Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam thuộc chuyên ngành Quản lý Công, được đánh giá là một bài mẫu hay, điểm cao, nội dung rành mạch chi tiết rõ ràng. Trong đời sống xã hội giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Với xu thế phát triển tri thức ngày nay, sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam tạo ra những bước phát triển là cơ sở và động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Do đó, một tỷ trọng lớn trong tổng Ngân sách Nhà nước đã được đầu tư cho sự nghiệp giáo dục Đại học công lập Việt Nam qua các năm đều tăng trưởng. Song, việc sử dụng nguồn tài chính tại các trường Đại học công lập chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, vẫn còn tồn tại những yếu kém, bất cập kể trên. Cho nên tác giả đã lựa chọn Đề tài Quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam, làm bài luận văn tốt nghiệp của mình
Nội dung chính
2.1. Khái quát về Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
2.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam (tiền thân là trường Huấn luyện cán bộ Đoàn) được thành lập năm 1956 là đơn vị trực thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, được giao nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu về công tác Đoàn, phong trào thanh thiếu niên. Trải qua gần 60 năm xây dựng và phát triển, Học viện đã nhiều lần đổi tên, gắn với yêu cầu của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cả nước.
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đoàn, ngày 15/10/1956, lớp huấn luyện cán bộ Đoàn đầu tiên của Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam khai mạc. Thời khắc đó đã trở thành cột mốc lịch sử; mở ra giai đoạn phát triển mới trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ Đoàn nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn sôi động của phong trào Thanh thiếu nhi cả nước. Từ năm 1956 đến năm 1969, Học viện mang tên Trường Huấn luyện cán bộ Đoàn, với nhiệm vụ chủ yếu là bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ công tác Đoàn, công tác Đội cho các tỉnh, thành Đoàn phía Bắc.
Năm 1970, Trường Huấn luyện cán bộ Đoàn đượcđổi tên thành Trường Đoàn Trung ương, được Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng giao nhiệm vụ đào tạo cán bộ Đoàn có trình độ chính trị trung cấp. Cũng năm đó, Trung ương Đoàn quyết định mở thêm phân hiệu của Trường Đoàn Trung ương tại
Bắc Thái nhằm đáp ứng yêu cầu đặc thù công tác Đoàn các tỉnh miền núi phía Bắc.
Đến năm 1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Trường Đoàn Trung ương II được thành lập đặt tại Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí Minh để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn, Đội cho các tỉnh phía Nam.
Đến năm 1982, được sự đồng ý của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Trường Đoàn Trung ương đổi tên thành Trường Đoàn cao cấp Trung ương, được giao tổ chức đào tạo thí điểm hệ cao cấp 4 năm với chuyên ngành lịch sử.
Năm 1991, Trường Đoàn cao cấp trung ương đổi tên thành Trường Cán bộ Thanh thiếu niên Trung ương trên cơ sở hợp nhất cơ sở đào tạo tại Hà Nội và cơ sở đào tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, trường có thêm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Hội Liên hiệp thanh niên và Hội Sinh viên Việt Nam.
Năm 1995, khi thực tiễn công tác thanh thiếu nhi đòi hỏi cần có sự gắn kết giữa công tác đào tạo, công tác nghiên cứu và thông tin khoa học về thanh thiếu nhi, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất 3 thành viên là: Trường Cán bộ Thanh thiếu niên Trung ương, Viện Nghiên cứu Thanh niên, Phân viện Miền Nam. Năm 2001, Bộ Chính trị đã phê duyệt đề án Bộ máy tổ chức của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam là một đơn vị trực thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Với sự phát triển của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cả nước đã đặt ra yêu cầu Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam phải phát triển trở thành cơ sở đào tạo đại học là điều kiện cần để đưa hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam lên một tầm cao mới, góp phần quan trọng trong việc phát triển nhanh nguồn cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn và thực tiễn, góp phần chuẩn bị nguồn cán bộ cung cấp cho hệ thống chính trị, đáp ứng về yêu cầu chuẩn hóa cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sau một thời gian chuẩn bị tích cực, Ngày 10/10/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành quyết định số 1769 QĐ/TTg về việc nâng cấp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam thành cơ sở giáo dục đại học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân trực thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Học viện ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Học viện là cơ sở giáo dục đại học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Trụ sở chính tại: số 58, Đường Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.
Phân viện miền Nam của Học viện có trụ sở tại 261, Đường Hoàng Hữu Nam, phường Tân Phú, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
Cơ quan chủ quản: Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam là đơn vị sự nghiệp đào tạo trực thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Cơ quan quản lý về giáo dục: Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý đào tạo hệ đại học, trung cấp chuyên nghiệp; Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh quản lý đào tạo Trung cấp lý luận chính trị – hành chính; Trung ương Đoàn quản lý công tác bồi dưỡng cán bộ Đoàn.
Chức năng của Học viện:
Với tư cách là cơ sở đào tạo công lập trực thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Học viện có các chức năng cơ bản như sau:
Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng ở trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học và bồi dưỡng cán bộ làm công tác thanh thiếu nhi trong phạm vi toàn quốc nhằm cung cấp nguồn cán bộ có trình độ chuyên môn về công tác thanh thiếu nhi bậc trung cấp, cao đẳng, đại học cho tổ chức Đoàn thanh niên các cấp và các tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan, đoàn thể.
Tổ chức nghiên cứu khoa học về công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên để tham mưu cho Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Ban Bí thư Trung ương Đoàn xây dựng các Nghị quyết, chủ trương chỉ đạo công tác thanh thiếu niên trong toàn quốc, đồng thời cung cấp các luận cứ khoa học cho Ban Thường vụ, Ban Bí thư Trung ương Đoàn tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương, chính sách phù hợp với thực tế công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên trong từng giai đoạn, thời kỳ.
Nhiệm vụ của Học viện:
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- + Nhiệm vụ đào tạo:
Đào tạo trình độ sau đại học, đại học, cao đẳng, trung cấp theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và quy định của Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh;
Liên kết đào tạo ở bậc đại học và sau đại học với các tổ chức có chức năng đào tạo ở trong và ngoài nước theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hợp tác, trao đổi học thuật với các cơ sở giáo dục đại học trong và ngoài nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.
- + Nhiệm vụ bồi dưỡng cán bộ Đoàn, Hội, Đội:
Bồi dưỡng về lý luận chính trị – hành chính, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội, Đội.
Bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng và phương pháp công tác thanh thiếu nhi.
Bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ Đoàn, Hội, Đội các cấp theo chức danh (cấp tỉnh, thành Đoàn; cấp quận, huyện Đoàn; cấp xã, phường, thị trấn và tương đương. . .
Bồi dưỡng kỹ năng xã hội cho cán bộ Đoàn, Hội, Đội và đoàn viên thanh niên.
- + Nghiên cứu khoa học:
Tổ chức nghiên cứu về thanh thiếu nhi, phong trào thanh thiếu nhi và các tổ chức Đoàn, Hội, Đội, . . . làm cơ sở khoa học cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thanh thiếu nhi từng thời kỳ.
Thực hiện nhiệm vụ thường trực Hội đồng khoa học của Trung ương Đoàn, tổ chức nghiên cứu, triển khai và tham mưu cho Ban Bí thư quản lý các đề tài NCKH của Trung ương Đoàn; giữ mối quan hệ phối hợp công tác với Bộ Khoa học và Công nghệ. ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Là đơn vị đầu ngành trong các NCKH về công tác Đoàn, các vấn đề của thanh niên các tổ chức của thanh niên và phong trào thanh niên; nghiên cứu tổng kết thực tiễn các mô hình, phong trào hoạt động của Đoàn, Hội, Đội; dự báo xu hướng phát triển của phong trào thanh niên cả nước.
Tổ chức, lưu trữ thông tin, tư liệu về thanh thiếu nhi trong nước và quốc tế phục vụ cho công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi; tham mưu ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn phong trào thanh thiếu nhi và công tác xây dựng tổ chức Đoàn, Hội, Đội.
Tổ chức nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế theo quy định của Nhà nước và Trung ương Đoàn.
- + Các nhiệm vụ khác
Biên soạn và phối hợp xuất bản các ấn phẩm, công trình nghiên cứu khoa học; Biên soạn giáo trình, tài liệu phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thanh thiếu nhi tại Học viện và các tỉnh, thành, địa phương.
Quản lý cán bộ, viên chức và người lao động; quản lý và sử dụng quỹ đất, cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính của Học viện theo quy định của luật và phân cấp quản lý của Trung ương Đoàn.
