Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng

Rate this post

Đề tài Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trên nền tảng sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử luôn là tài liệu được các bạn sinh viên, học viên học ngành Tài chính ngân hàng săn đón. Mặc dù vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về cấu thành của dịch vụ tài chính ở Việt Nam. Nhưng đây sẽ là một luận văn mang phong thái câu từ cực kì khác biệt so với những bài luận văn khác các bạn từng đọc. Chính vì vậy, đừng bỏ qua bài mẫu Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng này nhé

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRÊN NỀN TẢNG SỰ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ

2.1. Sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử của các ngân hàng thương mại Việt Nam

2.1.1. Khung chính sách và quy định pháp lý

Chính phủ cũng chú ý đến các quy định pháp luật trong các hoạt động liên quan đến dịch vụ NHĐT. “Để đảm bảo an toàn cho hoạt động dịch vụ NHĐT, NHNN đã ban hành Thông tư 35/2006/TT-NHNN quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên internet, áp dụng với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tại Việt Nam. Nghị định  số 101/2012/NĐ-CP ngày 12/11/2012 của Chính phủ về TTKDTM quy định phương tiện TTKDTM sử dụng trong giao dịch bao gồm: thanh toán qua thẻ, lệnh 77 chi, séc, nhờ thu, ủy nhiệm thu và các phương tiện thanh toán (PTTT) khác. Nghị định này cũng cấm các hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng các PTTT không hợp pháp.” ( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Trong thời đại công nghệ số ngày càng phát triển sẽ đi cùng với các mối đe dọa về rủi ro an toàn thông tin xảy ra thường xuyên hơn, ngân hàng nhà nước đã ban hành “Thông tư số 18/2018/TT-NHNN ngày 21/8/2018, quy định về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động NH. Các quy định yêu cầu an toàn TT tối thiểu gồm các nội dung cơ bản sau: Quản lý tài sản CNTT; quản lý nguồn nhân lực; bảo đảm an toàn về mặt vật lý và môi trường lắp đặt; quản lý vận hành và trao đổi TT; quản lý truy cập; quản lý sử dụng dịch vụ CNTT của bên thứ ba và các vấn đề quản lý hệ thống thông tin”. Bên cạnh đó, các tổ chức trung gian thanh toán với việc áp dụng các giải pháp công nghệ vào thanh toán được cho là nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị lạm dụng để thực hiện hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố, do chưa tuân thủ chặt chẽ quy định về phòng, chống rửa tiền.. “Nghị định 87/2019/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền, yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải áp dụng các biện pháp phòng, chống rửa tiền như đối với các tổ chức tài chính.”

2.1.2. Hạ tầng thanh toán điện tử của các ngân hàng thương mại Việt Nam

ATM – Máy rút tiền tự động

Máy ATM đầu tiên ở Việt Nam cho phép rút tiền từ các NH nội địa ra mắt vào năm 2002. Các tiện lợi của ATM trong trong thời kỳ bắt đầu hội nhập được người dân xem là tiến bộ công nghệ vượt bậc, điều chưa từng xảy trước đây. Từ những chiếc máy ATM ban đầu, hiện nay, hệ thống máy ATM đã được trang bị phủ khắp cả nước với số lượng không ngừng được tăng lên nhằm phục vụ nhu cầu tài chính thiết yếu của người dân.

Nhìn chung, quy mô và số lượng máy ATM tăng dần từ năm 2017 đến năm 2021. Cả nước có 17.559 máy ATM được sử dụng trong năm 2017. Kể từ năm 2020, số lượng máy ATM được đặt nhiều hơn, mặc dù tốc độ tăng trưởng có phần chững lại. Cụ thể, tính đến năm 2020, cả nước có 19.636 máy ATM được lắp đặt.

Đến năm 2021, đã có 20.550 máy ATM được lắp đặt, đây là con số lớn nhất từ trước đến nay. Điều này cho thấy sự gia tăng bền vững về số lượng hệ thống ATM được triển khai trên cả nước.

Những cải tiến gần đây của các ngân hàng thương mại đối với các điểm giao dịch tự động ATM mới cho thấy nhu cầu tương đối mạnh mẽ và sự chấp nhận của khách hàng đối với các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Các ngân hàng thương mại quốc doanh đã thiết lập một mạng lưới ATM trên toàn quốc nhờ vào các khu vực dịch vụ rộng khắp và nhiều nguồn lực của họ. Đặc biệt, để tăng lượng sử dụng ATM, một số ngân hàng đã đặt máy ATM gần các khu công nghiệp và những khu vực có nhiều người sử dụng thẻ ATM. Tuy nhiên, số liệu của NHNN cho thấy hệ thống ATM chủ yếu tập trung ở 5 thành phố lớn: Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ (chiếm khoảng 50% số cây ATM); phần còn lại ở các thị trấn nhỏ hơn và vẫn còn ít nơi ở nông thôn được lắp đặt máy ATM.( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Ngoài ra, rõ ràng trong thời gian qua việc mở rộng các máy ATM khá khiêm tốn, chỉ khoảng 4% đến 6%, một phần là do chi phí lắp đặt cao, bao gồm cả chi phí mua máy và bảo trì hệ thống. Thêm vào đó, thay vì đầu tư mạnh vào hệ thống ATM với chức năng duy nhất được khách hàng sử dụng nhiều đó là rút tiền, các ngân hàng gần đây đã tập trung phát triển hệ thống POS / EDC và các hình thức thương mại điện tử khác như mobile banking, internet banking để từng bước thay đổi nguồn tiền mặt của người dân. thói quen tiêu dùng.

Thiết bị đọc thẻ điện tử (POS)

Trong những năm gần đây, mạng lưới và cơ sở hạ tầng phục vụ thanh toán thẻ ngân hàng đã dần hoàn thiện nhờ số lượng máy ATM và máy POS tăng lên. Số lượng POS được lắp đặt từ năm 2017 đến năm 2021 được hiển thị trong biểu đồ bên dưới.

Có thể thấy, số lượng thiết bị POS ngày càng tăng, từ 268.813 máy năm 2017 đã tăng lên đến 349.857 máy vào năm 2021.

