Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam thuộc chuyên ngành Quản lý Công, được đánh giá là một bài mẫu hay, điểm cao, nội dung rành mạch chi tiết rõ ràng. Trong đời sống xã hội giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Với xu thế phát triển tri thức ngày nay, sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam tạo ra những bước phát triển là cơ sở và động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Do đó, một tỷ trọng lớn trong tổng Ngân sách Nhà nước đã được đầu tư cho sự nghiệp giáo dục Đại học công lập Việt Nam qua các năm đều tăng trưởng. Song, việc sử dụng nguồn tài chính tại các trường Đại học công lập chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, vẫn còn tồn tại những yếu kém, bất cập kể trên. Cho nên tác giả đã lựa chọn Đề tài Quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam, làm bài luận văn tốt nghiệp của mình
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý tài chính là hoạt động không tách rời với các hoạt động quản lý khác của trường, nó giữ vị trí quan trọng, quyết định và ảnh hưởng tới các hoạt động khác.
Nhằm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để trên cơ sở đó nâng cao chất lượng đào tạo của trường, công tác quản lý tài chính đối với các trường đã được thực hiện, song trước xu hướng phát triển không ngừng của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, quản lý tài chính chính lỏng lẻo cố hữu của một số trường Đại học công lập và quan điểm “cha chung không ai khóc” còn tồn tại là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế. Đáp ứng nhu cầu đổi mới trong quản lý tài chính công, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006, và đến ngày 14/02/2015 nghị định 16/2015/NĐ-CP được ban hành Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên cho đến nay Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam vẫn đang áp dụng Nghị định số 43 của Chính Phủ.
Mục tiêu của chính sách tài chính là thực hiện cải cách mạnh mẽ phương thức quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, cụ thể là: sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính một cách hợp lý nhất để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn; nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả sử dụng kinh phí quản lý hành chính, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.
Nghị định 43 (nay là Nghị định 16) của Chính phủ đã tạo nhiều thuận lợi cho các trường Đại học công lập nói chung và Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam nói riêng. Cơ chế tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập từng bước đổi mới, theo hướng nâng cao quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách nhiệm về tài chính. Các cơ sở giáo dục đại học công lập có quyền tự chủ ngày càng cao, trong việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước giao; được tự chủ trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thu, phát huy tiềm năng về cơ sở vật chất, tài sản hiện có, đội ngũ giảng viên, để mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hoá các loại hình đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội trong nhiều lĩnh vực. Nghị định tạo khung pháp lý để các trường tổ chức các hoạt động tài chính một cách hiệu quả hơn, đáp ứng mục tiêu, sứ mạng tốt hơn. Tuy nhiên thực tế đã cho thấy vẫn còn tồn tại nhiều bất cập đó là được tự chủ tài chính, nhưng không được tự chủ về mức thu học phí. Các cơ sở đào tạo vẫn phải thực hiện mức thu học phí theo “trần” quy định thấp, không đủ bù đắp chi phí hoạt động thường xuyên. Điều này dẫn đến, việc thực hiện tự chủ tài chính không thực chất. Nghị định 43 mới chỉ giao một phần quyền tự chủ tài chính cho các trường trong tổ chức chi, mà chưa được tự chủ trong thiết lập học phí tương ứng với chất lượng đào tạo. Mặc dù khung học phí năm 1998 đã được được sửa đổi bằng Nghị định 49/2010/NĐ-CP. Bất cập này đòi hỏi các trường Đại học công lập phải không ngừng nâng cao hiệu quản lý nguồn thu đồng thời không ngừng tìm tòi để tăng nguồn thu nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của đơn vị mình.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện chế độ tự chủ tài chính tại đơn vị cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Để đánh giá những hạn chế đó, phân tích tìm ra nguyên nhân và đề ra biện pháp tăng cường thực hiện chính sách đang là một yêu cầu cấp bách. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Từ khi triển khai Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính Phủ trong thời gian qua đã tạo điều kiện cho các Học viện, Đại học được chủ động tổ chức hoạt động chuyên môn, gắn việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính với chất lượng và hiệu quả hoạt động. Theo đó các Học viện, Đại học đã thực hiện việc kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy tính dân chủ, chủ động, sáng tạo của lãnh đạo và cán bộ, giảng viên trong nhà trường; nâng cao kỹ năng quản lý, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, ; từng bước giảm dần sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính đối với hoạt động của đơn vị. Đây là vấn đề thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý, nhà khoa học, các học viên đã có nhiều công trình nghiên cứu như:
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với tổng công ty bảo hiểm Việt Nam theo mô hình tập đoàn kinh doanh” của Nguyễn Quốc Trị (2006) đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với TCT BH Việt Nam theo mô hình TĐKD đã lựa chọn, đó là: hoàn thiện cơ chế huy động vốn theo hướng đổi mới cơ chế huy động vốn chủ sở hữu từ hình thức giao vốn sang hình thức Nhà nước đầu tư vốn vào tập đoàn; thực hiện đa dạng hóa sở hữu thông qua hình thức cổ phần hóa trụ sở chính của TCT BH Việt Nam; hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn theo hướng dựa trên cơ sở hợp đồng kinh tế về góp vốn đầu tư; hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản dựa trên nền tảng quan hệ về quyền tài sản và quan hệ pháp luật giữa CTM và CTC; hoàn thiện cơ chế quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận theo hướng: doanh thu, chi phí và lợi nhuận của CTM và các CTC được hạch toán riêng và có sự tách bạch rõ ràng như đối với một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân độc lập; đồng thời, cần hợp nhất doanh thu, chi phí và lợi nhuận của CTM và các CTC trong báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn theo thông lệ của các TĐKD trên thế giới; đổi mới cơ chế phân phối lợi nhuận theo hướng do chủ sở hữu quyết định trên cơ sở quan hệ về quyền tài sản, quyền bình đẳng giữa các chủ sở hữu, đảm bảo hài hòa các lợi ích,…; đổi mới cơ chế kiểm soát tài chính theo hướng tổ chức hệ thống Ban Kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT của CTM, để làm công cụ kiểm tra, giám sát hoạt động hạch toán tài chính, kế toán của các CTC; đồng thời, đổi mới cơ chế kiểm soát tài chính từ mệnh lệnh hành chính sang kiểm soát dựa trên cơ sở quyền tài sản.
- Nguyễn Tấn Lượng (2011) trong đề tài luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện quản lý tài chính tại các trường đại học công lập tự chủ tài chính trên địa bàn Hồ Chí Minh” đã chỉ ra nguồn NSNN cấp chi thường xuyên có xu hướng giảm, nguồn thu học phí ngày càng đóng vai trò quan trọng. Mặt khác luận văn cũng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong trong quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính. Những tồn tại đó được thể hiện ở nhiều mặt ở cả cấp vĩ mô và vi mô.
- Đề tài “Hoàn thiện công tác tài chính tại bệnh viện Đa khoa TX. Ninh Hoà” của Nguyễn Thị Là (2009) đã khái quát sơ bộ về tình hình tài chính tại bệnh viên đa khoa T.X Ninh Hoà, từ đó tác giả đã đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm góp phần hoàn thiện công tác tài chính tại bênh viện trong thời gian tới
- Trần Hồng Hà (2006) với đề tài luận văn thạc sỹ “Quản lý tài chính các đơn vị Sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận” đưa ra quan điểm rằng những chính sách liên quan cần được hoàn thiện hơn nữa để có thể thực hiện được các mục tiêu của cơ chế mới là cho phép đơn vị huy động đa dạng và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sự nghiệp của các đơn vị cung cấp dịch vụ công, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu phát triển của con người.
- Trong luận án tiến sĩ “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp viễn thông ở Việt Nam theo mô hình tập đoàn kinh tế trong điều kiện phát triển và hội nhập” của Trần Duy Hải (2009) tác giả đã tập trung nghiên cứu thực trạng cơ chế quản lý tài chính của các DNVT trong suốt những năm đổi mới từ 1986 đến 2006 để tìm ra những hạn chế trong cơ chế quản lý tài chính hiện tại. Từ đó tác giả đưa ra các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp viễn thông ở Việt Nam theo mô hình tập đoàn kinh tế.
- Đề tài “Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính tại công ty cổ phần đường Quảng Ngãi” của Nguyễn Thị Phương Hảo (2011) đã đánh giá vấn đề quản trị tài chính còn bộc lộ nhiều nhược điểm ảnh hưởng đến chiến lược, mục tiêu phát triển của Công ty. Do vậy, với những hạn chế còn tồn tại trong việc lập kế hoạch tài chính; khai thác và sử dụng vốn; xây dựng chính sách cổ tức; luận văn đã đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hơn nữa hoạt động quản trị tài chính với các nội dung chính như: hoàn thiện tổ chức hoạt động quản trị tài chính; giải pháp nâng cao khả năng quản lý và sử dụng tài sản; xây dựng cơ cấu vốn hợp lý và khai thác một cách hiệu quả hơn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động SXKD; kiến nghị về chính sách cổ tức,…
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về quản lý tài chính trong từng giai đoạn ở đơn vị khác nhau. Tại Học viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam trong giai đoạn gần đây chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá, phân tích vấn đề này. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tiếp tục hoàn thiện chế độ quản lý tài chính tại Học viện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
3.1. Mục đích
Hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam giai đoạn 2013-2015. Nghiên cứu cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cơ chế quản lý tài chính; thực trạng các nguồn lực và việc sử dụng các nguồn lực tài chính tại quản lý tài chính tại trường Đại học công lập. Từ đó hoàn thiện quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam nhằm hỗ trợ cho công tác giảng dạy và đào tạo tại Học Viện góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.