Thực hiện công tác tuyển sinh, quản lý người học và cấp bằng, chứng chỉ học tập sau khi tốt nghiệp theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và Trung ương Đoàn.
Tổ chức hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên cứu và thông tin khoa học trong các vấn đề liên quan đến thanh niên, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi theo qui định của pháp luật hiện hành.
Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công hoặc uỷ quyền của Ban Bí thư Trung ương Đoàn.
Thực hiện các hoạt động dịch vụ theo chức năng và nhiệm vụ được giao trong các lĩnh vực liên quan đến nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thanh thiếu nhi.
2.1.3. Tổ chức bộ máy của Học viện ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Theo quy chế tổ chức và hoạt động đã được Ban Bí thư Trung ương Đoàn ký ban hành, Bộ máy tổ chức của Học viện được tổ chức như sau:
- + Ban Giám đốc, gồm: Giám đốc và các Phó Giám đốc
- + Hội đồng Khoa học và Đào tạo, các Hội đồng tư vấn do Giám đốc Học viện quyết định thành lập.
- + Phân viện của Học viện tại phía Nam (gọi tắt là Phân viện miền Nam) và Viện Nghiên cứu Thanh niên.
Tổng số biên chế của Học viện được Trung ương Đoàn phân bổ hiện nay là 115 biên chế, số cán bộ làm việc theo chế độ hợp đồng là 12 người. Trong đó, số cán bộ, viên chức có trình độ từ thạc sỹ trở lên là 56 người. Ngoài ra, Học viện đã mời các nhà khoa học ở các trường đại học, Học viện, các Viện trong cả nước làm việc theo chế độ kiêm nhiệm hoặc thỉnh giảng, về lâu dài, đa số nhân viên phục sẽ làm theo chế độ hợp đồng, số biên chế sẽ được ưu tiên cho việc tăng cường số lượng giảng viên cơ hữu.
2.2. Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Là một đơn vị sự nghiệp công lập có nội dung hoạt động chủ yếu là thực hiện các nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, thực hiện tự chủ một phần kinh phí hoạt động thường xuyên, do đó, công tác quản lý tài chính chủ yếu là quản lý thực hiện các khâu của chu trình ngân sách đối với các nhiệm vụ thường xuyên. Trong phạm vi đề tài, tác giả chủ yếu đề cập đến nội dung quản lý tài chính (lập kế hoạch tài chính, tổ chức thực hiện kế hoạch tài chính và thanh tra, kiểm tra công tác quản lý tài chính) đối với nguồn thu NSNN cấp, nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp và các nội dung chi thường xuyên của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam.
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam áp dụng chính sách thu – chi tài chính thống nhất: thu – chi qua một đầu mối do Phòng Kế hoạch – Tài vụ đảm nhiệm. Phòng kế hoạch – Tài vụ có trách nhiệm tham mưu cho Học viện trong công tác quản lý tài chính trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan.
Phòng Kế hoạch – Tài vụ lập kế hoạch, quản lý và báo cáo quyết toán ngân sách của Học viện theo đúng quy định của Nhà nước và các quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ.
Các đơn vị có chủ quyền chủ động trong việc chi các khoản Học viện giao chi các đơn vị sử dụng và phải tuân thủ pháp lệnh kế toán thống kê, thực hiện việc tạm ứng, thanh – quyết toán tại Phòng Kế hoạch – Tài vụ, đồng thời phải tổ chức công khai tài chính tại đơn vị mình.
Công tác kế toán và quyết toán ngân sách phải được thực hiện thống nhất theo quy định về chứng từ thu chi ngân sách, mục lục ngân sách Nhà nước, hệ thống tài khoản, số sách, biểu mẫu báo cáo và đối tượng sử dụng ngân sách.
Việc chỉnh lý quyết toán ngân sách thực hiện theo quy định của pháp luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành. Việc kiểm tra, thanh tra và xử lý việc chấp hành các chế độ thu chi và quản lý ngân sách, quản lý tài sản được thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật.
Như vậy, đội ngũ cán bộ tài chính – kế toán của Học viện có một vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả của việc quản lý tài chính. Trong khi đó, số lượng cán bộ của Phòng Kế hoạch – Tài vụ của Học viện hiện có 06 người, trong đó chỉ có 1 thạc sỹ, 2 chuyên viên chính, 3 cử nhân và cao đẳng. Xét về thâm niên công tác thì có 2 người đã làm việc trên 15 năm, còn lại mới chỉ làm việc từ 1 đến 5 năm. Qua đó cho thấy một bộ phận cán bộ công tác kế toán – tài chính của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ có một khoảng cách khá lớn giữa nhóm đã làm việc lâu năm và nhóm cán bộ trẻ, trong khoảng vài năm tới sẽ có một sự hẫng hụt lớn do lớp già đã về hưu trong khi trẻ còn non về kinh nghiệm, nhất là kinh nghiệm về quản lý tài chính, vì đa số đều không có kiến thức chuyên môn về tài chính. Việc tiếp thu và cập nhật chính sách, chế độ mới cũng như trang bị kiến thức về tin học, ngoại ngữ để ứng dụng các công cụ tin học vào công tác tài chính – kế toán cần được chú trọng. ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Một số hoạt động chủ yếu trong công tác quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam bao gồm:
- Xây dựng và ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ: Học viện là đơn vị sự nghiệp có thu đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên, thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo, được tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP, Học viện đã chủ động xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị mình căn cứ hướng dẫn xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ của Bộ tài chính tại Thông tư 71/2006/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 09/08/2006 hướng dẫn thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính Phủ quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư 113/2007/TT-BTC ngày 24/09/2007 sửa đổi bổ sung Thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 29/08/2006; Luật viên chức số 58/2010/QH12 ngày 15/11/2010; Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010… và một số văn bản pháp quy có liên quan khác.
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế: Học viện thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc xác định nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch và tổ chức hoạt động.
- Về hạch toán kế toán và báo cáo tài chính: Học viện đang áp dụng chế độ kế toán Hành chính sự nghiệp.
Có thể bạn quan tâm:
2.2.1. Thực trạng lập dự toán tài chính
Việc lập, phân bổ và giao dự toán thu chi NSNN cho Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam về cơ bản theo đúng các hướng dẫn của các cơ quan cấp trên và theo các định mức của các văn bản chế độ chính sách hiện hành. Tuy nhiên, công tác này tại Học viện chưa gắn với quy mô, khối lượng nhiệm vụ sự nghiệp mà Học viện dược giao chủ yếu dựa trên những căn cứ định tính, các số liệu quá khứ mà chưa tính đến xu hướng phát triển trong tương lai. Điều này cũng một phần là do Bộ tài chính, KBNN và các cơ quan có liên quan chưa phối hợp đồng bộ trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo trong quá trình lập, chấp hành NSNN; còn nhiều vướng mắc, phiền hà cho các cơ sở. Việc quy định phân bổ giao dự toán NSNN chi tiết đến loại, khoản, nhóm, mục là chưa phù hợp với cơ chế tự chủ tài chính của các cơ sở ĐTĐH nói chung và Học viện nói riêng.
Đối với nguồn NSNN cấp, hiện nay Bộ giáo dục và Đào tạo giao tự chủ đối với các khoản chi thường xuyên theo định mức phân bổ ngân sách, một số nội dung công việc đã xác định ổn định thường xuyên của đơn vị và cấp ổn định trong thời kỳ 3 năm. Kinh phí chưa giao tự chủ gồm các nội dung chi đặc thù, chi mua sắm, sửa chữa tài sản, chi chương trình mục tiêu quốc gia, dự án, đề án, đề tài, chi khoa học công nghệ.
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính và phân loại là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên. Học viện áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính theo hướng dẫn của Nghị định 43/2006/NĐ-CP và là đơn vị dự toán cấp 3.
Sau khi có quyết định giao dự toán của Bộ giáo dục và đào tạo, Học viện gửi báo cáo Kho bạc Nhà nước Đống Đa để theo dõi, quản lý, thực hiện thu, chi và kiểm soát chi qua Kho bạc Đống Đa.
