Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ Wal-mart

Rate this post

Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ là bài mẫu dưới đây mình muốn chia sẻ đến các bạn. Mục đích của bài luận văn này là thực trạng quản lý chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cho thấy vừa yếu chuyên môn, vừa thiếu các nguồn lực. Áp dụng thành công từ quản trị chuỗi cung ứng của Wal-mart, khóa luận đưa ra một số bài học kinh nghiệm như: hiện đại hóa hệ thống thông tin, tăng cường ứng dụng công nghệ tiên tiến, thay nhà kho bằng các trung tâm phân phối, xây dựng đội xe tải hiện đại, thay đổi hình thức phân phối, tập trung quản trị tồn kho hiệu quả. Đề tài “Quản trị chuỗi cung ứng của tập đoàn bán lẻ Wal-mart và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam” hy vọng sẽ giúp được các bạn giải quyết vấn đề khi làm bài luận.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Khái niệm Quản trị chuỗi cung ứng (SCM) lần đầu xuất hiện vào những năm 1980, và phổ biến trên thế giới vào những năm 1990. Từ đó, quy trình này đã trở nên quen thuộc và được áp dụng thành công vào rất nhiều công ty lớn như: Dell, Toyota, và đặc biệt là Wal-mart. Nhờ vào thành công trong quản trị chuỗi cung ứng, từ đó có được lợi thế về chi phí và giá cả so với các đối thủ cạnh tranh mà Wal-mart nhanh chóng trở thành một đế chế bán lẻ khổng lồ nhất trên thế giới. Trong khi đó, ở Việt Nam hiện nay khái niệm SCM đã được nhắc đến nhiều, các doanh nghiệp cũng đã bắt đầu chú ý tới, tuy nhiên để hiểu rõ SCM là gì, làm thế nào để xây dựng và quản trị chuỗi cung ứng thành công thì hầu hết các doanh nghiệp vẫn đang băn khoăn. Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực bán lẻ hiện nay là một điển hình. Từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, và đặc biệt từ năm 2009 Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vào, thì các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam mới thật sự lo sợ mất vị thế trên thị trường. Và một giải pháp cần thiết nhằm giúp các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam giữ vững thị trường đó chính là quản trị hiệu quả chuỗi cung ứng. Với mong muốn giúp các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam làm rõ các vấn đề có liên quan đến quản trị chuỗi cung ứng, tôi lựa chọn đề tài “Quản trị chuỗi cung ứng của tập đoàn bán lẻ Wal-mart và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam”.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là hoạt động quản trị chuỗi cung ứng của tập đoàn bán lẻ Wal-mart.

Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: bài luận làm rõ các vấn đề về quản trị chuỗi cung ứng, hoạt động quản trị chuỗi cung ứng của Wal-mart, từ đó đề xuất một số bài học về quản trị chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Về không gian: phạm vi tìm hiểu là tập đoàn bán lẻ Wal-mart, các công ty bán lẻ Việt Nam.

3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của bài luận là nghiên cứu vấn đề quản trị chuỗi cung ứng từ lý thuyết tới thực tiễn áp dụng tại tập đoàn Wal-mart nhằm đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của bài luận gồm:

  • Làm rõ những vấn đề cơ bản về chuỗi cung ứng, quản trị chuỗi cung ứng, cũng như quy trình quản trị chuỗi cung ứng.
  • Phân tích hoạt động quản trị chuỗi cung ứng của tập đoàn bán lẻ Wal-mart.
  • Tìm hiểu về thực trạng quản trị chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp bán lẻ Việt
  • Đề xuất một số bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam từ thành công của Wal-mart trong hoạt động quản trị chuỗi cung ứng.

5. Phương pháp nghiên cứu

  • Phương pháp thu thập và xử lý thông tin từ: sách báo, internet…
  • Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…

6. Bố cục khóa luận: khóa luận gồm 3 chương

Chương 1: Tổng quan về chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng.

Chương 2: Quản trị chuỗi cung ứng của tập đoàn bán lẻ Wal-mart.

Chương 3: Bài học kinh nghiệm về quản trị chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.

Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học Ngoại Thương. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới người thầy đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi – GS, TS Hoàng Văn Châu.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG

1.1. Khái quát chung về chuỗi cung ứng ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Ngày nay, để thành công trong bất kỳ môi trường kinh doanh nào, các doanh nghiệp không chỉ tập trung vào hoạt động của riêng mình mà phải tham gia vào công việc kinh doanh của nhà cung cấp cũng như khách hàng của nó. Bởi lẽ, khi doanh nghiệp muốn đáp ứng sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng, họ buộc phải quan tâm sâu sắc hơn tới dòng dịch chuyển của nguyên vật liệu, cách thức thiết kế, đóng gói sản phẩm, và dịch vụ của nhà cung cấp, cách thức vận chuyển, bảo quản sản phẩm, và những mong đợi thực sự của người tiêu dùng, hoặc khách hàng cuối cùng. Cạnh tranh có tính toàn cầu ngày càng khốc liệt, chu kỳ sống của sản phẩm mới ngày càng ngắn hơn, mức độ kỳ vọng của khách hàng ngày càng cao hơn, đã thúc ép các doanh nghiệp phải đầu tư và tập trung nhiều hơn vào chuỗi cung ứng của mình. Thêm vào đó, những tiến bộ liên tục và đổi mới trong công nghệ truyền thông và vận tải, đã thúc đẩy sự phát triển không ngừng của chuỗi cung ứng và những kỹ thuật để quản lý chuỗi cung ứng. Vậy, chuỗi cung ứng là gì?

Chuỗi cung ứng bao gồm mọi công đoạn có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn gồm nhà vận chuyển, kho, người bán lẻ và bản thân khách hàng1 (Sunil Chopra, Pete Meindl, 2007). Trong mỗi một tổ chức, như nhà sản xuất, chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các chức năng liên quan tới việc nhận và hoàn thành đơn hàng. Những chức năng này bao hàm và không bị hạn chế trong việc phát triển sản phẩm mới, marketing, sản xuất, phân phối, tài chính và dịch vụ khách hàng.

Chuỗi cung ứng là sự liên kết với các công ty nhằm đưa sản phẩm hay dịch vụ vào thị trường.2 (Stock và Elleam, 1998)

Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và phân phối nhằm thực hiện các chức năng thu mua nguyên liệu, chuyển đổi nguyên liệu thành bán thành phẩm và thành phẩm, và phân phối chúng cho khách hàng3 (Ganesham, Ran and Terry P.Harrison, 1995).

Hãy xem xét một ví dụ, một khách hàng đi siêu thị Hapro để tìm mua loại cà phê hòa tan 3 trong 1 của Trung Nguyên. Chuỗi cung ứng bắt đầu với khách hàng này và nhu cầu về cà phê hòa tan. Tiếp theo đó, chuỗi cung ứng tiếp tục với siêu thị Hapro mà khách hàng lựa chọn. Tại đó, siêu thị Hapro đã lưu kho một lượng sản phẩm cà phê hòa tan để phục vụ nhu cầu của khách hàng. Sản phẩm cà phê có thể do một công ty phân phối cung cấp cho siêu thị hoặc có thể được cung cấp trực tiếp bởi nhà sản xuất là công ty Trung Nguyên. Công ty Trung Nguyên, để sản xuất ra sản phẩm, phải mua nguyên liệu là cà phê sơ chế từ các nhà cung cấp khác. Còn những nhà cung cấp này lại nhận nguyên liệu là cà phê hạt từ những người trồng cà phê. Chuỗi cung ứng còn bao gồm những công ty xản xuất bao bì để bao gói sản phẩm cà phê do Trung Nguyên sản xuất. Chuỗi cung ứng này, được minh họa tại hình 1.1 như sau:

Chuỗi cung ứng luôn hàm chứa tính năng động và liên quan tới những dòng liên tục về thông tin, sản phẩm và tài chính giữa các giai đoạn khác nhau. Trong ví dụ trên, Hapro cung cấp những thông tin về sản phẩm, giá cả, cũng như các thông tin sẵn có của sản phẩm cho khách hàng. Khách hàng trả tiền cho Hapro. Hapro sẽ truyền tải dữ liệu bán hàng cũng như đơn đặt hàng đến nhà kho hoặc nhà phân phối, và họ sẽ chuyển hàng đến cửa hàng. Đổi lại, Hapro sẽ chuyển tiền cho nhà phân phối sau khi nhận được hàng. Nhà cung cấp cũng thông tin về giá cả cũng như lịch trình giao hàng cho Hapro. Cứ như thế, dòng thông tin, nguyên vật liệu và tài chính sẽ luân chuyển trong toàn bộ chuỗi cung ứng.