3.2. Nhiệm vụ
Trên cơ sở vấn đề lý luận, đề tài nêu được cơ sở khoa học về cơ chế quản lý tài chính tại trường Đại học công lập nói chung để làm cơ sở đi đến nghiên cứu thực trạng triển khai thực hiện cơ chế tài chính tại Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam.
- Hệ thống một cách có chọn lọc những vấn đề cơ sở khoa học về quản lý tài chính tại trường Đại học công lập.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt
Có thể bạn quan tâm:
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : Quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề tập trung nghiên cứu tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2015 và giải pháp đề ra cho giai đoạn tiếp theo
5. Phương pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và hệ thống cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài để nghiên cứu và viết luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích để so sánh và đánh giá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài nêu được cơ sở khoa học về quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung để làm cơ sở đi đến nghiên cứu thực trạng triển khai thực hiện cơ chế quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam.
6.2. Thực tiễn
Đề tài đánh giá đúng thực trạng hoạt động tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân để từ đó đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại đơn vị.
7. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài góp phần hoàn thiện việc thực hiện cơ chế quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu tự chủ tài chính và nâng cao chất lượng đào tạo.
8. Kết cấu của đề tài
Tên đề tài: “Quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam”. Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, các bảng biểu,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở khoa học về quản lý tài chính tại các trường đại học công lập.
- Chương 2. Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam.
- Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
1.1.Tổng quan về trường đại học công lập và các hoạt động tại trường đại học công lập ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
1.1.1. Khái niệm trường đại học công lập
Các trường đại học công của Mỹ (trường của bang, State College hoặc University): do chính phủ các bang quản lý và cung cấp tài chính. Mỗi bang ở Mỹ có ít nhất một trường Đại học tổng hợp và một số trường đại học đơn ngành loại này.
Khái niệm public university của Nhật Bản thật ra là đại học địa phương (do chính quyền các tỉnh lập và quản lý). Đó cũng là một phần của hệ thống đại học công bao hàm cả các trường national university, là đại học quốc gia nhưng đúng ra là đại học trung ương vì do chính quyền trung ương lập ra và quản lý.
Luật Giáo dục Đại học năm 2012 quy định “cơ sở giáo dục đại học công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm chi thường xuyên”.
Khái niệm, mô hình và địa vị pháp lý của trường đại học công có sự khác nhau trong hệ thống giáo dục đại học ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên khái niệm về trường đại học công lập có thể được hiểu như sau:
Trường đại học công lập là trường do cơ quan nhà nước có đủ thẩm quyền thành lập và quản lý. Nguồn kinh phí đảm bảo cho các trường đại học công lập hoạt động phụ thuộc vào chính sách đầu tư tài chính và mức độ xã hội hóa nguồn lực dành cho giáo dục đại học của mỗi quốc gia. Các trường ĐHCL là một loại hình đơn vị sự nghiệp có thu, cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, mục tiêu chính của các trường ĐHCL là góp phần đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nói chung và phát triển ngành giáo dục đào tạo nói riêng. Hoạt động của các trường ĐHCL tuân thủ theo các quy định đối với các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời, tuân thủ các quy định về quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
1.1.2. Đặc điểm của trường đại học công lập
Ngoài các đặc điểm cơ bản như bất kỳ một trường đại học nào được trình bày ở trên, các trường đại học công lập còn có các đặc điểm riêng, ảnh hưởng quyết định tới cơ chế tài chính của trường đại học đối với hoạt động đào tạo, NCKH và các hoạt động khác của nhà trường. Các đặc điểm đó là:
- Về cơ chế quản lý và bộ máy tổ chức hoạt động
Trường đại học công lập do chính quyền thành lập nên chịu sự quản lý, kiểm tra, giám sát về tổ chức bộ máy, hoạt động hành chính theo quy định của Nhà nước hoặc chính quyền các cấp. Bộ máy quản lý, điều hành của trường đại học công lập được tổ chức phù hợp với điều kiện cụ thể của từng trường nhưng phải tuân thủ các quy định về lĩnh vực này trong các văn bản pháp luật của Nhà nước hoặc địa phương.
Bộ máy quản lý điều hành của trường đại học công lập thường có Hội đồng trường, Ban Giám hiệu, các phòng chức năng và khoa đào tạo, viện nghiên cứu chuyên ngành. Hoạt động của Hội đồng trường trong các trường đại học công lập được quy định trong văn bản pháp luật và có tính chất khác với Hội đồng quản trị trong các trường đại học tư thục.
Ngoài ra, các trường đại học công lập còn chịu sự quản lý chuyên môn của cơ quan quản lý Nhà nước về GDĐH. Thông thường ở các nước, cơ quan này sẽ quản lý hoặc giám sát về nội dung chương trình đào tạo, về chỉ tiêu và phương thức tuyển sinh của các trường đại học.
- Về nguồn tài chính và cơ chế quản lý tài chính
Các trường đại học công lập còn có đặc điểm quan trọng là sở hữu thuộc về Nhà nước. Các trường đại học công lập do Nhà nước thành lập và đầu tư kinh phí để xây dựng và hoạt động nên tính chất hoạt động của các trường đại học công lập thường không vì mục đích lợi nhuận.
Về nguồn kinh phí: (i) Nhà nước cấp kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao; (ii) trường được phép thu một số khoản phí, lệ phí (được coi là nguồn thu thuộc NSNN), mức thu học phí bị khống chế trong khung quy định của Nhà nước; (iii) trường tổ chức hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ để có nguồn thu khác. NSNN chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng nguồn tài chính của trường đại học công lập.
Về cơ chế quản lý tài chính: các trường đại học công lập được tự chủ trong khuôn khổ quy định. Các trường được tự chủ tối đa ở một số khoản chi nhất định; nhưng đồng thời phải tuân thủ các khoản mục chi đã được ấn định bởi cơ quan phân bổ và giao dự toán. Điều này chưa cho phép các trường đại học công lập thực hiện được chính sách ưu đãi đối với người dạy và người học hoặc tập trung đầu tư để nâng cao chất lượng.
Như vậy, trường đại học công lập là một thiết chế vô cùng quan trọng của xã hội và trong bối cảnh của nền kinh tế tri thức toàn cầu, trách nhiệm của trường đại học ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Đồng thời các trường đại học có tính tự chủ rất cao trong các hoạt động học thuật, trong phương thức tổ chức quản lý và đào tạo,… Nhận thức về vai trò, sứ mạng và đặc điểm của trường đại học là nền tảng để hoạch định chính sách giáo dục đại học, quyết định một cơ chế quản lý (trong đó bao gồm cả cơ chế quản lý tài chính) phù hợp để các trường đại học hoạt động thực sự có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu và kỳ vọng của cả xã hội.
1.1.3. Sự cần thiết và vai trò của các trường đại học công lập đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Sự cần thiết của các trường đại học công lập
Đại học công lập là cơ sở đào tạo thuộc sở hữu Nhà nước, do NSNN đầu tư vốn để xây dựng phòng học, nhà làm việc, thư viện và các tài trợ khác thuộc phạm vi xây dựng cơ bản của mỗi cơ sở đại học công. Mọi khoản chi phí cho quá trình hoạt động (từ tiền lương, phụ cấp, vật tư văn phòng, mua sắm TSCĐ,…) cũng chủ yếu lấy từ nguồn vốn cấp phát NSNN. Chính vì vậy, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý, phục vụ, mức tiền lương, tiền thưởng của cơ sở đào tạo đại học công lập đều phải tuân thủ nguyên tắc của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Đại học cũng đóng vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó, hệ thống các trường đại học công lập đóng vai trò chủ đạo trong quá trình định hướng phát triển cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế thị trường.
Hệ thống các trường đại học và cao đẳng công lập được thành lập ở các tỉnh thành để đảm bảo quyền được tham gia học tập và nâng cao trình độ với nguồn ngân sách nhà nước tài trợ. Đồng thời, thông qua hệ thống giáo dục đào tạo công lập, nhà nước sẽ giám sát được chất lượng đào tạo, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề phù hợp với định hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Các nhà kinh tế và Chính phủ của các quốc gia đều nhất trí cho rằng muốn sự phát triển kinh tế – xã hội thì giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng phải là hạt nhân của chiến lược phát triển đó; là một trong những động lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển KTXH của một quốc gia.
Vai trò của các trường đại học công lập
Hệ thống các trường đại học công lập đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, thể hiện khái quát qua các mặt sau:
- Sự ra đời và hoạt động của các trường đại học công lập thể hiện vai trò của Nhà nước đối với GDĐH. Nhà nước thông qua các hoạt động của trường đại học công lập để điều tiết các nguồn lực xã hội sao cho có hiệu quả nhất, từ đó điều tiết cơ cấu đào tạo nhân lực hợp lý, duy trì và phát triển giáo dục đào tạo. Thông qua các trường đại học công lập, Nhà nước muốn đầu tư nhằm đảm bảo lợi ích công về GDĐH. Lợi ích này lan tỏa ra toàn xã hội, đảm bảo tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng tiếp cận với GDĐH.
