Trong suốt cuộc đời làm quan của mình, dù là dưới triều đình Lê – Trịnh hay hay với Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm luôn luôn khao khát đem tài đức ra để thực hiện lý tưởng ” loạn diệc tiến, trị diệc tiến” đây cũng là lý do tác giả lấy Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm làm bài Luận văn cao học của mình. Và từ khi ra làm quan với chúa Trịnh, Ngô Thì Nhậm luôn luôn nghĩ cách làm cho dân đỡ khổ, đưa nước nhà ra khỏi tình trạng bê bối trước mắt. Ngô Thì Nhậm là một nhà nho, một trí thức trong xã hội cũ. Trong xã hội phong kiến, Nho giáo vừa đóng vai trò thống trị trong thượng tầng kiến trúc, vừa là phương tiện duy nhất để các nhà trí thức vận dụng trong sự suy nghĩ của mình. Cho nên các bạn có thể tham khảo Luận văn Thạc sĩ: VĂN CHÍNH LUẬN CỦA NGÔ THÌ NHẬM, dưới đây.
Nội dung chính
3.1. Khái quát về sự nghiệp sáng tác của Ngô Thì nhậm.
Ngô Thì Nhậm là một trí thức xuất sắc trong phong trào Tây Sơn vĩ đại, một người có tầm nhìn tiến bộ và đa tài : chính trị, quân sự, ngoại giao … Trịnh Sâm đã từng khen ông: “Tài học không ở dưới người”. Quang Trung ca ngợi ông: “Thuộc dòng văn học Bắc hà, thông thạo việc đời”. Riêng về thơ văn trước tác, ông viết đủ loại : nghiên cứu ( sử địa), bình luận (văn hoa xã hội), từ mệnh bang giao, thơ phú … Ông để lại cho đời một di sản văn học đồ sộ gồm trên 600 bài thơ và 15 tác phẩm lớn. Nếu cuộc đời sáng tác cần cù của ông không bị những ngọn roi thù hằn của vua tồi nhà Nguyễn ngắt đi, thì di sản văn hoa của ông để lại cho chúng ta ngày nay còn có thể vượt xa con số ấy rất nhiều.
Qua thơ văn Ngô Thì Nhậm, chúng ta thấy nổi lên những nét rất đậm đà và rực rờ về toàn bộ cuộc đời ông. Thơ văn đó ẩn chứa những khát vọng lớn lao, những suy nghĩ thầm kín, những tâm sự đau thương. Nó là bức tranh tuyệt đẹp vẽ lại cuộc đời ông, người đã đem hết trí tuệ và tài năng chiến đấu cho lợi ích của nhân dân, cho đạo lý của cuộc sống, cho vinh dự của tổ quốc, cho phẩm giá của con người.
Do được rèn luyện từ nhỏ trong một đại gia đình có truyền thống văn học, Ngô Thì Nhậm là một người rất uyên bác về mặt kiến thức và rất nhuần nhuyễn về mặt bút pháp. Mặc dù còn hạn chế ở lập trường của trí thức phong kiến, thơ văn của ông đã có nhiều bài chứa đựng một khí phách lớn lao, hơi văn rất hào hùng. Với 57 tuổi cho một đời văn, lại sống trong giai đoạn u ám, rối ren nhất của xã hội Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XVIII, với khối lượng tác phẩm đồ sộ gồm hàng mấy chục vạn chừ như thế, Ngô Thì Nhậm đà có thể làm cho giới “trước thuật” phải cảm phục trước sức sáng tạo phi thường của ông. Những tác phẩm bằng văn xuôi của ông còn là những tài liệu phong phú cho chúng ta tìm hiểu về những bộ môn khác nhau trong học thuật như văn học, sử học, triết học, kinh tế học và các mặt khác như giáo dục, ngoại giao … cách đây hai thế kỷ.
So với những người cắm bút lỗi lạc thế kỷ XVIII như Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Bùi Huy Bích đến Nguyễn Thiếp, Bùi Dương Lịch, Phan Huy ích… thì Ngô Thì Nhậm chẳng kém tài hơn ai. Thời kỳ làm việc ở Kinh Bắc, qua những biểu, cáo gửi về triều đình, ông đã được Trịnh Sâm khen là “tài học bất tại nhân hạ” (tài học không ở dưới người khác). Khi soạn xong “Thánh triều hội giám” gửi về triều đình xét duyệt, ông càng được khen ngợi và được trọng thưởng. Có thể nói, toàn bộ sáng tác và công trình nghiên cứu của Ngô Thì Nhậm chứng tỏ ông là một tài năng, một nhà bác học đáng học tập và trân trọng. ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Kiến thức uyên bác của ông được nhân lên bởi đức tính làm việc cần cù và lòng ham mê trước thuật. Hầu như trong bất cứ hoàn cảnh nào, ở đâu, làm gì, ông cũng có thể sáng tác được. Ngay trước kỳ thi Hương và thi Hội, mặc dầu rất bận rộn với việc “sôi kinh nấu sử ” để giật bảng vàng, ông cũng đã viết liền ba tác phẩm có giá trị : “Nhị thập nhất sử toát yếu”, “Tứ gia thuyết phả” và “Hải đông chí lược”. Sau khi Trịnh Sâm qua đời, để tránh sự trả thù của Trịnh Khải, Ngô Thì Nhậm phải chạy trốn về một vùng hẻo lánh ở Thái Bình. Mặc dù luôn luôn thảng thốt, lo sợ, ông vẫn tiến hành soạn sách “Xuân thu quản kiến”.
Văn chương của ông thể hiện thế giới nội tâm rất phong phú của ông. Điều này chúng ta có thể thấy qua ký và văn tế, phần văn xuôi đậm đà tình cảm của ông. Thể ký có lẽ là một trong những loại văn xuôi có sớm nhất ở nước ta, ít nhất cũng cách đây hàng ngàn năm, bắt đầu bằng bi ký. Trong quá trình phát triển của nó, có nhiều bài nổi tiếng như ”Dục thúy sơn Linh tế tháp ký” của Trương Hán Siêu, đời Trần; “thanh hư động ký” của Nguyễn Phi Khanh, đời Hồ… Song thể ký phát triển nhất, phải nói là ở thế kỷ XVIII. Một loạt tác phẩm ký ra đời, tiêu biểu là “Vũ trung tùy bút”, “Công dư tiệp ký”, “Lan trì kiến văn lục”, “Tang thương ngẫu lục”, “Sơn cư tạp thuật” …
Trong những tập văn xuôi của Ngô Thi Nhậm, ký không nhiều. Thường là những bài ngắn, ghi chép sự việc cụ thể trong phạm vi công việc của ông. “Hải Đông chí lược” là một tác phẩm ký tiêu biểu của Ngô Thì Nhậm có đầy đủ tính chất của một thể loại ký, ngụ tình ý nhiều hơn, song cũng chưa vượt được người trước.
Nói về phú của Ngô Thi Nhậm thì “Kim mã hành dư” có hơn mười bài phú, trong đó có một vài bài Ngô Thì Nhậm viết khi đang tại chức thời chúa Trịnh. Song nhiều hơn là ông viết khi tạm lánh ở kinh thành. Có thể nói, thời kỳ bỏ Lê – Trịnh để lánh đời, ông có rất nhiều bài phú đề cập tới những vấn đề của vũ trụ và nhân sinh. Khác hẳn những bài thơ yếm thế, phú của ông luôn dạt dào sức sống, toát ra ý chí của một người đang chuẩn bị góp tài năng vào những việc lớn của quốc
Bài phú ông tâm đắc nhất là bài “Mộng thiên thai”, cũng viết khi lánh nạn: “Gói ngọc quý mà để dành, ẩn giấu tích thần long không để lộ. Đợi người biết đến mình sẽ tung hoành thỏa chí, sẽ xoay vần tám cõi mà gánh vác chín phương”. Sau này trong lời răn dạy con cháu, ông đã dẫn lại : “Trong bài phú ” Mộng thiên thai” ta từng có câu : khắp vũ trị đều là nhà, chiếc thân nhẹ như lông hồng này còn vướng vít gì nữa?” ( “Gia quy yếu ước “). Ý nghĩ này cũng là ý nghĩ bao trùm lên tất cả tâm tư của ông gửi gắm trong bài phú.
Trong bài phú “Mộng thiên thác ông đã ngụ ý : “Ta không học được tiên, cũng chưa tới Phật. Lâu nay chỉ theo đòi đôi chút kinh sách. Mong không hổ thẹn với danh giáo. Trời đất không chật hẹp. Núi sông đón mời. Thì, quẩy chiếc bầu mà đây đó, phất tay áo mà ngao du, khắp vũ trụ đâu cũng là nhà. Cánh chim hồng còn có hệ lụy gì nữa “.
Nhưng ông cũng đã để lộ ra một tinh thần chờ đợi thời cơ đem tài giúp nước ‘.”Gói viên mỹ ngọc mà giấu kín. Náu bóng thần long đừng để lộ. Đợi người biết tài mình làm theo chí mình. Sẽ một tay xoay vẩn mà kinh doanh cả “tám dần “, “tám cực” ngoài cỗi đất này”. Kết thúc bài phú, ông đà gõ án mà ca rằng :
” Chửa tới nơi, lòng ta nghĩ nỗi mịt mùng khơi. Tấc lòng còn gửi cõi xa thẳm. Ngọn núi kia vân chon vỏn cao. Trông mong tri kỉ một góc trời, Ai người biết cõi ” đài thiên của ta? “Đài thiêng” của ta, đối cùng ” chính khí’ trong vũ trụ Ngó nhìn chăn, bóng, không chút hổ thẹn” Đó chính là tinh thần lạc quan chờ người biết đến mình sẽ ra tung hoành. Có thế xem bài phú “Mộng Thiên thai” chính là bản “Tuyên ngôn hành động” của người trí thức yêu nước Ngô Thì Nhậm, kiên quyết từ bỏ chế độ Lê – Trịnh thối nát, hướng về ngọn cờ của người anh hùng áo vải Quang Trung. Đoạn kết hết sức độc đáo của bài phú khẳng định thêm tinh thần chủ động đó của ông: “Hát xong, khách đi khỏi, mộng ta cũng tỉnh. Thế nhưng có phải là mộng đâu, ta bày ra mộng đó!… “
Phẫn tình cảm riêng đối với gia đình, bè bạn hầu hết Ngô Thì Nhậm dành cho phần văn tế. Đó là những bài văn tế cha rất đậm đà tình cảm của Ngô Thì Nhậm. Thơ của Ngô Thì Nhậm cũng chính là con người ông: nghiêm túc, đạo đức,tài hoa rất mực, chữ dùng độc đáo, ý tứ sâu xa. Trùm lên tất cả là lòng yêu nước thương dân, tự hào dân tộc nồng nàn. Những bài thơ của ông làm trong thời kỳ đi sứ Trung Quốc đã thể hiện lòng tự hào và lòng yêu nước sâu sắc của người đại diện một dân tộc anh hùng. Thơ văn của ông về lúc cuối đời mang/náu sắc Phật giáo nhưng lúc nào cũng thể hiện một tâm hồn thanh cao, một tấm lòng thủy chung sâu sắc đối với Quang Trung, người lãnh đạo và người tri kỷ của minh.