Khách hàng là thành tố tiên quyết của chuỗi cung ứng. Mục đích then chốt cho sự hiện hữu của bất kỳ chuỗi cung ứng nào là để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, trong quá trình tạo ra lợi nhuận cho chính chuỗi cung ứng đó. Thuật ngữ “chuỗi cung ứng” gợi nên hình ảnh sản phẩm hoặc việc cung cấp dịch chuyển từ nhà cung cấp đến nhà sản xuất, đến nhà phân phối, đến nhà bán lẻ, và đến khách hàng dọc theo chuỗi cung ứng. Điều quan trọng là phải hiểu rằng, dòng thông tin, sản phẩm, và tài chính luôn dịch chuyển dọc cả hai hướng của chuỗi.

1.2. Quản trị chuỗi cung ứng ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

1.2.1. Khái niệm:

Có rất nhiều định nghĩa về quản trị chuỗi cung ứng.

Theo Viện Quản Trị Chuỗi Cung Ứng Hoa Kỳ mô tả quản trị chuỗi cung ứng là việc thiết kế và quản lý các tiến trình xuyên suốt, tạo giá trị cho các tổ chức để đáp ứng nhu cầu thực sự của khách hàng cuối cùng. Sự phát triển và tích hợp nguồn lực con người là yếu tố then chốt cho việc tích hợp chuỗi cung ứng thành công.4

Theo Hội Đồng Chuỗi Cung Ứng thì quản trị chuỗi cung ứng là việc quản lý cung và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp, kiểm tra kho hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn hàng, phân phối qua các kênh và phân phối đến khách hàng cuối cùng.5

Theo Hội Đồng Quản Trị Logistics thì quản trị chuỗi cung ứng là “…..sự phối hợp chiến lược và hệ thống các chức năng kinh doanh truyền thống và các sách lược xuyên suốt các chức năng này trong một công ty cụ thể và giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng với mục đích cải thiện thành tích dài hạn của các công ty đơn lẻ và của cả chuỗi cung ứng”6.

Từ các định nghĩa trên có thể rút ra một định nghĩa chung nhất về quản trị chuỗi cung ứng: “Quản trị chuỗi cung ứng là sự phối hợp của sản xuất, tồn kho, địa điểm và vận chuyển giữa các thành viên trong chuỗi cung ứng nhằm đáp ứng nhịp nhàng và hiệu quả các nhu cầu của thị trường.”

Điểm nhất quán giữa các định nghĩa trên đó là sự phối hợp và hợp nhất lượng lớn các hoạt động liên quan đến sản phẩm trong số các thành viên của chuỗi cung cấp nhằm cải thiện năng suất hoạt động, chất lượng, và dịch vụ khách hàng; nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững cho tất cả các tổ chức liên quan trong chuỗi cung ứng. Vì thế để quản trị chuỗi cung ứng thành công, các doanh nghiệp phải tích cực chia sẻ các thông tin có liên quan như: dự báo nhu cầu, kế hoạch sản suất, các chiến lược marketing, việc cải tiến sản phẩm và dịch vụ, việc áp dụng công nghệ mới, kế hoạch thu mua, ngày giao hàng, và bất kỳ thông tin nào tác động đến các kế hoạch phân phối, sản xuất, và thu mua.

1.2.2. Lịch sử phát triển của quản trị chuỗi cung ứng:

Trong suốt thập niên 1950 và 1960, các công ty của Mỹ áp dụng công nghệ sản xuất hàng loạt để cắt giảm chi phí và cải tiến năng suất, trong khi ít chú ý đến việc tạo mối quan hệ với nhà cung cấp, cải thiện việc thiết kế quy trình và tính linh hoạt, hoặc cải thiện chất lượng sản phẩm. Thiết kế và phát triển sản phẩm mới diễn ra chậm chạp, lệ thuộc chủ yếu vào nguồn lực nội bộ, công nghệ và công suất. Chia sẻ công nghệ chuyên môn thông qua sự cộng tác giữa người mua và người bán là thuật ngữ hiếm nghe ở giai đoạn này. Tồn kho trong sản xuất tăng cao do các nhà máy tăng cường tồn kho để máy móc hoạt động thông suốt và cân đối dòng nguyên vật liệu.

Trong thập niên 1960 và 1970, hệ thống hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu (MRP) và hệ thống hoạch định nguồn lực sản xuất (MRPII) được phát triển; tầm quan trọng của quản trị nguyên vật liệu hiện quả càng được nhấn mạnh. Các phần mềm kiểm soát tồn kho ngày càng hiệu quả do sự phát triển của công nghệ thông tin đã giảm đáng kể chi phí tồn kho trong khi vẫn cải thiện truyền thông nội bộ về nhu cầu của các chi tiết cần mua cũng như nguồn cung. ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Thập niên 1980 được xem như là thời kỳ nền móng cho quản trị chuỗi cung ứng. Thuật ngữ quản trị chuỗi cung ứng lần đầu tiên được sử dụng rộng rãi trên nhiều tạp chí ở Mỹ. Cạnh tranh trên thị trường toàn cầu ngày càng trở nên khốc liệt vào đầu thập niên 1980 đã gây áp lực tới các nhà sản xuất cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, và gia tăng mức độ phục vụ khách hàng. JIT và chiến lược quản trị chất lượng toàn diện TQM được các hãng sản xuất áp dụng nhằm cải thiện chất lượng, nâng cao hiệu suất, và thời gian giao hàng. Cùng với việc sử dụng ít tồn kho làm đệm cho lịch trình sản xuất, các doanh nghiệp bắt đầu nhận thấy lợi ích tiềm tàng và tầm quan trọng của mối quan hệ chiến lược và hợp tác giữa nhà cung cấp-người mua- khách hàng.

Để giải quyết những thách thức đang gia tăng vào đầu thập niên 1990 về cải thiện chất lượng, hiệu quả sản xuất, dịch vụ khách hàng và thiết kế, phát triển sản phẩm mới, các nhà sản xuất bắt đầu mua sản phẩm từ các nhà cung cấp chất lượng cao, có danh tiếng, và được chứng thực. Bên cạnh đó, các hãng sản xuất kêu gọi các nhà cung cấp tham gia vào việc thiết kế, phát triển sản phẩm mới, cũng như đóng góp ý kiến nhằm cải thiện dịch vụ, chất lượng, và giảm chi phí chung. Nhờ đó, doanh số của các doanh nghiệp sản xuất tăng thông qua sự cải tiến chất lượng, phân phối, và thiết kế sản phẩm, cũng như giảm chi phí nhờ vào việc quan tâm nhiều đến tiến trình, nguyên vật liệu, và các linh kiện trong quá trình sản xuất. Nhiều liên minh giữa nhà cung cấp-người mua đã thành công. Vào cuối những năm 1990, quản trị chuỗi cung ứng trở nên phổ biến hơn, như là nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.