- Trường đại học công lập là nơi triển khai các chính sách đầu tư phát triển GDĐH của mỗi quốc gia. Các trường đại học công lập thuộc sở hữu Nhà nước, được Chính phủ hoặc chính quyền ở các địa phương cấp ngân sách để triển khai các chính sách phát triển GDĐH của chính quyền các cấp. Ví dụ như các trường đại học công lập được Quỹ đào tạo nhân tài cung cấp kinh phí để đào tạo nhân tài như ở Hàn Quốc. Hoặc được Chính phủ đầu tư thành các trường đại học trọng điểm như ở Trung Quốc. Ở Việt Nam các trường đại học công lập được Nhà nước giao kinh phí, tài sản, cơ sở vật chất để thực hiện các mục tiêu và chính sách ưu tiên đầu tư cho giáo dục đào tạo của đất nước.
- Trường đại học công lập giữ vai trò định hướng cho hoạt động và sự phát triển của hệ thống GDĐH của quốc Các trường đại học công lập định hướng cho phát triển các chương trình đào tạo bằng cách bổ sung, hoàn thiện các chương trình đã có sẵn, xây dựng các chương trình đào tạo mới phù hợp với xu thế phát triển của xã hội; định hướng cho nghiên cứu khoa học thông qua việc xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, duy trì các hướng nghiên cứu cơ bản, triển khai các hướng nghiên cứu mới,…
- Trường đại học công lập có sứ mạng đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực CLC, NCKH và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Trong hệ thống GDĐH, các trường đại học công lập có lợi thế hơn các trường tư thục về điều kiện đảm bảo chất lượng như đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, học liệu, thư viện để thực hiện được các sứ mạng nêu trên.
1.1.4. Hoạt động của các trường đại học công lập ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
- Các trường đại học công lập là các đơn vị sự nghiệp có thu
Theo điều 9 của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ “Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập” quy định: Căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp, đơn vị sự nghiệp được phân loại để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính như sau:
Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động);
Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên, phần còn lại được NSNN cấp (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động);
Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị không có nguồn thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do NSNN bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp do NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động).
Việc phân loại đơn vị sự nghiệp theo quy định trên được ổn định trong thời gian 3 năm. Sau thời hạn 3 năm sẽ xem xét phân loại lại cho phù hợp.
Trường đại học công lập là trường do NN thành lập và quản lý. Kinh phí cho các hoạt động thường xuyên của trường đại học công lập chủ yếu do NSNN cấp, bên cạnh đó, trường có thêm kinh phí từ các nguồn thu khác được giữ lại cho trường theo quy định của NN. Trường đại học chịu sự quản lý nhà nước về giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo; chịu sự quản lý hành chính theo lãnh thổ của Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi trường đặt trụ sở. Cơ quan chủ quản phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý nhà nước đối với các trường đại học trực thuộc theo quy định. Các trường đại học công lập là các đơn vị sự nghiệp có thu.
- Hoạt động của các trường đại học nhằm đào tạo con người
Trước đây, quan hệ giữa các trường đại học rất hạn chế, các trường chỉ chú trọng đến việc điều hành các hoạt động thường nhật. Ngày nay, các trường không còn thu mình được nữa, không thể hoạt động độc lập mà đang chịu sự giám sát và đánh giá của xã hội. Sự đánh giá liên quan đến nhiều vấn đề như chất lượng đội ngũ, thành tích về đào tạo và NCKH, chất lượng sinh viên đầu ra. Các tiêu chí này không chỉ được đánh giá trong phạm vi nước ta mà còn được đánh giá ở tầm quốc tế, khi mà ngày càng có nhiều công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Chất lượng đào tạo và uy tín của một trường đại học Việt Nam sẽ được nâng lên rất nhiều nếu sinh viên tốt nghiệp được các công ty nước ngoài, tập đoàn đa quốc gia đánh giá cao và tuyển dụng vào làm việc.
Chính vì vậy lãnh đạo các trường đại học phải tự xem trường mình như là những doanh nghiệp thực thụ và phải thường xuyên điều chỉnh chiến lược phát triển trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Các trường không đơn thuần chỉ mở cửa và đợi sinh viên, mà phải đi tìm sinh viên, đặc biệt là sinh viên giỏi về trường. Muốn được như vậy, trước hết các trường phải không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, duy trì sự phát triển tốt và bền vững để nâng cao vị thế của mình trong và ngoài nước.
- Giáo dục – đào tạo theo nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn
Hoạt động giáo dục – đào tạo được thực hiện theo nguyên tắc học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
1.2. Quản lý tài chính tại các trường đại học công lập
1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính tại các trường đại học công lập ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Quản lý tài chính tại các trường đại học nói chung và các trường ĐHCL nói riêng, tuân thủ một hệ thống các nguyên tắc, quy định, quy chế, chế độ của nhà nước được thể hiện trong các văn bản pháp luật như: luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư…. Ngoài ra, còn được thể hiện trong các quy định, quy chế của trường đại học trên cơ sở các quy định của nhà nước.
Như vậy, các trường đại học nói chung và các trường ĐHCL nói riêng đều tuân thủ theo một cơ chế quản lý tài chính nhất định. Đó là việc sử dụng một hệ thống các phương pháp, công cụ và hình thức để quản lý hoạt động tài chính của trường trong những điều kiện cụ thể nhằm thực hiện các mục tiêu trong chiến lược đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội. Một cơ chế quản lý tài chính phù hợp có vai trò quan trọng đối với cả các cơ quan quản lý và bản thân các trường đại học. Đối với cơ quan quản lý, cơ chế quản lý tài chính phù hợp sẽ giúp huy động các nguồn lực tài chính trong xã hội để đầu tư phát triển giáo dục, trong đó có giáo dục đại học. Đối với các trường đại học, một cơ chế quản lý tài chính thích hợp sẽ giúp cho các trường có thể thu hút nguồn vốn cả trong và ngoài NSNN để đa dạng hoá các loại hình đào tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính của trường. Đồng thời, cơ chế quản lý tài chính phù hợp còn giúp các trường nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính, từ đó, thúc đẩy sử dụng nguồn tài chính một cách tiết kiệm, lành mạnh và có hiệu quả cao.
Tóm lại, Quản lý tài chính trường đại học công là quá trình tác động của Nhà nước tới hệ thống quản trị đại học công (bộ máy quản trị đại học công) thông qua hệ thống các công cụ của Nhà nước để thực hiện các chức năng cơ bản từ việc lập kế hoạch tài chính, tổ chức tạo nguồn và sử dụng nguồn tài chính đến kiểm tra, giám sát nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
1.2.2. Nguyên tắc, vai trò, phương pháp và công cụ quản lý tài chính trong các trường đại học công lập
Nguyên tắc quản lý tài chính trong các Trường đại học công lập
- Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc hàng đầu trong QLTC nói chung và của các Trường ĐHCL nói riêng. Tập trung dân chủ đảm bảo cho các nguồn lực của các Trường được sử dụng tập trung và phân phối hợp lý. Các khoản thu – chi trong nhà trường phải được bàn bạc thực sự công khai nhằm đáp ứng các mục tiêu vì lợi ích chung của đơn vị.
- Nguyên tắc hiệu quả: Nguyên tắc hiệu quả là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính. Hiệu quả trong QLTC được thể hiện khi thực hiện các khoản chi tiêu. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội là hai nội dung quan trọng cần được xem xét đồng thời khi quyết định chính sách tài chính.
- Nguyên tắc thống nhất: Thống nhất quản lý theo qui định của pháp luật là nguyên tắc không thể thiếu trong quản lý tài chính. Nguyên tắc này được đảm bảo thực hiện từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, quyết toán, xử lý những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Thực hiện nguyên tắc quản lý thống nhất sẽ đảm bảo tính bình đẳng, công bằng, đảm bảo hiệu quả và hạn chế những tiêu cực, rủi ro khi quyết định các khoản chi tiêu.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch: Minh bạch trong QLTC là nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo QLTC thống nhất và hiệu quả. Thực hiện công khai, minh bạch trong QLTC sẽ tạo điều kiện kiểm tra, giám sát các hoạt động thu – chi của đơn vị, hạn chế những thất thoát, lãng phí và đảm bảo tính hiệu quả của QLTC. Gắn trách nhiệm của lãnh đạo nhà trường đối với tất cả các hoạt động trước cơ quan quản lý cấp trên, đồng nghiệp và cán bộ công chức viên chức nhà trường. Tất cả những ai quan tâm đến các thông tin về hoạt động tài chính của nhà trường, đơn cử như: sau 1 năm học nhà trường công khai các báo cáo tài chính theo đúng quy định của Nhà nước về nội dung, thời gian và hình thức công khai.
Vai trò của nguồn tài chính đối với sự phát triển của các cơ sở đào tạo đại học
- Thứ nhất, nguồn tài chính là nhân tố có tính chất quyết định tới sự phát triển của đào tạo đại học: thông qua chức năng của mình nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động đào tạo, xây dựng, đổi mới và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy cũng như xây dựng trường lớp, mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong các trường đại học.
- Thứ hai, nguồn tài chính góp phần điều phối cơ cấu đào tạo đại học: thông qua cơ cấu thu – chi của nguồn tài chính sẽ điều chỉnh về mặt qui mô đào tạo, cơ sở vật chất, nội dung chương trình, đội ngũ giáo viên của các trường.