Thơ Ngô Thi Nhậm thường ẩn chứa những suy nghĩ tiến bộ về thời thế và cách ứng xử của kẻ sĩ lấy lợi ích dân nước làm trọng : ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
” Chở nhiều mà vẫn không hờn giận, Ở thấp lo chi chẳng vững vàng…
Còn nơi sâu thẳm ai lường được, Thu nước muôn sông vẫn sẵn sàng”.
Mười ba năm làm quan dưới triều vua Lê chúa Trịnh, lắm nỗi nhiễu nhương, nhân dân đói khổ, tài năng bị hãm hại, Ngô Thì Nhậm có cái lặng lẽ trí tuệ “lặng nhìn ngẫm lẽ trời xoay chuyển” để tìm quy luật ‘.”Đây thom thì kia ắt phải lôi”. Ong thâu hiếu nôi đời trái khoáy ‘.”ngựa hèn thì thường nhàn, ngựa hay thì vất vả”. Nhưng ông không cầu an nhàn. Coi công danh là chuyện nhất thời ngắn ngủi, chưa đủ chín một nồi kê, nhưng lại cổ vũ sự cố gắng, thúc đẩy sự chuyên cần “Đi vội vả, ngủ qua loa”. Ngay đến việc trông nồi kê chín cũng phải mở con. mắt Tuệ mà trông chứ không phải ngủ khi để nằm mơ như Lư Sinh trong truyện cổ. Ổng tự rèn luyện để coi nhẹ công danh nhưng không coi nhẹ việc nhập thê giúp dân giúp nước. Ong từng tự hỏi ‘.”Nhân dân áo rách mình gây vì đâu?” Ngô Thì Nhậm làm quan nổi tiếng liêm khiết. Tâm hồn ông học sự trong sạch của thiên nhiên. Nghe tiếng chim hót trong trẻo trên cành cao sau mưa, ông thấy thẹn cho cõi lòng còn gỢn hư danh. Lện núi cao nhìn vào xa rộng ông giác ngộ “lên chơi bừng giấc Nam Kha mộng”. Giấc Nam Kha là ý thơ được dùng nhiều trong thơ cổ điển, nhưng Ngô Thì Nhậm không dùng theo mốt văn chương mà theo kinh nghiệm đời ông. Kẻ sĩ trong thời nhiễu nhương nhiều nông nỗi, phải có cách nghĩ cao hơn để vượt trở ngại trong hiện thực. Cách nghĩ của Ngô Thì Nhậm là tìm sự thanh thản trong quy luật của thiên nhiên, của lịch sử. Đến được với Nguyễn Huệ giữa một đám cựu thần ngu trung lạc hậu, câu nệ thời đó phải là kết quả của một tầm nghĩ vượt qua giáo điều hạn hẹp của nho gia, một tầm nghĩ xuất phát từ lợi ích của người dân “áo rách mình gầy”. Chừ trung với Ngô Thì Nhậm đã mang một nội dung mới có tính cách mạng. Đấy là chỗ vượt thời đại của Ngô Thì Nhậm. Ngay cả lúc thất thế, sau khi Quang Trung mất, quay về nghiên cứu phật học, suy ngẫm những quan hệ triết học giữa bản thể và hiện tượng, giữa Nho và Phật, ông vẫn luôn luôn đề cao thái độ nhập thế tích cực.
Thơ Ngô Thì Nhậm là thơ của một bác học nhưng lại thông thạo việc đời nên ý thơ sâu sắc, uyên bác nhưng tình cảm lại dễ gần. Chỉ tiếc ông làm thơ bằng chữ Hán nên sức phổ cập bị hạn chế.
Tóm lại, Ngỗ Thì Nhậm là “nhà văn tiêu biểu nhất thời Tây Sơn”, “là người đã phát huy và làm cao thêm ngọn sóng”, là đỉnh cao của mọi đỉnh cao trong Ngô gia văn phái. Người và sự nghiệp thơ văn của người “giữ một vị trí vẻ vang trong sự nghiệp chông xâm lược của nhân dân ta”. Ong đã có những công hiến trực tiếp, xuất sắc trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao …
Đôi với ông lúc bấy giờ thơ văn chỉ được viết ra do yêu cầu cáp bách của cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước. Đó chính là phần văn chính luận của ông.
Có thể bạn quan tâm:
3.2. Ngô Thì Nhậm là một nhà văn chính luận xuất sắc của văn học Tây Sơn.
3.2.1. Khái quát về văn chính luận của Ngô Thì Nhậm. ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Là một nhà văn có tài, yêu sáng tác, viết đủ loại : thơ, phú, ký, văn tế… Nhưng trong cái di sản văn học đồ sộ mà Ngô Thì Nhậm để lại cho đời, nổi bật nhất là phẫn văn xuôi chính luận của ông. Đó là những bài chiếu, biểu, thư từ …
Ông viết khi còn làm việc dưới triều Lê – Trịnh. Đặc biệt nhất, có thể nói, đỉnh cao trong nghệ thuật văn xuôi chính luận của Ngô Thi Nhậm là những thư từ ngoại giao và chiếu dụ … ông viết dưới thời Quang Trung, do ông thảo thay cho Quang Trung. Phải là người thiết tha với vận mệnh của dân, của nước, phải là người dốc hết tâm tư vào công việc được giao, gạt mọi vướng mắc về một bến, mới có thể viết nến những áng văn chính luận trong sáng, lưu loát, hùng biện với nghệ thuật già dặn như thế. So với người cùng thời, chỉ có ông là theo kịp Nguyễn Trãi về mặt này.
Tác phẩm văn xuôi có tính chất văn học và chính luận của Ngô Thì Nhậm hầu như được tập hợp vào các tập : “Kim mã hành dư”, “Hàn các anh hoa” và “Bang giao hảo thoại”.
“Kim mã hành dư”(thì giờ rỗi trong lúc làm quan): gồm nhiều bài phú, bài ký, bài tựa một số tuyển tập thơ. Ngoài ra còn có thêm những bài tựa một số phả, thư từ gửi anh em họ hàng, bè bạn, cấp trên và một số bài văn tế thuộc nhiều loại.
“Hàn các anh hoa” (tinh hoa ở lầu bút mực) : gồm nhiều bài chiếu, biểu, khải, tác giả viết cho mình hoặc viết thay người khác gửi về triều đình tâu bày và chúc mừng. Những bài này tác giả viết khoảng từ năm 1799 ( Kỷ Hợi, Cảnh Hưng năm thứ 40) trở về sau.
“Hàn các anh hoa” có giá trị đặc biệt trong di sản văn hoa của Ngô Thì Nhậm, bởi đây là những văn kiện liên quan tới những vấn đề hàng đầu của đất nước, thể hiện đường lối đối nội sáng suốt của vua Quang Trung. Chẳng những có một giá trị sử học to lớn, những chiếu, biểu, dụ này còn có giá trị văn học đặc biệt ở chỗ, một mặt, chúng phải tuân thủ quy chuẩn của lối văn hành chính cung đình, mặt khác, phải thể hiện được tài năng, nhiệt tình, tâm huyết của tác giả. Chính Ngô Thì Nhậm, qua “Hàn các anh hoa”, đã làm sống lại thể văn này sau nhiều thế kỷ bị suy đồi. Một số bài thơ từ mệnh của ông đã theo kịp với văn từ mệnh của Nguyễn Trãi. Chất anh hùng ca kết hợp với cái hoa lệ của từ chương cổ điển, tính chất chính luận chặt chẽ, khúc chiết đi liền với chất thơ trong nhịp điệu và cảm xúc đã làm cho những bài văn này sống cùng thời đại đã sản sinh ra nó. “Chiếu lên ngôi”, “Chiếu hiểu dụ các quan văn vũ triều cù”, “Chiểu cầu hiền”, “Chiếu khuyến nâng”, “Chiếu chiêu dụ giặc Tàu Ô” … mãi mãi là những áng văn tiêu biểu của thời đại rực rỡ trong lịch sử Việt Nam :
“Trâm là kẻ áo vải Tây Sơn, không có một tấc đai, vốn không có chí làm vua. Chỉ vì lòng người chán ghét loạn lạc, mong có vị minh chúa để cứu đời, yên dân. Cho nên tập hợp nghĩa quân, xông pha chông gai, phá núi mở rừng …” (“Chiếu lên ngôi”)
“Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người,, vâng chịu mệnh lớn. Nay đã giảng hoa nước lớn, đại lề đã thành. Bắc Nam thông ngọc lụa đến sân chầu, thần dân mừng áo xiêm ngày thịnh hội…” (“Chiếu về việc ban ơn “)
“Trẫm một lòng yêu tiếc nhân tài, không thể chốc lát quên được. Nên đặc cách ban ơn tha tội cho các ngươi. Phàm nhưng người giam cầm đều tha ra những kẻ trốn tránh thì không truy nã, để tỏ đức khoan hồng … “(“Chiếu hiểu dụ các quan văn vũ triều cũ “) …
Đọc những dòng trên, ta lại nhớ tới Nguyễn Trãi và nhận ra sự tương đồng giữa hai thời đại lịch sử với những con người vĩ đại Lê Lợi – Nguyễn Trãi và Quang Trung – Ngô Thi Nhậm. “Bang giao hảo thoại” gồm những thư từ bang giao của nhà Tây Sơn với nhà Thanh Trung Quốc. Đây là những tư liệu quý giá để nghiên cứu chính sách kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, nhưng hoa hiếu nhún nhường, khôn khéo. Đó là những trang đẹp nhất trong nền ngoại giao Việt Nam xưa. Và đó cũng là những áng văn hoa lệ thâm trầm của từ chương cổ điển, thể hiện tài năng của Ngô Thì Nhậm. Dưới ngòi bút của Ngô Thì Nhậm, Quang Trung không chỉ là nhà quân sự giỏi mà còn là nhà ngoại giao có tài. Giặc mới sang thì xin hoãn binh, đánh thắng rồi thì viết “Biểu trần tình” : “tôi đâu có dám đánh quân thiên triều, do bị đẩy vào thế cùng mà mạo phạm, vì biết rằng đó chắc cũng không phải là ý của thiên tử!”. Được hòa hoãn rồi thì xin phong vương, xin bỏ cống người vàng, đòi đất, xin ngựa hay rồi xin công chúa …
Qua ngòi bút chính luận của Ngô Thì Nhậm, ta thấy Quang Trung quả đang đặt ra rất nhiều yêu sách với vua Càn Long. Các tập văn chính luận của Ngô Thì Nhậm nói trên phản ánh khá đầy đủ và chân thật về con người của ông, đồng thời cũng ghi lại phần nào tình hình xã hội Việt Nam thời đó. Mặt khác, những tác phẩm đó còn nói lên một vài quan niệm làm thơ, làm văn của tác giả và về nghệ thuật, đã đánh dấu một bước phát triển của văn xuôi bằng chữ Hán ở nước ta hồi cuối thế kỷ XVIII.