Quy mô thanh toán qua POS đã được cải thiện đáng kể do việc triển khai và cài đặt phần cứng mới tại các thiết bị đầu cuối thanh toán, tuy nhiên từ năm 2018 đến năm 2020, số lượng thiết bị POS chấp nhận thanh toán trên toàn quốc đã có dấu hiệu giảm.

Đặc biệt, số lượng thiết bị POS giảm xuống chỉ còn 243.123 vào năm 2018 và 276.273 vào năm 2020. Tương tự như hệ thống ATM, việc lắp đặt hệ thống POS chủ yếu ở các trung tâm kinh doanh, đó là lý do tại sao lại có sự phân bổ không đồng đều, các nhà hàng và siêu thị ở các thành phố lớn là nguyên nhân chính của sự sụt giảm này. Các thành phố lớn được trang bị khá nhiều thiết bị thanh toán POS, trong khi các khu vực nông thôn và đồi núi có tương đối ít. Các ngân hàng thương mại đã kiểm tra và đưa một số thiết bị POS ra khỏi những nơi khó xử lý và từ những thiết bị có vấn đề kỹ thuật. Phương thức thanh toán cũng đã bị thay thế một phần bởi sự xuất hiện và phát triển không ngừng của các phương thức thanh toán thay thế, chẳng hạn như thanh toán nhanh bằng mã QR trên các ứng dụng di động và thanh toán bằng ngân hàng trực tuyến. Thanh toán qua máy POS. Việc đến năm 2021, số lượng máy ATM được mở rộng thêm một lần nữa là bằng chứng cho thấy khách hàng đang tiếp tục chấp nhận xu hướng sử dụng thẻ thanh toán trong các đầu đọc thẻ và đang phát triển trở lại nhanh chóng.

Thẻ ngân hàng

 Thẻ Ngân hàng từ trước đến nay được xem như một phương thức thanh toán linh hoạt mà các NHTM cung cấp với số lượng rất lớn, không ngừng mở rộng theo thời gian. Ngoài việc cung cấp cho KH nhiều lợi ích bổ sung bao gồm các tùy chọn thanh toán, cho vay tiêu dùng và bảo hiểm, thẻ ngân hàng đã phát triển thành một trong những phương thức huy động vốn nhanh nhất. Thẻ ngân hàng hiện nay không chỉ được sử dụng để rút tiền mặt và mua hàng qua máy POS; chúng cũng có thể được sử dụng để thanh toán cho nhiều giao dịch mua trực tuyến, bao gồm đặt phòng khách sạn, vé máy bay, hóa đơn điện nước, và kết nối thanh toán với các công ty công nghệ như Grab, Shopee và Lazada …( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

2.1.3.  Giá trị giao dịch qua các kênh phân phối điện tử tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

  • Giá trị giao dịch thông qua các kênh phân phối điện tử

Giá trị giao dịch qua ATM 

Giá trị các giao dịch được thực hiện thông qua máy ATM liên tục tăng trong suốt những năm qua, thể hiện sự đóng góp đáng kể vào sự phát triển của hệ thống thanh toán quốc gia. Tuy nhiên, theo số liệu của NHNN, lượng tiền mặt rút ra chiếm khoảng 85% giá trị hoạt động ATM; 15% còn lại là hoạt động chuyển khoản và thanh toán. Rõ ràng là một bộ phận đáng kể người Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng tiền mặt cho tới hiện tại.

Giá trị giao dịch qua POS

 Giá trị của các giao dịch được thực hiện qua hệ thống POS đã tăng lên cùng với sự phát triển của các tùy chọn thanh toán. Tuy nhiên trong giai đoạn 2019-2021, tổng giá trị giao dịch qua máy ATM/POS giảm gần 19%. Nguyên nhân giảm là do thời gian qua, dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, đặc biệt với việc giãn cách, cách  ly xã hội và thực hiện các quy định nghiêm ngặt về phòng, chống dịch bệnh ở nhiều địa phương kéo theo số lượng và giá trị của các giao dịch ATM/POS giảm.

Giá trị giao dịch qua Mobile banking

Ngân hàng di động là một trong những dịch vụ hàng đầu trong xu hướng thương mại điện tử đang nổi lên vì nó mang đến cho người tiêu dùng sự tiện lợi nhất. Hiện có 45 ngân hàng tại Việt Nam cung cấp dịch vụ thanh toán bằng ứng dụng điện thoại, được người dùng ưa chuộng.

Các NHTM tại Việt Nam thường xuyên giới thiệu và mở rộng nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng di động, bao gồm báo cáo số dư tự động đến điện thoại di động, tùy chọn thanh toán trực tuyến, chuyển tiền từ tài khoản sang tài khoản. Thông tin về tỷ giá hối đoái, lãi suất, chứng khoán … Các dịch vụ ngân hàng hiện đại khác bao gồm tạo và hủy tài khoản tiết kiệm trực tuyến, chuyển khoản trong và ngoài hệ thống, tra cứu vị trí đặt máy ATM, POS, điểm giao dịch. Hầu như tất cả các ngân hàng đã kết hợp ngân hàng di động vào thời điểm viết bài này, và người ta cho rằng đây là kênh phân phối NHĐT có tiềm năng tăng trưởng cao nhất.