2.2.2. Thực trạng quản lý công tác chấp hành dự toán tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Về cơ bản, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam chấp hành đúng theo các chỉ tiêu của dự toán đã được duyệt. Việc chuyển từ hình thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí sang phương thức rút dự toán ngân sách tại KBNN đã làm giảm hẳn các thủ tục giấy tờ. Tuy nhiên ở Kho bạc Nhà nước Đống Đa, do còn thiếu nhân lực, đội ngũ cán bộ quản lý Kho bạc thường xuyên luân chuyển trong những năm trở lại đây nên khâu thanh toán còn chậm trễ; hiệu quả công việc kiểm soát chi của Kho bạc còn hạn chế, làm ảnh hưởng đến việc quyết toán và xét duyệt quyết toán của Học viện. Cụ thể:
- Thực trạng quản lý nguồn thu tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Quán triệt nghị quyết Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng về giáo dục đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam đã xác định rõ mục tiêu là tiếp tục mở rộng quy mô, hình thức và đa dạng hoá các loại hình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo để cung cấp cho tổ chức Đoàn Thanh niên những cán bộ có năng lực, phẩm chất, bản lĩnh hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời góp phần đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí cho xã hội. Trong đó nhiệm vụ đào tạo cán bộ Đoàn Thanh niên là trọng tâm nhằm trang bị những kiến thức về kinh tế, chính trị, xã hội có lý luận và thực tiễn hoạt động công đoàn, thực sự là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân và của người lao động.
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam trải qua một quá trình xây dựng và phát triển đến nay đã là một đại học đa ngành, đa cấp vì vậy nhu cầu về tài chính rất lớn. Học viện đã nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, việc đầu tư cũng được tăng lên. Hàng năm, ngân sách Nhà nước cấp cho Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam theo định mức, theo quy mô hiện có và các chương trình mục tiêu, các dự án…Đây là nguồn kinh phí chủ yếu để xây dựng Học viện.
Nguồn tài chính của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam gồm các nguồn sau:
- Nguồn thu từ ngân sách
- Nguồn thu ngoài ngân sách
Về cơ bản, việc quản lý các nguồn thu tại Học viện dựa trên một số nguyên tắc sau:
- Mọi nguồn thu của Học viện đều do phòng Kế hoạch – Tài vụ tổ chức thu và thống nhất tập trung quản lý theo quy định QLTC của Nhà nước và quy chế quản lý nguồn thu của Học viện.
- Về tổ chức thu được tổ chức theo ba hình thức thu là thu trực tiếp tại phòng Kế hoạch – Tài vụ, ủy quyền thu một số nguồn thu đặc thù cho một số đơn vị gắn với công việc trực tiếp quản lý và thu qua ngân hàng. Các đơn vị không được ủy quyền thu thì không được phép tự Các đơn vị được ủy quyền thu theo sự hướng dẫn chuyên môn của phòng Kế hoạch – Tài vụ và phải nộp tất cả các khoản thu về phòng Kế hoạch – Tài vụ, không được giữ tiền mặt và không được tự chi tại đơn vị.
- Tất cả các khoản thu đều phải sử dụng chứng từ thu thống nhất của Học viện do phòng Kế hoạch – Tài vụ cấp. Mọi khoản thu nếu không được phản ánh trên chứng từ quy định, hoặc không được ủy quyền thu đều là khoản thu bất hợp lý.
- Các loại phí, lệ phí và nguồn thu hợp pháp khác thực hiện theo hướng dẫn của Nhà nước và quyết định của lãnh đạo Học viện.
- Các đơn vị trực thuộc Học viện có các hoạt động riêng phải tự hạch toán lấy thu bù chi và có lãi. Tiền lãi của đơn vị một phần nộp về Học viện, một phần để lại đơn vị trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích của Học viện và lợi ích phát triển của đơn vị.
Sau đây là bảng tổng hợp các nguồn thu của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Qua bảng trên ta thấy, các nguồn thu của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam đều tăng hàng năm. Nguồn tài chính năm 2014 tăng 4.219 triệu đồng (tăng 19,65%) so với năm 2013 trong đó nguồn ngân sách Nhà nước tăng 1.034 triệu đồng (tăng 9,47%), năm 2015 tăng 3.228 triệu đồng (tăng 12,56%) so với năm 2014 trong đó nguồn ngân sách Nhà nước tăng 799 triệu đồng (tăng 15,05%).
Tổng nguồn thu tài chính của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam trong thời gian qua tăng mạnh là do nguồn thu từ ngân sách nhà nước cấp và nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước. Xét về nguồn thu từ ngân sách nhà nước qua các năm đều có sự tăng trưởng đáng kể, năm 2013 nguồn thu từ ngân sách nhà nước đạt 10.916 triệu đồng. Sang đến năm 2014 tăng lên 11.950 triệu đồng, tương ứng mức tăng 9,47%, đến năm 2015 tăng lên 13.749 triệu đồng, tương ứng với mức tăng 15,05%. ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Nguồn thu ngoài ngân sách Nhà nước tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam chủ yếu đến từ Thu học phí, Lệ phí và Thu liên kết dịch vụ. Trong đó, trong năm 2013 hai nguồn thu này có tỷ lệ tăng không cao. Tuy nhiên đến năm 2015 do tăng học phí cũng như các nguồn thu khác từ học phí, chính vì thế nguồn thu này đã gấp đôi so với Thu liên kết dịch vụ. Nguồn thu ngoài ngân sách Nhà nước trong năm 2015 đạt 15.171 triệu đồng, tăng 10,39% so với năm 2014, trong đó Thu học phí, Lệ phí đạt 10.863 triệu đồng, Thu liên kết dịch vụ giảm xuống so với cùng kỳ năm trước chỉ đạt 4.308 triệu đồng, tương ứng mức giảm đến gần 50% so với năm 2014 đối với nguồn thu này.
Nhìn chung tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam nguồn thu ngoài ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trong cao hơn so với Nguồn thu từ ngân sách Nhà nước cấp. Đây cũng là xu hướng chung của các trường Đại học trong giai đoạn hiện nay.
Trong cơ cấu nguồn tài chính, ngân sách nhà nước giữ vai trò quan trọng cho các hoạt động thường xuyên và cho đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư trang thiết bị phòng học, thư viện…Trước yêu cầu của việc mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, lãnh đạo Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam đã có nhiều dự án xây dựng cơ sở vật chất để Học viện ngày càng hiện đại và khang trang hơn.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, sự giúp đỡ của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Bộ Tài chính bằng nhiều nguồn vốn khác nhau Học viện đã nâng cấp và xây dựng nhiều công trình, cơ sở hạ tầng. Góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, giảng viên, sinh viên, làm cho Học viện ngày một khang trang, xanh – sạch – đẹp, đảm bảo cảnh quan sư phạm, môi trường của một trường Đại học.
Bên cạnh nguồn ngân sách Nhà nước thì các nguồn thu khác của trường cũng tăng đều góp phần cho các hoạt động chăm lo đời sống cán bộ, giảng viên công nhân viên và sinh viên trong Học viện được đẩy mạnh tốt hơn. Đời sống vật chất, tinh thần của mọi người được cải thiện. Hầu hết, thu nhập của cán bộ, giảng viên, công nhân viên đã được nâng lên. Các khoa, phòng, Trung tâm có nhiều việc làm, tạo thêm nguồn thu, tổ chức nghỉ ngơi, tham quan, du lịch. Các chế độ, chính sách đối với cán bộ giảng viên và sinh viên được thực hiện đầy đủ. Các hoạt động thể dục thể thao, văn hoá văn nghệ, các câu lạc bộ sinh viên được đẩy mạnh, bầu không khí dân chủ được bảo đảm, đoàn kết nội bộ được củng cố và tăng cường.
- Nguồn ngân sách nhà nước cấp
Nguồn ngân sách Nhà nước cấp luôn là nguồn vốn quan trọng nhất đảm bảo cho sự hoạt động và phát triển của khu vực hành chính sự nghiệp. Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chiến lược phát triển giáo dục cũng đặt ra mục tiêu tăng cường nguồn tài chính cho giáo dục – đào tạo, nâng cao tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục – đào tạo nhằm tăng tốc độ phát triển, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực.
Trong xu hướng tăng chi cho sự nghiệp giáo dục, nguồn ngân sách Nhà nước cấp chi thường xuyên cho Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam dựa vào chỉ tiêu học sinh có ngân sách được giao hàng năm và được thể hiện thông qua bảng số liệu sau.