Thời đại Tây Sơn là thời đại rực rờ và cùng bi thảm nhất trong lịch sử dân tộc. Sau cái chết của Nguyễn Huệ là cuộc trả thù khốc liệt của Gia Long và suốt trong 150 năm, nhà Nguyễn đà làm mọi cách để xoa vết tích của thời đại này. Chỉ ở nửa sau của thế kỷ XX, dưới chính thể dân chủ cộng hoa, các nhà khoa học Việt Nam mới từng bước trả lại chân giá trị lịch sử cho thời đại này, trong đó, có việc phát hiện thân thế, sự nghiệp của Ngô Thì Nhậm và cả những đóng góp đáng kể của ngòi bút chính luận của ông trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước.
Khảo sát qua phần văn xuôi chính luận của Ngô Thì Nhậm, ta thấy có hai loại đề tài nổi bật nhất. Đó là những vân đề về đường lối đối nội và ngoại giao, những vấn đề mà ngòi bút của Ngô Thì Nhậm đã đóng góp biết bao tâm huyết và tài năng.
3.2.2. Văn chính luận về vấn đề nội trị. ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
3.2.2.1. Nội trị dưới thời Lê – Trịnh.
Qua những bài văn chính luận đề cập đến vấn đề nội trị được viết dưới thời Trịnh Sâm, ta có thể thấy Ngô Thì Nhậm là một người luôn có tư tưởng “gánh vác việc đời”, một con người hành động, khác hẳn với các nhà nho chỉ quen sốt sắng, hăng hái trong ý nghĩ, nhưng đến sự việc thì lại trù trừ do dự.
Ngô Thì Nhậm chính thức bước vào cuộc đời hoạt động chính trị vào năm 23 tuổi ( 1769), với chức Hiến sát phó sứ Hải Dương. Với chức quan hàm chánh thất phẩm này, Ngô Thì Nhậm đã không nề hà tuổi trẻ, quan thấp, thực hiện phương châm “trị diệc tiến, loạn diệc tiến”, mang hoài bão làm nên sự nghiệp kinh bang tế thế của bậc hiền thần Y Doãn.
Cả cuộc đời của ông hầu hết nằm trong giai đoạn chế độ phong kiến Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong đã suy vi, thối nát đến cùng cực. Mâu thuẫn Lê – Trịnh, Trịnh – Nguyễn vẫn âm ỷ và có lúc bùng nổ khá dữ dội, rồi chính sự hà khắc, nhân dân đói khổ, lòng người chia lìa, nông dân nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi. Thời thế lúc đó chẳng khác gì “thế-Chiến Quốc, thế Xuân Thu” xưa kia, mà ta có thể mượn tám chữ “quân hôn, thần nịnh, binh kiêu, dân oán” để khái quát.
Một thời đại loạn ly, khốn cùng của dân chúng, đổ nát của triều đình đang bày ra trước mắt và ông hăng hái thảo ra những tờ “khải” dâng lên chúa Trịnh trình bày tình hình, mong muốn làm một cây cột cái chống đỡ cho tòa nhà sụp đổ. Nhưng cũng có thể đến lúc này, ông vẫn còn tin ở sự trường cửu của triều đình Lê- Trịnh, và ông chỉ muốn chúa Trịnh thi hành những cải cách theo ý ông để ổn định tình hình mà thôi. Trong “Hàn các anh hoa” còn ghi lại tất cả những bài khải của Ngô Thì Nhậm dâng lên chúa Trịnh, trong đó bao gồm nhưng kiến nghị về tình hình giáo dục, tình hình biên giới, tình hình bộ máy quan lại, tình hình khẩn hoang, và đặc biệt là chính sách thuế khoa và ruộng đất, tức là về tình trạng cùng khốn của dân chúng.
Về mặt giáo dục, Ngô Thì Nhậm thiết tha đề nghị với Trịnh Sâm nên thay đổi cái kiểu “chỉ chăm dạy nghề văn mà không biết dạy nghề hạnh” ở các trường hương học và quốc học đương thời. Phương pháp giảng dạy cắp sách. Ông viết : “Hiện nay, những người văn hay chữ tốt, tài thức cao siêu không phải là hiếm (… ). Song, vì họ không được dạy dỗ về hạnh, cho nên có những người ( … ) đem cái miệng lưỡi sắc bén mà tô điểm cho lòng dạ hiểm bí của họ, đem cái đầu óc ngang tàng mà che đậy cho ruột gan quỷ quyệt của họ (… ). Sĩ phong đến như thế, khác nào như người đời Tống đã nói: “Mượn mũ nhà nho để ăn cắp sách nếu may mà được bổ dụng, thì họ là một viên quan nhũng nhiễu ( … ). Ngồi rỗi ăn không, thì họ là hạng người điêu toa (…). Xưa đã có người cho rằng : “Âm dương thất hòa chưa lấy gì làm đáng sợ. Nhưng nếu điều liêm sĩ không cồn, khen chê không xác đáng, thì đó mới là điều thật đáng sợ”. Như vậy, việc giáo hóa có thể sao lãng thế nào được?”. Ngô Thì Nhậm chủ trương dạy “văn” phải đi đôi với dạy ” hạnh” (“Kiến nghị về giáo dục ” – “Kim mã hành dư”).
Về mặt trị nước, Ngô Thì Nhậm cho rằng phải nắm cho được những điều “mấu chốt, đó là “giáo” ( hiếu, đễ, trung, tín ), “pháp” ( gốc, ngọn, độ, số) và “chính” ( binh, tài, lễ, nhạc ). Ba mặt ấy vốn gắn bó với nhau, làm điều kiện cho nhau, cần được kết hợp thực hiện một cách nhuần nhuyễn, “không thể thiên về một mặt nào mà thành công được”. Sở dĩ đưa ra đề nghị này, vì Ngô Thì Nhậm thấy nhà chúa rõ ràng đang lúng túng trước tình trạng đang thiếu hụt về ngân sách, do “những việc thờ tự ở tông miếu, yến tiệc khi tế giao tế xã, thưởng cấp cho quân lính, ban phải cho trong triều, ngoài phiên” – nói gọn lại một câu, là do sự hoang phí về nhiều mặt mà ra. Đà “túng” thì phải “tính”. Nhưng bằng cái cách nâng việc “tụ liêm” lên làm “quốc sách”, thì đúng là uống thuốc độc cho khỏi khát. “Rồi đây, một khi chính sách tụ liêm được thi hành, thì kẻ lại tham ô xuất hiện ra; kẻ lại tham ô xuất hiện, thì pháp luật bình trị bị phế bỏ; pháp luật bình trị phế bỏ, thì nghề nghiệp của tứ dân bị điêu tàn; nghề nghiệp tứ dân bị điêu tàn thì thói gian những nảy nở; thói gian nhũng nảy nở thì giáo hóa về luân thường bị sụp đổ”. (“Cần bộc chi ngôn tự” – “Kim mã hành dư” ). ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Về vấn đề ruộng đất, viên quan trẻ tuổi Ngô Thì Nhậm đã sớm có một cái nhìn sâu sắc về tình hình chính trị – xã hội lúc bấy giờ, và giữa muôn ngàn những biểu hiện của nó, ông đã biết tìm ra đầu mối, nơi tập trung mâu thuẫn xã hội là vấn đề ruộng đất, thuế khoa – nhưng vấn đề sinh tử của người dân.
Những bài khải của ông đề cập một cách thẳng thừng và bức xúc vấn đề này. Bằng cách thiết thực, Ngô Thì Nhậm trình bày khá cặn kẽ tình hình ở một số địa phương mà ông có dịp tim hiểu. Trong bài “Trần Hải Dương địa phương tình tệ”, ông viết ‘.”Nay đồng mộng bỏ hoang không ai nhìn đến, mà những người có chức trách với dân, cứ theo sổ củ để thu thuế tô, khiến người nộp phải làm nghề khác để lo cho đủ số. Cái ẩn tình đau khổ của dân chúng là ở chỗ đó, đến nỗi có người không sao kham nổi mức cung đốn đó. Thế là dân nghèo đói lam lũ phải chia nhau đi ở các vùng khác, chỉ người nào khôn khéo mới may mắn thoát được mà thôi”.
Ông nói ‘.”Sửa sang điền chính đê đời sống của dân được no đủ hơn” (“Trần Hải Dương địa phương tình tệ”), hoặc “Tập hợp những dân không nơi nương tựa lại, cho họ cày cấy ở những thửa ruộng có thể thu hoạch được lúa, như vậy thì trộm cướp không cần bắt mà họ tự thôi, thóc lúa không cẩn mua mà có đầy đủ. Đó là một cách tốt để làm dân giàu” (“Tuế quỷ trần ngôn khải”), hoặc “Duyệt lại các quan từ trấn, phủ đến huyện … xem viên nào tâm thực ngay hay gian, liêm khiết hay tham lam, theo từng loại mà chia cấp bậc; lại truyền cho quan coi luật pháp phải hỏi han tình hình đau khổ trong dân gian” (“Trần thời chính thập tự khải”).
Mặc dù lập trường của ông lúc bấy giờ là đứng về quyền lợi của tập đoàn Lê – Trịnh, nhưng cái đáng chú ý là thái độ của ông đối với các chính sách của triều đình, và tấm lòng của ông đối với nhân dân. Quan tâm đến đời sống của dân chúng, nhìn rõ những bất công, áp bức, SƯU dịch, thuế má, lính tráng mà họ phải gánh chịu, và do tinh trạng đó, sức dân ngày một mỏi mòn, tiêu hao … Ngô Thì Nhậm đề ra nhiều biện pháp, nhiều kiến nghị để sửa đổi tinh hình, vãn hồi lại phần nào tình hình thái bình thịnh trị từng có lúc dân được hưởng dưới các triều đại vua Lê mới lên. Điều mấu chốt, theo ông , là phải có sự chấn chỉnh bộ máy quan lại đương thời vốn từ lâu đã trở thành gánh nặng và thù địch với dân chúng. Trong ” Tờ khải về cuối năm trình bày công việc “(” Tuế quý trần ngôn khải”), ông viết ‘.”thần được nghe : “Quan nhiều thì lại nhiễu, lưới thưa thì dân giàu”. Cho nên thiên Chu quan nói “Quan không cần đủ”.