Trong thời gian đó, các học giả, các nhà quản trị bắt đầu nhận thức sâu sắc hơn sự khác biệt giữa logistics và quản trị chuỗi cung ứng. Phải tới thời điểm này thì quản trị chuỗi cung ứng mới được nhìn nhận như là hoạt động hậu cần bên ngoài doanh nghiệp. Khi ứng dụng các sáng kiến của quản trị chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp bắt đầu hiểu được sự cần thiết phải tích hợp tất cả các quy trình kinh doanh then chốt giữa các bên tham gia trong chuỗi cung ứng, cho phép chuỗi cung ứng hoạt động thống nhất. Tương tự, các doanh nghiệp cũng nhận ra lợi ích trong việc tạo ra các liên minh hay sự cộng tác với khách hàng. Trong tương lai, quản trị chuỗi cung ứng có thể nhấn mạnh tới mở rộng chuỗi cung ứng, gia tăng trách nhiệm của chuỗi và nhấn mạnh hơn nữa vào chuỗi cung ứng “xanh”, cũng như cắt giảm đáng kể chi phí của chuỗi.

1.2.3. Nội dung của quản trị chuỗi cung ứng: ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Mỗi chuỗi cung ứng dù có quy mô, cấu trúc, và nhu cầu thị trường riêng, nhưng nhìn chung đều được cấu tạo từ 5 thành phần cơ bản: sản xuất, tồn kho, địa điểm, vận tải, và thông tin.8( Michael Hugos, 2003)

  • Sản xuất

 Sản xuất chính là khả năng tạo ra và lưu trữ sản phẩm của chuỗi cung ứng. Nhà máy và nhà kho là những cơ sở vật chất trong sản xuất. Vấn đề cơ bản của những nhà quản lý khi ra quyết định sản xuất là làm thế nào để cân bằng giữa khả năng đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng và tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất. Nếu phân xưởng và nhà kho được thiết kế với công suất quá lớn, các doanh nghiệp có thể linh hoạt và nhanh chóng đáp ứng được sự thay đổi về nhu cầu sản phẩm. Nếu hầu hết công suất của nhà máy và nhà kho được sử dụng thì chuỗi cung ứng khó có thể phản ứng   kịp thời với sự thay đổi nhu cầu của khách hàng. Nói cách khác, công suất dư thừa làm tiêu tốn tiền của, công suất   đó là công suất vô ích, không mang lại doanh thu. Do đó, công suất càng dư thừa thì việc sản xuất càng kém hiệu quả. Các nhà máy có thể được xây dựng để thích nghi với một trong hai phương thức sản xuất.

  • Tập trung sản phẩm: Nhà máy thực hiện một loạt các hoạt động để tạo ra một dòng sản phẩm, từ việc sản xuất các bộ phận khác nhau của sản phẩm đó, rồi lắp ráp các bộ phận này thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
  • Tập trung chức năng: phương pháp này tập trung thực hiện chỉ một vài hoạt động: hoặc là chỉ sản xuất một nhóm bộ phận của sản phẩm hoặc chỉ lắp ráp. Những chức năng này có thể được áp dụng để sản xuất nhiều lại sản phẩm khác

Phương thức tập trung sản phẩm thường dẫn đến việc phát triển chuyên sâu về một dòng sản phẩm ở mức chi phí giống với việc tập trung chuyên sâu vào một chức năng cụ thể. Các công ty phải quyết định sản xuất theo phương thức nào hoặc kết hợp những gì từ hai cách thức sản xuất đó để đạt được công suất và chuyên môn như mong đợi, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.

Tương tự, hệ thống nhà kho cũng cần được xây dựng phù hợp với từng phương thức sản xuất khác nhau. Sau đây là ba phương pháp chính trong việc lưu kho sản phẩm:

  • Lưu kho theo đơn vị: Theo phương pháp này, tất cả các sản phẩm cùng loại được lưu kho chung với Đây là cách lưu kho hiệu quả và dễ hiểu.
  • Lưu kho theo chức năng: Với phương pháp này, tất cả những hàng hóa khác nhau nhưng có liên quan đến một nhu cầu nào đó của khách hàng hoặc một lĩnh vực công việc được lưu kho chung với nhau. Phương thức lưu kho này giúp thuận tiện cho việc lựa chọn và đóng gói hàng hóa, nhưng thường yêu cầu không gian nhà kho lơn hơn so với phương thức lưu kho theo đơn vị.
  • Lưu kho chéo (cross-docking): là phương pháp được walmart sử dụng đầu tiên nhằm tăng cường tính hiệu quả trong chuỗi cung ứng. Sử dụng phương pháp này, hàng hóa thực ra không được lưu kho. Thay vào đó, nhà kho được sử dụng làm địa điểm để dỡ lượng lớn những hàng hóa khác nhau từ những xe tải của nhà cung cấp. Những lô hàng lớn này được chia thành những lô hàng nhỏ hơn. Những lô hàng nhỏ chứa nhiều loại sản phẩm khác nhau lại được kết hợp theo nhu cầu hàng ngày và nhanh chóng bốc lên xe để vận chuyển đến nơi giao hàng cuối cùng.

1.2.3.2. Tồn kho ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm do nhà sản xuất, nhà phân phối và người bán lẻ tồn trữ dàn trải trong suốt chuỗi cung ứng. Một lần nữa, các nhà quản lý lại phải quyết định tồn kho ở đâu nhằm cân đối giữa tính đáp ứng và tính hiệu quả. Tồn trữ số lượng lớn hàng tồn kho cho phép công ty đáp ứng nhanh chóng những biến động về nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, việc xuất hiện và tồn trữ hàng tồn kho tạo ra một chi phí đáng kể; và để đạt hiệu quả cao thì chi phí tồn kho nên thấp nhất có thể. Có 3 loại tồn kho cơ bản:

  • Tồn kho chu kỳ: là lượng hàng tồn kho cần thiết để thỏa mãn nhu cầu về sản phẩm trong một giai đoạn giữa các kỳ mua hàng. Các doanh nghiệp có xu hướng sản xuất hoặc mua một lượng lớn hàng hóa nhằm đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô. Tuy nhiên, hàng hóa nhiều làm gia tăng chi phí tồn kho gồm: chi phí lưu kho, xử lý và bảo hiểm hàng tồn Các nhà quản lý phải cố gắng cân bằng giữa việc đạt được chi phí đặt hàng thấp, giá rẻ và việc gia tăng chi phí tồn kho khi mua hàng với khối lượng lớn.
  • Tồn kho an toàn: là lượng hàng tồn kho được lưu trữ nhằm đối phó với sự bất ổn. Nếu dự báo nhu cầu được thực hiện chính xác thì hàng tồn kho chỉ cần thiết giữ ở mức tồn kho định kỳ. Tuy nhiên, mọi dự báo đều có sai số, vì thể để đối phó với sai số trong trường hợp nhu cầu tăng đột biến so với dự báo thì tồn kho dự phòng là cần thiết. Ở đây, cần phải cân nhắc giữa chi phí tồn kho gia tăng với phần thua lỗ do tồn kho thiếu.
  • Tồn kho theo mùa: là lượng tồn kho được xây dựng dựa trên cơ sở dự báo sự gia tăng nhu cầu về hàng hóa diễn ra vào những thời kỳ nhất định trong năm. Ví dụ, dự báo rằng nhu cầu về áo chống rét sẽ tăng mạnh vào mùa đông. Một công ty sản xuất quần áo ở mức công suất nhất định, công ty này khó có thể thay đổi công suất khi mùa đông đến. Vì thế công ty sẽ cố gắng sản xuất áo chống rét ở một mức công suất cố định trong năm, và lưu kho sản phẩm trong suốt thời kỳ nhu cầu về áo rét thấp, để bù cho giai đoạn nhu cầu tăng quá cao, vượt mức công suất của nhà máy. Một lựa chọn thay thế cho tồn kho theo mùa là hướng đến đầu tư khu vực sản xuất linh hoạt, có thể nhanh chóng thay đổi công suất sản xuất các sản phẩm khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng. Trong trường hợp này, vấn đề chính là sự đánh đổi giữa chi phí lưu kho theo mùa và chi phi để có được khu vực sản xuất linh hoạt.