- Thứ ba, thông qua việc kiểm tra, giám sát quá trình phân phối và sử dụng các nguồn kinh phí để từ đó tiến hành điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu chi tiêu phù hợp với từng trường, đảm bảo đúng nội dung, mục đích, đúng các chế độ, chính sách với giáo viên, sinh viên.
Phương pháp và công cụ quản lý tài chính trong các Trường đại học công lập
- Chủ thể quản lý tài chính trong các trường ĐHCL là người đứng đầu các cơ sở đào tạo. Đối tượng của quản lý tài chính của các trường ĐHCL là các hoạt động tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động của nhà trường, bao gồm các hoạt động thu, chi bằng tiền của nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp của nhà trường; hoạt động tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ diễn ra trong các bộ phận cấu thành của tài chính các trường ĐHCL.
- Trong quản lý tài chính, các chủ thể quản lý có thể sử dụng nhiều phương pháp quản lý và nhiều công cụ quản lý khác nhau.
- Phương pháp tổ chức được sử dụng để thực hiện ý đồ của chủ thể quản lý trong việc bố trí, sắp xếp các mặt hoạt động tài chính theo khuôn mẫu đã định và thiết lập bộ máy quản lý phù hợp với các mặt hoạt động đó.
- Phương pháp hành chính được sử dụng khi các chủ thể quản lý tài chính muốn các đòi hỏi của mình phải được các khách thể quản lý tuân thủ một cách vô điều kiện. Đó là khi các chủ thể quản lý ra các mệnh lệnh hành chính.
- Phương pháp kinh tế được sử dụng thông qua việc dùng lợi ích vật chất để kích thích tính tích cực của các khách thể quản lý, tức là tác động tới các tổ chức và cá nhân đang tổ chức các hoạt động tài chính.
Các công cụ quản lý tài chính bao gồm:
- Hệ thống pháp luật thuộc lĩnh vực tài chính là một loại công cụ quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng để quản lý và điều hành các hoạt động tài chính. Bao gồm các chính sách, cơ chế quản lý tài chính; các chế độ quản lý tài chính, kế toán, thống kê; các định mức, tiêu chuẩn về tài chính, mục lục Ngân sách nhà nước (NSNN), qui chế chi tiêu nội bộ, công khai báo cáo tài chính, kiểm toán nội bộ, hệ thống chính sách nội bộ.
- Cùng với pháp luật, hàng loạt các công cụ phổ biến khác được sử dụng trong quản lý tài chính công như: kiểm tra, thanh tra giám sát; các tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý tài chính…
- Mỗi công cụ kể trên có đặc điểm khác nhau và được sử dụng theo các cách khác nhau nhưng đều nhằm cùng một hướng là thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính công nhằm đạt tới mục tiêu đã định.
- Mục tiêu của QLTC trong các Trường ĐHCL không vì mục đích lợi nhuận, phục vụ cho cộng đồng xã hội là chủ yếu cho nên QLTC tại các
- Trường ĐHCL là quản lý sử dụng có hiệu quả, đúng định hướng các nguồn kinh phí NSNN cấp và các nguồn thu khác theo qui định của pháp luật.
1.2.3. Cơ chế quản lý tài chính trong các trường đại học công lập ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Đại học công lập là trường đại học do Nhà nước đầu tư về kinh phí và cơ sở vật chất và hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các nguồn tài chính hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi. Do đó, cơ chế quản lý tài chính của ĐHCL bên cạnh phục vụ mục tiêu kinh tế – tài chính còn phục vụ mục tiêu xã hội của ĐHCL. Đây là một trong những điểm cần chú ý đối với việc nghiên cứu về cơ chế quản lý tài chính giáo dục ĐHCL ở nước ta. Nếu các đại học tư nhân được tự chủ về nguồn thu, chi và tập trung vào kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận của họ thì các ĐHCL phải cân đối hài hòa giữa nhiệm vụ kinh tế và nhiệm vụ xã hội.Điều này cũng đặt ra một giới hạn nhất định đối với thiết lập cơ chế quản lý tài chính giáo dục ĐHCL. Sự ràng buộc đó đối với giáo dục ĐHCL khiến cho hàm mục tiêu tài chính của ĐHCL trở nên khó khăn hơn trong việc tiến đến điểm tối ưu.
Khi bàn về cơ chế tài chính của ĐHCL chúng ta không dừng lại ở những khoản thu chi mà cần nhìn vào nhiệm vụ. Nhiệm vụ chủ đạo của chúng nằm ở những giá trị vô hình về hệ thống kiến thức của người học và những đóng góp vào quá trình phát triển. Cơ chế quản lý tài chính GDĐH được hiểu là một tập hợp các phương pháp, công cụ quản lý tài chính tuân theo hệ thống pháp luật hiện hành nhằm thực hiện mục tiêu tài chính và phi tài chính của đại học. Cơ chế quản lý tài chính, do đó, được xây dựng đơn giản hay phức tạp tùy thuộc vào quy mô của trường đại học.
Nội dung cơ bản của cơ chế quản lý tài chính giáo dục đại học công lập
Trên cơ sở hoạt động tài chính trong GDĐH công lập gắn liền với hoạt động của nhà trường có thể hình dung cơ chế quản lý tài chính của GDĐH với quan niệm là phương thức điều hành bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, cơ chế phân cấp quản lý ngân sách GDĐH.
- Thứ hai, cơ chế quản lý quá trình huy động nguồn lực tài chính ngoài NSNN cho GDĐH.
- Thứ ba, cơ chế quản lý các khoản chi cho GDĐH.
Tóm lại, với tư cách là phương thức điều hành các khoản chi, cơ chế quản lý chi cho GDĐH chịu sự chi phối bởi nhiều nhân tố, cần thiết phải xem xét để định hình nội dung của cơ chế quản lý chi cho GDĐH được hình thành với những nội dung thích hợp. Tư tưởng chỉ đạo chung của cơ chế quản lý các khoản chi cho GDĐH là nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý tài chính của các trường đại học công lập.
Mời bạn tham khảo thêm:
1.2.4. Nội dung quản lý tài chính trongcác trường đại học công lập ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
QLTC trong Trường ĐHCL dựa trên cơ sở hệ thống các nguyên tắc, các quy định, chế độ của Nhà nước mà hình thức biểu hiện là những văn bản pháp luật, pháp lệnh, nghị định…Nó còn thể hiện qua các quy chế, quy định của Trường đại học đối với các hoạt động quản lý tài chính, các quy định này phải tuân theo các văn bản pháp quy của Nhà nước liên quan đến hoạt động quản lý tài chính của trường đại học.
Hoạt động quản lý tài chính phải phân công và quy định chế độ trách nhiệm như sau:
- Hầu hết các trường đại học công lập là đơn vị dự toán cấp 3 vì vậy thủ trưởng cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cơ quan quản lý cấp trên và trước pháp luật về các quyết định của mình trong quá trình quản lý tài chính của đơn vị. Trong đó, người thủ trưởng đơn vị là người chủ tài khoản, người trực tiếp đưa ra các quyết định quản lý việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính trong đơn vị.
- Thủ trưởng đơn vị tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê, quản lý tài sản theo đúng quy định của pháp luật, phản ánh đầy đủ, kịp thời toàn bộ các khoản thu, chi của đơn vị trong sổ sách kế toán và thực hiện các quy định về chế độ thông tin, báo cáo hoạt động sự nghiệp của đơn vị theo quy định hiện hành.
- Trưởng phòng tài chính kế toán là cá nhân phải chịu trách nhiệm trước lãnh đạo và cơ quan tài chính, cơ quan quản lý cấp trên về toàn bộ hoạt động tài chính kế toán của đơn vị và phải trực tiếp bố trí nhân lực điều hành công tác của phòng Tài chính kế toán, tổ chức điều hành bộ máy kế toán đảm bảo thực hiện quản lý các khoản thu cũng như xây dựng các định mức chi và quản lý các khoản chi phát sinh trong tổ chức, thực hiện công tác kế toán và xây dựng báo cáo kế toán theo quy định của pháp luật, thực hiện việc phân tích giám sát các hoạt động tài chính của tổ chức.
- Phòng kế toán dưới sự chỉ đạo trực tiếp của trưởng phòng chịu trách nhiệm thực hiện công tác kế toán từ việc lưu trữ chứng từ kế toán đến việc hạch toán vào sổ kế toán và lập các báo cáo kế toán, thực hiện việc lập và thực hiện dự toán các khoản thu chi cũng như toàn bộ vật tư tài sản trong cơ
Quản lý công tác lập dự toán
- Quản lý tài chính trong các trường đại học thường được tiến hành bắt đầu từ việc quản lý việc lập dự toán thu chi tài chính sau đó là quản lý việc chấp hành dự toán, quyết toán thu chi tài chính và cuối cùng là việc thanh kiểm tra.