Giá trị giao dịch qua kênh Internet banking( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

 Dịch vụ NH qua Internet đang càng ngày càng phổ biến ở Việt Nam, nơi có hơn 66,67% người dân sử dụng Internet. Hiện có 78 tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến. Các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến lớn tại các ngân hàng là Vietcombank, Techcombank và Sacombank, phân phối nhiều dịch vụ đa dạng bao gồm thanh toán, nạp tiền điện thoại, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn trực tuyến,…

2.1.4. Đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam 

  • Thành công 

Kết luận chung, hệ thống thanh toán điện tử tại Việt Nam ngày càng được đầu tư nhiều hơn, đảm bảo tính dễ dàng và an toàn, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Các ứng dụng đa dạng đang tác động đến hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của cả hệ thống ngân hàng. Tuy mới chỉ hình thành hơn 10 năm song những gì mà nó đem lại đã và đang thay đổi hoàn toàn diện mạo cũng như các phương thức giao dịch lâu đời. Các ngân hàng cũng đã bao gồm nhiều tùy chọn thanh toán trên thẻ, cho phép KH thanh toán các sản phẩm và dịch vụ trực tuyến, cũng như hóa đơn nước và năng lượng, chuyển phát thư và dịch vụ điện thoại. Họ cũng đã tiến hành nghiên cứu và hợp tác với các doanh nghiệp phần mềm và công nghệ. Việc đưa các công nghệ mới vào thanh toán Ngân hàng như phần mềm nhận dạng khuôn mặt, sinh trắc vân tay, mã QR … Một nền tảng quan trọng cho quá trình số hóa hoạt động NH ở Việt Nam là sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Rõ ràng là các dịch vụ ngân hàng điện tử của Việt Nam đã bước qua giai đoạn phát triển ban đầu và hiện đang tăng tốc. Do nhu cầu thị trường và định hướng phát triển, cũng như lĩnh vực ngân hàng và hội nhập tài chính của đất nước, dịch vụ NHĐT của Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng khá lớn. Cơ sở hạ tầng cho các giao dịch ngân hàng điện tử được đảm bảo bởi mạng lưới ATM và POS ngày càng mở rộng. Lượng giao dịch thực hiện tại các POS/ATM không ngừng tăng lên trong thời gian qua. Hệ thống ngân hàng của quốc gia đã báo cáo 20.550 máy ATM và 340.857 thiết bị POS được sử dụng tính đến cuối năm 2021. Các ngân hàng cũng đã bao gồm nhiều tùy chọn thanh toán trên thẻ cho phép KH thanh toán các sản phẩm và dịch vụ trực tuyến, cũng như hóa đơn điện nước, bưu chính viễn thông, và các dịch vụ khác. Đồng thời, nghiên cứu và làm việc với các công ty phần mềm và công nghệ, các công nghệ sáng tạo trong thanh toán ngân hàng, bao gồm nhận dạng khuôn mặt, sinh trắc học dấu vân tay và mã QR để phản hồi nhanh chóng.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

Máy ATM, POS: Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, các ngân hàng đã rất nỗ lực để lắp đặt một số thiết bị ATM / POS mới. Các ngân hàng thương mại quốc doanh đã tạo ra một mạng lưới ATM / POS trên toàn quốc nhờ vào các khu vực dịch vụ rộng khắp và nhiều nguồn lực của họ. Để tối ưu hóa việc sử dụng ATM và POS, một số ngân hàng đã tích cực đặt ATM và POS của mình tại các khu công nghiệp và các khu vực tập trung đông người sử dụng thẻ ngân hàng.Theo thống kê, năng lực phát triển giao dịch NHĐT của hệ thống POS vẫn còn tương đối cao và sẽ còn phát triển trong thời gian tới, góp phần thúc đẩy thị trường không ngừng mở rộng. Người tiêu dùng ngày nay tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ tài chính.( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Internet banking và Mobile banking: Hai hình thức phân phối hiệu quả nhất cho ngân hàng điện tử ở thời điểm hiện tại là ngân hàng trực tuyến (internet banking) và ngân hàng di động (mobile banking); đa số các NHTM đã sử dụng rộng rãi hai kênh này. Sự phát triển của các thiết bị công nghệ hiện đại đặc biệt là smart phone càng giúp cho việc sử dụng các dịch vụ mobile banking trở nên thuận tiện và hữu ích hơn với người sử dụng.

Mới đây vào ngày 4/8/2022, VietinBank đã xuất sắc nhận Giải thưởng “Best Mobile Banking Technology Implementation – Ứng dụng công nghệ ngân hàng trên điện thoại tốt nhất” do tạp chí The Asian Banker trao tặng cho ứng dụng Ngân hàng số VietinBank iPay Mobile. Đến nay, VietinBank iPay Mobile đã liên kết thành công hơn 2000 nhà cung cấp với hơn 150 tính năng giúp người dùng tận hưởng cuộc sống trọn vẹn, đơn giản, tối ưu và tiết kiệm cho phí. Cùng với đó là sự phủ sóng của các cây Livebank của

  • Hạn chế 

Tăng trưởng kinh tế xã hội của nước ta còn ở mức thấp, kinh tế vĩ mô còn nhiều thách thức, người dân vẫn có xu hướng tiêu tiền mặt đã hạn chế khả năng cân đối cung cầu dịch vụ cho ngân hàng trực tuyến. Mặc dù tăng nhanh, nhưng chỉ có khoảng 20% tổng số giao dịch ngân hàng được thực hiện hoàn toàn bằng điện tử, đây vẫn là một tỷ lệ khá thấp so với các hoạt động tài chính khác.

Các ngân hàng liên tục mở rộng hạ tầng thanh toán ATM / POS trên khắp các tỉnh, thành phố bằng việc triển khai, lắp đặt công nghệ mới tại các điểm thanh toán, nhưng tính đến thời điểm hiện tại, hệ thống vẫn chủ yếu tập trung tại 5 thành phố lớn: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng và Cần Thơ (chiếm gần 50%), với số lượng ATM / POS rất hạn chế ở các thành phố nhỏ và khu vực nông thôn. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng máy ATM trong những năm qua khá chậm, khoảng 4% đến 6%, một phần do chi phí đầu tư lắp đặt máy ATM cao, bao gồm chi phí mua máy, bảo trì cơ sở hạ tầng và thuê máy. . Hơn nữa, khoảng 85% giá trị giao dịch ATM, theo báo cáo của NHNN, là để rút tiền mặt; 15% còn lại dành cho chuyển khoản và thanh toán. Rõ ràng là một bộ phận đáng kể người Việt Nam vẫn có nhu cầu sử dụng tiền mặt lớn

Các dịch vụ ngân hàng điện tử, cụ thể là thanh toán trực tuyến, chuyển tiền và tiết kiệm trực tuyến vẫn còn thiếu ở Việt Nam. Khách hàng thường xuyên sử dụng nhiều dịch vụ ngân hàng khác nhau, bao gồm nộp tiền mặt vào tài khoản ngân hàng, đăng ký dịch vụ ngân hàng, vay tín chấp, cho thuê tài chính … và dịch vụ ngân hàng điện tử chưa phát triển giảm mức độ hài lòng của người tiêu dùng đối với dịch vụ.