1.2.3.3. Địa điểm ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Địa điểm đề cập đến việc xác định vị trí địa lý cho những nhà máy trong chuỗi cung ứng, cũng như các quyết định về những hoạt động được thực hiện trong mỗi nhà máy này. Đánh đổi giữa tính đáp ứng nhanh và tính hiệu quả là việc ra quyết định, hoặc phân tán các hoạt động ở những khu vực gần khách hàng và nhà cung ứng để hoạt động diễn ra nhanh chóng, hoặc tập trung hoạt động ở một vài địa điểm để đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô. Quyết định về địa điểm được xem như là một quyết định chiến lược vì ảnh hưởng lớn đến tài chính trong kế hoạch dài hạn. Khi quyết định về địa điểm, nhà quản lý cần xem xét hàng loạt các yếu tố có liên quan như chi phí phòng ban, lao động, kỹ năng cần có trong sản xuất, điều kiện cơ sở hạ tầng, thuế, và vị trí gần với nhà cung cấp hay người tiêu dùng. Quyết định địa điểm có tác động mạnh đến chi phí và đặc tính hoạt động của chuỗi cung ứng. Quyết định địa điểm phản ánh chiến lược cơ bản của một công ty về việc xây dựng và phân phối sản phẩm đến thị trường. Khi định được địa điểm, số lượng, và kích cỡ thì chúng ta xác định được số lượng kênh phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng.

1.2.3.4. Vận tải

Vận tải liên quan đến sự di chuyển mọi thứ từ nguyên liệu thô đến thành phẩm giữa các giai đoạn khác nhau trong chuỗi cung ứng. Sự cân bằng giữa tính đáp ứng nhanh và tính hiệu quả được biểu hiện thông qua việc lựa chọn phương thức vận tải. Phương thức vận tải nhanh như máy bay dù rất nhanh chóng nhưng chi phí rất cao. Ngược lại, các phương thức vận tải như vận tải đường biển và đường sắt dù đạt được hiệu quả về chi phí nhưng đáp ứng không kịp thời. Có 6 phương thức vận tải cơ bản:

  • Vận tải đường biển: chi phí thấp nhưng lại là phương thức vận tải chậm nhất. Phương thức này chỉ được sử dụng để vận chuyển hàng hóa giữa những địa điểm gần đường thủy hoặc đường biển như: kênh rạch, cảng biển…
  • Đường sắt: giá thành rẻ, chi phí trung bình, nhưng cũng bị hạn chế do bị phụ thuộc vào hệ thống đường
  • Đường ống: tương đối hiệu quả nhưng bị giới hạn loại hàng hóa như: nước, dầu, khí
  • Đường bộ: là phương thức vận tải nhanh và rất thuận tiện. Xe tải hầu như có thể đi khắp mọi nơi, tuy nhiên chi phí dễ biến động vì chi phí nhiên liệu biến động và đường xá thay đổi.
  • Đường hàng không: là hình thức vận chuyển rất nhanh, đáp ứng rất kịp thời. Đây cũng là hình thức có chi phí đắt nhất và bị hạn chế bởi công suất vận chuyển.
  • Vận chuyển điện tử: là hình thức vận chuyển nhanh nhất, rất linh hoạt và có hiệu quả về chi phí. Hình thức này chỉ được sử dụng để vận chuyển loại sản phẩm như năng lượng điện, dữ liệu và các sản phẩm được tạo từ dữ liệu như hình ảnh, nhạc, văn bản.

Các nhà quản lý cần phải kết hợp những phương thức vận tải khác nhau với những địa điểm trong chuỗi cung ứng để thiết kế ra lộ trình và mạng lưới phân phối sản phẩm đến thị trường. Lộ trình là một đường dẫn mà sản phẩm sẽ di chuyển qua, và mạng lưới gồm các lộ trình và những địa điểm được kết nối bởi những đường dẫn này. Theo nguyên tắc chung, hàng hóa có giá trị càng cao (như linh kiện điện tử, hàng dược phẩm…) thì mạng lưới vận chuyển càng phải tập trung vào tính kịp thời; hành hóa có giá trị thấp hơn (như các loại hàng: ngũ cốc, gỗ…) thì càng nên nhấn mạnh đến tính hiệu quả.

1.2.3.5. Thông tin ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Thông tin là cơ sở để ra những quyết định có liên quan đến bốn yếu tố thúc đẩy chuỗi cung ứng. Thông tin chính là yếu tố kết nối tất cả các hoạt động và vận hành chuỗi cung ứng. Nếu thông tin là chính xác, kịp thời, các công ty trong chuỗi cung ứng có thể đưa ra những quyết định về hoạt động sản xuất đúng đắn. Điều này mang lại khả năng tối đa hóa lợi nhận cho toàn chuỗi cung ứng. Thông tin được sử dụng nhằm 2 mục đích:

  • Phối hợp những hoạt động hàng ngày có liên quan đến chức năng của 4 yếu tố là: sản xuất, tồn kho, địa điểm, và vận tải. Trong chuỗi cung ứng, các công ty sử dụng các dữ liệu sẵn có về cung và cầu hàng hóa để quyết định lịch trình sản xuất hàng tuần, các mức tồn kho, tuyến đường vận tải, và địa điểm lưu trữ hàng hóa.
  • Dự báo và lập kế hoạch để lường trước và đáp ứng kịp thời nhu cầu về sản phẩm trong tương lai. Các dự báo mang tính chiến thuật dựa trên cơ sở những thông tin sẵn có, giúp doanh nghiệp lựa chọn lịch trình, thời gian biểu cho việc sản xuất hàng tháng, hàng quý. Bên cạnh đó, thông tin đóng vai trò rất lớn trong việc đưa ra những dự báo mang tầm chiến lược như: xây dựng phân xưởng mới, thâm nhập thị trường mới, hoặc rút lui khỏi thị trường hiện tại.

Trong phạm vi một công ty, cân đối giữa tính kịp thời và tính hiệu quả là đo lường lợi ích mà thông tin đem lại so với những chi phí có được thông tin đó. Thông tin chính xác, kịp thời có khả năng đưa ra những quyết định sản xuất hiệu quả, những dự báo chuẩn xác; nhưng chi phí để xây dựng và lắp đặt hệ thống cung cấp thông tin lại rất lớn. Trong phạm vi chuỗi cung ứng, các công ty quyết định tính kịp thời và tính hiệu quả chính là quyết định bao nhiêu thông tin chia sẻ cho các công ty khác, và bao nhiêu thông tin được giữ lại. Các công ty chia sẻ với nhau càng nhiều thông tin về sản phẩm, nhu cầu khách hàng, dự báo thị trường, lịch trình sản xuất…. thì mỗi công ty càng đáp ứng kịp thời hơn. Tuy nhiên, một khi thông tin được tiết lộ, lại khiến các công ty gia tăng lo ngại về việc thông tin đó bị đối thủ cạnh tranh sử dụng để chống lại chính mình. Chi phí tiềm ẩn này cộng thêm sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, có thể gây thiệt hại đến lợi nhuận của doanh ngiệp.

