du lịch. Các đối tượng khách du lịch cũng đa dạng hơn. Chính điều đó sẽ làm mới sản phẩm du lịch dễ dàng hơn khi chưa liên kết.
Ý nghĩa ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Tạo ra lợi thế cạnh tranh. Vì khi liên kết, sẽ kết hợp được những yếu tố đặc trưng của sản phẩm du lịch của các địa phương. Từ đó, tạo ra sản phẩm độc đáo, đa dạng và hấp dẫn với chi phí thấp hơn, chu kỳ sống của sản phẩm sẽ dài hơn nên mức độ cạnh tranh cao hơn.
Thu hút khách du lịch đến và quay trở lại. Du khách sẽ không quay trở lại nếu lần nào đi du lịch và đi đến đâu cũng một loại sản phẩm và dịch vụ tạo cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Nhưng lợi thế của liên kết chuỗi sản phẩm sẽ làm đa dạng sản phẩm, sản phẩm cũng có tính linh hoạt cao sẽ tạo cho du khách những cảm giác mới lạ, không đâu có, không lần nào giống lần nào. Vì thế, họ sẽ sẵn sàng quay trở lại khi có điều kiện, vì họ sẽ được trãi nghiệm mới lạ.
Tăng doanh thu du lịch. Khi liên kết chuỗi sản phẩm dịch vụ, thu hút được du khách và các nhà đầu tư cũng như doanh nghiệp du lịch, làm cho ngành du lịch vùng liên kết phát triển. Đồng nghĩa với việc doanh thu từ du lịch và ngành liên quan đến du lịch cũng sẽ tăng theo.
Tạo mối quan hệ ràng buộc vào quyền lợi chung. Mỗi địa phương đều có quyền lợi và trách nhiệm với chuỗi sản phẩm dịch vụ của vùng. Do đó, vô hình chung tạo ra sợi dây gắn kết các địa phương phải có trách nhiệm quan tâm và thúc đẩy sự phát triển của sản phẩm, dịch vụ. Các mối quan hệ giữa các địa phương sẽ ràng buộc với nhau để đảm bảo quyền lợi chung đó được đảm bảo.
Phát triển lâu dài, ổn định. Khi liên kết phát triển du lịch, sản phẩm, dịch vụ được đầu tư bài bản, có hoạch định chiến lược ngắn hạn, dài hạn, có chương trình cụ thể và được tính toán theo từng giai đoạn. Sản phẩm, dịch vụ được xây dựng là kết quả của sự hợp tác của nhiều địa phương, do đó sự phát triển du lịch toàn vùng sẽ có sự thống nhất, chia sẽ ổn định lâu dài.
Tiết kiệm chi phí. Sản phẩm, dịch vụ của toàn vùng là kết quả đầu tư của các địa phương trong vùng, đo dó có sự chia sẽ và hợp tác đầu tư, tránh lãng phí khi đầu tư chồng chéo, riêng lẻ. Hoạt động xúc tiến quảng bá cũng là hoạt động chung, do đó có thể luân phiên tổ chức ở từng địa phương nhưng hiệu quả cho toàn vùng. Khi đó, kinh phí đầu tư xúc tiến quảng bá cũng giảm đáng kể. Chi phí đào tạo, quản lý cũng được san sẻ cho các địa phương, vì liên kết có thể trao đổi nhân lực, luân chuyển công tác hay quản lý chung cả vùng, hay đào tạo chéo giữa các địa phương…. Tất cả những chi phí liên quan đến chuỗi sản phẩm của vùng đều được giảm đi khi liên kết.
- Liên kết xúc tiến quảng bá du lịch
Hoạt động liên kết xúc tiến quảng bá du lịch, được coi là một nhân tố quan trọng. Thông qua các chương trình xúc tiến, quảng bá, đã tạo điều kiện cho du khách tìm hiểu về đất nước và con người họ muốn đến du lịch.