Thiên Lập chính nói: “Cẩn thận noi phép, tuy theo nặng nhẹ mà dùng hình phạt cho thích trung “. Những điều đó đều là gốc của chính sự, có quan hệ đến tính mệnh của dân, sai một ly là đi một dặm. Gần đây, nhân tuần theo như lệ cũ, mỗi ngày một phiền nhiễu thêm : quan có khi không cần đặt cũng đặt; việc có khi không cẩn thêm cũng thêm; kiện có khi không cần xử cũng xử. Nói chung, họ lợi dụng chức vụ để sách nhiễu, mượn văn án để làm việc thiên tư, khiến cho của dân bị khánh kiệt vì quan nhiều, chính thể bị tổn thương vì án nặng, hiện nay ở nơi thốn xóm, dân đương vất vả vì thiếu ăn, mong được nới phần nào nhờ ơn phẩn này. Thiết nghĩ, đường lối nới rộng cho dân, trước hết là bãi bỏ những viên chức tạp nháp ngồi không và bớt những công việc phiền nhiễu đi. Chỉ xỉn bớt những viên quan ngồi không ở vùng biên địa, để đỡ hại cho dân, giảm những chức vụ thừa để chỉnh đốn lại quy chế, cấm kiện tụng để nên chính sách rộng rãi. Dù rằng thi hành mấy việc nói đây cũng chưa bao quát được cái thể chế chính đại công bình, nhưng “thêm một việc không bằng bớt một việc “, “làm một điều tiện không bằng trừ một điều hại”. Ngày nay, tuy nghi châm chước cùng là một cách trừ tệ làm lành” (“Hàn các anh hoa “).
Về bộ máy quan lại, nhân dịp Trịnh Sâm cầu lời nói thẳng, Ngô Thì Nhậm bày tỏ nhiều điều tệ lạm của kẻ cầm quyền địa phương, lòng oán giận của dân gian đôi với chính sự đương thời. Ong đưa ra nhiêu đe nghị có thê nói là táo bạo như xin giảm thuê nông, thuế buôn bán, miễn SƯU dịch, điều tra thói tệ lạm ức hiếp dân của kẻ hào mục… nhằm giải quyết thoa đáng đời sống của dân chúng. Ong viêt : “thân xin phái người tra xét ngay, xem ai tôn thất bao nhiêu, thì thu trả lại cho họ, để cho họ thoát được nỗi khổ lâu ngày, khiến cho thiên hạ biết rằng ơn trạch của nền nhân chính, thực sự thấm đến tận dân. Lại sức cho các ty thẩm vấn trong ngoài, chỉ những vụ án lớn mới được xét hỏi, ngoài ra đều tạm hoãn, để đỡ bắt bớ nhiễu dân …” (“Phụng trần thời chính khải”). ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Theo đó, ông đã đề ra khá nhiều biện pháp cụ thể, mạnh bạo về chính sách quan lại. Trong “Tờ khải trình bày mười điều chính sự đương thời”, ông tập trung bàn những việc cụ thể về chính sách quan lại, trong đó có những điều cho chúng ta hiểu được một cách cụ thể tình trạng rỗng nát của bộ máy quan lại thời Lê – Trịnh. Chẳng hạn điều 3 nói đến việc quan huyện không có lương nhất định, lương lấy vào tiền “đường thiên /ý”, tiền xã trưởng, tiền ‘”tống đê đường”, tiền cấp bằng, sỏ trâu bò, cỗ lộc thần(!) -.”thật là tuế toái, phiền nhiễu, đến nỗi thường xảy ra khiếu tố”. Do đó, ông đề ra biện pháp “Thượng ty không được lấy nhiều, huyện quan không được bổ báng vào dân, để cho lương với việc tương xứng với nhau, ổn định bổng lộc, ngăn ngừa tham nhũng”. Điều thứ 10 nói rõ hơn về tệ ăn tiền của quan lại và đề ra biện pháp trừng trị ‘.”Lâu nay các viên huyện quan, có nhiều người dong túng những kẻ điêu toa, để chúng gây ra mối kiện, rồi mình lấy
cớ dàn xếp lấy tiền. Thật là một việc tệ hại lớn cho dân. Cũng có người đem việc kêu đến Thừa ty, thì Thừa ty cũng chỉ xử lý một cách chung chung không có án xử hẳn hoi. Dự nghĩ nên ra lệnh cho Thừa tỵ, từ nay xét các án về tội điêu toa như thế, thì người phạm tội nên khép vào tội đồ, tội lưu trở lên, không được xét xử cho xong việc. Huyện nào dong túng, thì phải đề nghị biếm chức, để trừ tuyệt cái tệ cữ và uốn nắn phong tục trong dân gian”. (“Hàn cấc anh hoa ” ). Ngoài những vấn đề trên, Ngô Thì Nhậm còn gửi cho Trịnh Sâm nhiều kiến nghị khác nữa về các mặt kinh tế, quân sự, xã hội, pháp luật, đạo đức v.v…
Có thể nói, Ngô Thì Nhậm rất sốt ruột trước nhiều hiện tượng bất hợp lý của xã hội. Ông đã đề cập đến nhiều mặt như nông nghiệp, khai mỏ, giáo dục, tổ chức hành chính, quân sự … Ớ mặt nào ông cũng có những kiến nghị sửa đổi, trong đố, có những kiến nghị khá mới mẻ so với đương thời.. Điểm nổi bật và quan trọng trong cách giải quyết của ông là lấy dân làm gốc ; muốn thế, phải thực hiện chính sách nới sức dân và nhất là phải nghiêm trị bọn quan lại tham nhũng. Điều đó, chúng ta có thể thấy được ở nhiều chỗ.
Quan tâm đến hai cực của vấn đề xã hội lúc bấy giờ : vấn đề dân chúng và vấn đề quan lại, Ngô Thì Nhậm liên tiếp kiến nghị về vấn đề pháp luật, giáo dục, vấn đề bá chiếm ruộng đất, vấn đề khẩn hoang, vấn đề biên cương. Ồng đả kích những loại người cổ hủ như “viên tể tướng nhà quê, vin vào lời cổ nhân để trang sức cho cái hẹp hòi, nông cạn của mình” (“Cần bộc chi ngôn tự”).
Mặt khác, ông cũng không quên chú ý đến đời sống của dân miền núi và chính sách đối với dân tộc ít người. Chính vì xuất phát từ góc độ “dân sình”, Ngô Thì Nhậm đà có cái nhìn khá mới so với nhiều người đương thời về các cuộc “nổi loạn”, như cuộc nổi loạn của quận Diễn, tức Hoàng Văn Đồng, một người Thổ, trước ở đất Tụ Long thuộc Tuyên Quang vào năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779). Theo ông, những người theo quận Diễn làm phản đều bị bắt buộc, trong thâm tâm họ chẳng muốn chút nào. Mà ngay đối với “tên đầu sỏ” Diễn kia, ông cũng cho rằng : “Tên phản nghịch Diễn tuy phạm tội ác tài trời, những đó là do cái thế nó bắt y phải như vậy”. Cho nên khi chép đầu đuôi vụ “nổi loạn” khá lớn này, giọng văn ông khách quan, pha chút đồng tình là khác. Ngược lại, ông đã chĩa mũi nhọn vào hai vị “quan lớn” : “… Nhưng nguyên do gây nên vụ loạn này và đầu mối dấy lên việc binh ấy cũng bởi Huân trung hầu và Nghi trung hầu mở đường cho. Hai viên này đáng phải lấy lại chức tước, thu lại hổng lộc, có thế mới làm cho phép nước được công bằng, và cũng để trừng trị bọn tham quan làm lỡ việc nước”. (“Tuyên Quang Hoàng Văn Đồng sự trạng kỷ “). Vì vậy, khi biết triều đình đem quân đi đánh dẹp, ông hết sức can ngăn. Trong bài “Khất hoãn xuất sư khải”, tuy viết thay cho Tuân sinh hầu, song lời văn của ông sao mà tha thiết, có tình có lý như chính ông là người đương sự vậy. Đây là một bài khải xuất sắc, trong đó lý trí và tình cảm đã hòa với nhau làm một, lại thêm nhiều hình tượng khiến bài viết càng có sức thuyết phục, như : “cây nỏ ba ngàn cân không phải để nhằm vào con chuột”. Hay : “Xử trí thoa đáng, thao túng có thuật, không đánh vội, không thắng cầu may khác nào con thỏ khôn ngoan dựa vào rừng rậm, cần gì phải lớn tiếng phô trương” … ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Chắc rằng, bằng bài khải đó, ồng đã góp phần ngăn chặn được một cuộc đô máu vô ích. Rồi cũng vì muốn tránh một cuộc đổ máu vô ích lớn hơn, ông đã tham gia vào “vụ án năm Canh Tý” (1780). Nhìn chung, qua các bài khải dưới thời chúa Trịnh, hiện lên một cách nhất quán, sinh động những tư tưởng tiến bộ của Ngô Thì Nhậm. Những dự án cải cách của ông hướng về nhân dân, lấy dân làm gốc. Và đó là sự kế tục tư tưởng “khoan sức cho dân” của Trần Hưng Đạo, tư tưởng “trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược” để “yên dân” của Nguyễn Trãi. Các nhà nghiên cứu cho đó là những chính sách tiến bộ nhất so với các chính sách mà các nhà nho khác đề nghị :
“về căn bản rất tiến bộ”{Vũ Đức Phúc) “trong thời gian này, Ngô Thì Nhậm đã tự tách mình ra và đối lập lại với các nhà nho đương thời”{Vũ Khiêu). Nhưng dù tiến bộ đến đâu, những tư tưởng mà Ngô Thì Nhậm biểu hiện qua các bài văn từ mệnh của mình trong thời gian này cũng vấp phải những hạn chế của những tư tưởng thống trị thời đại ông. Đó là tư tưởng trung quân đối với triều đình Lê – Trịnh. Và như vậy thì vừa muốn bảo vệ ngai vàng của vua Lê, chúa Trịnh, lại vừa muốn “khoan sức cho dân” là điều không thể thực hiện được dưới chế độ phản động, thối nát của vương triều ấy. Đổ là mâu thuẫn không thể giải quyết được trong thực tế, cũng như trong ý thức tư tưởng.
Với những tờ khải trình bày sách lược của mình, Ngô Thì Nhậm làm người ta nhớ đến Giả Nghị với “Trị an sách” đời Hán. Giả Nghị ( 200 -168 TCN), người đời Tây Hán, mới 20 tuổi đã được Hán Văn Đế triệu kiến để bàn về những chính sách lớn của triều đình và chỉ trong một năm đã được thăng lên chức Đại trung đại phu. Bọn nguyên huân đại thần sinh lòng đố kỵ, dèm pha với Hán Văn Đế, nhà vua bèn đổi ông ra làm thái phó cho Trường Sa vương, rồi Lương Hoài Vương. Lúc bấy giờ có những vấn đề nội trị, ngoại giao, quân sự rất gay gắt. Giả nghị bèn dâng “Trị an sách” gồm hơn hai ngàn lời, phê phán rất thống thiết tình trạng xã hội đương thời; “Thần trộm nghĩ sự thế ngày nay, cái điều đáng khóc lóc thảm thiết thì có một, đáng ứa nước mắt thì có hai, đáng thở vắn than dài thì có sáu, ngoài ra còn có những việc bội lý thương đạo, không kể xiết được”. Rút cuộc, Giả Nghị chết trong u sầu rầu rĩ ở tuổi ba mươi ba.