1.2.4. Cấu trúc chuỗi cung ứng ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Một chuỗi cung ứng đơn giản nhất bao gồm: nhà cung cấp, doanh nghiệp, và khách hàng của doanh nghiệp. Đây là những thành phần cơ bản tạo nên một chuỗi cung ứng đơn giản.

Các chuỗi cung ứng mở rộng ngoài 3 thành phần cơ bản trên, còn thêm 3 thành phần nữa. Thứ nhất là nhà cung cấp của các nhà cung cấp, hay được gọi là nhà cung cấp đầu tiên, ở vị trí đầu tiên của chuỗi cung ứng mở rộng. Thứ hai là khách hàng của khách hàng, hay khách hàng cuối cùng, ở vị trí cuối cùng của chuỗi cung ứng mở rộng. Cuối cùng là các công ty cung cấp dịch vụ cho những công ty khác trong chuỗi cung ứng. Những công ty này chuyên cung cấp các dịch vụ về: logistics, tài chính, marketing, và công nghệ thông tin.

Chuỗi cung ứng chính là sự kết hợp của nhiều công ty thực hiện những chức năng khác nhau. Các công ty đó bao gồm: nhà sản xuất, nhà phân phối hay nhà bán buôn, nhà bán lẻ, những khách hàng cá nhân, hoặc khách hàng tổ chức. Hỗ trợ những công ty này là các công ty được biết đến với tên: nhà cung cấp dịch vụ.

  • Nhà sản xuất: là những tổ chức sản xuất sản phẩm, gồm: các công ty sản xuất nguyên vật liệu, và các công ty sản xuất thành phẩm. Các nhà sản xuất nguyên vật liệu như: khai thác khoáng sản, khoan tìm dầu khí, khai thác gỗ….và cũng bao gồm những tổ chức trồng trọt, chăn nuôi, hay đánh bắt thủy hải sản. Các nhà sản xuất thành phẩm tạo ra sản phẩm từ việc sử dụng nguyên vật liệu và các bộ phận lắp ráp được sản xuất ra từ các công ty khác. Nhà sản xuất cũng có thể tạo ra các sản phẩm vô hình như: nhạc, các sản phẩm giải trí, phần mềm, hoặc các bản thiết kế. Hàng hóa cũng có thể là dịch vụ như: cắt cỏ, dọn về sinh văn phòng, tiến hành ca phẫu thuật, hoặc giảng dạy.
  • Nhà phân phối: là những công ty tiến hành lưu kho một khối lượng hàng hóa từ nhà sản xuất, và phân phối chúng đến khách hàng. Nhà phân phối cũng được nhắc đến như nhà bán buôn. Về cơ bản, họ bán hàng với khối lượng lớn cho các chủ thể kinh doanh khác. Để hạn chế tác động xấu từ sự biến động nhu cầu hàng hóa, nhà phân phối thường lưu kho hàng hóa, rồi tiến hành các hoạt động bán hàng nhằm tìm kiếm, phục vụ khách hàng. Để làm thỏa mãn khách hàng, nhà phân phối thực hiện theo tiêu chí giao hàng đúng lúc, đúng địa điểm khách hàng mong muốn. Các nhà phân phối thường sở hữu phần lớn hàng hóa lưu kho mà họ mua từ nhà sản xuất rồi bán lại cho khách hàng. Bên cạnh việc xúc tiến bán hàng, nhà phân phối còn phải thực hiện các hoạt động khác như: quản lý tồn kho, lưu kho, vận chuyển hàng hóa, cũng như dịch vụ hỗ trợ khách hàng. Đôi khi, nhà phân phối chỉ là người môi giới sản phẩm giữa nhà sản xuất và khách hàng. Trong trường hợp này, họ không sở hữu hàng hóa, vì thế họ chủ yếu chỉ thực hiện việc xúc tiến bán hàng. Với cả hai trường hợp này, nhà phân phối luôn là cầu nối đưa sản phẩm từ nhà sản xuất đến những khách hàng có nhu cầu.
  • Nhà bán lẻ: lưu trữ và bán hàng với số lượng ít hơn đến khách hàng đại chúng. Họ cũng quan tâm nhiều đến sở thích và nhu cầu của khách hàng. Quảng cáo kết hợp với giá, lựa chọn sản phẩm, dịch vụ và sự thuận tiện là ưu thế hàng đầu nhằm thu hút khách hàng.
  • Khách hàng: hay người tiêu dùng là bất kỳ cá nhân, tổ chức mua và sử dụng sản phẩm. Khách hàng tổ chức có thể mua sản phẩm để kết hợp với một sản phẩm khác rồi bán chúng. Hoặc khách hàng có thể là người tiêu dùng cuối cùng, mua sản phẩm để tiêu dùng, sử dụng nó.
  • Nhà cung cấp dịch vụ: là những tổ chức cung cấp các dịch vụ cho nhà sản xuất, nhà phân phối, người bán lẻ, và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ có kiến thức chuyên sâu, và các kỹ năng đặc biệt ở một hoạt động riêng biệt trong chuỗi cung ứng. Chính vì thế, họ có thể thực hiện những dịch vụ này hiệu quả hơn, với mức giá rẻ hơn so với việc chính các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ, hay người tiêu dùng thực hiện. Trong bất kỳ chuỗi cung ứng nào, nhà cung cấp dịch vụ phổ biến nhất là cung cấp dịch vụ vận tải và dịch vụ kho hàng. Đây là các công ty vận tải và công ty kho hàng, thường được biết đến là nhà cung cấp logistics. Nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp các dịch vụ như cho vay, phân tích tín dụng và thu các khoản nợ đáo hạn. Đó chính là ngân hàng, công ty định giá tín dụng và công ty thu nợ. Một số nhà cung cấp thực hiện nghiên cứu thị trường, quảng cáo, thiết kế sản phẩm, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ pháp lý, và tư vấn quản lý. Trong khi những nhà cung cấp khác tiến hành các dịch vụ về công nghệ thông tin, thu thập dữ liệu. Tất cả các nhà cung cấp dịch vụ được kết hợp vào những hoạt động liên tục của nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ, và khách hàng ở mức cao hoặc thấp trong chuỗi cung ứng.

Mời bạn tham khảo thêm:

Tổng hợp bài mẫu Luận văn Thạc Sĩ

1.3. Quy trình quản trị chuỗi cung ứng:

Theo Hội Đồng Chuỗi Cung Ứng, quy trình quản trị chuỗi cung ứng hoạt động nhờ 4 yếu tố, gồm: lập kế hoạch, tìm nguồn cung ứng9, sản xuất, và phân phối10.

1.3.1. Lập kế hoạch ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

1.3.1.1. Quản trị tồn kho

Tồn kho là số lượng hàng hóa có sẵn trong kho. Hàng tồn kho có thể là nguyên vật liệu, thành phẩm, và đôi khi là bán thành phẩm.

Nguyên nhân xuất hiện hàng tồn kho là: thứ nhất và quan trọng nhất đó là đảm bảo tính không chắc chắn do sự thay đổi nhu cầu hoặc khan hiếm nguồn cung. Thứ hai, lưu trữ hàng hóa để tránh hàng lỗi. Thứ ba, tồn kho cũng là phương pháp để ổn định sản xuất. Ví dụ, nhu cầu về quần áo rét vào mùa đông tăng mạnh, để đáp ứng được nhu cầu, quần áo rét sẽ được sản xuất quanh năm và lưu kho. Phương pháp này được sử dụng trong việc sản xuất rất nhiều sản phẩm mùa vụ, cũng như trong việc sản xuất mặt hàng công nghệ đắt tiền, nhằm để tái đầu tư hiệu quả. Thứ tư, hàng được lưu kho nhằm mục đích dự phòng: ví dụ, khi ra đời một sản phẩm đột phá như iPhone, nhu cầu về sản phẩm thường chưa xuất hiện, nên rất khó dự đoán. Vì thế, công ty Apple sẽ quyết định sản xuất một lượng sản phẩm để dự phòng trước khi tung sản phẩm ra thị trường, nhằm đảm bảo đủ hàng khi nhu cầu tăng vọt. Cuối cùng, tồn kho là phương pháp để cân bằng cung và cầu.