Tuy đã có những vượt trội đáng kể, nhưng tốc độ phát triển và triển khai CNTT trong lĩnh vực ngân hàng vẫn còn chậm chạp. Các vấn đề kỹ thuật với thiết bị điện tử như ATM và POS, cũng như các vấn đề về mạng với ngân hàng di động và các dịch vụ ngân hàng trực tuyến khác, là những vấn đề chính của NHĐT ngày nay gây khó chịu và không hài lòng cho khách hàng, các thao tác thủ tục không cần thiết của internet banking, lỗi chuyển khoản,….KH có nhu cầu thực hiện các giao dịch vẫn buộc phải đến ngân hàng vì lượng ATM quá đông trong giờ cao điểm, máy trục trặc, máy phải bảo trì, hạn mức rút tiền thấp. Tuy nhiên, có một số vấn đề nhất định đối với việc kết nối giữa hệ thống thẻ của các ngân hàng. Khách hàng vẫn gặp một số vấn đề khi sử dụng thẻ do ngân hàng cung cấp để rút tiền mặt từ ATM của ngân hàng liên kết khác như thẻ bị nuốt, không rút được tiền mặc dù hệ thống vẫn ghi nhận số tiền rút ra , phí rút tiền quá cao …( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Ngoài ra, các vấn đề bảo mật tiếp tục là một hạn chế đáng kể đối với các dịch vụ ngân hàng điện tử. Trên thực tế, đã có một số trường hợp người dân bị đánh cắp dữ liệu, làm thẻ gian lận để họ có thể rút tiền mặt từ máy ATM mà không được phép hoặc bị yêu cầu thanh toán các khoản phí thẻ tín dụng mà họ không phải chịu. Theo nghiên cứu, tất cả hệ thống ngân hàng điện tử của các ngân hàng này đều xuất hiện những lỗ hổng bảo mật đã phát triển ở mọi khâu từ xử lý dữ liệu đầu vào. Môi trường hệ thống vẫn còn lỏng lẻo và chính sách bảo mật của các ngân hàng còn thiếu sót.

Xu hướng sử dụng tiền mặt và lòng tin của người dân là hai trong số những trở ngại chính cản trở sự mở rộng của thanh toán trực tuyến. Phương thức thanh toán chính cho những khoản mua sắm nhỏ lẻ trong xã hội ngày nay vẫn là tiền mặt. Do đó, một trong những khó khăn mà các ngân hàng phải đối mặt khi ngân hàng điện tử phát triển là yêu cầu phải dần dần hình thành thói quen TDKDTM trong cộng đồng xã hội

  • Mức độ chấp nhận công nghệ của khách hàng

 Việc sử dụng các thiết bị công nghệ số và Internet trong cuộc sống hàng ngày của con người ngày càng phát triển nhờ ngân hàng điện tử nói chung và các dịch vụ giao dịch thanh toán điện tử qua mạng, điện thoại nói riêng. Các thiết bị được kết nối mạng là nhu cầu của những khách hàng sử dụng internet banking và chúng đi kèm với một khoản phí đầu tư trả trước. Khách hàng cũng phải hiểu các khái niệm cơ bản và quy trình cơ bản để sử dụng các sản phẩm công nghệ này.

Thay vì khách hàng phải đến các điểm giao dịch của ngân hàng để giao dịch khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng thì đây là một cải tiến đáng kể so với việc thực hiện giao dịch trực tiếp tại ngân hàng theo phương thức thông thường. Khách hàng sẽ được yêu cầu tích cực học cách sử dụng các thiết bị điện tử được kết nối mạng như máy tính xách tay và điện thoại di động, với sự giúp đỡ và hỗ trợ của các nhân viên ngân hàng. Tuy nhiên điều này cũng gây trở ngại, do mức độ chấp nhận công nghệ của họ thấp hơn so với những người trẻ tuổi, khách hàng trung niên và cao tuổi cảm thấy khó khăn.

Chi phí giao dịch và chi phí mua thiết bị cho dịch vụ này là những lý do khác ngăn cản người dùng sử dụng ngân hàng điện tử; Ví dụ, giá thanh toán thiết bị Hard Token của Techcombank là 350.000 VND, và phí thẻ tín dụng hàng năm dao động từ 300.000 đến 500.000 VND / năm. Khách hàng muốn sử dụng Internet và ngân hàng di động phải mua thiết bị công nghệ đắt tiền, giá cao, chẳng hạn như điện thoại thông minh hoặc máy tính xách tay. Khi họ phải trả quá nhiều chi phí cho ngân hàng, nhiều người tiêu dùng vẫn không hài lòng, và chủ đề tăng hay giảm giá dịch vụ ngân hàng vẫn còn là vấn đề tranh luận cho đến ngày nay.( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

  • Tâm lý e ngại về mức độ an toàn trong giao dịch điện tử 

Rõ ràng là trong khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử, người dùng chủ yếu quan tâm đến tính bảo mật và an toàn cho các giao dịch của họ. Do suy nghĩ này, nhiều người tiêu dùng đã chọn không sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử vì họ không muốn và không thoải mái về nó. Khi tiền tiết kiệm và các khoản đầu tư có giá trị cao khác bao gồm phần lớn tài sản của mọi người, thì vấn đề này là hợp lý.