Giữa Ngô Thì Nhậm và Giả Nghị, con người sống cách đó hơn mười lăm thế kỷ, .tỏ ra có một mối quan hệ “íừig hầu thanh khí” thật nồng hậu. Nhưng giữa Ngô Thì Nhậm và Giả Nghị cũng có chỗ khác nhau căn bản ; Giả Nghị thì “vì một chức quan”, vì đế chế nhà Hán : ông xin văn đế cho mình làm đô hộ nước Hung Nô, thực hành cái kế “tam biểu” (nhân, tín nghĩa), “ngũ nhử”: “năm mồi”, tức cung cấp cho Hung nô ngựa, y phục, phụ nữ… Tất cả phong tục xa hoa có thể làm cho phong tục đồi bại, và cam kết trói cổ Thiều Vu về nộp cho triều đình. Đó là một kế hoạch sặc mùi bá quyền nước lớn đại Hán! Còn Ngô Thì Nhậm thì, tuy cũng vì Trịnh Sâm mà dâng khải, nhưng trước, sau, tâm huyết của ông hướng về người dân, về nhân dân lầm than trong cơn nước lửa của một thời đại “chúa hôn, thần nịnh, binh kiêu, dân oán”, một thời đại đầy tính chất bi kịch, và đáng lẽ phải chuyển sang một giai đoạn mới của lịch sử để thực hiện tính tất yếu của lịch sử, nhưng đã không có đủ điều kiện để thực hiện tính tất yếu ấy.
Phải nói rằng, mười ba năm sống và hoạt động của Ngô Thì Nhậm dưới triều Trịnh Sâm là mười ba năm chứng tỏ con người liêm khiết, hết lòng vì nước, vì dân của ông. Trong cái xã hội sĩ phu thối nát thời Lê – Trịnh, ông thuộc số người có phẩm chất, đạo đức, luôn luôn tìm cách làm cho nhân dân đỡ khổ. Những tờ khải, những bản điều trần thiết của ông gửi cho Trịnh Sâm chứa đầy tâm huyết của người trí thức yêu nước thương dân, tha thiết yêu cầu chính quyền thống trị phải cải cách nhiều chính sách lớn để “khoan nhẹ sức dân”, chấn hưng kinh tế, văn hóa, giáo dục, binh bị v.v… về phần bản thân, ông hết sức thanh liêm, chính trực. Trong “Bài ký nhà cồng đường dinh án sát” ồ Thanh Hóa ông tự hỏi: “Nhân dân áo rách mình gầy, vì đâu nên nỗi ấy?”. Và, suốt cuộc đời “làm quan” của ông, bao giờ ông cũng tự hào về cái cổng đường vắng khách, lạnh như băng của ông. Nếp nhà làm quan liêm khiết, thanh bạch, thẳng ngay của họ Ngô, chỉ kể từ hai ông Ngô Thì Sĩ, Ngô Tưởng Đạo, đến Ngô Thì Nhậm, cũng là lừng lẫy một thời.
Tư tưởng nhân dân này của Ngô Thì Nhậm sẽ được phát triển trong những giai đoạn tiếp theo, đặc biệt là dưới triều Tây Sơn. Sau vụ án năm Canh Tý (1780) hai năm, Trịnh Tông được lính Tam phủ công kênh trên một chiếc mâm đồng, phò lập lên làm chúa. Ngô Thì Nhậm phải trốn về làng Vũ Tiên, Trực Định, đất Sơn Nam “làm một kẻ cô thần náu nương lưu lạc”. Thời gian trốn tránh ẩn náu gần sáu năm ấy là một giai đoạn có những chuyển biến trong nhận thức, tư tưởng của Ngô Thi Nhậm.
Trải qua gần sáu năm trốn tránh, “tại đào”, ông đã suy nghĩ, nghiền ngẫm- bằng “vài mươi vạn lời” “Xuân Thu quản kiến”, bằng lời phú “Mộng thiên thai”, bằng sự quan sát trực tiếp lần tiến quân ra Bắc “phù Lê diệt Trịnh” của Quang Trung – và cuối cùng, ông đã dứt khoát đến với Tây Sơn. Đây là một sự phát tiền đột biến nhưng có tính quy luật trong tư tưởng – nhận thức của Ngô Thì Nhậm, hoàn toàn không phải là “tùy thời”, “cơ hội” như một số người có thể nghĩ.
3.2.2.2. Nội trị dưới thời Tây Sơn . ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Khi đến với Tây Sơn, với một tấm lòng luôn luôn hướng về nhân dân, lấy dân làm gốc, ông lại một lần nữa hết lòng, hết sức lo cho vấn đề nội trị thời Tây Sơn. Về chính trị, ông đóng góp cho vương triều mới cả về đường lối chung cũng như về chính sách cụ thể. về quân sự, trong dịp quân Thanh xâm lăng cuối năm 1788, ông có sáng kiến nêu lên sách lược rút quân về Tam Điệp rất được Nguyễn Huệ khen ngợi. về ngoại giao, bằng các văn kiện do ông thảo và bằng cả chuyên đi sứ, ông đã khiến nhà Thanh từ bỏ ý chí xâm lược và trân trọng vua Quang Trung. Có thể nói, một tay ông lo toàn bộ việc đối ngoại với nhà Thanh lúc bấy giờ.
Ông là người trí thức thuộc “dòng dõi văn học Bắc hà” đầu tiên đến với Nguyễn Huệ. Và Nguyễn Huệ, bằng đôi mắt nhìn xa trông rộng, đôi mắt phượng hoàng rừng đại ngàn Tây Sơn – đã đánh giá rất đúng tài năng Ngô Thi Nhậm. Nguyễn Huệ đã thật lòng tin dùng Ngô Thì Nhậm, và như Trịnh Sâm, Nguyễn Huệ cũng đánh giá cao Ngô Thì Nhậm, thái độ của Nguyễn Huệ là một thái độ trân trọng, ân tình : “đây là người do ta gây dựng lại”; “Ngô Thì Nhậm vừa là bầy tôi, vừa là khách của ta”; “mới nghe, ta đã biết là kế của Ngô Thì Nhậm. Đến khi hỏi Văn Tuyết thì quả nhiên đúng”. Có lẽ vì cảm cái ân “trì ngộ” của Quang Trung mà ngay từ những ngày đầu đến với Quang Trung, Ngô Thì Nhậm đã ra sức thuyết phục những trí thức Bắc hà khác ra phục vụ cho Tây Sơn.
Điều này có một ý nghĩa quan trọng đối với tình hình chính trị đương thời. Bởi vì, kéo được một trí thức, một nhân sĩ về phía chính nghĩa trong lúc tình hình Bắc hà chưa ổn định, là thêm một lực lượng mới cho phong trào, đồng thời bớt đi một lực lượng đối nghịch có thể trở thành nguy hiếm. Trên cơ sở-của chính sách “cái/ hiền’1 dùng người “không phân biệt cũ mới”, và “tấm lòng yêu tiếc nhân tài không lúc nào nguôi” của Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhậm đã đem tâm huyết thảo “Chiếu cầu hiền “, thiết tha kêu gọi các nhân sĩ ra phục vụ cho vận hội mới: “TCữig nghe: người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng. Nhược bằng giấu mình ẩn tiếng, có tài mà không đề cho đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền tài”…. Trẫm đương để ý lắng nghe, sớm hôm mong mỏi. Thế mà những người tài cao học rộng, chưa có ai đến. Hay tràm là người ít đức, không xứng để những người ấy phò tá chăng? Hay là đương thời loạn lạc, họ chưa thể phụng sự vương hầu?… Nghĩ rằng! sức một cây gỗ không chống nổi toa nhà to, mím lược một kẻ sĩ không dựng được cuộc thái bình. Hỏi rằng trong nước, một ấp mươi nhà hẳn còn có người trung tín, huống chi trong cõi-đất rộng lớn đến thế này, há lại không có người kiệt xuất hơn đời, để giúp rập chính sự buổi đầu cho trầm ư ?”. (“Hàn các anh hoa ” ).
Tuy nhiên, đứng trước những lời kêu gọi như thế, nhiều sĩ phu Bắc hà vẫn một mực “ngu trung” với nhà Lê, chống đối Tây Sơn. Bằng một giọng văn luận chiến sắc sảo, Ngô Thì Nhậm viết thay Quang Trung tờ “Chiếu hiểu dụ các quan văn vũ triều cũ” : … Ngày đến Bắc thành trầm đều bỏ qua, không nỡ bắt tội. Lại đã ban tờ chiếu dụ, mở con đường sống khẩn thiết đến hai ba lần. Tuy thế, các ngươi cứ luẩn quân trông ngóng, cố ý trốn tránh; há chẳng phải các ngươi còn mong viện bỉnh lại đến, nên còn cân nhắc bên này bên kia, để đợi xem kết cục đó sao? Các ngươi không vào núi Thứ Dương mà làm Di Tề, không ra hải đảo mà làm Điền Hoành, không những cái cơ thành bại hơn thua đã không hiểu rõ, cái lẽ phải trái được mất lại cũng tối tăm. Người trung nghĩa, sáng suốt có làm như thế đâu !”… “Ôi! Đem một thân mình chống với cả thiên hạ, thì chẳng thà quy thuận, thế mới gọi là người biết thời cơ, thông quyền biến. Các ngươi nên kịp thời lập nên công nghiệp, bắt chước kẻ sĩ nhà Ân, tỏ ra nhanh nhẹn, ngổ hầu có thể giữ được thân danh, hưởng được phú quý, há chẳng hay sao? Nhược bằng mê muội, cuối cùng chuốc lấy tai vạ, hối sao cho kịp? cố lên, gắng lên! phải kính tuân tờ đặc chiếu này” (“Hàn các anh hoa”).