- Đây là quá trình phân tích, đánh giá giữa khả năng và nhu cầu các nguồn tài chính để xây dựng các chỉ tiêu thu, chi tài chính hằng năm của đơn vị một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Các trường ĐHCL khi lập dự toán thu chi tài chính của đơn vị mình cần căn cứ vào định mức, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, căn cứ vào nhiệm vụ được giao của đơn vị năm kế hoạch. Việc lập dự toán có thể đươc thực hiện theo một trong hai phương pháp: phương pháp lập dự toán dựa trên cơ sở quá khứ, dựa vào kết quả hoạt động thực tế của năm trước liền kề, có điều chỉnh theo tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát dự kiến và phương pháp lập dự toán dựa trên cơ sở nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động trong năm kế hoạch. Đối với các trường ĐHCL, dự toán chi có thể được xác định dựa trên cơ sở phân chia các nhóm mục chi (chi cho con người hay chi thanh toán cho cá nhân; chi nghiệp vụ chuyên môn; chi cho mua sắm, sửa chữa tài sản; và các khoản chi khác) và tiến hành tính toán số chi thường xuyên cho từng nhóm mục chi cụ thể dựa trên nhiệm vụ được giao và mức chi cho từng nhiệm vụ.
Hiện nay, dự toán của các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các trường ĐHCL nói riêng được lập ở cả năm đầu thời kỳ ổn định phân loại sự nghiệp và 2 năm tiếp theo trong thời kỳ ổn định.
Lập dự toán năm đầu thời kỳ ổn định phân loại đơn vị sự nghiệp:
- Đơn vị lập dự toán thu, chi năm kế hoạch căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, nhiệm vụ năm kế hoạch, chế độ chi tiêu tài chính hiện hành, kết quả hoạt động sự nghiệp và tình hình thu chi tài chính của năm trước liền kề (có loại trừ các yếu tố đột xuất, không thường xuyên). Đồng thời, xác định loại đơn vị sự nghiệp theo quy định và số kinh phí đề nghị NSNN đảm bảo nhằm bảo đảm hoạt động thường xuyên (nếu là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động).
- Đối với dự toán thu: Đơn vị căn cứ vào đối tượng thu, mức thu và tỷ lệ được để lại chi theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập dự toán các khoản thu phí, lệ phí; căn cứ vào kế hoạch hoạt động dịch vụ và mức thu do đơn vị quyết định hoặc theo hợp đồng đơn vị đã ký kết để lập dự toán thu đối với các khoản thu sự nghiệp.
- Đối với dự toán chi thường xuyên: Các trường ĐHCL thực hiện lập dự toán chi tiết cho từng loại nhiệm vụ theo quy định, như: chi thường xuyên thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhà nước giao; chi phục vụ cho công tác thu phí và lệ phí; chi hoạt động dịch vụ. Việc lập dự toán các khoản chi thường xuyên phải căn cứ vào nhiệm vụ được giao năm kế hoạch, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi ngân sách do Nhà nước quy định, quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị và phải tính đến kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ các năm trước, đặc biệt là năm báo cáo để xây dựng được dự toán chi phù hợp với thực tiễn của đơn vị.
- Đối với dự toán các khoản chi không thường xuyên: đơn vị lập dự toán của từng nhiệm vụ chi theo quy định
- Dự toán thu, chi của đơn vị phải có thuyết minh cơ sở tính toán, chi tiết theo từng nội dung thu, chi gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp để xem xét tổng hợp gửi Bộ, ngành chủ quản (đối với các trường ĐHCL trực thuộc Bộ, ngành trung ương), gửi cơ quan chủ quản địa phương (đối với các trường ĐHCL địa phương) theo quy định của pháp luật.
Lập dự toán 2 năm tiếp theo trong thời kỳ ổn định:
- Đối với dự toán thu, chi hoạt động thường xuyên: Các trường căn cứ vào quy định của nhà nước để lập dự toán thu, chi hoạt động thường xuyên của năm kế hoạch. Trong đó: kinh phí NSNN đảm bảo hoạt động thường xuyên (đối với các trường tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động, các trường do NSNN đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động) theo mức kinh phí NSNN đảm bảo hoạt động năm trước liền kề, cộng (+) hoặc trừ (-) kinh phí của nhiệm vụ tăng hoặc giảm của năm kế hoạch do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
- Đối với dự toán chi không thường xuyên: đơn vị lập dự toán của từng nhiệm vụ theo quy định hiện hành.
- Dự toán thu, chi của các trường gửi cơ quan quản lý cấp trên để xem xét, tổng hợp gửi Bộ, ngành chủ quản (đối với các trường ĐHCL trực thuộc Bộ, ngành trung ương), gửi cơ quan chủ quản địa phương (đối với các trường ĐHCL địa phương) theo quy định. ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Quản lý việc chấp hành dự toán
- Là quá trình vận dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi tài chính trong dự toán của đơn vị thành hiện thực. Các đơn vị căn cứ vào dự toán được giao, triển khai thực hiện, đưa ra các biện pháp cần thiết để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ thu, chi được giao; đồng thời có kế hoạch sử dụng kinh phí ngân sách theo đúng mục đích, chế độ, tiết kiệm và có hiệu quả.
- Sau khi được Bộ chủ quản (đối với các trường ĐHCL trực thuộc Bộ, ngành trung ương), cơ quan chủ quản địa phương (đối với các trường ĐHCL địa phương) giao dự toán thu, chi hoạt động thường xuyên và dự toán các khoản chi không thường xuyên, các trường triển khai thực hiện kế hoạch tài chính của đơn vị mình.
Thực hiện dự toán thu:
- Trong quá trình tổ chức thực hiện dự toán các khoản thu từ hoạt động sự nghiệp, đặc biệt là các khoản thu học phí, lệ phí, các trường ĐHCL phải đảm bảo thực hiện thu đúng, thu đủ theo mức thu và đối tượng thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
- Các trường ĐHCL căn cứ vào khung mức thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, đồng thời căn cứ vào nhu cầu chi phục vụ cho hoạt động, khả năng đóng góp của xã hội để xác định mức thu cụ thể phù hợp với từng loại hoạt động, từng đối tượng, nhưng không được vượt quá khung mức thu do cơ quan có thẩm quyền quy định.
- Đối với các khoản thu về hàng hoá, dịch vụ do cơ quan nhà nước đặt hàng thì mức thu được xác định theo đơn giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Trường hợp các sản phẩm chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định giá, thì mức thu được xác định trên cơ sở dự toán chi được cơ quan tài chính cùng cấp chấp thuận thẩm định.
- Đối với các hoạt động dịch vụ theo hợp đồng với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các hoạt động liên doanh, liên kết, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể theo nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí và có tích luỹ.
Thực hiện dự toán chi:
- Đối với các khoản chi thường xuyên được cấp có thẩm quyền giao, đơn vị được điều chỉnh nội dung chi cho phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị; đồng thời gửi cơ quan cấp trên và Kho bạc nhà nước nơi đơn vị mở tài khoản giao dịch để theo dõi quản lý, thanh toán và quyết toán.
- Trong quá trình chấp hành dự toán chi thường xuyên, các trường ĐHCL cần căn cứ vào định mức chi của từng chỉ tiêu đã được duyệt trong dự toán; khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu chi thường xuyên trong mỗi kỳ báo cáo; đồng thời, dựa vào các chính sách, chế độ chi NSNN hiện hành và quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
- Cuối năm ngân sách, dự toán chi thường xuyên và các khoản thu sự nghiệp chưa sử dụng hết đơn vị được chuyển sang năm sau tiếp tục sử dụng.
- Đối với các khoản chi không thường xuyên: việc điều chỉnh nội dung chi, nhóm mục chi; kinh phí cuối năm chưa sử dụng, hoặc sử dụng không hết thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn hiện hành.
Trong quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch tài chính tại đơn vị, để chủ động sử dụng kinh phí hoạt động thường xuyên được giao đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, các trường ĐHCL thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính có trách nhiệm xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ làm căn cứ để cán bộ, viên chức thực hiện và KBNN thực hiện kiểm soát chi. Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động được quyết định mức chi quản lý và chi nghiệp vụ cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Đối với các đơn vị sự nghiệp do NSNN đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động, Thủ trưởng đơn vị được quyết định mức chi nhưng không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Bên cạnh đó, có một số tiêu chuẩn, định mức và mức chi đơn vị sự nghiệp phải thực hiện đúng các quy định của nhà nước như: tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô; tiêu chuẩn, định mức về nhà làm việc; tiêu chuẩn, định mức trang bị điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động; chế độ công tác phí nước ngoài; chế độ tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam; chế độ quản lý, sử dụng kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia; chế độ sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao; chế độ chính sách thực hiện tinh giản biên chế (nếu có); chế độ quản lý, sử dụng vốn đối ứng dự án, vốn viện trợ thuộc nguồn vốn NSNN; chế độ quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Đồng thời, căn cứ vào tính chất công việc, khối lượng sử dụng, tình tình thực hiện năm trước, thủ trưởng đơn vị quyết định phương thức khoán chi phí cho từng cá nhân, bộ phận, đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc sử dụng. Phần kinh phí tiết kiệm được đơn vị được xác định chênh lệch thu, chi và được phân phối, sử dụng theo chế độ quy định. ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Trong quá trình tổ chức thực hiện các nội dung chi tài chính tại đơn vị, các trường ĐHCL cần quán triệt các nguyên tắc:
- Thứ nhất, nguyên tắc quản lý theo dự toán. Theo đó, mọi nhu cầu chi thường xuyên dự kiến năm kế hoạch phải xác định trong dự toán. Đơn vị phải căn cứ vào dự toán kinh phí đã được duyệt để phân bổ và sử dụng các khoản, mục chi và phải hạch toán theo đúng mục lục NSNN đã quy định. Định kỳ, theo chế độ quyết toán kinh phí đã quy định, đơn vị khi phân tích, đánh giá kết quả thực hiện kỳ báo cáo phải lấy dự toán làm căn cứ đối chiếu.