Nội dung
Liên kết xúc tiến quảng bá du lịch là một trong những việc cần làm đầu tiên của bất cứ hoạt động liên kết phát triển du lịch nào. Nội dung của hoạt động này nhấn mạnh đến việc:
Tạo hình ảnh chung cho toàn vùng. Một khi đã liên kết thì hình ảnh của mỗi địa phương được lồng ghép trong hình ảnh của cả vùng. Mỗi địa phương đều phải có trách nhiệm xây dựng hình ảnh cung cho toàn vùng. Hình ảnh chung sẽ là cái chung nhất của toàn vùng mà địa phương nào cũng có. Vì vậy, khi nhắc đến hình ảnh của mỗi địa phương cũng là nói đến hình ảnh của cả vùng và ngược lại.
Phát triển thương hiệu cho toàn vùng. Liên kết xúc tiến quảng bá du lịch để tạo nên thương hiệu chung cho toàn vùng. Tại mỗi nơi có hoạt động xúc tiến quảng bá của địa phương hay của vùng, thương hiệu của vùng sẽ được lồng ghép và đẩy mạnh để đạt được vị trí nhất định trong mỗi lần du khách.
Bản chất của việc xây dựng thương hiệu du lịch là việc chuyển tải có chủ đích, một bản sắc riêng thành một hình ảnh trong tâm trí khách du lịch. Thương hiệu điểm đến giúp nhận ra những đặc điểm nổi bật của sản phẩm du lịch của điểm đến. Thương hiệu du lịch không chỉ là những yếu tố hữu hình như: khẩu hiệu, quảng cáo, logo, trang web; mà còn bao gồm các yếu tố vô hình như: thông tin quảng cáo, quan hệ công chúng và marketing trực tiếp, các sự kiện đặc biệt, chiến lược bán và thực hiện sản phẩm và dịch vụ/du lịch. Thương hiệu luôn luôn là hỗn hợp của tất cả các yếu tố này trong mối liên kết chặt chẽ với nhau. ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Tạo dựng thương hiệu là sự phối kết hợp tất cả sản phẩm và dịch vụ của các ngành nghề khác nhau như: nông nghiệp, du lịch, thể thao, nghệ thuật đầu tư công nghệ, giáo dục… liên quan đến điểm đến du lịch. Mục tiêu là nắm được bản chất của điểm đến trong một thể thống nhất. Hơn nữa thương hiệu được sử dụng đê chảo bán những giá trị độc đáo này tới khách du lịch tiềm năng. Để thành công, thương hiệu điểm đến cần phải đọc đáo và khác biệt. Nếu một nước, một khu vực hoặc một điểm du lịch liên quan khác có sản phẩm tương tự rồi thì sức mạnh của thương hiệu nhanh chong biến mất. Vì vậy, luôn phải chú ý đến đối thủ cạnh tranh, nâng cao vị thế của họ như thế nào để xây dựng thương hiệu cho phù hợp.
- Xây dựng logo chung cho toàn vùng. Logo là sản phẩm trực quan, bao gồm hình ảnh hoặc chữ hoặc là sự kết hợp cả hình ảnh và chữ để giúp nhận dạng thương hiệu.
Logo chung cho toàn vùng sẽ là cái đặc trưng của vùng, dễ nhớ, dễ hiểu, bắt mắt khiến khách hàng nhớ đến vùng du lịch. Logo như bộ mặt của vùng du lịch. Trên thực tế, khi có một logo dễ nhớ , ấn tượng thì chắc chắn sẽ được phổ biến hơn đối với mọi người và toản xã hội… và đó là trách nhiệm chung của từng địa phương trong vùng. Mỗi địa phương cùng đóng góp ý tưởng để xây dựng logo chung, làm tăng lợi thế cạnh tranh, thể hiện được tầm nhìn của toàn vùng và sức mạnh của thương hiệu vùng. Vì vậy, logo phải tạo ra sự chuyên nghiệp, để khách hàng có thể “chọn mặt gửi vàng”. Logo của toàn vùng phải thể hiện được tầm nhìn chiến lược của vùng để khách hàng tin tưởng. Làm được điều đó thì có thể tạo ra sức mạnh cho toàn vùng.