Bài chiếu được viết với những lời khuyên nghiêm nghị, khẩn thiết, chí tình, với một thái độ “lượng cả bao dung”, vốn là một đức tính nổi bật của con người Quang Trung, đồng thời, cũng là thái độ của một con người đứng trên tầm cao của một nhận thức sáng tỏ, dứt khoát về thời cuộc mà chỉ ra chỗ “tối tăm nhầm lần”, chỉ ra con đường sống cho đám cựu thần nhà Lê. ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Có thể nói, Ngô Thì Nhậm đà mở một cuộc bút chiến quyết liệt với các đại diện có uy quyền nhất của sĩ phu Bắc ha lúc bấy giờ. Đó là những người như Trần Danh Án, hoàng giáp tiến sĩ, Trần Bá Lãm, chế khoa tiến sĩ, Nguyễn Nha, tiến sĩ và cả những người trong gia đình Ngô Thì Nhậm cương quyết chống Tây Sơn như Ngô Tưởng Đạo, chú ruột…
Trong thư gửi Trần Bá Lãm, trước luận điệu “nghĩa phải bảo toàn nước cũ”, “không thờ hai họ”, “độc lập”, “trốn đời” của ông này, biết ông ta là loại người muốn lưu tấm thân để mưu lợi về sau, Ngô Thì Nhậm vạch rõ sự “tính toán” của ông ta là nhầm lẫn; với Nguyễn Nha, đỗ tiến sĩ cùng khoa, và là người cùng làng, một người chắc là đang trốn tránh, cha mẹ còn, Ngô Thì Nhậm khuyên ông ta “gìn giữ tấm thân” và bỏ cái ý chống đối để trở về làng cũ: “nay đạo của vua Nghiêu hiùĩg thịnh, ưu dung của Sào Phủ, Hứa Do, lời ngọc ôn tồn ban ra cho mọi người biết, Đông Tây Nam Bắc thảy đều vào khuôn phép, sao anh chẳng trở về làng cũ …”
Qua cuộc đấu tranh tư tưởng phức tạp và quyết liệt giữa phong trào nông dân Tây Sơn với các thế lực phong kiến phản động, chúng ta thây hết được cống hiến to lớn và sự chuyển biến dứt khoát về mặt lập trường chính trị của Ngô Thì Nhậm. Thực hiện chính sách đoàn kết rộng rãi, cô lập và phân hoa cao độ kẻ địch của Quang Trung, Ngô Thì Nhậm đã.thuyết phục lôi kéo được Phan Huy ích, Trần Bá Lãm, Ninh Tốn, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn lần lượt, kẻ trước, người sau ra phục vụ đắc lực cho Tây Sơn, và điều này đã góp phần không nhỏ vào việc củng cố an ninh chính trị ở Bắc hà, vùng đất vốn là hậu phương xung yếu của tập đoàn Lê – Trịnh.
Qua thực tiễn cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt này, những tư tưởng tiến bộ về vấn đề dân chủ và vấn đề dân tộc của Ngô Thì Nhậm được nâng lên đến đỉnh cao . Đó là tư tưởng chủ đạo của Ngô Thì Nhậm. Nó phù hợp với tư tưởng ”khoan sức cho dân” của phong trào Tây Sơn : “Tước đoạt của người giàu chia cho dân nghèo”‘, “muốn đem ánh sáng cồng lý soi tới chúng dân và giải thoát khỏi gông cùm nhà vua, các quan lại và các cố vấn”; “tuyên truyền tình bình đẳng mọi địa hạt. Trung thành với thuyết tân xã hội chủ nghĩa tước đoạt tài sản của các quan liêu người giàu có và đem chia cho dân cùng đinh khổ rách”.
Về nông nghiệp, Ngô Thì Nhậm thay vua Quang Trung viết “Chiếu khuyến nông”, “hướng dân chăm nghề gốc”. Ông nêu lên tình trạng của nền nông nghiệp nước ta khi đó : “Từ trải qua loạn lạc đến nay, binh hoa liên miền, lại thêm đói kém, nhân dân lưu tán, ruộng đất bỏ hoang. Thực sô đinh và điền, chẳng còn được bốn phần mười khi trước”. Trước tình hình đó, ông đề ra nhiệm vụ khôi phục lại nền kinh tế, để làm cho dân giàu ; ‘”Nay trong buổi đầu đại đinh, chính sách khuyên khích sản xuất làm cho dân giàu, phải được tiến hành lần lượt”; thi hành những quy định có tính chất pháp luật, nhằm cưỡng bức dân lưu tán trở về khai khẩn ruộng hoang. Bài chiếu kết thúc bằng lời lẽ thấm nhuần lòng nhân đức của triều đại mới : “Hỡi các thẩn dân, các ngươi phải trông lên để theo đức ý của trầm, về nơi quê quán, chăm sóc ruộng vườn! Đừng lười biếng làm hại sinh kế, đừng trốn tránh, giấu giếm để mắc tội lỗi. Cái vui giàu thịnh, tràm sẽ cùng trăm họ chung vui…”
Trong những ngày đầu của chiến thắng Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm còn là người được vinh dự thảo bài “Chiếu lên ngôi” cho Quang Trung. Đây không phải là một bài chiếu tức vị như thường thấy của các vua, mà là bài chiếu của một vị vua sáng nghiệp một triều đại, vị anh hùng “áỡ vải cờ đào, Giúp dân xây dựng xiết bao công trình”, vị anh hùng bách chiến bách thắng,… Vì thế, bài văn phải mang được khí phách anh hùng, cái lỗi lạc quảng đại, tầm nhìn xa trông rộng, đạo đức trong sạch thanh cao, tấm lòng vì dân, vì đất nước của Quang Trung : Trẫm là kẻ áo vải đất Tây Sơn, không có một tấc đất, vốn không có chí làm vua. Chỉ vì lòng người chán ghét loạn lạc, mong có vị mình chúa để cứu đời, yên dân. Cho nên tập hợp nghĩa quân, xông pha chông gai, phá núi mở rừng, giúp đỡ Hoàng đại huynh dong ruổi binh mã, gây dựng nước ở cõi Tây, dẹp tiêm La, cao Miên ở phía Nam, rồi hạ thành Phú Xuân, lấy thành Thăng Long. Bản ý chỉ muốn quế trừ loạn lạc, cứu dân trong chốn nước lửa, rồi trả nước lại cho họ Lê, trả đất cho đại huynh, ung dung áo gấm hài thêu, ngắm cảnh yên vui ở hai cõi đất mà thôi. Nhưng việc đời dời đổi, rốt cuộc trầm không được như chí nguyện …” (“Hàn các anh hoa “).
Bài “Chiếu phát phối hàng binh người nội địa ” đã tỏ rõ lòng nhân đạo của Quang Trung, của dân tộc ta đối với các tù binh, chứa đựng lòng tự hào dân tộc sâu xa như lòng tự hào chính đáng mà các đời Lý, Trần, Lê đà từng nói lên qua các áng hùng văn của mình : ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
“… Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời thế làm việc cách mệnh, dùng binh bình định thiên hạ. Viên Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị các ngươi, tàu đong đấu rá, nghề mọn thêu may, không biết nhưng điều chủ yếu trong việc dùng binh, vô cớ đem 29 vạn quân ra khỏi cửa quan, vượt núi trèo đèo, vào sâu hiểm địa, xua lũ quân vô tội các ngươi vào vòng mũi tên ngọn giáo. Đó đều là tôi của viên Tổng đốc nhà các ngươi”.
” Trẫm một phen vẫy cờ lệnh, quét sạch lủ các ngươi như quét đàn kiến. Lũ ngươi một thua tan vỡ, chết hại kể hàng vạn tên. Những kẻ hiện bị bắt tại trận tiền, và thế bách phải đầu hàng, lẽ ra phải chiếu theo quân luật, đem chém sạch đi để răn đe những kẻ bạo ngược. Chỉ vì thể đức hiếu sình của Thượng đế, nên ta bao dưng che chở, tha chết cho các ngươi.
Vậy ta ban chiếu này, phát phối các ngươi vào các cơ đội, sung vào quân ngũ, cấp cho lương hướng, để các ngươi khỏi bị cái khổ gông cùm, được ra trận tòng quân, dùng làm nanh vuốt”. (“Hàn các anh hoa ” ).
“Đấng vương giả coi bốn bể như một nhà; trầm đặt lòng mình trong bụng người, các ngươi phải nên hiểu rõ điều ấy, chớ nên ngờ sợ. Hãy nguôi lòng nhớ quê để đền ơn tái tạo …” (“Hàn cấc anh hoa “).
Phong độ, tấm ỉòng, lòng tự hào chính đáng về chính nghĩa, về dân tộc … là cảm hứng chủ đạo trong tất cả các bài chiếu biểu do Ngô Thì Nhậm soạn thảo cho Quang Trung. Hình tượng Quang Trung là khí phách, là nhân đức của toàn dân tộc. Các bài ” Chiếu cầu hiền”. ” Chiếu dụ Tàu Ó”, ” Chiếu khuyến nông”, ” Chiếu lập nhà học”… cùng cùng một cảm hứng, một tinh thần như vậy. Phải là người thấm nhuần sâu sắc những tình cảm cao quý do thời đại tạo nên, phải là người được “tắm mình trong ánh sáng của Quang Trung” (Maiakovskỉ), thì mới viết được những dòng tràn trề cảm hứng như thế.
Quả như vậy, Ngô Thì Nhậm là một trong số ít ỏi những nhà văn của thời đại đã hiểu, đã yêu, và đã đánh giá đúng tầm vĩ đại của Quang Trung trong lịch sử. Ca ngợi Quang Trung, Ngô Thì Nhậm viết trong “Tờ biểu của hai ban văn võ mừng hoa hảo đã thành ” (“Hảo thành văn vũ tạ biểu “) : ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
…Văn quẻ cách, hổ biến hợp điềm, dẹp loạn cao hơn công dựng Hạ, Nội quẻ Khôn, long tranh dứt việc, trừ hung vượt quá nghiệp cầm Hồ.
Đánh dẹp sáng ngời thánh vũ Sửa trị thấu suốt thời nghi
Dùng mưu sâu thu quân, hoa chúng, dáo gươm bọc da hổ chở về, Mở đạo lớn chuộng nhượng,bỏ tranh, chén ngọc giữ tai trâu mời mọc, Bởi chiến hoa quyền ở tay mình. Mà hoa mục thực ai cũng muốn.(“Hàn các anh hoa “) Đó cũng là lời ý trong “Tờ biểu của đình thẩn văn võ xỉn Quang Trung ngự&à ra Thăng Long” ‘.”Đem đội quân vô địch một đánh mười, nhà nhà ngóng đợi; nổi cơn giận ba bước an định, phụ lão xin lưu”. Trong ” Tam tấn tôn biểu ” (“Hàn các anh hoa “), ông ca ngợi Quang Trung “Một mảnh nhung y gây dựng sơn hà”, “ba thước kiếm quét trừ loạn lạc”…, trong “Thưcủa thị thần vua Quang Trung trình bày, biện bạch về việc cầu hôn ” ( “Bang giao hảo thoại”), Ngô Thì Nhậm còn biểu dương một nét tính cách của Quang Trung “Quốc vương là người thiên tư hiếu học, tuy trong chinh chiến gấp gấp vần không quên bàn bạc đạo lý. Trong nghị luận thường ngày (quốc vương) diễn đạt một cách có thứ tự những cái mà sách vở đời trước chưa từng nói, tôi thực nhờ được gần gũi, bơi lội trong kiến thức của quốc vương tôi mà lĩnh hội được”.
Có thể nói, trong cuộc đời cầm bút của mình, ngoài văn chính luận, Ngô Thì Nhậm còn là một nhà thơ. Nhưng trong một thời gian dài, Ngô Thì Nhậm đã không sáng tác được bài thơ nào về chiến thắng, về dân tộc, về người anh hùng dân tộc, sảng khoái, hào hùng như những tình ý đã viết trong văn chính luận. Cũng qua những bài văn chính luận, ta thấy Ngô Thì Nhậm được Quang Trung yêu mến, tín nhiệm và ông cảm rất sâu ân đức của Quang Trung.