  • Các dạng tồn kho: có nhiều dạng tồn kho, nhưng 2 dạng cần chú ý nhất trong quản trị tồn kho đó là: tồn kho chu kỳ và tồn kho an toàn.
  • Tồn kho chu kỳ: là lượng hàng tồn kho cần thiết để đáp ứng nhu cầu về hàng hóa đó trong khoảng thời gian giữa các lần đặt hàng. Tồn kho chu kỳ hiệu quả vì tính kinh tế theo quy mô. Các doanh nghiệp thích đặt một số lượng lớn hàng hóa trong một vài lần hơn là liên tục đặt các đơn hàng với số lượng nhỏ. Tồn kho chu kỳ làm gia tăng hàng tồn kho trong chuỗi cung ứng, vì trên thực tế các doanh nghiệp luôn sản xuất và lưu kho hàng hóa với số lượng lớn hơn nhu cầu hiện tại của hàng hóa đó.
  • Tồn kho an toàn: là phương pháp để bảo hiểm tính không chắc chắn luôn tồn tại trong chuỗi cung ứng. Các nhà bán lẻ và nhà phân phối để tránh tình trạng hết hàng do nhu cầu tăng mạnh của khách hàng hoặc do chậm trễ nguồn cung, họ luôn lưu trữ một lượng hàng. Thường thì mức độ không chắc chắn càng cao, tồn kho an toàn càng lớn. Tồn kho an toàn của một loại sản phẩm là số lượng lưu kho sản phẩm đó tại thời điểm nhập thêm lô hàng mới cùng chủng loại. Điều này cho thấy, lượng hàng tồn kho an toàn không đổi, và vì thế nó là một loại tài sản cố định của doanh nghiệp.
  • Giảm tồn kho: có nhiều cách để giảm hàng tồn Đặt hàng thường xuyên hơn để làm giảm lượng hàng tồn kho chu kỳ, ví dụ, thay bằng đặt hàng một tháng một lần, ta đặt hàng một tuần một lần. Tương tự, để giảm lượng hàng tồn kho an toàn, thường có 4 phương pháp sau:11 (Colin Scott, Paul Thompson, Henriette Lundgren, 2011)
  • Giảm thời gian thực hiện đơn hàng
  • Giảm tính không chắc chắn của nhà cung ứng
  • Giảm sai số trong các dự báo cầu
  • Giảm mức độ dịch vụ

Rút ngắn thời gian thực hiện đơn hàng của nhà cung cấp, ví dụ giảm từ 4 ngày xuống 1 ngày, thì số lượng hàng tồn kho an toàn để đảm bảo nguồn cung sẽ ít đi. Tương tự, khi các nhà cung cấp trở nên đáng tin cậy hơn (sự biến thiên thời gian thực hiện đơn hàng bằng không), tồn kho an toàn cũng giảm đáng kể. Tiếp theo, việc giảm sai số trong các dự báo làm hạn chế tính không chắc chắn về nhu cầu; kết quả làm giảm mức hàng hóa cần lưu trữ. Cuối cùng, việc giảm các mức độ dịch vụ sẽ tác động tích cực đến lượng hàng tồn kho. Giảm mức độ dịch vụ tức là giảm tính sẵn sàng của sản phẩm. Nếu thỏa thuận này được khách hàng chấp thuận, doanh nghiệp sẽ cải thiện đáng kể lượng hàng tồn kho an toàn phải nắm giữ.

1.3.1.2. Lên kế hoạch cung và cầu

  • Mô tả cầu: Cầu được phân loại theo các đặc điểm như:
  • Mức độ: nhu cầu về sản phẩm trên một khu vực cao hay thấp
  • Tần suất: sản phẩm đó đang được tiêu thụ nhanh hay chậm
  • Theo các mô hình: nhu cầu về sản phẩm đó luôn ổn định, hay chỉ xuất hiện theo mùa, hoặc đang có xu hướng tăng (giảm).
  • Theo vòng đời sản phẩm: sản phẩm đó đang ở giai đoạn nào trong vòng đời sản phẩm. Ví dụ, sản phẩm vừa mới thâm nhập thị trường, nhu cầu khó dự đoán; sản phẩm đang giai đoạn suy thoái, nhu cầu đang giảm mạnh.

Việc nhận dạng và phân loại nhu cầu của thị trường giúp các nhà lập kế hoạch tập trung nguồn lực vào những mặt hàng có tiềm năng, dự báo nhu cầu sản phẩm đó chính xác, và quản trị tồn kho hiệu quả.

  • Các phương pháp dự báo: Có 4 phương pháp cơ bản được sử dụng trong việc dự báo cầu là:
  • Phương pháp định tính: dựa vào trực giác, khả năng quan sát hay ý kiến chủ quan về thị trường. Phương pháp này thường được sử dụng khi có rất ít dữ liệu quá khứ để tiến hành dự báo. Khi có một dòng sản phẩm mới tung ra thị trường, công ty có thể dự báo dựa vào việc so sánh với các sản phẩm khác, hoặc với các tình huống mà công ty cho rằng có sự giống
  • Phương pháp nhân quả: giả thiết rằng nhu cầu có liên quan mạnh đến các yếu tố thị trường. Ví dụ, nhu cầu vay vốn có liên quan mạnh đến tỉ lệ lãi suất.
  • Phương pháp dãy thời gian: sử dụng các số liệu quá khứ để dự báo nhu cầu tương lai. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả khi các dữ liệu quá khứ là đáng tin cậy. Sau đây là một vài phương pháp dãy thời gian thường được sử dụng:
  • Phương pháp bình quân trượt: Mỗi dự báo là số bình quân của nhiều mức nhu cầu khác
  • Phương pháp san bằng mũ: Mỗi dự báo là bình quân trọng số của dự báo trước và điểm nhu cầu gần đây. Phương pháp này tương tự với bình quân trượt, ngoại trừ đó là bình quân trọng số cho tất cả các điểm dữ liệu quá khứ, trong đó các điểm càng gần thời gian hiện tại có trọng số càng
  • Các phương pháp đối với dữ liệu có xu hướng: như: phân tích hồi quy, ấn định đường thẳng cho chuỗi dữ liệu.
  • Các phương pháp đối với dữ liệu mùa: ví dụ, phương pháp phân tích mùa vụ loại bỏ các vấn đề thời vụ từ số liệu và sau đó áp dụng các kỹ thuật liệt kê với số liệu đã hiệu chỉnh.
  • Phương pháp mô phỏng sử dụng kết  hợp  giữa phương pháp nhân quả và phương pháp dãy thời gian để mô phỏng hành vi của người tiêu dùng trong các hoàn cảnh khác

1.3.2. Tìm nguồn cung ứng ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Trong hoạt động tìm nguồn cung ứng, có 4 hoạt động chính: mua hàng, lựa chọn nhà cung cấp, thương lượng hợp đồng, và quản lý hợp đồng.

1.3.2.1. Mua hàng

Mua hàng được hiểu là hành động trao đổi tiền hoặc tương đương tiền để có được hàng hóa, tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu, dịch vụ; hoặc được cung cấp dịch vụ bảo dưỡng, sửa chữa, điều hành.