Slogan chung cho toàn vùng:Slogan là phương thức truyền tải thông điệp tốt nhất. Slogan đáp ứng được các tiêu chí: dễ nhớ, dễ thuộc, có tính mô tả, giàu hình dung, linh hoạt, không bị giới hạn bởi biên giới địa lý hay nền văn hóa, áp dụng được cho các sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp, ngành…. sẽ in sâu vào trí nhớ của khách hàng. Vì vậy, khi liên kết cùng phát triển thì việc tạo ra một Slogan chung cho toàn vùng có ý nghĩa quan trọng để tạo ra một nét riêng khác biệt mà mỗi du khách sẽ nhớ đến khi nhắc đến vùng du lịch đó.
Lập và điều hành trang web chung cho du lịch toàn vùng, có kết nối trang web du lịch các tỉnh.với sự bùng nổ của khoa học công nghệ thì việc lập một trang web chung cho du lịch toàn vùng là điều cần thiết. Bởi khi trang web chung được thành lập có kết nối với trang web chung của các tỉnh thì thông tin luôn được cập nhật và thống nhất. Khách du lịch cũng dễ dàng có những thông tin cần thiết về các tỉnh trong vùng và hoạt động du lịch của vùng. Đồng thời lượng người truy cập mới sẽ tăng do sự kết nối giữa các website với nhau. Trang web, sẽ cung cấp đầy đủ thông tin về du lịch của 03 địa phương như: Tour du lịch, khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ khác (cung cấp thông tin, tìm kiếm dịch vụ,quy trình đặt dịch vụ, quản lý dịch vụ ..). Tuy nhiên việc lập và điều hành trang web chung cho du lịch toàn vùng cần sự kết hợp chặt chẽ và thường xuyên, liên tục. Đòi hỏi sự trách nhiệm của từng thành viên tham gia và vai trò điều hành website chung cho du lịch toàn vùng.
Cùng điều tra và nghiên cứu nhu cầu thị trường. Khi tham gia liên kết phát triển du lịch các bên tham gia đều có lợi ích chung. Việc hợp tác, trao đổi, nghiên cứu nhu cầu thị trường sao cho hoạt động đạt được hiệu quả cũng là trách nhiệm của các bên tham gia. Nghiên cứu nhu cầu thị trường bao gồm: việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý, văn hóa, sở thích, nhu cầu, khả năng thu nhập, xu hướng đi du lịch, điểm đến, sản phẩm du lịch yêu thích. của khách du lịch. Việc cùng nhau điều tra , nghiên cứu nhu cầu của thị trướng sẽ giúp tránh lãng phí (vì chồng chéo) nhưng cũng sẽ đầy đủ và hiệu quả cao hơn khi cùng điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường như: việc nghiên cứu đặc điểm và phân đoạn thị trường; lên kế hoạch xúc tiến (gồm nội dung và hình thức); triển khai thực hiện kế hoạch xúc tiến; đánh giá hiệu quả xúc tiến.. Đồng thời số lượng điều tra sẽ lớn hơn, thời gian sẽ nhanh hơn, chương trình xúc tiến sẽ thống nhất hơn, đặc sắc hơn. Từ đó có những hoạt động xúc tiến quảng bá hiệu quả và nhiều người biết đến.
Ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý. Ngành công nghiệp du lịch có thể được xem như là một trong những lĩnh vực kinh doanh đầu tiên sử dụng công nghệ thông tin truyền thông cho mục đích phát triển và quản bá du lịch. Internet cho phép khách du lịch tìm hiểu về và thu nhập thông tin về các địa điểm du lịch nội địa và quốc tế. Bên cạnh đó các ứng dụng này cũng giúp các công ty du lịch tìm hiểu về xu hướng du lịch của người dùng. Điều này góp phần tăng cường mối liên kết toàn cầu cũng như thúc đẩy sự sát nhập du lịch trên toàn thế giới. Tuy nhiên, việc ứng dụng vào khoa học công nghệ vào quản lý sẽ dễ dàng hơn khi các đơn vị hợp tác, liên kết, chia sẽ với nhau thông tin, hình ảnh sự kiện, diễn đàn… cùng nhau đầu tư xây dựng một hệ thống thông tin quản lý chính xác và hệ thống cho cả vùng. Đặc biệt là với hoạt động xúc tiến quảng bá công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan trọng. Khi liên kết để đưa khoa học công nghệ áp dụng vào quản lý xúc tiến, quảng bá sẽ tạo hiệu suất theo cấp số nhân. Giảm chi phí quản lý và quản lý thống nhất thì hoạt động du lịch sẽ hiệu quả.
Quảng bá sản phẩm du lịch của vùng. Khi liên kết từng địa phương sẽ đẩy mạnh công tác xúc tiến quảng bá sản phẩm của mình từ việc xác định sản phẩm đặc trưng của tỉnh,thành phố. Vì vậy, sẽ tạo ra được các gói sản phẩm đa dạng, hấp dẫn mà vẫn mang dáng dấp của vùng du lịch liên kết. Căn cứ vào đó, xây dựng quảng bá sản phẩmdu lịch đặc trưng của các gói sản phẩm mẫu để lấy đó làm nội dung xúc tiến quảng bá thu hút thị trường của vùng. Khi có sản phẩm du lịch của vùng, từng địa phương sẽ cùng xúc tiến, quảng bá cho sản phẩm của vùng trong đó có sản phẩm du lịch của ở địa phương mình. Như vậy, sản phẩm của địa phương sẽ được nhiều người biết đến trên nhiều kênh thông tin, tiếp cận nhiều đối tượng khách du lịch hơn và sản phẩm của vùng có sự khác biệt giữa các vùng và hấp dẫn hơn. ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Ý nghĩa
Tiết kiệm chi phí. Liên kết thường đem lại lợi thế khi chia sẽ mạng lưới phân phối, các chi phi marketing. Bởi khi cùng chung mục đích, chung thị trường, chung sản phẩm du lịch…các thành phần tham gia vào liên kết sẽ cùng xúc tiến quảng bá sẽ làm giảm chi phi đầu tư và thực hiện chương trình xúc tiến. Chủ động trong xây dựng kế hoạch, quảng bá, giới thiệu, qua đó giúp tiết giảm chi phí cho mỗi địa phương nhưng vẫn làm cho sản phẩm mang tính liên vùng. Nhờ quảng bá chung nên các tỉnh sẽ tạo hiệu quả trong công tác quảng bá, xúc tiến, đồng thời tiết kiệm được chi phí.
Hiệu quả dài hơn. Nếu như chưa liên kết, các địa phương hoạt động độc lập, tính cạnh tranh cao hơn thì khi liên kết tất cả vừa cạnh tranh nhưng cũng vừa hỗ trợ nhau để tạo hiệu quả chung của vùng. Cũng bởi thế hiệu quả sẽ dài hạn và bền vững hơn khi chưa liên kết. Đặc biệt là hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch vùng sẽ được đầu tư bài bản, xoay vòng và luân phiên. Như vậy, một chương trình xúc tiến quảng bá sẽ có đơn vị chủ trì và nhiều đơn vị hỗ trợ hiệu quả sẽ cao và bền vững.