Chúng ta cũng có thể tìm thấy những tình cảm sâu sắc, nồng hậu dường như đước xuất phát từ “một cái tôi khác” của Ngô Thì Nhậm về người anh hùng Nguyễn Huệ và về Tây Sơn trong “Hoàng Lê nhất thống chí”, ở đó, tác giả đã đưa ra cho chúng ta một bức tranh rộng lớn về thời đại, trong đó nổi bật lên chủ đề và nhân vật Quang Trung.
Trong “Hoàng Lê nhất thống chí”, mặc dù còn bị hạn chế bởi tư tưởng “phù Lê”, tác giả đã mô tả Nguyễn Huệ bằng những nét như là người tượng trưng cho truyền thống chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, như là nhà chiến lược nhìn thấu suốt địch và ta, thấu suốt hiện tại và tương lai, văn-võ song toàn, quân sự và chính trị kết hợp, và là người anh hùng tự thân xông trận, quyết chiến và quyết thắng. Đức độ của Quang Trung, tài tổ chức, tài dùng người, thu phục và thuyết phục người… của Quang Trung, cũng là những nét làm cho nhân vật ngang tầm lịch sử. Đối với sự mô tả Tôn Sĩ Nghị, mô tả Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh…, hình tượng Quang Trung càng nổi bật hơn lên. Quang Trung không chỉ vĩ đại trong tư thế lịch sử, Quang Trung càng sinh động trong “con người bình thường”, trong sự “phi thần thoại hoa” nhân vật, là một bước tiến quan trọng của văn học thế kỷ XVIII về phía nhận thức chân xác thực tại.
3.2.3. Văn chính luận về ngoại giao ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Nhưng không phải chỉ có những công việc đối nội, cống hiến tài năng của Ngô Thì Nhậm còn thể hiện trong cuộc đấu tranh kiên trì, mềm dẻo nhưng kiên quyết trên mặt trận đối ngoại. Quang Trung là người sớm phát hiện tài ngoại giao của Ngô Thì Nhậm. Trước khi ra Thăng Long tiêu diệt quân Mãn Thanh, Quang Trung đã tính trước ‘.”Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được quân Thanh, nhiùĩg nghĩ, chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà báo thù. Đến lúc ấy chỉ người khéo lời lẽ mới dẹp nổi binh đao. Không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được”.
Với nhận xét sắc sảo đó, Nguyễn Huệ đã ân cần trao cho Ngô Thì Nhậm phụ trách công việc bang giao, một công việc cực kỳ tế nhị, khó khăn, một công việc có liên quan đến sự an nguy của đất nước. Nó có tác dụng củng cố và phát huy thắng lợi quân sự vĩ đại vừa giành được, nâng cao uy tín của triều đại mới, của quốc gia, ngăn chặn một cuộc chiến tranh xâm lược mới của triều đình Mãn Thanh. Và tác phẩm văn chương của Ngô Thì Nhậm trong trường hợp này lại chính là những văn kiện ngoại giao do ông khởi thảo. Đó là việc “dùng ngòi bút thay giáp binh”, “dùng văn chính luận để đấu tranh về ngoại giao”, củng cố độc lập dân tộc.
Những tác phẩm gắn với cuộc đấu tranh bang giao này được bắt đầu từ rất sớm. Thực ra từ trước đó, Ngô Thì Nhậm đã thảo những thư từ bang giao : thảo thư đề nghị Tôn Sĩ Nghị ”hoãn binh” khi hắn mới đến biên ải, nhằm cảnh cáo ngầm ông ta về sức mạnh của quân dân ta … “Những nay bỗng nghe quần thiên triều qua cửa quan, đem việc tiến đánh bá cáo trong tờ hịch, lòng người lo sợ, ngờ vực. Kẻ làm quân sợ bị mắc vào vòng bội nghịch, họ bảo nhau rằng : không đánh thì bị giết; kẻ làm dân sợ không tiếp tế được quân lương, họ bảo nhau rằng : không trốn thì chết. Vì thế, các cánh quân tranh nhau đến nơi đồn trại, dân các nơi trốn bừa vào chốn núi rừng, việc đồn đại đến trước trướng đại nhân, nên ngờ là có việc “châu chấu đá xe”, thực ra, chỉ do người trong nước lo sợ hoảng hốt, không thể ngăn cấm được đó thôi” (“Bang giao hảo thoại”).
Đó là bài mở đầu cho gần 100 bài văn bang giao mà Ngô Thì Nhậm sẽ viết trong những ngày tiếp đó. Ngay trong bức thư đầu đó, đã thể hiện được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của thể loại văn học này dưới ngòi bút Ngô Thì Nhậm. Đó là sự mềm dẻo, “nhẫn nhục” về sách lược nhưng cứng rắn, kiên quyêt trong nguyên tắc ; “nên kinh thì kinh, nên quyền thì quyền, làm sao cho xong việc nước”. Đó là trí tuệ Việt Nam trong những biên ảo của từ chương cổ điển. Đó là mưu lược quân sự, kết hợp với đấu tranh chính trị và ngoại giao.
Chưa đầy nửa tháng sau chiến thắng Đống Đa, Ngô Thì Nhậm lại thảo thư “Trần tình” gửi Càn Long, một văn kiện bang giao và cũng là một tác phẩm văn học độc đáo.
Lúc bấy giờ nước ta đang đứng trước một tinh hình căng thẳng như ngàn cân treo sợi tóc : bị thua nhục nhã, vì sĩ diện , Càn Long và triều Thanh có thể huy động đại binh đánh trả thù. Để tránh sự tái diễn của binh đao, Ngô Thì Nhậm phải thảo “Biểu trần tình”, nhằm biểu dương sức mạnh của nước ta, ngăn chặn dã tâm trả thù của nhà Thanh, bắt Càn Long và triều thần phải chấp nhận việc “chuyển binh giáp thành hội xiêm áo”.
“Ôi, đường đường thiên triều mà tranh nhau thua được với nước nhỏ, cố muốn theo đuổi mãi việc chinh chiến, để cho binh đao lại diễn, dân chúng bị khổ hại, thì đó là điều mà của tấm lòng của bậc thánh nhân không nỡ làm. Nhiùĩg nếu muôn một xảy ra binh đao kéo dài, tình thế vỡ lở, thần khống được đem nước nhỏ thờ nước lớn, thì thần cùng đành phải nghe theo mệnh trời mà thôi chứ còn dám biết nói sao!” (“Bang giao hảo thoại“).
Đó là lời cảnh cáo nghiêm khắc trên thế đứng của kẻ chiến thắng, là vũ khí “hoả hổ” được bọc dưới từ chương! ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Gửi thư cho Thang Hùng Nghiệp, nhờ Thang Hùng Nghiệp chuyển “Biểu trần tình” lên Càn Long, sau khi trình bày nguyên nhân đánh dẹp Tôn Sĩ Nghị, Ngô Thì Nhậm cũng không quên nhắc nhở “thiên triều” nhà Thanh bài học về quân sự đi liền với chính trị trong chiến tranh. Và nhân đó, cảnh cáo Càn Long với lời lẽ rất kiên quyết:
“Phàm quân đội, cốt ở chỗ đoàn kết một lòng, không cốt ở chỗ đông, binh lính quý ở chỗ tinh nhuệ, không quý ở chỗ nhiều. Kẻ khéo thắng là thắng ở chỗ vô cùng mềm dẻo, chứ có phải ỷ mạnh lấn yếu, lấy đông hiếp ít đâu! Nếu như sự tình trước đây chưa được giải tỏa mà thiên triều không chút khoan dung, cố gây việc chinh chiến, làm cho nước nhỏ này không được hết lòng cung kính thờ nước lớn, thì lúc ấy tôi cũng đành nghe theo mệnh trời mà thôi!(“Bang giao hảo thoại“).
Sau cuộc đấu tranh dùng từ mệnh để chặn đứng ý đồ động binh trả thù rửa nhục của “thiên triều”, Ngô Thì Nhậm đấu tranh để nhà Thanh thừa nhận Quang Trung, phong vương cho Quang Trung và an trí bọn Lê Chiêu Thống. Đây cũng là một cuộc đấu trí về ngoại giao cực kỳ căng thẳng mà ngọn bút của Ngô Thì Nhậm lại được dịp tung hoành, phát huy tác dụng. Nhà Thanh đặt điều kiện cho Quang Trung phải “thân hành đến kinh đô” chúc thọ Càn Long 80 tuổi và thụ phong. Quang Trung , vì “sợ ngượng” với các phiền thần khác khi đến kinh đô, nên đòi nhà Thanh sắc phong trước, nhưng Phúc An Khang, tổng trấn Lưỡng Quảng của nhà Thanh, người đứng ra giao thiệp trực tiếp với Quang Trung, lại quỉ quyệt đề nghị Quang Trung chỉ cần qua khỏi Nam Quan trong dịp đi chúc thọ vua Thanh là sẽ được phong ngay, và như vậy, “khi Quốc trưởng đến kinh đô đã ngang hàng với các nước phiên thuộc thời vinh dự biết chừng nào”. (“Bang giao hảo thoại“).
Rất sáng suốt trước những lời ngon ngọt đó của Phúc An Khang, trong thư trả lời, vua Quang Trung vịn cớ làm thế là “phân biệt đối xử”, nên đòi nhà Thanh sớm định ngày tuyên phong, và cử sứ thần sang Thăng Long tuyên phong.
Nhưng rồi việc ra Thăng Long nhận sắc phong có thể gây thương hại đến uy tín quốc gia và uy tín của nhà vua, nên Quang Trung đòi sứ bộ nhà Thanh phải vào tận Phú Xuân để tuyên phong. Các sứ thần nhà Thanh, tuy rất bực tức trước thái độ của Quang Trung, nhưng cuối cùng, họ phải nhượng bộ trước ý chí cương quyết và kiên trì của Quang Trung, thể hiện qua bao lý lẽ trong hàng chục bức thư của Ngô Thì Nhậm.
Tiếp theo là việc Quang Trung giả sang chúc thọ nhà Thanh, sau đó là việc đòi đất bảy châu Hưng Hóa đã mất vào tay nhà Thanh từ thời Lê, đòi bỏ lệ cống người vàng, việc xin ngựa tốt nhà Thanh, xin nhân sâm cho mẹ Quang Trung, làm thư cầu hôn đòi lấy công chúa nhà Thanh để thêm ” giao tình thân mật” giữa “thiên triều” và “lân quốc” … Thực chất, tất cả chỉ là những việc “nắn gân”, thử sức “thiên triều” để thăm dò ý tứ, chuẩn bị cho việc đối phó lâu dài … Thấm đượm trong vòng 100 bức thư ấy của “Bang giao hảo thoại” là tinh thần yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết sau chiến thắng Đống Đa. Bằng những tác phẩm văn chương bang giao có tầm quan trọng quốc gia ấy, Ngô Thì Nhậm đã đóng góp vào dòng văn học từ mệnh vốn có truyền thống lâu đời của ông cha ta những kiệt tác mới. Và văn chính luận từ đời Trần, đời Lê, đến Ngô Thì Nhậm, đã có một tác dụng thực tế lớn lao.