Qua số liệu trên ta thấy, tỷ trọng ngân sách cấp chi tiêu thường xuyên cho đào tạo đa số các năm chiếm trên 80% trong tổng nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho trường (Năm 2013 là 86,26%; năm 2014 là 83,26%; năm 2015 là 82, 91%). Mặc dù tỷ lệ phần trăm có xu hướng giảm nhưng xét về số tuyệt đối thì vẫn tăng hàng năm. Chi xây dựng cơ bản chiếm từ 14% – 18% tổng nguồn ngân sách Nhà nước cấp, trong đó chi cho hoạt động xây dựng cơ bản tăng nhanh trong 2 năm 2013 và 2014. Đó là do năm 2013 và năm 2014 trường đã hoàn thành các hạng mục như nâng cấp nhà làm việc 3 tầng lên 4 tầng, xây mới nhà đa năng 2 tầng, sửa chữa và nâng cấp khu ký túc xá A sinh viên 5 tầng, cải tạo toàn bộ hệ thống điện, nước, đường đi, xây dựng phòng học hiện đại, phòng máy vi tính…Đặc biệt năm 2015 Học viện tiếp tục thực hiện dự án giai đoạn 2 xây dựng và cải tạo khu ký túc xá B sinh viên 5 tầng, nâng cấp và mở rộng cantin sinh viên. Cơ sở vật chất của Học viện được cải tạo là điều kiện quan trọng để phục vụ các mặt hoạt động của Học viện, tạo nên cảnh quan văn hoá, văn minh, hiện đại góp phần giáo dục đạo đức và nhân cách của cán bộ, giảng viên, công nhân viên và sinh viên, đồng thời khẳng định bước phát triển đi lên của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam.
- Nguồn thu ngoài ngân sách Nhà nước của Học viện
Theo kết quả bảng 2.3 ta có thể thấy thu liên kết dịch vụ có xu hướng giảm tỷ trọng qua các năm, đến năm 2015 chỉ chiếm 28,40%, còn thu học phí, lệ phí tăng lên 71,6%. Nguyên nhân là do số tiền Thu học phí, Lệ phí tăng mạnh trong thời gian vừa qua làm tăng tỷ trọng của nguồn thu này. Thu hoạt động dịch vụ cũng chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng thu hoạt động sự nghiệp và dịch vụ. Đây là các khoản thu từ dịch vụ ký túc xá, thuê nhà, trông xe máy, xe đạp, căng tin… Tuy nhiên tỷ trọng giảm dần qua các năm bởi một số công trình cho thuê của Học viện hiện nay đang đi vào giai đoạn nâng cấp, sửa chữa. Chính vì thế làm giảm tỷ trọng của nguồn thu này qua các năm. Kết quả trong năm 2015 nguồn thu liên kết dịch vụ giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2014.
Từ số liệu ở bảng trên ta thấy, thu học phí, lệ phí chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu hoạt động sự nghiệp.
Thu học phí các năm 2014 và 2015 tăng đáng kể so với năm 2013. Nguyên nhân của sự gia tăng này là do những thay đổi trong chính sách thu học phí của Bộ Giáo dục và đào tạo. Theo đó, từ năm học 2009 – 2010 trở đi, mức thu đối với các bậc học, hệ đào tạo đều tăng lên cộng với sự gia tăng số lượng tuyển sinh các hệ đào tạo vừa học vừa làm, liên thông, văn bằng 2 đại học đã làm tăng số thu học phí của trường. Bên cạnh đó, các học sinh, sinh viên thuộc đối tượng chính sách được miễn, giảm học phí theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, từ 1/7/2010 sẽ nộp học phí tại trường sau đó được xác nhận để về địa phương nhận kinh phí hỗ trợ từ NSNN, do vậy, đã làm tăng số thu học phí của trường.
Mặc dù nguồn thu ngoài ngân sách Nhà nước cấp đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng hơn, Học viện vẫn chưa thực sự có một định hướng và kế hoạch cụ thể nào. Các nguồn thu chủ yếu phát sinh một cách tự nhiên, Học viện còn chưa tích cực trong việc tìm kiếm các nguồn thu khác, đó là do tâm lý ỷ lại vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp. Vì vậy, trong thời gian tới, nếu phải thực hiện tự chủ tài chính thì Học viện sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo nhu cầu chi tiêu rất lớn trong giai đoạn xây dựng mô hình đa ngành, đa cấp như hiện nay. ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
- Quản lý sử dụng các khoản chi tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Quản lý các khoản chi tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam dựa trên một số nguyên tắc cơ bản sau:
Các khoản chi thường xuyên phải có dự trù, dự toán được lập theo định mức của Quy chế chi tiêu nội bộ và các quy định hiện hành của Nhà nước phải được phòng Kế hoạch – Tài vụ thẩm định trình Lãnh dạo học viện phê duyệt; các khoản chi khác thực hiện theo các quy định của Nhà nước.
Các khoản chi phải đảm bảo có đủ chứng từ hóa đơn hợp pháp, hợp lý, hợp lệ theo đúng chế độ kế toán và các quy định của Nhà nước hoặc theo quy định của quy chế chi tiêu nội bộ.
Tất cả các hợp đồng liên quan đến tài chính phải có ý kiến tham mưu của phòng chuyên môn và phòng Kế hoạch – Tài vụ trước khi trình Ban giám đốc duyệt sau đó mới được thực hiện. Các đơn vị có quyền chủ động trong việc chi các khoản Học viện giao cho các đơn vị sử dụng và tuân thủ theo quy chế chi tiêu nội bộ và luật kế toán.
a.Quản lý chi từ nguồn ngân sách nhà nước cấp
Nguồn kinh NSNN cấp được dùng để chi thường xuyên thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Học viện, thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ, thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp.
Kinh phí NSNN cấp thực hiện qua Kho bạc Nhà nước. Đơn vị thực hiện chi và kế toán, thanh quyết toán theo các mục của mục lục NSNN tương ứng với từng nội dung chi.
Đối với kinh phí chưa được giao tự chủ tài chính, đơn vị lập kế hoạch chi tiêu trình Bộ giáo dục và Đào tạo phê duyệt trước khi thực hiện. Nội dung và định mức chi được thực hiện theo quy định hiện hành của nhà nước về quản lý tài chính.
Đối với kinh phí giao tự chủ tài chính, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu, đơn vị lập dự toán phân bổ đến nhóm mục và gửi Kho bạc Nhà nươc nơi giao dịch để rút kinh phí. Các định mức chi tiêu thực hiện theo quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ.
Qua số liệu phân tích ở bảng trên ta thấy trong những năm qua Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam đã có nhiều cố gắng nhằm hoàn chỉnh bộ máy, giảm biên chế để giảm quỹ lương, giảm chi phí quản lý hành chính. Đồng thời, tỷ lệ chi cho nghiệp vụ chuyên môn giảng dạy và học tập, chi mua sắm sửa chữa từng bước nâng lên, chứng tỏ Học viện đã chú trọng hơn vào việc đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo cả về mặt chuyên môn nghiệp vụ cũng như trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy và học tập.
Việc chi trả lương cho cán bộ công chức và lao động hợp đồng vẫn theo hệ thống thang bảng lương hành chính sự nghiệp. Các khoản phụ cấp lương được quy định như sau:
- Giảng viên biên chế Nhà nước: phụ cấp lương 30%
- Giảng viên hợp đồng dài hạn: phụ cấp lương 25%
- Giảng viên dạy môn Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh: phụ cấp lương 45% và được miễn giảm 20% số giờ chuẩn theo quy định.
- Trợ lý, giáo vụ khoa chuyên trách hưởng chế độ như cán bộ các phòng
Những quy định trên quá cứng nhắc, chưa tạo được động lực để người lao động nâng cao năng suất và chất lượng giảng dạy.