Định vị được hình ảnh của vùng. Định vị là việc tạo thế riêng biệt của thương hiệu trong môi trường cạnh tranh, đảm bảo khách hàng mục tiêu có thể phân biệt rõ thương hiệu với các thương hiệu cạnh tranh khác. Việc có được vi trí nhất định trong thị trường giúp phát triển đúng đắn và thuận lợi trong dài hạn, xác định rõ được phương hướng phát triển sản phẩm, kế hoạch xúc tiến quảng bá có cơ sở, tập trung và tránh lãng phí. Như vậy, vùng liên kết sẽ xác định thị trường là ai, cần truyền tải và quản lý thông tin thế nào là hiệu quả nhất, nội dung thông tin là gì cho sản phẩm du lịch của vùng. Sự linh hoạt trong quá trình định vị, phù hợp với từng bối cảnh và xu hướng thay đổi của thị trường , tính cạnh tranh bởi thị trường liên tục biến đổi do sự tác động của kinh tế, chính trị xã hội, công nghệ… Vì vậy, công tác quản lý các giá trị thương hiệu, đặc biệt với đặc điểm du lịch là lĩnh vực mang tính tổng hợp và các yếu tố giá trị thương hiệu nằm trong cả cộng đồng và xã hội.
Bổ trợ yếu điểm cho mỗi địa phương. Du lịch không mang tính địa phương mà theo vùng miền, liên tỉnh, liên quốc gia. Bản thân mỗi địa phương dù có mạnh đến đâu cũng không thể làm tốt bằng sự hợp tác của nhiều địa phương khác. Bên cạnh đó, nhiều địa phương cùng xúc tiến, quảng bá có khi còn chồng chéo hoạt động xúc tiến cũng rât đa dạng nên khi liên kết mỗi địa phương có thể phát huy thế mạnh của mình, vì điểm yếu của địa phương mình có khi là điểm yếu của địa phương khác. Do vậy, khi liên kết xúc tiến quảng bá yếu điểm của từng địa phương sẽ được bổ trợ bằng hoạt động xúc tiến, quảng bá của địa phương khác hoặc vùng liên kết.
Liên kết đào tạo, phát triển nhân lực: Hiện nay, du lịch Việt Nam và Lào đang có sự tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng khách du lịch quốc tế và trong nước, yêu cầu cấp bách đặt ra cho ngành du lịch là phải chuẩn bị nguồn nhân lực đủ về số lượng, đạt chuẩn về chất lượng, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Thực tế trên đòi hỏi một sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp du lịch, các cơ quan quản lý, cộng đồng. với cơ sở đào tạo du lịch.
Liên kết giữa các cơ sở đào tạo nhân lực du lịch: Theo loại hình sở hữu có cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài; hình thức đào tạo chính quy và không chính quy, các hệ ngắn hạn và dài hạn. Mạng lưới đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch hiện gồm các trường, trung tâm đào tạo của doanh nghiệp của các địa phương và của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Trường bồi dưỡng cán bộ quản lý văn hóa – thể thao và du lịch đảm nhiệm đào tạo lại, bồi dưỡng công chức, viên chức ngành du lịch. Hầu hết, các tỉnh và thành phố đều có trung tâm chuyên đào tạo, bồi dưỡng nghề du lịch ngắn hạn hoặc trung tâm đào tạo đa ngành nghề tham gia đào tạo, bồi dưỡng du lịch,
Nội dung liên kết: trao đổi chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ giảng viên qua các lớp ngắn hạn và dài hạn, liên kết mở các lớp đào tạo các hệ… ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Liên kết giữa các đơn vị sử dụng nhân lực du lịch
Nội dung liên kết chủ yếu là trao đổi, học tập kinh nghiệm;đào tạo chéo; đào tạo ngắn hạn,… muốn nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh tế của doanh nghiệp thì phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đơn vị. Vì vậy, vai trò của công tác đào tạo và tầm quan trọng của việc liên kết đào tạo giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp là hết sức cần thiết.
Liên kết thông qua hiệp hội du lịch, khách sạn và các chị hội nghề nghiệp
Hiệp hội du lịch, Hiệp hội khách sạn và các chị hội nghề nghiệp được coi là cầu nối tạo sự liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch trong và ngoài vùng hay với doanh nghiệp nước ngoài.