Khi khách hàng sở hữu những giấy tờ, tài liệu chứng minh chính xác giao dịch, được coi như bằng chứng một khi giao dịch tài chính hoàn tất thì tâm lý của họ vẫn an toàn và chắc chắn hơn. Khách hàng có thể phải chấp nhận một số rủi ro liên quan đến việc thực hiện các giao dịch Ngân hàng điện tử, có thể rủi ro cao hơn so với các giao dịch truyền thống. Đặc biệt, trong một số tranh chấp, tài liệu hỗ trợ có thể được coi là bằng chứng thuyết phục hơn. Khách hàng thường xuyên hỏi về phản hồi của NH trong trường hợp hệ thống CNTT của NH gặp trục trặc dẫn đến dữ liệu của KH trong giao dịch bị mất.

  • Nhu cầu giao dịch trực tiếp với cán bộ, nhân viên ngân hàng 

Nhiều người tiêu dùng sử dụng dịch vụ ngân hàng cần trao đổi trực tiếp với cán bộ, nhân viên ngân hàng để nắm bắt thông tin và giải quyết vấn đề của mình một cách rõ ràng, kịp thời. Các NHĐT khó có thể cung cấp các dịch vụ đầy đủ như nhân viên Ngân hàng.

Việc sử dụng các trợ lý ảo như Siri hoặc ngân hàng qua điện thoại, giúp kết nối nhân viên với KH một cách nhanh chóng và thoải mái, vẫn chưa được các ngân hàng áp dụng. Tổng đài hỗ trợ sẽ là công cụ hỗ trợ người tiêu dùng tin tưởng khi họ được tư vấn, đưa ra lời khuyên nhằm giảm bớt rào cản tâm lý sử dụng công nghệ mới và đáp ứng nhu cầu giao dịch trực tiếp của khách hàng. Kể từ đó, khách hàng cảm thấy được kết nối và an toàn khi sử dụng ngân hàng điện tử 24 giờ một ngày.

  • Hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế 

Hệ thống thanh toán trực tuyến đã có sự thay đổi nhanh chóng do tiến bộ công nghệ, nhưng luật pháp trong nước chưa theo kịp, khiến các ngân hàng thương mại cảnh giác trong việc triển khai các công nghệ mới ngoài các thông số cho phép. Chưa có một khuôn khổ pháp lý cụ thể nào ở Việt Nam cho việc khai thác, phân phối hoặc lưu giữ dữ liệu trên blockchain hoặc trên điện toán đám mây. Ngoài ra, các công ty và người tiêu dùng không muốn sử dụng các dịch vụ tài chính trực tuyến do không có đủ các biện pháp bảo vệ đối với lợi ích của người tiêu dùng trong ngành tài chính.( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Đề án “Kế hoạch cơ cấu lại ngành dịch vụ đến năm 2020, định hướng đến năm 2025″ đã nêu rõ chủ trương của Chính phủ áp dụng một thử nghiệm (regulatory sandbox) cho các sản phẩm TCNH trên nền tảng CNTT nhưng vẫn chưa đi vào thực thi. Vụ trưởng Vụ Thanh toán NHNN cho rằng do pháp luật Việt Nam đi sau công nghệ tài chính từ 3 đến 5 năm nên việc theo kịp các tiến bộ công nghệ sẽ vô cùng khó khăn nếu không có các hệ thống thí điểm, quản lý.

Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp lý về chứng thực chữ ký số đã được phát triển ở giai đoạn rất sớm và hiện tại vẫn chưa đáp ứng đủ các tính chất duy nhất của giấy tờ điện tử được sử dụng trong các giao dịch số. Cũng như các hạn chế pháp lý cụ thể đối với các đại lý được ủy quyền của ngân hàng, NHNN vẫn chưa đưa ra bất kỳ quy định chính thức nào đối với sản phẩm tiết kiệm trực tuyến.

Nguyên nhân chủ quan 

  • Khó khăn về nguồn vốn của các ngân hàng 

Hạn chế về số lượng vốn là một trong những thách thức chính mà các ngân hàng gặp phải khi đầu tư và cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua cơ sở hạ tầng công nghệ. Các ngân hàng dự kiến sẽ đầu tư vào hệ thống Core-banking, theo đó các công việc phải được xử lý dựa trên cơ sở dữ liệu tập trung, nhằm đáp ứng các yêu cầu về hoạt động thông suốt của các dịch vụ ngân hàng điện tử. Một hệ thống hiện đại và tư vấn giải pháp tài chính từ các đối tác quốc tế có thể tiêu tốn tới hàng chục triệu đô la Mỹ để đầu tư vào cơ sở hạ tầng CNTT hiện đại.

Vì đây là một khoản chi lớn và lợi ích tài chính của ngân hàng điện tử không hoàn toàn rõ ràng nên chưa chắc ngân hàng nào cũng “mạnh tay” đầu tư vào công nghệ mới. Các định hướng trong tương lai của lãnh đạo NH, bên cạnh tiềm lực tài chính của các ngân hàng lớn và trung bình, tác động không nhỏ đến việc lựa chọn đầu tư.hàng

  • Vẫn còn nhiều hạn chế trong trình độ nhận thức của đội ngũ cán bộ ngân 

Một trong những mục tiêu chính trong kế hoạch tăng trưởng kinh doanh củanhiều ngân hàng hiện nay là cung cấp dịch vụ NHĐT. Vì vậy, tiêu chí đối với các nhà quản lý ngân hàng trong môi trường mới cần có tầm nhìn dài hạn và mang tính đột phá. Nhưng bên cạnh đó, nhân sự của ngân hàng vẫn chưa thể đáp ứng kịp thời và cũng chưa tiếp cận CNTT hiện đại một cách bài bản, chuyên môn về lĩnh vực này vẫn còn yếu kém.

Đội ngũ nhân sự lành nghề có thể thích ứng, lĩnh hội và sử dụng công nghệ số rất khan hiếm, và một số chức năng của nhân viên NH có thể được thay thế hoàn toàn bằng công nghệ và máy móc. Các ngân hàng thường xuyên tuyển dụng lao động mới với mức lương cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình. Mặt khác, họ tích cực đào tạo nhân viên hiện tại về công nghệ ngân hàng, mang lại cho họ kiến thức và khả năng cần thiết để thích ứng với cuộc cách mạng công nghệ 4.0.