Các khoản chi quản lý hành chính tuy có giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu chi. Đó là do tính lạc hậu, cứng nhắc trong các tiêu chuẩn định mức chi cho quản lý hành chính như chi sử dụng điện thoại, công tác phí, hội nghị phí…
Chi cho nghiệp vụ chuyên môn chưa có những bước chuyển biến đáng kể. Vì vậy, thực tế là kinh phí cho sinh viên và giảng viên đi thực tập, thực tế, mua thiết bị thực hành, thí nghiệm theo yêu cầu đào tạo còn hẹp, mới chỉ đáp ứng tối thiểu cho một số ngành lý thuyết, đối với các ngành liên quan đến khoa học tự nhiên và công nghệ còn rất thiếu thốn. Trong khi đó, tiêu chuẩn, định mức chi cho việc đi thực tập, thực hành của sinh viên đã được quy định từ lâu, không còn phù hợp với tình hình mới. Số giờ quy chuẩn cho giáo viên hướng dẫn cũng chưa phù hợp. Vì vậy, chất lượng đào tạo còn ở mức thấp, kỹ năng thực hành, thực tế của sinh viên còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc
Việc mua giáo trình, tài liệu và các trang thiết bị phục vụ giảng dạy được giao cho Trung tâm thông tin thư viện đảm nhiệm gây nên nhiều bất cập. Vì vậy, tình trạng chung là học chay, dạy chay do tài liệu, các trang thiết bị không đủ và không phù hợp, dẫn đến chất lượng đào tạo không được cải thiện. Việc chi trả vượt giờ, chi đào tạo bồi dưỡng cán bộ…cũng còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với công sức của giảng viên, do đó không tạo động lực để họ dành thời gian nâng cao trình độ và chất lượng giảng dạy.
Các khoản chi cho mua sắm cơ sở vật chất tuy đã được chú trọng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự gia tăng về quy mô đào tạo, đặc biệt là hệ đào tạo không chính quy. Vì vậy, trong thời gian tới Học viện nên tăng cường hơn nữa để hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất.
b. Quản lý chi từ nguồn ngoài ngân sách nhà nước cấp
Chi từ nguồn thu học phí
Nguồn học phí đơn vị được sử dụng toàn bộ cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, cụ thể: chi mua sắm, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập, chi hỗ trợ cho hoạt động trực tiếp giảng dạy, phục vụ giảng dạy bao gồm chi hỗ trợ cho lao động trực tiếp giảng dạy và phục vụ giảng dạy của giáo viên và các bộ phận liên quan phục vụ tuyển sinh của Học viện.
Học viện đã mở tài khoản tiền gửi về Quỹ học phí tại kho bạc Nhà nước Đống Đa nơi giao dịch theo đúng quy định. Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định bãi bỏ quy định tại khoản 3 Điều 4 Quyết định số 70/1998/QĐ-TT ngày 31/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thu và sử dụng học phí ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trong đó, tỷ lệ học phí dành để tăng cường cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy – học tập (khoản 2.1) không dưới 35% đối với khối giáo dục, không dưới 45% đối với khối đào tạo và tỷ lệ học phí dành cho hỗ trợ công tác quản lý và điều tiết chung (nếu có) thuộc nghành giáo dục – đào tạo ở địa phương (khoản 2.4) không quá 20% đã tạo điều kiện để đơn vị tự chủ hơn trong việc sử dụng Quỹ học phí thu được.
Về cơ bản, việc quản lý, sử dụng các loại phí, lệ phí đã được thực hiện theo quy định. Các khoản chi từ nguồn phí, lệ phí chủ yếu là chi cho nghiệp vụ chuyên môn, tăng đều qua các năm cả số tuyệt đối và số tương đối.
Chi từ nguồn thu dịch vụ
Đối với nguồn thu này, Học viện được tự chủ chi tiêu phù hợp với hoạt động, đảm bảo nguyên tắc thu bù đắp chi và có tích lũy. Nội dung chi như sau: Chi tiền lương, tiền công theo hợp đồng khoán việc, chi phí vật liệu, dụng cụ, chi sửa chữa nhỏ, chi thưởng cho cá nhân, tập thể tìm nguồn dịch vụ cho Học viện và các khoản chi khác (nếu có), mức chi quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ. Các mục chi này được ghi nhận là chi phí hợp lý để tính thuế thu nhập doanh nghiệp của Học viện.
Hiệu quả hoạt động dịch vụ được đánh giá theo mức chênh lệch thu chi của hoạt động này. Khoản chênh lệch thu chi là nguồn để thực hiện thu nhập tăng thêm theo cơ chế quản lý tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP, quy định cụ thể trong quy chế chi tiêu nội bộ của Học viện.
Mời bạn tham khảo thêm:
2.2.3. Quản lý hoạt động quyết toán thu – chi tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Hàng năm, căn cứ kết quả hoạt động tài chính trong năm, sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp khác theo quy định; phần kinh phí tiết kiệm chi, chênh lệch thu lớn hơn chi của hoạt động dịch vụ (nếu có), đơn vị được sử dụng theo trình tự như sau:
- Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động;
- Chi khen thưởng định kỳ, đột xuất cho tập thể, cá nhân trong và ngoài đơn vị theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp vào hoạt động của đơn vị;
- Chi phúc lợi, trợ cấp khó khăn, đột xuất cho người lao động, kể cả các trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức trong năm;
- Chi tăng cường cơ sở vật chất của đơn vị;
- Lập quỹ dự phòng ổn định thu nhập.
Chi trả tăng thêm cho người lao động
Qua bảng số liệu cho thấy, chênh lệch kết quả hoạt động thường xuyên từ năm 2013-2015 có sự tăng giảm. Chênh lệch kết quả hoạt động thường xuyên năm 2014 giảm so với năm 2013 là 481 triệu đồng, năm 2015 lại tăng 728 triệu đồng so với năm 2014 và tăng 247 triệu đồng so với năm 2013. Điều này cho thấy trong 3 năm gần đây kết quả của hoạt động chi thường xuyên năm 2015 là cao nhất, năm 2014 là thấp nhất.
Còn chênh lệch kết quả hoạt động dịch vụ từ năm 2013-2015 cũng có sự tăng giảm. Chênh lệch kết quả hoạt động dịch vụ năm 2014 giảm so với năm 2013 là 110 triệu đồng, năm 2015 lại tăng 181 triệu đồng so với năm 2014 và tăng 71 triệu đồng so với năm 2013. Điều này cho thấy trong 3 năm gần đây kết quả của hoạt động chi dịch vụ năm 2015 là cao nhất, năm 2014 là thấp nhất. Qua tìm hiểu sự biến động này về chênh lệch kết quả hoạt động thường xuyên và dịch vụ là do năm 2014 là năm Học viện có những thay đổi lớn trong cơ cấu tổ chức các bộ phận tạo ra nguồn thu trong Học viện.
Một trong những mục tiêu quan trọng của việc giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp là nâng cao đời sống, thu nhập cho cán bộ. Để có nguồn tài chính thực hiện chi thu nhập tăng thêm thì đơn vị phải mở rộng, khai thác được nguồn thu và tiết kiệm chi. Do vậy, thu nhập tăng của cán bộ, giảng viên trong đơn vị là chỉ tiêu phản ánh rõ nét hiệu quả công tác quản lý tài chính của đơn vị.
Việc chi trả thu nhập tăng thêm của Học viện được quy định trong Quy chế chi tiêu nội bộ của Học viện ( căn cứ hướng dẫn tại Thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 09/8/2006 và Thông tư 113/2007/TT-BTC ngày 24/9/2007 của Bộ tài chính). Việc chi trả thu nhập tăng thêm được thực hiện như sau:
- Chi thu nhập tăng thêm hàng tháng:
Hàng tháng, thu nhập tăng thêm được trả cùng với lương tháng và trợ cấp ăn trưa cho cán bộ, giảng viên của Học viện.
- Chi thu nhập tăng thêm hàng quý:
Cuối mỗi quý Học viện chi thu nhập tăng thêm cho người lao động theo hệ số lương và phụ cấp chức vụ.
Cán bộ chuyển công tác được tính tiền lương tăng thêm đến ngày có quyết định; được tính nửa quý tiền lương tăng thêm khi CBVC chuyển trước 1/2 thời gian của quý, được tính cả quý khi CBVC chuyển sang 1/2 thời gian của quý.
Cán bộ nghỉ hưu hưởng tiền lương tăng thêm được tính hết quý làm việc.
Nếu cán bộ, viên chức vi phạm kỷ luật từ mức khiển trách trở lên sẽ không được hưởng thu nhập tăng thêm 1 quý.
- Chi trả thu nhập tăng thêm bổ sung:
Kết thúc năm, trước ngày 31/01 năm sau, trên cơ sở xác định chênh lệch thu lớn hơn chi cả năm và kinh phí đã chi thu nhập tăng thêm để thanh toán thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức đảm bảo không vượt quá 2 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm theo quy định của Nhà nước, sau khi đã trích lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.