Nội dung liên kết: Phối hợp tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn và dài hạn nhằm tạo cơ hội cho lao động du lịch giao lưu, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm; có thể chia sẽ sự thiếu hụt lao động ở những lúc cao điểm. Cùng với cơ quan, ban ngành quản lý du lịch với các đơn vị đào tạo nghề du lịch và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch tạo mối liên kết chặt chẽ trong nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
Con người là yếu tố sông còn của du lịch nên đào tạo nhan lực có ý nghĩa rất quan trọng. Liên kết đào tạo được xem như là yếu tố cơ bản đáp ứng mục tiêu chiến lược của mỗi địa phương. Chất lượng nhân lực trở thành một trong những lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của hoạt động kinh doanh du lịch. Liên kết đào tạo nguồn nhân lực sẽ tiết kiệm được chi phí đào tạo và chủ động trong luân chuyển và hỗ trợ nhau trong những thời điểm nhất định
Việc liên kết đào tạo, hỗ trợ và bồi dưỡng nghiệp vụ lẫn nhau giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp có một vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và dịch vụ du lịch. Đồng thời, đem lại lợi ích nhiều mặt cho cơ sở đào tạo doanh nghiệp, học sinh – sinh viên và xã hội. Để có thể phát triển một cách tích cực nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành là điều hết sức quan trọng và cần thiết khi mà nền kinh tế tri thức đang có những đòi hỏi đối với sự đổi mới. Làm tốt công tác đào tạo có thể khẳng định vị thế và năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam và Lào trong tình hình mới.
- Liên kết trong vận chuyển khách du lịch
Để liên kết phát triển du lịch trong vùng thực sự hiệu quả thì cải thiện dịch vụ đi lại để phục vụ khách du lịch là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. Kết nối vùng trước hết là kết nối giao thông. Trở thành vùng kết nối được hay không mấu chốt là lưu thông giữa các tỉnh, thành phố xuyên suốt và tiết kiệm thời gian. Các dự án phải dựa trên lợi ích của vùng. Một trong những rào cản lớn nhất gây khó khăn cho việc liên kết của vùng đó là hạ tầng giao thông yếu kém đồng bộ.
+ Liên kết giao thông đường bộ trong việc vận chuyển khách du lịch ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Đây là hình thức giao thông du lịch chủ yếu và quan trọng nhất trên thế giới. Liên kết giao thông đường bộ phục vụ du lịch nhằm hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của từng địa phương, khớp nối với giao thông đường bộ liên tỉnh và quốc tế. Tạo điều kiện để giao thông đường bộ được thông suốt, dịch vụ đồng bộ, kết nối với các điểm du lịch thuận lợi, công trình đầy đủ và hợp lý. Từ đó, tạo điều kiện cho phát triển du lịch của từng địa phương cũng như các tỉnh trong vùng, trên cả nước và quốc tế.
+ Liên kết giao thông đường thủy trong việc vận chuyển khách du lịch
Liên kết giao thông đường thủy phục vụ du lịch bao gồm việc kết nối các công trình đường thủy như: bến tàu, bến cảng, các công việc vận chuyển khách du lịch bằng tàu thuyền được thuận lợi, các thủ tục xuất nhập cảnh nhanh chóng được thuận lợi,… các dịch vụ đồng bộ và có tính hỗ trợ nhằm tạo điều kiên cho hoạt động giao thông đường thủy thông suốt, kết nối được với các điểm du lịch, thúc đẩy hoạt động kinh doanh du lịch hoạt động hiệu quả.
+ Liên kết giao thông đường sắt trong việc vận chuyển khách du lịch
Liên kết giao thông đường sắt trong việc vận chuyển khách du lịch bao gồm việc liên kết đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng đường sắt (nhà ga, sân ga, đường tàu..) các dịch vụ đường sắt trên các tuyến thuận tiện, nhanh chóng, kết nối vận chuyển khách du lịch đến các địa điểm du lịch được dễ dàng.