Xem lại chương 1 tại:

Luận văn Phân tích hiệu quả kinh doanh của ngân hàng

  • Vẫn còn nhiều thiếu sót ở khâu tiếp thị và quảng bá ( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Do chưa được ra mắt và tiếp thị tích cực nên dịch vụ NHĐT hiện chưa được nhiều khách hàng, đặc biệt là khách hàng trung niên trở lên yêu thích khi tham gia giao dịch tại ngân hàng. Ngoài ra, hiện tại có rất ít lựa chọn về phần thưởng và khuyến mại cho người dùng NHĐT.

Các NH đang tích cực quảng bá phương thức thanh toán bao gồm quét mã QRpay, giảm giá cho những người tiêu dùng làm như vậy bên cạnh nhiều chương trình ưu đãi độc đáo khác cho từng ngân hàng. Đây là một kỹ thuật khác để khuyến khích người dùng ngân hàng điện tử

Tuy nhiên, ở quy mô lớn hơn, hoạt động tiếp thị trực tuyến của các ngân hàng thương mại vẫn chưa thực sự thành công, mức độ tương tác của họ trên các nền tảng truyền thông xã hội như Facebook, LinkedIn và Instagram vẫn còn ít và trang web của họ chưa nhận được nguồn vốn cần thiết. Các kỹ thuật quảng cáo và tiếp thị truyền thống duy nhất được các ngân hàng mới sử dụng để chào bán hàng hóa của họ là quảng cáo biểu ngữ, tờ rơi và email, chưa mang lại hiệu quả truyền thông cao.

  • Lỗ hổng trong an ninh mạng 

Do nhiều NH không cung cấp một cơ chế độc lập để đánh giá an toàn và bảo mật trong khi cài đặt hệ thống và do các tiêu chuẩn an ninh mạng không được sử dụng nên hệ thống ngân hàng điện tử Việt Nam gặp một số vấn đề về bảo mật và chưa được sử dụng đồng thời trong các ngân hàng.

Việc cập nhật kịp thời và làm chủ công nghệ mới nhằm mang đến cho khách hàng những sản phẩm tài chính NH thiết thực và tiên tiến nhất là một trong những đặc trưng của dịch vụ NHĐT. Các dịch vụ NHĐT đòi hỏi sự linh hoạt và tốc độ, nhưng các hoạt động ngân hàng truyền thống thường đặt việc áp dụng các ứng dụng ngân hàng mới thông qua các thủ tục thử nghiệm và hoàn thành trước khi đến tay khách hàng. Các ứng dụng và sản phẩm mới được thử nghiệm nhanh hơn vì sự cạnh tranh gay gắt. Kể từ đó, khó khăn trong việc tạo ra hàng hóa và dịch vụ ngân hàng điện tử là phải có một quy trình thử nghiệm rộng rãi, đảm bảo các khía cạnh bảo mật thiết yếu đồng thời nhanh chóng và giảm thiểu rủi ro.

2.2. Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng: Thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2017-2021

2.2.1. Kết quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

 Tính đến cuối năm 2021, tổng tài sản của 25 NHTM Việt Nam đã đạt gần tỷ đồng, tăng gần 14,89% so với năm 2020. Tốc độ tăng trưởng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam ở mức hai con số kể từ năm 2019, cho thấy sự mở rộng quy mô diễn ra khá nhanh, đặc biệt vào năm 2019 tỷ lệ này đạt 17,54%. Năm 2019 cũng là năm mới bắt đầu đại dịch covid-19 nên tăng trưởng của các NH vẫn cao. Sang đến năm 2020 là đỉnh điểm của đại dịch nên đã làm suy giảm tuy nhiên vẫn giữ ở mức 2 con số. Năm 2021, các NHTM đang có đà hồi phục tốt, giữ ở mức gần 15%.( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Nhìn chung, nhóm các ngân hàng thương mại nhà nước (BIDV, AgriBank, VietinBank, Vietcombank – Big 4) từ trước đến nay đều là những ngân hàng khổng lồ với quy mô lớn, mặc dù thực tế các ngân hàng thương mại cổ phần vừa và nhỏ đã có sự gia tăng đáng kể. tổng tài sản tăng qua các năm. Hơn 51% tổng tài sản của 25 ngân hàng thương mại được đại diện bởi tài sản của Big 4. Nhóm ngân hàng quy mô vừa có tốc độ phát triển tài sản nhanh, bao gồm Sacombank, VPbank, MBbank, Á Châu, Sài Gòn, Sài Gòn Hà Nội và Techcombank, là nhóm sau (chiếm 26% tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam)

  • Quy mô vốn chủ sở hữu (VCSH) năm 2021 của 25 NHTM Việt Nam được thể hiện ở bảng dưới đây:

Quy mô VCSH của các NHTM Việt Nam năm 2021 có sự tăng trưởng khá cao. Vietcombank dẫn đầu với gần 110.00 tỷ, theo sau đó là Vietinbank và Techcombank với quy mô tương đương nhau lên tới 93.000 tỷ. Sự ổn định hoạt động và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng không được đảm bảo bởi tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng thương mại vẫn còn thấp. Mặc dù các ngân hàng thương mại nhà nước như BIDV, Agribank, Vietcombank, Vietinbank có quy mô lớn nhưng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản trong hệ thống của các ngân hàng này chỉ ở mức 4% đến 7%. Do đó, các ngân hàng phải tập trung vào chiến lược tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu, chào bán cổ phiếu, trả cổ tức bằng cổ phiếu và các phương thức khác để thu hút thêm vốn trong và ngoài nước.

Có thể thấy, nhóm ngân hàng thương mại nhà nước Big4 sẽ tiếp tục thống lĩnh thị phần cho vay và vốn huy động tương ứng vào năm 2021, với hơn 50% thị phần. Theo tính toán, dư nợ cho vay của 4 ngân hàng lần lượt từ cao đến thấp là BIDV (với thị phần lên đến 15,4%), Agribank (14,89%) theo sau đó là Vietinbank ( 12,83%) và Vietcombank (10,86%).