Căn cứ quyết toán của Học viện được Bộ giáo dục phê duyệt: Trường hợp số được trích cả năm để chi thu nhập tăng thêm cao hơn số đã tạm trích để chi trả thu nhập tăng thêm trong năm, đơn vị được tiếp tục chi trả thu nhập tăng thêm theo chế độ quy định. Trường hợp số đã tạm trích để chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, viên chức lớn hơn số được trích, thì số chi vượt Học viện phải sử dụng Quỹ dự phòng ổn định thu nhập (nếu có) để bù đắp; Trường hợp sau khi dùng Quỹ dự phòng ổn định thu nhập để bù đắp vẫn còn thiếu hụt thì trừ vào chênh lệch thu, chi dành chi trả thu nhập tăng thêm của năm sau; Trường hợp năm sau không có chênh lệch thu lớn hơn chi thì trừ vào Quỹ tiền lương của Học viện.
Từ khi thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP, thu nhập tăng thêm của cán bộ, giảng viên của Học viện đã có sự tăng trưởng khá ổn định, đã góp phần cải thiện, nâng cao đời sống cán bộ, giảng viên.
Qua bảng 2.7 cho thấy, chi tiền lương tăng thêm ở Học viện tăng dần qua các năm và đặc biệt tăng cao trong năm 2015. Điều này phản ánh rõ rệt sự phụ thuộc của thu nhập tăng thêm chi cho cán bộ, viên chức Học viện với kết quả hoạt động của đơn vị. Năm 2015, Học viện tăng cường khai thác nguồn thu từ hoạt động dịch vụ và đã đem lại kết quả rõ rệt. Tiền lương tăng thêm năm 2015 bình quân là 1.255.727 đồng/người/tháng. Thu nhập tăng thêm bình quân của Học viện năm 2015 tăng gấp đôi so với năm 2014. ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Trong những năm qua, nguồn thu của Học viện tăng đều nhờ tăng thu, tiết kiệm chi và nỗ lực trong quản lý điều hành hoạt động của đơn vị nên mức trích lập các quỹ cơ quan cũng tăng. Nhờ vậy Học viện có nguồn vốn chủ động thực hiện, xử lý các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ cũng như hoạt động nội bộ của Học viện một cách kịp thời, có hiệu quả. Học viện đã thể hiện sự quan tâm của cơ quan đến đời sống của cán bộ, giảng viên nên tạo ra sự đoàn kết, gắn bó giữa các cán bộ và với Học viện.
- Tình hình trích lập quỹ của Học viện
Hàng năm, căn cứ kết quả hoạt động tài chính trong năm, nếu phần thu lớn hơn phần chi Học viện được trích quỹ từ phần chênh lệch đó để chi tiền lương tăng thêm, còn lại trích:
Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: 25% Quỹ dự phòng ổn định thu nhập: 30%
Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi: 45% (việc trích cho hai quỹ này < hoặc = 3 tháng tiền lương, tiền công và thu nhập bình quân trong năm).
Các quỹ của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam được trích lập từ các nguồn sau: Thứ nhất, là nguồn kinh phí còn lại chưa chi hết hoặc thực hành tiết kiệm mà có; Thứ hai, là phần lợi nhuận sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của hoạt động dịch vụ. Riêng quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp ngoài hai nguồn trên còn được trích bổ xung từ hai nguồn sau: Từ khấu hao TSCĐ thuộc nguồn kinh phí NSNN cấp dùng cho hoạt động dịch vụ và từ chênh lệch thu lớn hơn chi do thanh lý tài sản thuộc nguồn kinh phí NSNN cấp (nếu có).
Quỹ khen thưởng được Giám đốc Học viện sử dụng trong việc khen thưởng định kỳ hay đột xuất cho tập thể, cá nhân theo kết quả công tác và thành tích đóng góp nhằm phát huy, nhân rộng điển hình và động viên kịp thời nhằm khuyến khích tinh thần công tác trong toàn trường. Giám đốc được sử dụng quỹ khen thưởng để chi thưởng cho các đơn vị, cá nhân bên ngoài trường khi thấy cần thiết với mức chi tối đa là 20% quỹ khen thưởng trích lập trong kỳ.
Quỹ phúc lợi được dùng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi, chi các hoạt động phúc lợi tập thể cho người lao động trong trường; trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động, kể cả trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức; chi thêm cho người lao động trong biên chế thực hiện tinh giản biên chế.
Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp được dùng để đầu tư, phát triển nâng cao hoạt động sự nghiệp, bổ xung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị trợ giúp thêm đào tạo, huấn luyện nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao năng lực công tác cho cán bộ, viên chức trong trường. Mức chi do Ban Giám đốc quyết định và tổ chức thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trên thực tế, nhìn chung Học viện đã chấp hành đúng nội chi quy định, thực hiện quản lý chặt chẽ các khoản chi đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế, yếu kém nhất định trong việc quản lý các khoản chi cần khắc phục:
- + Cơ cấu chi giữa các nội dung chi chưa hợp lý
- + Chi lương còn chưa đáp ứng được nhu cầu cải thiện đời sống của giáo viên, chi nghiệp vụ chuyên môn còn ít, chi XDCB còn chưa tương xứng với nhu cầu thực tế, trong khi đó các khoản chi cho quản lý hành chính còn cao so với nhiệm vụ công việc.
2.2.4. Thanh, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tài chính của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam được tiến hành trong suốt chu trình ngân sách, từ khi lập dự toán đến khi chấp hành và quyết toán các nội dung hoạt động tài chính của đơn vị; bao gồm cả hoạt động tự kiểm tra, hoạt động kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước và hoạt động kiểm tra, kiểm soát của cơ quan tài chính, Kho bạc nhà nước.
Cuối năm ngân sách, đơn vị thực hiện tự kiểm tra công tác quản lý tài chính, kế toán và lập báo cáo kết quả tự kiểm tra. Nội dung kiểm tra bao gồm: kiểm tra các khoản thu ngân sách, thu hoạt động của đơn vị; kiểm tra các khoản chi ngân sách, chi khác của đơn vị; kiểm tra việc xác định các khoản chênh lệch thu chi hoạt động và trích lập các quỹ; kiểm tra việc quản lý và sử dụng tài sản cố định; kiểm tra việc quản lý và sử dụng vật liệu, dụng cụ; kiểm tra việc quản lý sử dụng quỹ lương; kiểm tra các quan hệ thanh toán; kiểm tra việc quản lý và sử dụng các khoản vốn bằng tiền; kiểm tra việc thực hiện quyết toán thu chi tài chính; kiểm tra kế toán và kiểm tra việc tổ chức và lãnh đạo công tác tài chính, kế toán. Việc kiểm tra của đơn vị được thực hiện nhằm nâng cao tính trách nhiệm trong quản lý tài chính của các đối tượng có liên quan.
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được trong quản lý tài chính của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Bộ giáo dục – đào tạo, hơn 60 năm qua, cán bộ, giảng viên, công nhân viên Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam đã tích cực phấn đấu vươn lên, đưa Học viện trở thành trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn Thanh niên, trung tâm nghiên cứu lý luận của tổ chức Thanh niên Việt Nam, thành viên của hệ thống giáo dục – đào tạo cả nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ tự chủ theo Nghị định 43/2006/NĐ- CP đã thực sự tạo điều kiện khuyến khích các trường đại học công lập nói chung và Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam nói riêng thực hiện đa dạng hoá các hoạt động, khai thác tiềm năng về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ có trình độ cao, gắn kết giữa giáo dục đào tạo với NCKH và cung ứng dịch vụ tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho người lao động. Do đó, trong thời gian vừa qua, trường đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao và đạt được các kết quả tích cực như: công tác đào tạo được đổi mới, phát triển toàn diện phù hợp với điều kiện của nhà trường và cơ bản đáp ứng yêu cầu xã hội; quy mô của hoạt động NCKH được mở rộng, chất lượng được nâng cao; hợp tác quốc tế có bước phát triển tích cực, khả năng, điều kiện để thực hiện hợp tác quốc tế của nhà trường được tăng cường và mở rộng; đội ngũ cán bộ giảng viên được bồi dưỡng, phát triển, đáp ứng yêu cầu và nâng cao chất lượng toàn diện; công tác học sinh sinh viên được đổi mới; cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, NCKH của nhà trường ngày càng được phát triển. Trong điều kiện đó, công tác quản lý tài chính tại Học viện cũng đạt được những kết quả như sau:
Thứ nhất, Thay đổi phương thức quản lý, thực hiện tự chủ giúp phân biệt rõ chức năng nhiệm vụ giữa cơ quan hành chính (Bộ chủ quản, Kho bạc nhà nước) với Học viện. Do đó, tạo điều kiện thay đổi mối quan hệ giữa Học viện với các cơ quan quản lý nhà nước theo hướng trao quyền tự chủ về quản lý biên chế, lao động, hoạt động chuyên môn, quản lý tài chính cho đơn vị. Đây là căn cứ pháp lý của đơn vị để điều hành, quản lý thu chi, quyết toán kinh phí và kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước. Việc kiểm soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị dựa trên kết quả đầu ra, giảm dần việc quản lý theo yếu tố đầu vào.