+ Liên kết giao thông bằng đường Hàng không trong việc vận chuyển khách du lịch
Liên kết giao thông bằng đường Hàng không trong việc vận chuyển khách du lịch là việc hơp tác vận chuyển khách du lịch bằng đường hàng không đến các địa phương liên kết. Mở các đường bay có kết nối nguồn khách của các địa phương trong vùng liên kết. Nghiên cứu xây dựng các loại dịch vụ bay phục vụ phát triển du lịch các địa phương liên kết
Hạ tầng giao thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bảo đảm sự thông suốt toàn bộ nền kinh tế quốc gia, cũng như vùng và địa phương. Không thể phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế xã hội của vùng và mỗi địa phương nói chung nếu không có cơ sở hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại và có tính kết nối cao. Bên cạnh các yếu tố quy hoạch, thể chế vùng, hạ tầng giao thông vùng đóng vai trò quyết định sự hình thành, phát triển và nâng cao hiệu quả của các liên kết.
Hạ tầng giao thông tố giúp thúc đẩy liên kết và hợp tác chặt chẽ trong vùng, kết nối thị trường vùng và liên vùng với thị trường quốc gia và quốc tế. Khai thác và hiện thực hóa các tiềm năng kinh tế của địa phương. Từ đó, nâng cao hiệu quả đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh,…
- Nội dung liên kết khác
Bên cạnh những nội dung liên kết trên, liên kết phát triển du lịch còn có các hoạt động liên kết khác như: liên kết cơ chế chính sách, liên kết qiu hoạch, liên kết nguồn vốn đầu tư, liên kết cơ sở kỷ thuật du lịch,… Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn không thể nghiên cứu hết. Vì vậy, nghiên cứu này chỉ tập trung vào nội dung liên kết như: liên kết phát triển chuỗi sản phẩm du lịch; liên kết đào tạo nhân lực; liên kết xúc tiến quảng bá du lịch và liên kết giao thông trong phát triển du lịch.
Tiểu kết chương 1 ( Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội )
Chương 1 tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về liên kết phát triển du lịch, nội dung và ý nghĩa cũng như vai trò của hoạt động liên kết phát triển du lịch. Trong đó, liên kết là sự gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau vì mục đích có lợi cho các bên tham gia. Còn liên kết vùng là sự gắn kết những khu vực có những nét tương đồng, có liên quan và bổ trợ nhau trong một lĩnh vực nào đó. Theo đó, liên kết vùng, tiểu vùng trong phát triển du lịch là sự kết hợp giữa các bên tham gia (chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng…) ở các lãnh thổ (vùng, tiểu vùng) khác nhau trong việc làm ăng hiệu quả kinh doanh du lịch một cách bền vững.
Liên kết phát triển du lịch với nhiều hình thức: liên kết dọc, liên kết ngang, liên kết chức năng, liên kết không gian. Với nhiều nội dung: liên kết phát triển chuỗi sản phẩm du lịch; liên kết đào tạo nhân lực; liên kết xúc tiến và quảng bá du lịch và liên kết giao thông trong phát triển du lịch; liên kết cơ chế, chính sách; liên kết qui hoạch; liên kết nguồn vốn đầu tư, liên kết cơ sở kỷ thuậ du lịch,… Việc liên kết phát triển du lịch góp phần thúc đẩy du lịch địa phương và vùng phát triển. Đồng thời, giúp du lịch phát triển một cách bền vững.
Những vấn đề lý luận về liên kết phát triển du lịch làm cơ sở lý thuyết để phân tích, so sánh, đối chiếu thực trạng hoạt động liên kết phát triển du lịch của hai địa phương là thành phố Hà Nội và tỉnh Luangprabang. Qua đó, làm nền tảng cho các giải pháp và kiến nghị trong chương 3.
Mời bạn tham khảo thêm:
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn Cơ sở lý luận phát triển du lịch giữa Lào và Hà Nội […]