Khi quyết định mua hàng thì bộ phận cung ứng phát bản chào hàng, liên hệ với nhà cung cấp và cuối cùng là đặt hàng. Giữa công ty và nhà cung cấp, có nhiều hoạt động tương tác trong quá trình mua hàng như: danh mục sản phẩm, số lượng đơn đặt hàng, giá cả, phương thức vận chuyển, ngày giao hàng, địa chỉ giao hàng và các điều khoản thành toán.

1.3.2.2. Lựa chọn nhà cung cấp

Lựa chọn nhà cung cấp là quá trình liên tục để xác định khả năng cung ứng cần có của nhà cung cấp nhằm hỗ trợ cho kế hoạch kinh doanh cũng như mô hình hoạt động của công ty. Khả năng cung ứng của nhà cung cấp sẽ được đánh giá dựa vào: mức giá của sản phẩm, chất lượng sản phẩm, mức độ dịch vụ, khả năng giao hàng đúng thời hạn, và các hỗ trợ công nghệ. Một khi công ty xác định rõ được nhu cầu về sản phẩm cũng như những yêu cầu khác đối với nhà cung ứng, công ty có thể tìm kiếm được người cung cấp đáp ứng tốt nhất những yêu cầu đó. Một nguyên tắc chung là công ty luôn phải thu hẹp dần số lượng nhà cung cấp để lựa chọn đối tác phù hợp. Đây chính là đòn bẩy quyết định quyền lực của người mua với nhà cung cấp để có được mức giá tốt nhất khi mua sản phẩm khối lượng lớn

1.3.2.3. Thương lượng hợp đồng

Khi phát sinh nhu cầu kinh doanh cụ thể, hợp đồng sẽ được đàm phán riêng với từng nhà cung cấp có tên trong bản danh sách các nhà cung cấp được lựa chọn. Trong quá trình đàm phán, các điều khoản cụ thể về hàng hóa, giá cả, và mức độ dịch vụ sẽ được giải quyết. Việc đàm phán giữa hai bên phải được thực hiện trên cơ sở cân bằng giữa đơn giá của sản phẩm với các dịch vụ làm gia tăng giá trị khác. Các dịch vụ này có thể được trả dựa vào mức chênh lệch so với đơn giá, hoặc được thanh toán riêng, hay cũng có thể kết hợp cả hai hình thức. Các điều khoản về việc thực hiện hợp đồng phải được quy định rõ ràng, cũng như những điều khoản phạt, và các mức phí phạt nếu việc thực hiện không đúng như quy định. Bên cạnh đó, các nhà cung cấp cần thiết phải thiết lập cho mình những năng lực chung. Để hoạt động mua hàng hiệu quả, nhà cung cấp phải có khả năng kết nối dữ liệu điện tử nhằm mục đích nhận các đơn đặt hàng, gửi thông báo giao hàng, gửi hóa đơn, và nhận thanh toán.

1.3.2.4. Quản lý hợp đồng

Khi hợp đồng được ký kết, việc thực hiện hợp đồng của nhà cung cấp cần được đo lường và giám sát. Do các công ty thường chỉ lựa chọn một số nhà cung cấp, nên hoạt động của mỗi nhà cung cấp được lựa chọn có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của công ty. Khi đó, một nhà cung cấp có thể là nguồn cung duy nhất cho một loại hàng hóa của công ty, vì thế nếu nhà cung cấp đó không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình như trong hợp đồng thì những hoạt động phụ thuộc vào loại hàng hóa đó của công ty sẽ bị ảnh hưởng. Công ty cần có khả năng đánh giá hiệu quả hoạt động nhà cung cấp và kiểm soát mức đáp ứng dịch vụ cung ứng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Tương tự như quản lý kênh tiêu thụ, nhân viên trong công ty phải thường xuyên thu thập dữ liệu về tính hiệu quả của nhà cung cấp.

Thông thường, bản thân nhà cung cấp luôn có khả năng giám sát các hoạt động của mình. Họ có khả năng phản ứng nhanh trước những vấn đề phát sinh để giữ hợp đồng. Minh họa cho vấn đề này chính là khái niệm VMI ( Vendor managed Inventory)-Hàng tồn kho được quản lý bởi nhà cung ứng. Mô hình này yêu cầu nhà cung cấp theo dõi mức tồn kho sản phẩm của mình bên trong công ty khách hàng. Nhà cung cấp chịu trách nhiệm theo dõi mức sử dụng và tính toán lượng đặt hành kinh tế. Sau đó, họ chủ động vận chuyển sản phẩm đến địa điểm của khách hàng cần, và gửi hóa đơn cho khách hàng vê số lượng hàng gửi theo các điều khoản đã ghi trong hợp đồng.

1.3.3. Sản xuất ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

1.3.3.1. Thiết kế sản phẩm trong sản xuất

Việc thiết kế và lựa chọn các yếu tố cần thiết để sản xuất ra sản phẩm dựa trên tính năng yêu cầu và công nghệ sẵn có. Khi xem xét thiết kế sản phẩm trên quan điểm chuỗi cung ứng, mục tiêu là nhằm thiết kế những sản phẩm đơn giản hơn, có ít bộ phận cấu thành hơn, và có tính chất mô hình hóa từ tổ hợp nhiều đơn vị cấu thành riêng lẻ. Bằng cách này, các bộ phận có thể được cung cấp từ một nhóm nhỏ các nhà cung cấp. Và hàng tồn kho được lưu trữ dưới dạng các bộ phận riêng lẻ ở một vị trí thích hợp trong chuỗi cung ứng, nên công ty không cần nắm giữ khối lượng lớn thành phẩm. Sản phẩm càng linh hoạt, tính đáp ứng cao, và đạt hiệu quả chi phí thì khả năng thành công của sản phẩm trong thị trường càng cao. Thiết kế sản phẩm xác định hình dạng của chuỗi cung ứng, và điều này có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí và tính sẵn có của sản phẩm. Một khi một sản phẩm có sự kết hợp của 3 yếu tố: thiết kế, cung ứng, và sản xuất, thì sản phẩm ấy có được cơ hội rất lớn để thành công và tạo ra lợi nhuận.

1.3.3.2. Lập kế hoạch sản xuất

Là phân bổ những nguồn lực sẵn có (thiết bị, lao động, nhà máy) cho việc sản xuất các sản phẩm nhằm sử dụng các nguồn lực đó một cách hiệu quả nhất, và tạo ra lợi nhuận. Hoạt động lập kế hoạch sản xuất là một quá trình nhằm tìm ra sự cân bằng giữa các mục tiêu:

  • Mức sử dụng cao: sản xuất trong dài hạn, tập trung hóa sản xuất và các trung tâm phân phối nhằm đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô.
  • Mức tồn kho thấp: chia nhỏ sản xuất, giao nguyên vật liệu đúng lúc nhằm tối thiểu hóa tài sản và dòng tiền mặt bị ứ đọng trong hàng tồn
  • Dịch vụ khách hàng ở mức cao: hàng tồn kho được giữ ở mức cao nhằm tăng khả năng đáp ứng khách hàng, tránh tình trạng hết hàng.

Các bước trong quá trình lập kế hoạch sản xuất gồm: thứ nhất, xác định quy mô kinh tế cho việc sản xuất sản phẩm. Quyết định quy mô kinh tế là việc cân đối giữa chi phí sản xuất sản phẩm với chi phí lưu giữ hàng tồn kho. Cụ thể, sản xuất thường xuyên với khối lượng nhỏ, giảm chi phí tồn kho nhưng gia tăng chi phí sản xuất và ngược lại. Thứ hai, xác định số lần sản xuất cho sản phẩm dựa vào thời gian sử dụng hàng tồn kho tối đa (là số ngày hay tuần công ty sẽ dùng hết sản phẩm tồn kho để đáp ứng nhu cầu phát sinh).