  • Thu nhập, lợi nhuận và tỷ suất sinh lời của ngân hàng

Năm 2021 ghi nhận tổng lợi nhuận sau thuế của 25 NHTM Việt Nam là 157.054 tỷ đồng, tăng hơn 32% so với năm 2020. Những kết quả thuận lợi này là kết quả của việc tăng trưởng tín dụng cũng như thu nhập từ dịch vụ tăng rõ rệt, sự thay đổi có lợi trong mô hình công ty và hiện đại hóa các quy trình, giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại. Lĩnh vực quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng là hoạt động tín dụng tiếp tục mang lại những kết quả tích cực cho ngân hàng, thể hiện qua sự gia tăng liên tục của thu nhập lãi thuần bên cạnh sự phát triển rõ rệt của doanh thu dịch vụ.

Rõ ràng trong cơ cấu tổng lợi nhuận sau thuế của các ngân hàng thương mại Việt Nam, doanh thu lãi thuần chiếm hơn 80% tổng thu nhập. Mặc dù nhà nước có chính sách thắt chặt tín dụng tuy nhiên thu nhập lãi thuần vẫn tăng đều qua các năm. Việc thu phí các dịch vụ thanh toán, dịch vụ thẻ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh cổ phiếu,… mang lại cho ngân hàng nguồn thu ngoài lãi. theo đó các chuyên gia đánh giá chi phí của các dịch vụ ngân hàng điện tử có khả năng tăng thu nhập của ngân hàng một cách tốt nhất. Thu nhập từ hoạt động dịch vụ sẽ tăng theo tốc độ tăng trưởng trong các năm 2020 và 2021, cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các hoạt động này đối với doanh thu của ngân hàng.

Theo Moody’s thì các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của ngành NH ở mức ROA≥1%; ROE ≥12-15% là đạt kết quả tốt. Mặc dù đã có những cải thiện so với 5 năm trước, nhưng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và tài sản của các ngân hàng thương mại vẫn thấp so với các chỉ tiêu trên toàn thế giới. Tỷ lệ ROE bình quân của 25 NHTM Việt Nam cải thiện từ 10,6% năm 2017 lên 15,7% năm 2021. Ngoài ra, từ 0,75% năm 2017 lên 1,34% năm 2021, tỷ lệ ROA bình quân tăng. Đây là một chỉ báo tích cực đối với ngành ngân hàng, đồng nghĩa với việc các ngân hàng đang phải thực hiện chính sách hạn chế tín dụng nhằm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô của Nhà nước.( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn vào năm 2021, các NHTM Việt Nam không ngừng tăng cường nỗ lực tăng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, rõ ràng tốc độ tăng LNST của các ngân hàng thương mại đã tăng nhanh so với tốc độ tăng vốn chủ sở hữu, tạo ra tỷ lệ ROE cao. Một bước ngoặt có thể được quan sát thấy trong hoạt động tài chính của các ngân hàng quy mô trung bình khi lợi nhuận tiếp tục tăng và thu nhập tập trung vào lĩnh vực dịch vụ và bán lẻ. Sau khi giải quyết các vấn đề về thu hồi nợ khó đòi, trích lập dự phòng và tăng vốn điều lệ dự báo các ngân hàng thương mại lớn có năng lực cho vay và mạng lưới khách hàng lớn nhất sẽ chiếm lại vị trí đầu bảng.

2.2.2. Kết quả phi tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam 

Liên quan đến tính hiệu quả và an toàn của các hoạt động tài chính

Các số liệu về mở rộng quy mô tài sản, vốn chủ sở hữu, tiền gửi và huy động vốn của ngân hàng cho thấy, mặc dù gặp nhiều khó khăn do chính sách tiền tệ nghiêm ngặt và những hạn chế, các NHTM Việt Nam đã đạt được thành tích ấn tượng trong việc mở rộng phạm vi hoạt động phù hợp với yêu cầu an toàn của Nhà nước, và tốc độ tăng trưởng liên tục ở mức ổn định (từ 10 % đến 20%).

Về chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Mức độ tiến bộ công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng mà các ngân hàng đạt được trong bối cảnh thị trường tài chính cạnh tranh gay gắt ngày nay là những chỉ số đánh giá chất lượng dịch vụ ngân hàng của họ. Các nghiên cứu cho rằng các dịch vụ phức tạp và đa dạng hơn mà các ngân hàng thương mại cung cấp sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Không chỉ có các hoạt động ngân hàng thông thường, các hoạt động huy động vốn và cho vay đối với các công ty để tăng trưởng bền vững đã được cải thiện đáng kể với giá cả phải chăng, mà còn có các dịch vụ thanh toán, chuyển khoản, gửi tiền và cho vay đối với KH bán lẻ với chi phí hợp lý.

Các ngân hàng thương mại tập trung triển khai công nghệ, tạo hạ tầng kỹ thuật số một cách tập trung, cụ thể cho phép chia sẻ, tích hợp để xây dựng một môi trường kỹ thuật số đa ngành như: ngân hàng di động kết nối viễn thông, điện lực, hàng không, giao thông vận tải, y tế, sàn giao dịch điện tử, siêu thị, cung cấp kết nối thanh toán dễ dàng cho khách hàng. Khi các dịch vụ ngân hàng điện tử trở nên tốt hơn mỗi ngày, người dùng có thể thực hiện các giao dịch mà không bị ràng buộc về thời gian hoặc không gian, điều này giúp nâng cao trải nghiệm của khách hàng. Đối với tất cả các ngân hàng, phong trào hướng tới số hóa doanh nghiệp thể hiện cả tiềm năng và khó khăn to lớn. Để làm được điều đó, cần có sự thay đổi cơ bản về văn hóa doanh nghiệp, cũng như việc chi tiền để phát triển nền tảng công nghệ NH và thời gian phục vụ khách hàng.