- Thứ hai, nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu của quản lý kinh tế, tài chính. Nguyên tắc này chỉ được đảm bảo khi đơn vị xây dựng được định mức, tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp với từng đối tượng hay tính chất công việc và có tính thực tiễn; thiết lập được các hình thức cấp phát đa dạng và lựa chọn hình thức cấp phát phù hợp cho mỗi đơn vị, mỗi nhóm mục chi; lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các loại hoạt động để sao cho với nguồn lực tài chính có hạn mà vẫn đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao.
- Thứ ba, nguyên tắc chi trực tiếp qua KBNN. Thực hiện nguyên tắc này đơn vị sử dụng NSNN uỷ quyền cho KBNN trích tiền từ tài khoản của mình để chuyển trả vào tài khoản cho người được hưởng. Để thực hiện nguyên tắc này, tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ trong quá trình cấp phát, thanh toán. Các khoản chi phải có trong dự toán NSNN được duyệt; đúng tiêu chuẩn, định mức, quy định của quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị và được thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN chuẩn chi. Mặt khác, đơn vị sử dụng NSNN phải mởi tài khoản tại KBNN, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan Tài chính và KBNN trong quá trình lập dự toán, phân bổ dự toán, cấp phát, thanh toán, hạch toán và quyết toán NSNN.
Quyết toán thu chi
- Việc lập dự toán, chấp hành dự toán, hạch toán và quyết toán thu – chi NSNN đối với các trường ĐHCL thực hiện theo quy định của luật NSNN, luật kế toán, các văn bản hướng dẫn Luật và quy định tại Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính Phủ về việc quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; hạch toán, quyết toán thu – chi theo quy định của mục lục NSNN và chế độ kế toán hành chính sự nghiệp tại Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30/03/2006 của Bộ tài chính.
- Để đảm bảo cho việc chi tiêu công từ các nguồn lực Nhà nước được thực hiện một cách có hiệu quả, bên cạnh việc lập dự toán chi tiêu đầy đủ và hợp lý, tổ chức thực thi dự toán đó một cách nghiêm túc và linh hoạt, cần theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chi tiêu một cách chặt chẽ để đảm bảo đáp ứng các mục tiêu ngân sách đã đặt ra. Các công cụ để theo dõi giám sát và kiểm tra chi tiêu cơ bản và có hiệu lực là: kế toán và báo cáo tài chính (hạch toán, quyết toán thu – chi), kiểm tra tài chính và kiểm toán. Còn hạch toán, quyết toán thu – chi là một trong các công cụ để theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành ngân sách Nhà nước, thông qua đó giúp cho việc quản lý tài chính, tiền vốn của Nhà nước một cách có hiệu quả.
- Quyết toán chi NSNN được tiến hành theo quý và theo năm. Đến kỳ quyết toán các đơn vị phải lập đầy đủ các biểu mẫu quyết toán theo quy định gửi cho cơ quan chủ quản cấp trên. Các cơ quan chủ quản cấp trên xét duyệt quyết toán của các đơn vị cấp dưới trực thuộc, tổng hợp số liệu thành báo cáo quyết toán của toàn nghành gửi cơ quan tài chính đồng cấp thẩm định và tổng hợp. Sau khi được thẩm định và tổng hợp thì nó trở thành cơ sở để lập báo cáo quyết toán chi năm đó.
- Báo cáo quyết toán chi năm được Bộ tài chính lập trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, nếu Thủ tướng nhất trí thì trình Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội và Quốc hội xét duyệt và phê chuẩn. Số liệu quyết toán được Quốc hội phê chuẩn là số liệu quyết toán hợp lệ, hợp lý.
Thanh tra, kiểm tra công tác quản lý tài chính
- Sau mỗi quý, năm ngân sách, đơn vị lập báo cáo kế toán quý, quyết toán năm gửi cơ quan quản lý cấp trên theo quy định. Quyết toán thu, chi tài chính là quá trình kiểm tra, tổng hợp số liệu về tình hình chấp hành dự toán trong kỳ báo cáo và là cơ sở để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho các kỳ tiếp theo.
- Trong quá trình thực hiện chu trình quản lý ngân sách tại đơn vị, việc kiểm tra kiểm soát cần được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục trong suốt chu trình ngân sách. Kiểm soát chi của các đơn vị sự nghiệp nói chung và các trường ĐHCL nói riêng được KBNN thực hiện theo quy định hiện hành. Nội dung kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung của KBNN bao gồm kiểm soát tiền lương, tiền công; kiểm soát thu nhập tăng thêm; kiểm soát các khoản chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ; kiểm soát chi mua sắm tài sản, trang thiết bị, phương tiện, vật tư; các khoản chi phục vụ công tác thu phí, lệ phí và các khoản chi khác. Việc kiểm soát được thực hiện theo quy định của nhà nước về kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính; đồng thời dựa trên các chế độ chi tiêu hiện hành do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
- Cùng với sự kiểm soát của KBNN, trong quá trình thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, các trường có trách nhiệm tự kiểm tra tình hình thực hiện các nhiệm vụ thu, chi ngân sách của mình.
Đồng thời, các cơ quan chủ quản và cơ quan nhà nước có liên quan thực hiện việc kiểm tra, thanh tra các hoạt động thu, chi của các trường theo quy định. Công tác quyết toán, kiểm toán các khoản chi thường xuyên phải đảm bảo các yêu cầu: Phải lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời các loại báo cáo đó cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo đúng chế độ quy định; Số liệu trong các báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội dung các báo cáo tài chính phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được duyệt và theo đúng mục lục NSNN đã quy định; Báo cáo quyết toán năm của đơn vị dự toán phải có xác nhận của Kho bạc nhà nước đồng cấp; Thủ trưởng các đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm kiểm tra và duyệt quyết toán thu, chi ngân sách của các đơn vị trực thuộc, chịu trách nhiệm theo dõi các khoản chi thường xuyên của NSNN.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính tại các trường đại học công lập ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Quản lý tài chính là hoạt động quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (SXKD) mà cả đối với các trường ĐHCL, là yếu tố quan trọng quyết định qui mô, chất lượng cũng như uy tín của trường đại học trong giai đoạn xã hội hóa giáo dục và nâng cao tính tự chủ về tài chính của các trường ĐHCL hiện nay. Hoạt động QLTC của trường ĐHCL chịu sự tác động của các nhân tố khách quan và chủ quan như sau:
- Các nhân tố khách quan
Bản thân hoạt động tài chính rất phức tạp. Đổi mới quản lý tài chính là một yêu cầu cấp thiết phù hợp với thực tiễn của đất nước. Hoạt động tài chính vốn đã phức tạp với các văn bản quy phạm pháp luật lại liên quan trực tiếp đến các nguồn lực quan trọng trong hoạt động của mỗi tổ chức đứng trước yêu cầu này lại càng phức tạp. Vai trò quản lý Nhà Nước về tài chính trong nền kinh tế chịu sự chi phối của rất nhiều chủ thể trong xã hội càng làm cho nội hàm về quản lý tài chính phức tạp. Quản lý tài chính trong các trường Đại học công lập chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố khách quan như sau:
- Chính sách, cơ chế tài chính của Nhà nước
Việc triển khai thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính Phủ trong thời gian qua đã tạo điều kiện cho các trường đại học được chủ động tổ chức hoạt động chuyên môn, gắn việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính với chất lượng và hiệu quả hoạt động. Theo đó, các trường đại học đã thực hiện việc kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy tính dân chủ, chủ động, sáng tạo của lãnh đạo và cán bộ, giảng viên trong nhà trường ; nâng cao kỹ năng quản lý, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn; từng bước giảm dần sự can thiệp trực tiếp của cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính đối với hoạt động của đơn vị. Tạo điều kiện phát huy các nguồn lực của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội, trên cơ sở đó tạo nguồn chi trả tiền lương và thu nhập tăng thêm cho người lao động.
Bên cạnh việc tác động tích cực như trên, với bối cảnh hiện nay, cơ chế quản lý tài chính theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính phủ vẫn còn 3 yếu tố bất cập cơ bản ảnh hưởng đến quá trình thực hiện như sau:
Thứ nhất, yếu tố liên quan đến giao quyền tự chủ về tài chính như:
Việc hỗ trợ từ NSNN đối với cơ sở giáo dục ĐHCL vẫn mang tính bìnhquân theo khả năng của NSNN nên không tạo động lực cạnh tranh nâng cao chất lượng đào tạo giữa các trường ĐHCL và chưa giải quyết tối đa tình trạng khó khăn về đào tạo, tài chính… của một số trường đại học đào tạo các chuyên ngành cơ bản, khó tuyển sinh trong những năm gần đây.
Nội dung phân bổ NSNN chủ yếu dựa vào yếu tố “đầu vào” nên chưa gắn kết giữa kết quả sử dụng nguồn lực NSNN với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Theo đó đã không khuyến khích tính năng động, sáng tạo của các ĐHCL trong việc huy động thêm nguồn lực xã hội; vẫn còn tình trạng trông chờ vào sự bao cấp của NSNN.