1.3.3.3. Quản lý nhà máy trong sản xuất

Quản lý nhà máy là xem xét các địa điểm bố trí nhà máy và tập trung sử dụng công suất sẵn có hiệu quả nhất. Điều này liên quan đến quyết định ở 3 lĩnh vực:

  • Vai trò của mỗi nhà máy là xác định những hoạt động nào sẽ được thực hiện trong mỗi nhà máy. Những quyết định này có tác động rất lớn đến tính linh hoạt của chuỗi cung ứng, có thể đáp ứng được sự thay đổi nhu cầu.
  • Phân bổ công suất cho mỗi nhà máy: Quyết định về phân bổ công suất liên quan đến thiết bị và nguồn nhân công sử dụng trong các nhà máy, đồng thời được thực hiện thông qua vai trò của mỗi nhà máy.
  • Phân bổ các nhà cung cấp và thị trường cho mỗi nhà máy. Sự phân bổ nhà cung cấp và thị trường cho mỗi nhà máy bị ảnh hưởng bởi hai quyết định trước đó. Sự tham gia của các nhà cung cấp, khối lượng sản phẩm sản xuất tùy thuộc vào vai trò và công suất được phân bổ của mỗi nhà máy. Những quyết định này ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển từ nhà cung cấp đến nhà máy và từ nhà máy đến khách hàng. Những quyết định này cũng ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của toàn bộ chuỗi cung ứng.

1.3.4. Phân phối ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

1.3.4.1. Quản lý đơn hàng trong phân phối

Quản lý đơn hàng là quá trình truyền thông tin phản hồi của khách hàng thông qua chuỗi cung ứng từ nhà bán lẻ đến nhà phân phối, đến những nhà cung cấp dịch vụ, và nhà sản xuất. Quá trình này cũng đồng thời truyền tải thông tin về ngày giao hàng, sản phẩm thay thế và những đơn hàng thực hiện trước đó của khách hàng. Quản lý đơn hàng hiện đại tập trung vào những kỹ thuật có thể giúp dòng dữ liệu liên quan đến đơn hàng diễn ra nhanh hơn và hiệu quả hơn. Trong quá trình quản lý đơn hàng cũng cần xử lý một số trường hợp ngoại lệ, từ đó đưa ra cách nhận diện vấn đề nhanh chóng và quyết định đúng đắn hơn. Điều này có nghĩa là quá trình quản lý đơn hàng hàng ngày nên tự động hóa và có những đơn hàng đòi hỏi quá trình xử lý đặc biệt do nhầm lẫn ngày giao hàng, yêu cầu của khách hàng thay đổi. . . Với những yêu cầu như vậy, quản lý đơn hàng thường bắt đầu bằng sự kết hợp chồng chéo chức năng của bộ phận tiếp thị và bán hàng, được gọi là quản lý mối quan hệ khách hàng – CRM (Customer Relationship Management). Có một số nguyên tắc cơ bản được liệt kê dưới đây có thể giúp quá trình quản lý đơn hàng hiệu quả:

  • Nhập dữ liệu cho một đơn hàng: nhập một và chỉ một lần.
  • Tự động hóa trong xử lý đơn hàng.
  • Đơn hàng luôn ở trạng thái sẵn sàng phục vụ khách hàng.
  • Tích hợp hệ thống đặt hàng với các hệ thống liên quan khác để duy trì tính toàn vẹn dữ liệu.

1.3.4.2. Kế hoạch phân phối

Kế hoạch phân phối chịu ảnh hưởng mạnh từ quyết định liên quan đến cách thức vận tải được sử dụng. Đối với hầu hết các phương thức vận tải đều có 2 hình thức giao hàng phổ biến nhất trong kế hoạch phân phối là: phân phối trực tiếp và phân phối theo lộ trình đã định.

  • Phân phối trực tiếp

Phân phối trực tiếp là quá trình phân phối từ một địa điểm gốc đến một địa điểm nhận hàng. Với phương thức này, đơn giản nhất là lựa chọn lộ trình vận tải ngắn nhất giữa hai địa điểm. Kế hoạch phân phối gồm những quyết định về số lượng và số lần giao hàng cho mỗi địa điểm. Thuận lợi trong mô hình này là hoạt động đơn giản và có sự kết hợp phân phối. Phương pháp này vận chuyển sản phẩm trực tiếp từ một địa điểm sản phẩm được sản xuất/tồn kho đến một địa điểm sản phẩm được sử dụng. Nó cắt giảm hoạt động trung gian thông qua vận chuyển những đơn hàng nhỏ đến một điểm tập trung, sau đó kết hợp thành một đơn hàng lớn hơn để phân phối đồng thời.

  • Phân phối theo lộ trình đã định

Phân phối theo lộ trình đã định là phân phối sản phẩm từ một địa điểm gốc đến nhiều địa điểm nhận hàng, hay phân phối sản phẩm từ nhiều địa điểm gốc đến một địa điểm nhận hàng. Kế hoạch phân phối theo lộ trình đã định phức tạp hơn so với phân phối trực tiếp. Kế hoạch này cần quyết định về số lượng phân phối các sản phẩm khác nhau; số lần phân phối. . . Và điều quan trọng nhất là lộ trình phân phối và hoạt động bốc dỡ khi giao hàng. Điểm thuận lợi của phương pháp phân phối theo theo lộ trình đã định là sử dụng hiệu quả các phương tiện vận chuyển sử dụng và chi phí nhận hàng thấp do địa điểm nhận hàng ít và khối lượng giao hàng nhiều hơn.

1.3.4.3. Nguồn phân phối ( Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ )

Việc phân phối sản phẩm đến khách hàng được thực hiện từ hai nguồn: địa điểm lẻ, và trung tâm phân phối. Địa điểm lẻ như nhà máy, nhà kho. . . , là những nơi có một loại sản phẩm hay có danh mục một vài sản phẩm có liên quan với nhau đang sẵn sàng để phân phối. Các địa điểm lẻ được sử dụng khi nhu cầu về sản phẩm ở mức cao và có thể dự báo, đồng thời chúng có vị trí thuận tiện cho việc giao hàng thẳng tới khách hàng với khối lượng lớn. Trung tâm phân phối là nơi tồn trữ, xuất- nhập khối lượng lớn sản phẩm bằng phương tiện vận chuyển có tải trọng lớn đến từ nhiều địa điểm khác nhau. Khi vị trí nhà cung cấp xa khách hàng thì việc sử dụng trung tâm phân phối có tính kinh tế cao do rút ngắn khoảng cách vận chuyển, và tồn trữ khối lượng lớn sản phẩm gần địa điểm với khách hàng -người sử dụng cuối. Trung tâm phân phối là nơi tồn trữ sản phẩm hay sử dụng duy nhất cho kỹ thuật cross-docking. Trung tâm phân phối sử dụng cross-docking mang lại nhiều lợi ích. Thứ nhất, dòng vận chuyển sản phẩm trong chuỗi cung ứng nhanh hơn do có sự hỗ trợ hàng tồn kho. Thứ hai, chí phí tồn trữ ít tốn kém do sản phẩm sử dụng nhanh mà không lưu vào kho. Tuy nhiên, kỹ thuật Cross-docking yêu cầu về mức độ hợp tác chặc chẽ giữa xuất và nhập sản phẩm là rất cao.

Tóm lại, quy trình quản trị chuỗi cung ứng gồm: lập kế hoạch, tìm nguồn cung ứng, sản xuất và phân phối cho phép doanh nghiệp thiết kế, phân bổ các nguồn lực hợp lý, đồng thời làm tăng hiệu quả liên kết giữa các mắt xích trong chuỗi.

Mời bạn tham khảo thêm:

→ Luận văn: Quản trị phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Luận văn: hoạt động phát triển chuỗi cung ứng tập đoàn bán lẻ Wal-mart […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993