Số lượng và chất lượng của hàng hóa và dịch vụ ngân hàng hiện nay có thể so sánh với số lượng và chất lượng của khoảng mười năm trước, mặc dù chúng vẫn còn khá tốt khi so sánh với một số ngân hàng đa quốc gia. Việc bán chéo hàng hóa của khách hàng bao gồm trái phiếu, đầu tư vào chứng khoán và bảo hiểm đã tiến bộ hơn trước đây, nhưng không thực sự mang lại lợi ích đáng kể. Rõ ràng là các ngân hàng đang nỗ lực “cá nhân hóa” hơn nữa các dịch vụ tài chính của mình nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu tâm lý của khách hàng. Các ngân hàng cũng triển khai một số sáng kiến chăm sóc KH ưu tiên cao, bao gồm các gói quà tặng ưu việt hoặc các gói khám và điều trị ung thư thực sự hữu ích.( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Liên quan đến hoạt động kinh doanh được đổi mới

Các NH đã thay đổi đáng kể mô hình kinh doanh, ngày càng hiện đại hóa và tự động hóa hoạt động. Các ngân hàng thương mại ưu tiên cung cấp dịch vụ bán lẻ cho KH và doanh nghiệp, thể hiện qua lượng khách hàng bán lẻ không ngừng mở rộng. Ngoài ra, doanh thu ngoài lãi của các ngân hàng từ thu phí dịch vụ thanh toán, dịch vụ thẻ, hoạt động ngoại hối, kinh doanh cổ phiếu, … đang tăng nhanh, thể hiện điều đó bên cạnh việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Các NH truyền thống đang cho vay và các NH đã tăng cường đầu tư vào các hàng hóa và dịch vụ khác.

2.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam trên nền tảng phát triển NHĐT

2.3.1. Những tác động tích cực của dịch vụ NHĐT đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM

Kết quả điều tra cho phép xác nhận những tác động có lợi của dịch vụ NHĐT đối với hiệu quả hoạt động của các NHTM. Rõ ràng là các dịch vụ ngân hàng điện tử hỗ trợ ngân hàng không chỉ nâng cao thu nhập hoạt động và tạo ra lợi nhuận mà còn tăng năng suất lao động, nâng cao nhận diện thương hiệu và mở rộng cơ sở khách hàng.

Dịch vụ ngân hàng điện tử đang nhanh chóng trở thành một thông lệ tiêu chuẩn trong ngành ngân hàng hiện đại. Kế hoạch hỗ trợ các NHTM phát triển mô hình kinh doanh, đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và cải tiến hoạt động ngân hàng sẽ là sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử theo hướng mô hình ngân hàng số, đảm bảo cạnh tranh với các ngân hàng khác. Thị trường ngày nay liên tục được cập nhật và đổi mới bởi các tổ chức nước ngoài, tài chính và công nghệ.

2.3.2. Một số hạn chế của dịch vụ NHĐT đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM

Trước hết, đầu tư vào sự phát triển của dịch vụ Ngân hàng điện tử cần rất nhiều vốn và thời gian hoàn vốn dài, điều này có thể làm tăng chi phí và hạ thấp mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn của ngân hàng. Việc tạo ra cơ sở hạ tầng vật chất, cơ sở hạ tầng công nghệ, thiết bị và máy móc làm việc, phát triển phần mềm và đào tạo đều cần thiết cho việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng dịch vụ Ngân hàng điện tử. Mỗi ngân hàng thương mại phải có đủ nguồn lực tài chính và kỹ năng quản lý cần thiết cho hoạt động này. Đây là một trong những thách thức hiện nay trong quá trình thiết lập các dịch vụ Ngân hàng điện tử và hiện đại hóa các quy trình.

Quá trình lựa chọn công nghệ và triển khai các phần mềm ứng dụng được cập nhật gần đây cũng là những yếu tố quan trọng trong việc dịch vụ ngân hàng điện tử hoạt động tốt như thế nào. Các ngân hàng nhỏ với ít tiềm lực tài chính phải vật lộn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nâng cấp công nghệ, điều này khiến cho quá trình số hóa các hoạt động ngân hàng diễn ra chậm chạp hoặc hoàn toàn không có.

Tiếp theo đó là những rủi ro liên quan đến công nghệ và hoạt động NHĐT là rất lớn, làm tăng chi phí trích lập dự phòng và quản lý rủi ro và có thể gây tổn hại đến hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại. Sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ, việc sử dụng rộng rãi thương mại điện tử và việc kết hợp các ứng dụng dịch vụ NHĐT vào cơ sở hạ tầng CNTT đã góp phần làm cho Ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào các đối tác Công nghệ. Hiệu quả hoạt động của NHTM cũng bị ảnh hưởng đáng kể bởi nhu cầu ngày càng khắt khe của nền kinh tế và người tiêu dùng, cùng tạo ra những rủi ro mới về Công nghệ, Chiến lược, Hoạt động và tính pháp lý đối với hàng hóa và dịch vụ của NHĐT. ( Luận văn Hiệu quả hoạt kinh doanh của ngân hàng )

Thứ ba, uy tín và thương hiệu của các NHTM đang bị ảnh hưởng bởi những nguy cơ gia tăng liên quan đến bảo mật tài chính khách hàng, bí mật và gian lận. Sự xuất hiện của các vấn đề về an toàn tài chính và bảo vệ thông tin khách hàng có tác động bất lợi đến uy tín hoạt động của các ngân hàng thương mại. Thanh toán qua các kênh dịch vụ ngân hàng điện tử sẽ hỗ trợ một nền kinh tế không dùng tiền mặt, hiện đại và hữu ích, nhưng khách hàng vẫn tiếp tục lo lắng nhiều về tính bảo mật của các giao dịch điện tử, đặc biệt khi các trường hợp gian lận, đánh cắp tài khoản và đánh cắp thông tin tiếp tục gia tăng ngành ngân hàng. Vì sự an toàn và bảo mật của các ngân hàng vẫn còn khá kém và vận hành các giao dịch để đảm bảo an toàn và bảo mật cho Khách hàng còn hạn chế, đây là mối nguy hiểm thường xuyên gặp phải khi giới thiệu dịch vụ NHĐT.

Xem tiếp phần sau tại:

Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
2 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng […]

trackback

[…] → Luận văn Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng […]

2
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993