Chế độ học phí đối với các trường ĐHCL chậm được đổi mới, chưa có sự phân tầng về mức thu theo nhóm các khối trường, chưa phù hợp với mặt bằng giá cả và việc điều chỉnh chính sách cải cách tiền lương trong những năm qua. Điều này đã làm hạn chế quyền tự chủ của các trường trong việc quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính. Các cơ sở giáo dục ĐHCL không có đủ nguồn lực tài chính cần thiết để bù đắp chi phí đào tạo, đảm bảo chất lượng đào tạo và tái đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo, nên phần lớn các cơ sở đào tạo công lập đều không đáp ứng đủ tiêu chí về cơ sở vật chất đảm bảo chất lượng. Do bị khống chế về trần học phí, không được phép tự định giá học phí cao hơn mức trần của Nhà Nước (trong khi đó mức trần học phí lại rất thấp) nên để có thêm nguồn thu, các cơ sở ĐHCL buộc phải tang số lượng và quy mô học sinh đào tạo, mở rộng các loại hình đào tạo không chính quy, liên kết đào tạo, nhưng việc mở rộng quy mô đào tạo không tương xứng với năng lực đào tạo của nhà trường (về giáo viên, cơ sở vật chất, thư viện, phòng thí nghiệm …). Mặt khác, việc tăng nguồn thu dựa vào tăng các chỉ tiêu cũng bị khống chế bởi các cơ quan chủ quản vì vậy càng làm cho vấn đề tăng nguồn thu thông qua tăng học phí khó khăn hơn.
– Về thu nhập của người lao động: Do chưa có các văn bản quy định tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ hoàn thiện nhiệm vụ và đánh giá hiệu quả công việc của đơn vị khi được giao quyền tự chủ, vì vậy việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ chưa phát huy tác dụng, phân phối thu nhập còn mang tính bình quân, chưa gắn với hiệu quả và chất lượng công việc. Mức thu nhập của người lao động ở các trường ĐH có nguồn thu lớn cao hơn rất nhiều lần so với các cơ sở không có nguồn thu hoặc nguồn thu hạn hẹp, từ đó tạo sự bất hợp lý về thu nhập giữa những người lao động trong ngành giáo dục.
Thứ hai, yếu tố liên quan đến chế độ tự chủ về tổ chức bộ máy và biên chế. Mặc dù đã có Thông tư liên tịch 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày
15/04/2009 của Liên Bộ GD và ĐT, Bộ Nội Vụ hướng dẫn cụ thể về việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện tổ chức và biên chế cho các đơn vị sự nghiệp công lập, nhưng trên thực tế một số cơ sở giáo dục đào tạo chưa được tự chủ đầy đủ trong việc tuyển chọn nhân sự, tổ chức bộ máy.
Thứ ba, yếu tố liên quan đến quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ: Đến nay văn bản hướng dẫn vẫn còn chưa đầy đủ, chưa hệ thống.
Như vậy, cơ chế QLTC của Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động của đơn vị. Cơ chế này sẽ vạch ra khung pháp lý về mô hình QLTC của các trường ĐHCL, từ việc xây dựng các tiêu chuẩn, định mức, các qui định về lập dự toán, điều chỉnh dự toán, cấp phát kinh phí, kiểm tra, kiểm soát, …nhằm phát huy tối đa hiệu quả quản lý gắn với tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị. Do đó, nếu cơ chế tài chính phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động QLTC, đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả, giúp cho trường ĐHCL thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn được giao. Ngược lại, nếu cơ chế này không phù hợp sẽ trói buộc, cản trở đến hoạt động QLTC, ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động đào tạo, NCKH của đơn vị.
- Quy mô của trường ĐHCL
Thực hiện cơ chế QLTC đối với đơn vị sự nghiệp công lập, trên cơ sở quy mô của mỗi trường sẽ điều chỉnh các quan hệ tài chính khác nhau, như việc xác định các hình thức huy động nguồn tài chính cho giáo dục – đào tạo hay việc phân phối chênh lệch thu – chi hàng năm của trường thế nào. ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Với các trường đại học quy mô lớn, nguồn kinh phí nhiều, sẽ dễ dàng tiết kiệm các khoản chi phí để đầu tư trang thiết bị, phòng học, đào tạo cán bộ giáo viên… nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Mặt khác, sẽ thuận lợi trong việc điều tiết các nguồn thu hợp lý nhằm hỗ trợ cho cán bộ, viên chức có thêm thu nhập cải thiện đời sống và làm việc cho tốt hơn.
Ngược lại, với quy mô nhỏ, các trường đại học sẽ gặp khó khăn trong việc đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính để hiện đại hóa cơ sở vật chất và triển khai các nhiệm vụ trọng tâm.
- Các nhân tố chủ quan
Quản lý tài chính trong các trường Đại học công lập bên cạnh sự ảnh hưởng do các nhân tố khách quan còn do các nhân tố chủ quan tác động, đó là:
Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý tài chính của các trường đại học công lập
Trình độ cán bộ quản lý là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến tính kịp thời, chính xác của các quyết định quản lý nói chung và QLTC nói riêng. Nếu đội ngũ cán bộ QLTC có năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu, có kinh nghiệm sẽ đưa hoạt động QLTC của đơn vị ngày càng đi vào nề nếp, góp phần cho hoạt động của đơn vị ngày càng hiệu quả. Ngược lại, đội ngũ cán bộ quản lý thiếu kinh nghiệm, hạn chế về chuyên môn sẽ dẫn đến hoạt động QLTC lỏng lẻo, dễ thất thoát, lãng phí, đồng thời hoạt động QLTC sẽ không được chuẩn hóa phù hợp với vai trò và vị trí của đơn vị. Đó là:
- Tổ chức bộ máy làm công tác QLTC trong các trường công lập: tổ chức công tác quản lý tài chính tương đối chặt chẽ, đa số đã ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính, tuy nhiên nhiều nơi tổ chức bộ máy còn lỏng lẻo, mang tính hình thức nên chưa phát huy được hiệu quả của công tác này.
- Con người làm công tác quản lý tài chính: Phần đông cán bộ tài chính chăm lo rèn luyện đạo đức, tác phong, giữ vững phẩm chất, liêm khiết, gương mẫu. Phẩm chất cán bộ tài chính thể hiện rõ qua sự tận tụy, không kể ngày đêm, bám sát nguồn lực sao cho thu đúng, thu đủ, chi kịp thời, đúng mục đích, có hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn còn một số bộ phận nhỏ cán bộ làm công tác quản lý tài chính trình độ còn hạn chế về mặt chuyên môn và có sự xói mòn về nhân cách, bị lu mờ trước sự cám dỗ của các lợi ích kinh tế và sức mạnh của quyền lực.
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong các trường đại học công lập
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ là các quy định, các thủ tục kiểm soát do đơn vị xây dựng và áp dụng nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật và các quy định để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa, phát hiện sai sót nhằm quản lý và sử dụng các nguồn tài chính của nhà trường một cách có hiệu quả. Đơn vị có hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ, hữu hiệu sẽ giúp cho công tác quản lý tài chính sẽ được thuận lợi, chặt chẽ, giúp đơn vị chấn chỉnh và kịp thời phát hiện sai sót, ngăn chặn hành vi gian lận trong công tác quản lý tại đơn vị.
1.3. Kinh nghiệm quản lý tài chính giáo dục đại học trên thế giới và bài học kinh nghiệm trong quản lý tài chính đối với trường Đại học công lập tại Việt Nam ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Tại các nước có nền kinh tế phát triển cao nhất thế giới, giáo dục đào tạo gần như được Nhà nước bao cấp hoàn toàn qua ngân sách nhà nước. Bởi chỉ có Nhà nước mới có thẩm quyền, uy tín, tài lực đảm đương tính công bằng dân chủ của quốc sách giáo dục: ai cũng có thể đi học, đạt trình độ nếu có năng khiếu. Ví dụ ở Bỉ, ngân sách nhà nước cấp 75%, phần thu học phí từ sinh viên chỉ chiếm 4%, phần còn lại là từ hợp đồng dịch vụ, dự án nghiên cứu công nghệ… Ở Mỹ, nguồn thu lớn của các trường đại học công lập là tài trợ lấy từ nguồn thuế của bang chiếm 25% đến 40%, nguồn thu học phí của sinh viên chiếm khoảng 20%, thu từ hoạt động dịch vụ chiếm hơn 20%, và còn lại từ nguồn khác. Ở Đức, ngân sách nhà nước cấp gần như toàn bộ kinh phí cho các trường đại học công lập hoạt động, sinh viên theo học không phải đóng học phí. Tại nước Nga, chủ trương quan trọng là tăng cường đồng thời nguồn ngân sách nhà nước (nguồn chủ yếu) kết hợp với huy động, thu hút nguồn đóng góp bổ sung thường xuyên ngoài ngân sách về tài chính – vật tư của xã hội, gia đình, cộng đồng địa phương, xí nghiệp.