Thứ hai, Chủ động xây dựng kế hoạch sử dụng nguồn kinh phí trong năm, thực hiện các giải pháp đảm bảo đủ kinh phí cho những nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ sát với các nhiệm vụ thực tế, mức chi hợp lý; xác định mức thu linh hoạt trong giới hạn nhà nước cho phép, khai thác một cách có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có của nhà trường. Điều này đã giúp cho trường nâng cao tính tự chủ trong việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính được giao. Chủ động và tích cực khai thác nguồn thu, nên kết quả thu của đơn vị năm sau tăng cao so với năm trước.
Thứ ba, Cơ chế quản lý tài chính của Học viện đã bước đầu thể hiện được chính sách công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ trong phân phối thu nhập trong trường. Từ đó, tạo được sự đoàn kết, thống nhất trong đội ngũ, hiệu quả các mặt hoạt động được nâng cao. Một số mức chi trong quy chế chi tiêu nội bộ đã được điều chỉnh để phù hợp với điều kiện thực tế, từng bước hướng tới trả thu nhập cho cán bộ viên chức theo mức độ cống hiến, thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập. Ngoài việc đảm bảo tiền lương cơ bản theo cấp bậc, chức vụ do Nhà nước quy định thì trường còn tạo được nguồn kinh phí để giải quyết tăng thu nhập cho cán bộ viên chức từ kết quả hoạt động dịch vụ và tiết kiệm chi. Nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ, chủ động bố trí sử dụng kinh phí tiết kiệm và hiệu quả đã tạo điều kiện cho trường có thể gia tăng phần tích lũy.
Thứ tư, Công tác lập kế hoạch tài chính, triển khai thực hiện kế hoạch và thanh tra, kiểm tra, quyết toán tại đơn vị được thực hiện đúng chính sách, chế độ của Nhà nước về quy trình, thủ tục và thời hạn. Tổ chức công tác kế toán đúng quy định của Luật Kế toán, hằng năm được Vụ kế hoạch tài chính – Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh kiểm tra xét duyệt và ra thông báo kết luận công tác kế toán tại trường thực hiện đầy đủ các quy định, sử dụng kinh phí đúng mục đích, chứng từ sổ sách rõ ràng, chế độ chính sách, mức chi được xây dựng và công khai đến toàn thể cán bộ giảng viên, sinh viên cũng như các ngành có liên quan.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục để nâng cao hiệu quả của cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý tài chính của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
- Hạn chế trong quản lý tài chính Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Một là, việc Thực hiện theo Nghị định 43 vẫn còn một số hạn chế, khó khăn trong quản lý tài chính đối với Học viện như:
- Hiện nay, do giá cả thị trường ngày càng tăng như: điện, nước, văn phòng phẩm… đã ảnh hưởng đến kinh phí tiết kiệm của các đơn vị, thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức và người lao động cũng giảm
- Do yêu cầu ngày càng cao về các thiết bị, máy móc phục vụ cho hoạt động sự nghiệp. Việc đầu tư các trang thiết bị đạt chất lượng đòi hỏi kinh phí rất lớn, trong khi khả năng tài chính của đơn vị là có hạn.
Ngoài ra, cơ chế quản lý còn chưa thích ứng với cơ chế mới, bộ máy tài chính kế toán của Học viện chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến việc triển khai còn lúng túng trong việc chi trả tiền lương tăng thêm và trích lập các quỹ.
Hai là, còn tồn tại một bộ phận cán bộ, viên chức nhận thức chưa đầy đủ về nội dung công tác quản lý tài chính trong đơn vị. Đó là, phong cách làm việc còn quan liêu, ỷ lại trông chờ bao cấp của Nhà nước, không tích cực và ý thức chưa cao về quản lý và sử dụng nguồn tài chính và tài sản. Chưa hiểu rõ trách nhiệm của một đơn vị cung cấp dịch vụ công cho xã hội.
Ba là, nguồn thu của Học viện còn nhỏ về qui mô
Nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam tăng hàng năm, nhìn chung đủ đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên của Học viện. Tuy nhiên chưa có chiến lược, định hướng và biện pháp tổ chức thực hiện và quản lý theo kế hoạch để đáp ứng được mục tiêu đào tạo của Học viện trong dài hạn, đặc biệt là trong thời kỳ Học viện đang nỗ lực xây dựng mô hình trường đại học đa ngành, đa cấp, đa lĩnh vực và hội nhập sâu rộng vào hệ thống giáo dục quốc dân như hiện nay.
Nguồn tài chính của Học viện vẫn còn phụ thụ thuộc nhiều vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp hàng năm. Nguồn kinh phí do Học viện tự huy động còn chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 30%). Định mức thu học phí như hiện nay không đáp ứng được yêu cầu tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đào tạo. Trong khi đó, nhu cầu học tập của xã hội ngày càng tăng cao đặc biệt là khi Học viện xây dựng xong mô hình đào tạo liên thông và tuyển sinh trên phạm vi cả nước mà nguồn ngân sách Nhà nước cấp lại tăng chậm, không đáp ứng được nhu cầu chi cho quy mô đào tạo vượt chỉ tiêu Nhà nước giao.
Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, hợp tác và nghiên cứu khoa học – kỹ thuật, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn chiếm tỷ trọng thấp. Các nguồn thu khác từ hoạt động hợp tác đào tạo quốc tế còn ít cho thấy Học viện chưa khai thác hết tiềm lực hiện có cả về khả năng của đội ngũ cán bộ giảng dạy cũng như tận dụng các trang thiết bị hiện có.
Việc phân bổ giữa các nội dung chi cũng chưa thực sự hợp lý, chưa đáp ứng được mục tiêu nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Chính sách chi chưa nhằm tạo ra cơ cấu ngành đào tạo cân đối, giữa chi thường xuyên với chi cho xây dựng cơ bản, chi cho các chương trình mục tiêu và chi cho cơ sở vật chất trang thiết bị.
Việc khai thác các nguồn ngoài ngân sách Nhà nước còn nhiều bất cập, chưa có kế hoạch, định hướng về các nguồn khai thác và hướng sử dụng các nguồn này cho giáo dục đào tạo. Điều này ảnh hưởng tới việc huy động nguồn vốn ngoài ngân sách của Học viện. Do đó, việc nâng cao đời sống cán bộ giảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, còn chưa được quan tâm.
Bốn là, cơ chế quản lý sử dụng nguồn tài chính còn thiếu chặt chẽ, giảm hiệu quả sử dụng vốn.
- Ngoài nguồn kinh phí Ngân sách cấp được Kho bạc kiểm soát chi, Học viện hoàn toàn chịu trách nhiệm về hoạt động chi từ nguồn thu sự nghiệp của mình. Đồng thời với việc tăng cường nguồn thu, Học viện chưa triển khai tốt công tác quản lý chi từ các nguồn bảo đảm chi đúng nguồn, không chi vượt nguồn, giải ngân đúng tiến độ công việc thực hiện. Quy trình thanh toán các hợp đồng đào tạo, bồi dưỡng còn chậm, thủ tục chưa thống nhất giữa phòng Kế hoạch – Tài chính và bộ phận chuyên môn làm giảm uy tín của Học viện với các đối tác ký kết.
- Thiếu hệ thống chỉ tiêu thống nhất về đánh giá hiệu suất công tác của người lao động để làm căn cứ bình xét thi đua, chi trả thu nhập tăng thêm theo nguyên tắc người nào có hiệu suất công tác cao, đóng góp cho tăng thu, tiết kiệm chi thì được chi trả nhiều hơn. Việc chi lương tăng thêm vẫn dựa vào hệ số lương, chưa phản ánh toàn diện sự đóng góp của mỗi cá nhân.
Năm là, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, biên chế của Học viện chưa được nâng cao.
- Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ của Học viện chưa được phát huy vì công tác đào tạo vẫn do Bộ giáo dục và đào tạo quản lý. Điều này làm cho Học viện không tạo được bản sắc, thương hiệu riêng của mình, một yếu tố quan trọng để cạnh tranh trên thị trường giáo dục phát triển nhanh, đa dạng và phức tạp hiện nay. Đồng thời cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tự chủ tài chính của Học viện.
- Cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm tuy đã có sự thay đổi nhưng do chưa thực sự hấp dẫn về đãi ngộ nên việc thu hút các nguồn nhân lực bên ngoài có trình độ trở thành giảng viên của Học viện còn hạn chế.
Sáu là, hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ của Học viện mặc dù đã được lập kế hoạch kiểm tra định kỳ, tuy nhiên việc kiểm tra quá trình thu chi, phân phối chênh lệch hàng năm cũng như quản lý tài sản của Học viện chủ yếu mang nặng tính hình thức và hiệu quả chưa cao, chưa phân tích được những hạn chế cần khắc phục trong quản lý nguồn thu và quản lý chi của Học viện. ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân chủ quan
Công tác kế toán chưa được coi trọng đúng mức hơn nữa đội ngũ cán bộ tài chính – kế toán còn chưa đáp ứng được yêu cầu mới của cơ chế quản lý tài chính theo hướng tăng cường tính tự chủ của Học viện như hiện nay, chưa đáp ứng được chức năng tham mưu về tài chính cho cán bộ lãnh đạo Học viện.
Quan niệm của lãnh đạo đơn vị đối với vai trò của bộ máy kế toán còn chậm đổi mới. Trong khi cơ chế tài chính đã có nhiều biến đổi thì bộ phận kế toán ở phần lớn các đơn vị chỉ xác định chức năng, nhiệm vụ theo như quan điểm truyền thống là tổ chức ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, định kỳ lập báo cáo mang tính hành chính theo quy định. Điều đó dẫn tới vấn đề phân công công tác trong bộ máy kế toán chỉ tập trung làm công tác kế toán tài chính mà không quan tâm đến công tác phân tích kinh tế, kế toán quản trị.
Vấn đề phối hợp giữa bộ phận kế toán và bộ phận khác trong toàn đơn vị còn chưa chặt chẽ dẫn tới vấn đề luân chuyển, kiểm tra và xử lý chứng từ còn nhiều chậm trễ.
Trình độ cán bộ nhân viên kế toán trong các đơn vị còn thiếu đồng đều do công tác tuyển chọn ban đầu chưa được quan tâm đúng mức. Việc tổ chức tham gia tập huấn về quản lý tài chính và chế độ kế toán mới còn ít và không thường xuyên.
Chưa khai thác được hiệu quả của CNTT trong tổ chức hạch toán kế toán. Việc ứng dụng CNTT rời rạc, thiếu liên kết, thiếu cập nhật, sửa đổi cho phù hợp với chính sách, chế độ hiện hành đã gây tổn kém trong đầu tư, lãng phí thời gian và hạn chế chất lượng thông tin tài chính kế toán.
Chưa có những quy định cụ thể phân định trách nhiệm, quyền hạn của từng đơn vị làm cơ sở nâng cao trách nhiệm, quyền hạn trong giải quyết các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị.
Hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý chưa đầy đủ, chưa xây dựng được kế hoạch dài hạn cho Học viện và từng đơn vị.
Thiếu việc tổng kết đánh giá thực hiện theo Quy chế chi tiêu nội bộ. Quy chế chi tiêu nội bộ là công cụ quản lý rất quan trọng trong thực hiện các nhiệm vụ của Học viện. Việc tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Quy chế chi tiêu nội bộ sẽ giúp Học viện phát hiện ra những điểm chưa hợp lý, hoàn chỉnh quy chế phù hợp với thực tiễn hoạt động của đơn vị. Tuy nhiên, tại Học viện công tác này vẫn bị coi nhẹ, chưa được triển khai.
- Nguyên nhân khách quan
Nguồn tài chính: trong tổng số nguồn lực tài chính của Học viện, nguồn ngân sách cấp chiếm trên 70% là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khó khăn trong công tác quản lý tại đơn vị. Do nguồn ngân sách được cấp là nguồn thu chủ yếu và lại lệ thuộc rất lớn vào quy mô hay cụ thể hơn là số lượng sinh viên đầu vào của Học viện cho nên để gia tăng ngân sách chỉ có thể có được khi tăng quy mô sinh viên. Khả năng tăng quy mô sinh viên là rất khó khi quy mô giảng viên, điều kiện cơ sở vật chất của đơn vị không thay đổi. Mặt khác, nguồn kinh phí của nhà nước lại thường xuyên đến chậm do sự xét duyệt phức tạp (thường đến tháng 3 hàng năm đơn vị mới nhận được những khoản ngân sách đầu tiên) do vậy Học viện thường rất khó khăn trong việc sử dụng nguồn tài chính của mình và ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của đơn vị.
Nguồn kinh phí hạn chế cũng tác động không nhỏ đến hoạt động của giảng dạy, nghiên cứu khoa học của Học viện. Cùng với tăng cường quyền tự chủ tài chính cho đơn vị sự nghiệp công lập, Ngân sách nhà nước hạn chế cung cấp cho xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản. Trong khi đó năng lực tài chính của đơn vị còn hạn hẹp, việc đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, nhà xưởng, phòng học, thư viện, thiết bị dạy học… đòi hỏi sự đầu tư kinh phí lớn. Nguồn kinh phí hạn chế đặc biệt là các khoản chi đào tạo cho giảng viên, phát triển nguồn nhân lực nên thu nhập của đội ngũ giảng viên từ nguồn kinh phí nhà nước chính thức thường rất thấp, không tương xứng với công sức bỏ ra (trong bối cảnh toàn xã hội đã chuyển sang thu nhập theo mức thị trường).
Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định đơn vị sự nghiệp có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các tổ chức tín dụng, được huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị, liên doanh, liên kết để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp…. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn cụ thể để thực hiện chưa ban hành đồng bộ nên các nội dung về tự chủ này chưa khả thi trên thực tế.
Hệ thống văn bản chế độ tự chủ tài chính các đơn vị sự nghiệp nói chung và đơn vị sự nghiệp có thu nói riêng còn bộc lộ những hạn chế trong quá trình thực hiện. Các định mức, chế độ chi tiêu trong đơn vị sự nghiệp có thu dù được nhà nước quy định nhưng tính khả thi chưa cao, chưa phù hợp với thực tế, khó vận dụng hoặc tạo điều kiện cho đơn vị chi tiêu hạch toán không trung thực vì không thể áp dụng được. Các định mức chi tổng hợp làm căn cứ lập dự toán, giao dự toán chi ngân sách và quản lý tài chính hàng năm chưa phù hợp với thực tế chi và nhiệm vụ được giao.
Do đặc thù của lĩnh vực nghiên cứu khoa học của Học viện là những đề tài nghiên cứu khoa học là thành quả tổng hợp của nhiều loại hình lao động cụ thể từ tìm kiếm đề tài, soạn thảo đề cương, xây dựng đề cương đến quá trình thực hiện cho nên việc tính toán, lên kế hoạch, quản lý chi cho từng khâu gặp nhiều khó khăn. Thường thì bộ phận tài chính rất khó kiểm soát được tình hình tài chính mà thực hiện khoán cho các chủ nhiệm đề tài.
Công tác thanh tra, kiểm tra còn yếu kém. Ở một số trường, học viện chưa hình thành bộ phận kiểm toán nội bộ, hoặc có thì tồn tại dưới dạng “ thanh tra nhân dân”, thanh tra, kiểm tra tất cả các mảng hoạt động của trường, học viện. Thành viên của ban thanh tra chủ yếu là các giảng viên, chuyên viên được đề cử từ nhiều khoa và các phòng ban chức năng khác nhau, do đó thiếu chuyên môn và kinh nghiệm về tài chính để thực hiện thanh tra hiệu quả hoạt động tài chính của trường, học viện. ( Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam )
Tóm tắt chương 2
Trong chương này, tác giả đã tiến hành phân tích thực trạng quản lý tài chính của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam thông qua công tác quản lý nguồn thu và quản lý chi của Học viện; lập và thực hiện sử dụng các quỹ của Học viện; trên cơ sở đó đánh giá được một số kết quả đạt được, hạn chế trong công tác quản lý tài chính của Học viện , nguyên nhân của những hạn chế, từ đó làm cơ sở đề xuất một số định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính trong chương 3.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Hoạt động quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn: Thực trạng quản lý tài chính tại Học viện Việt Nam […]