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý tài chính giáo dục đại học trên thế giới
- Kinh nghiệm của Mỹ
Từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước trở lại đây, Mỹ rất chú trọng đầu tư cho giáo dục, nhất là giáo dục đại học. Theo đó, ngân sách đầu tư cho giáo dục của Mỹ rất cao: năm 1985 khoảng 300 tỷ USD, năm 1989 là 353 tỷ USD, đến năm 1999 đạt 653 tỷ USD, kéo theo đó là sự gia tăng về số lượng tuyệt đối chi ngân sách cho giáo dục đại học. Hiện nay tỷ lệ đầu tư cho giáo dục đại học của Mỹ chiếm 7% GDP, toàn bộ chi tiêu cho giáo dục đào tạo hàng năm xấp xỉ 1. 000 tỷ USD, trong đó giáo dục đại học chiếm khoảng hơn 700 tỷ. Nguồn thu lớn của các trường ĐHCL ở Mỹ chủ yếu từ NSNN chiếm khoảng 51%, từ nguồn thu học phí của sinh viên chiếm khoảng 18%, thu từ đóng góp cộng đồng và thu khác của trường chiếm khoảng 31%.
Thu học phí của sinh viên được xem là một giải pháp chủ yếu nhằm chia sẻ chi phí giáo dục đại học. Học phí đại học được tính toán sao cho có thể bù đắp đáng kể các chi phí hoạt động của nhà trường và các chi phí do lạm phát gây ra. Vì vậy, mức học phí ở các trường đại học luôn thay đổi theo xu hướng tăng lên.
Ở Mỹ hiện có khoảng 3.900 trường đại học, trong đó, có khoảng trên 1.800 trường tư do những người không có chuyên môn về học thuật điều hành và trên 1.800 trường công lập. Hệ thống các trường tư thục có tiêu chuẩn cao chủ yếu tuyển chọn sinh viên thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội, đồng thời, cũng có loại trường dành cho sinh viên nghèo. Có một số trường đại học tư thục nổi tiếng đã đào tạo ra nhiều nhân tài kiệt xuất cho nước Mỹ và thế giới như Harvard, Yale, Columbia, Stanford. Tuy nhiên, ở các trường này, sinh viên phải đóng kinh phí mỗi năm cũng rất cao (khoảng 20.000 USD/năm trở lên).
Việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao được các công ty Mỹ rất chú trọng. Mỗi năm, các công ty ở Mỹ đóng góp khoảng trên 150 tỉ USD cho giáo dục đại học. Các trường đại học Mỹ chịu tác động sâu sắc của thị trường và có mối quan hệ đa dạng với thị trường thông qua các doanh nghiệp. Họ nhận được sự đầu tư dồi dào của các doanh nghiệp qua cạnh tranh các hợp đồng nghiên cứu khoa học, dịch vụ tư vấn, đào tạo nhân lực chất lượng cao.
- Kinh nghiệm của Trung Quốc
Ngân sách nhà nước là thành phần chính trong các nguồn vốn cho giáo dục đại học ở Trung Quốc, điều đó được ghi rõ trong Điều 60, Luật giáo dục đại học của nước này. Từ năm 1994, thực hiện yêu cầu “3 tăng trưởng”, có nghĩa là “mức tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục phải cao hơn mức tăng thu nhập ngân sách thường xuyên để từng bước tăng chi phí giáo dục tính bình quân theo đầu học sinh, bảo đảm tăng lương giáo viên và tăng chi phí dung chung tính theo đầu học sinh”, từ đó đến nay, ngân sách đầu tư cho giáo dục của Trung Quốc không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, sức ép về nhu cầu mở rộng quy mô nâng cao chất lượng giáo dục đại học cộng với nhu cầu đầu tư cho các lĩnh vực khác đã buộc Chính phủ Trung Quốc phải giảm tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học và chỉ tăng lượng đầu tư tuyệt đối. Hiện nay, mức chi cho giáo dục của Trung Quốc chiếm khoảng 3, 28 % GDP.
Trung Quốc, trước năm 1989, Nhà nước bao cấp hoàn toàn kinh phí cho giáo dục đại học. Từ năm 1989 trở lại đây, Chính phủ nước này đã thực hiện chế độ thu học phí đối với giáo dục đại học trong các trường công lập, ngay cả sinh viên được học bổng theo kế hoạch tuyển sinh của Nhà nước cũng phải đóng học phí từ 100 đến 300 CNY/ năm học. Năm 1995, Trung Quốc chính thức quy định mức thu học phí cao nhất của các trường đại học là 1.200 CNY (trường hợp cụ thể có thể tăng thêm 20%).
- Kinh nghiệm của Thái Lan
Chính phủ Thái Lan khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư cho hệ thống giáo dục như xây dựng cơ sở vật chất trường học, mua sắm trang thiết bị dạy học. Vừa qua, Chính phủ đã thông qua việc xây dựng một quỹ 20 tỷ THB để trợ cấp theo hình thức cho vay với lãi suất ưu đãi cho các nhà đầu tư muốn xây dựng thêm trường học. Chính phủ sẵn sàng cấp đất với giá thấp và miễn, giảm thuế cho các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng giáo dục đào tạo. Đối với người học có quyền được vay trước một khoản tiền đểtrả học phí, mua sách vở, tài liệu và các chi phí liên quan đến học tập, số tiền vay đủ cho người học có khả năng trang trải chi phí cho 7 năm học: 3 năm ở cấp trung học và 4 năm ở cấp đại học. Sau khi tốt nghiệp 2 năm thì họ mới bắt đầu phải hoàn trả số tiền vay với lãi suất thấp. Việc sử dụng công cụ tài chính linh hoạt ở Thái Lan đã giúp người nghèo có cơ hội học tập, thực hiện chính sách công bằng xã hội.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm về quản lý tài chính đối với trường đại học công lập tại Việt Nam ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Các quốc gia trên thế giới đều có nguồn kinh phí và tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục đại học là khác nhau tùy thuộc trình độ văn hóa, dân trí và điều kiện kinh tế mỗi nơi. Nhưng tựu chung lại các nước đều có những biện pháp hữu hiệu để đầu tư phát triển giáo dục đào tạo, cụ thể như sau:
- Cải cách hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng thị trường, thực hiện xã hội hóa nguồn kinh phí cho GDĐH.
- Nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục đào tạo không chỉ từ NSNN mà còn từ nhiều nguồn khác, trong đó nguồn NSNN giữ vị trí chủ đạo nhằm xây dựng nền tảng cho giáo dục đào tạo.
- Tạo môi trường pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất để đảm bảo cho hoạt động giáo dục đào tạo của các trường đi đúng định hướng .
- Huy động các nguồn tài chính ngoài NSNN để đầu tư cho các trường.
Huy động các nguồn tài chính ngoài NSNN để đầu tư cho giáo dục đại học là biện pháp phổ biến ở các nước trên thế giới, từ nước phát triển cho đến những nước chậm phát triển nhằm góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và giải quyết bài toán về nhu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay. Những khoản đóng góp tư nhân được thể hiện dưới các hình thức sau:
Một là, đóng góp học phí của các bậc cha, mẹ sinh viên. Đây là một hình thức chuyển gánh nặng chi phí cho giáo dục đại học từ những người đóng thuế hoặc từ công dân nói chung sang người học, cha, mẹ người học.
Hai là, phát triển khu vực giáo dục đại học tư nhân. Đây là chính sách của nhiều quốc gia nhằm góp phần chia sẻ gánh nặng chi phí và mở rộng cơ hội học tập cho nhiều người dân, đồng thời huy động được nguồn lực xã hội tham gia phát triển giáo dục. Hệ thống các trường đại học tư thường được phân thành hai loại: phi lợi nhuận và vì lợi nhuận.
Ba là, các trường đại học tự tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động dịch vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Xu hướng hiện nay trên thế giới là các trường đại học tận dụng lợi thế sẵn có của mình để thực hiện các hoạt động dịch vụ, liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học để tăng nguồn thu cho hoạt động của trường.
Bốn là, các nguồn hỗ trợ, tài trợ tư nhân khác. Trong lúc học phí là nguồn lực tư nhân chủ yếu hỗ trợ cho các trường đại học, vẫn có một số nguồn lực tư nhân khác ngày càng chi phối nhiều trường. Đó là, các khoản hỗ trợ thường đến dưới hình thức quà tặng.
- Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo đại học gắn với chiến lược huy động, sử dụng tài chính hiệu quả.
Cần tăng cường quyền tự chủ tài chính cho các trường đại học để trường có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và yêu cầu của thị trường sức lao động. Xây dựng mô hình trường đại học công lập tự chủ thay cho mô hình hoạt động của trường đại học truyền thống.
Chiến lược và kế hoạch tài chính cần gắn chặt với kế hoạch, mục tiêu đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường.
Xây dựng chiến lược đa dạng hóa nguồn thu gắn với chiến lược, kế hoạch đào tạo với nhiều biện pháp cụ thể như tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường, hợp tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, hợp tác quốc tế. . .
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát:
Kiểm tra, giám sát cần được thực hiện bằng nhiều phương pháp, trong đó chú trọng kiểm soát của các đơn vị kiểm toán độc lập nhằm phát hiện kịp thời những bất cập trong công tác quản lý tài chính.
Tóm tắt chương 1 ( Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Trong chương 1, tác giả đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về các khái niệm, đặc điểm, vai trò của đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và trường ĐHCL nói riêng; khái niệm về tài chính, quản lý tài chính và các vấn đề cơ bản trong quản lý tài chính tại các trường ĐHCL, kinh nghiệm quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Đây là phần cơ sở lý luận quan trọng làm tiền đề cho việc phân tích thực trạng quản lý tài chính tại Học viện thanh thiếu niên Việt Nam trong chương 2.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại Học viện
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com