Trong năm Kỷ Dậu, chỉ riêng công việc đứng đầu nền ngoại giao của triều Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm đà đê vào đấy biết bao sức lực và tâm huyết. Công cuộc bang giao thời Tây Sơn đã đạt những thắng lợi chưa từng có, đã viết nên những trang sử ngoại giao đẹp nhất bên cạnh những trang sử chiến thắng huy hoàng, và trong chiến công này, có phần đóng góp xứng đáng của Ngô Thì Nhậm.
3.3. Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm.
3.3.1. Khái quát. ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Bên cạnh việc tim hiểu nhưng đóng góp về nội dung tư tưởng, là việc tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thi Nhậm. Ở lĩnh vực này, văn chính luận của Ngô Thi Nhậm cùng có những đóng góp đáng kể.
Mặc dù sống trong một thời đại mà nền văn học Việt Nam đã có những kiệt tác cho ngôn ngữ dân tộc, và trước đó, văn học Việt Nam cũng đã có những tác gia lừng danh với hàng trăm bài thơ bằng tiếng Việt, nhưng Ngô Thì Nhậm vẫn dùng chữ Hán, “một văn tự chính thống“, “một thứ ngôn ngữ văn học có tính chất quốc tế” (Kôn – rát), để sáng tác. Đó là một nhược điểm đáng kể trong toàn bộ sự nghiệp văn chương của Ngô Thì Nhậm. Nhược điểm này đã nói lên đặc trưng trung cổ trong tác phẩm của Ngô Thì Nhậm.
Đặt Ngô Thì Nhậm vào giai đoạn quá độ đầy mâu thuẫn, phân hai giữa tính chất trung cổ và tính chất Phục hưng, ta thấy thi pháp nghệ thuật văn chính luận Ngô Thì Nhậm có phần mang đặc trưng trung cổ và cũng có phần đóng góp vào sự chuyển động mạnh mẽ của thời đại.
Trong nền văn học Việt Nam cổ, các thể loại có tính chất cung đình chiếm vị trí hàng đầu. Không có một nhà văn đáng gọi là nhà văn theo hàm nghĩa của thời đại đó mà lại không biết “viết thư thảo hịch”, viết chiếu, biểu, châm, minh, bi, ký…, những thể loại tiêu biểu của loại hình văn học trung đại. Thế nhưng, không phải ai cũng có được cái nghệ thuật trác việt khám phá ra cái gọi là “thiên tài của thể loại”, trở thành một danh gia trong từ chương thiên cổ. Kể về thể loại này, đời Lý phải kể đến “Thiên đô chiếu“, “Lâm cung di chiếu” và “Lộ bố văn“; đời Trần thì có ” Hịch tướng sĩ“, đời Lê Sơ thì “thiên cổ hùng văn” của Nguyễn Trãi …
Sau Nguyễn Trãi, trong mấy trăm năm dưới triều Lê, không có người nào xứng đáng nối gót ức Trai tiến sinh về thể loại này.
Phải đợi đến thời đại Quang Trung, một thời đại hào hùng đồng điệu với thời bình Ngô – tài năng của cây bút Ngô Thì Nhậm được Quang Trung phát hiện, lịch sử văn học mới lại ghi nhận một hiện tượng lớn về thể loại này.
Văn chính luận của Ngô Thì Nhậm là sản phẩm của một thời đại lịch sử, sản phẩm của trí tuệ, tâm huyết và nghệ thuật từ chương của tài năng Ngô Thì Nhậm.
Thời đại Quang Trung là thời đại anh hùng. Văn chính luận của Ngô Thì Nhậm phản ánh trực tiếp âm huởng đó của thời đại, có phong cách hoành tráng -cao cả. “Phối thuộc nội địa hàng binh chiếu“, ” Tức vị chiếu“, ” Hảo thành văn vũ tạ biểu“, “Tấn tôn biểu“, ” Dụ cựu triều văn vũ chiếu” … có thể xem là những bài tiêu biểu.
3.3.2. Nghệ thuật văn chính luận về nội trị. ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Văn chính luận nội trị của Ngô Thì Nhậm đề cập đến nhiều vấn đề, viết cho nhiều loại đối tượng, từ quan văn’, quan võ, các bậc đại nho cho đến người bình dân … Ở mỗi loại đối tượng, ông đều có giọng văn thích hợp, biến ứng kỳ tài, sắc sảo.
Khi nói về chiến thắng, về dân tộc, là giọng văn đầy tình ý, sảng khoái, hào hùng : “Đem đội quân vô địch một đánh mười, nhà nhà ngóng đợi; Nổi cơn giận ba thước an định, phụ lão xin lưa” (“Vũ Văn Thỉnh giá tiến hạnh Bắc thành tiêu biểu “).
Ông ca ngợi Quang Trung với niềm sủng ái.”một mảnh nhung y gây dựng Sơn hà”, “ba thước kiếm quét trừ loạn lạc …” (“Tam tấn tôn biểu“); ông biểu dương một nét tính cách của Quang Trung với lòng tự hào, tôn kính .”Quốc vương là người thiên tư hiếu học, tuy trong chinh chiến gấp gấp vẫn không quên bàn bạc đạo lý. Trong nghị luận thường ngày, quốc vương diễn đạt một cách có thứ tự những cái mà sách vở đời trước chưa từng nói, tôi thực nhờ được gần gũi, bơi lội trong kiến thức của quốc vương mà tôi lĩnh hội được“.
Ông viết cho các quan văn vũ triều cũ khi thì với một “lượng cả bao dung”, lúc thì nghiêm nghị, khẩn thiết, chí tình với giọng bề trên để chỉ ra một con đường sống cho đám cựu thần nhà Lê :
“… Các ngươi không vào núi Thú Dương mà muốn làm Di Tề, không ra hải đảo mà muốn làm Điền Hoành, không những cái cơ thành bại hơn thua đã không hiểu rõ, cái lẽ phải trái được mất lại cũng tối tâm. Người trung nghĩa, sáng suốt có thể làm như thế đâu!”.
“… Ôi.’ đem một thân mình chống với cả thiên hạ, thì chẳng thà quy thuận, thê mới gọi là người biết thời cơ, thông quyền biến. Các ngươi nên kịp thời lập nên công nghiệp, bắt chước kẻ sĩ nhà An, tỏ ra nhanh nhẹn, ngỏ hầu có thể giữ được thân danh, hưởng được phú quý, há chẳng hay sao? Nhược bằng mê muội, cuối cùng chuốc lấy tai vạ, hối sao cho kịp? cố lên, gắng lên! Phải kính tuân tờ đặc chiếu này”. (“Hàn các anh hoa ” ).
Trên cơ sở chính sách cầu hiền của Quang Trung, giọng văn của Ngô Thì Nhậm khi thì thuyết phục, lúc luận chiến để thảo ra “Chiếu cầu hiền ” nhằm thiết tha kêu gọi các nhân sĩ ra phục vụ cho vận hội mới. Câu văn rất giàu hình ảnh, có tác dụng đập mạnh vào đối tượng sức một cây gỗ không chống nổi tòa nhà to. Viết cho nông dân thi lời lẽ rất mộc mạc, chân tình để hướng dân chăm nghề gốc .”Từ trải qua loạn lạc đến nay, binh hoa liên miên, lại thêm đói kém, nhân dân lưu tán, ruộng đất bỏ hoang … Hỡi các thần dân, các ngươi phải trông lên để theo đức ý của trầm, về nơi quê quán, chăm sóc ruộng vườn” (” Chiếu khuyến nông “).
3.3.3. Nghệ thuật văn chính luận về ngoại giao.
Các bài văn từ mệnh bang giao lại có một phong cách khác. Người nhận, người đọc các bức “thông điệp” đó là Càn Long và triều đình nhà Thanh, “thánh thiên tử”, “đại hoàng đế”, “thiên triều” … Người gửi là Quang Trung, ông vua dây nghiệp “trừ hung vượt quá nghiệp cầm Hồ”, nhưng về phương diện lịch sử thì là “phiên quốc” của “đại hoàng đế”. Mục đích của các bài văn là “dùng ngòi bút thay giáp binh”, làm tiêu tan ý chí phục thù của Càn Long và triều đinh nhà Thanh. Để đạt mục đích này, thì lời lẽ, thái độ các bức thư rất quan trọng. Nó cần có cả “cương” lẫn “nhu”. Nhưng “nhu” không có nghĩa là tự hạ mình mà là ở chỗ “biết điều”, biết “lẽ phải” của lịch sư*; và “cương” là ở chỗ không bao giờ rời xa nguyên tắc, và một đôi khi, vẫn dưới dạng từ chương hoa lệ, đưa ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc. Và cái tài của Ngô Thì Nhậm ở “trò chơi từ chương” này là làm cho Càn Long thua mà không mất thể diện, không cảm thấy bị hạ nhục, trái lại, vẫn có một cái gì đó làm nhà vua hài lòng. Bởi vì, lúc “thiên triều” cần giữ “thể diện” thì ông đã dùng những lời hết sức nhũn nhặn để giữ “thể diện” cho “thiên triều”. Nhưng khi cần cứng rắn, thì ông cũng rất cứng rắn. Ví dụ trong một bức thư gửi cho nhà Thanh, có đoan viết:
“… Còn như quân lính thì cốt hòa thuận, không cốt đông, cốt tinh nhuệ, không cốt nhiều. Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít. Nếu như chút tình trước đây chưa được bày tỏ, thiên triều không khoan dung cho phần nào, cứ muốn tranh chiến, thế là nước nhỏ không được hết lẽ thờ nước lớn, thì chúng tôi cũng đành phải theo mệnh trời mà thôi”. (“Bang giao hảo thoại” ). ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Rồi bao nhiêu việc khác nữa: nào là bắt sứ Thanh phải vàoThuận Hóa mà phong vương, chứ không phải ở Thăng Long; nào là bắt nhà Thanh bỏ lệ cống người vàng từ đời Lê Thái Tổ; nào là cảm hóa những người gọi là “giặc Tàu Ô” bị quân nhà Thanh đánh đuổi chạy xuống Nam Hải, dung nạp họ để họ về sau tận tình phục vụ Tây Sơn …
Có thể khái quát là phong cách văn chính luận bang giao của Ngô Thì Nhậm là “cứng trong mềm“, “mềm trong cứng“, đáng “kinh thì kinh, đáng quyền thì quyền, khéo ở từ mệnh“. Nói thế cũng có nghĩa là rất linh hoạt, biến ảo, cũng như những nhận định của Trần Lê Sáng và Phạm Thị Tú về văn bang giao của Ngô Thì Nhậm : ” … trong văn của ông như có chất thép, vừa mềm mại, dẻo dai, lại vừa rất sắc bén, lời lẽ khiêm tốn, nhún nhường, giữ được thể diện cho nước lớn, làm cho đối phương tuy tức mà vẫn phải kiên nể và chấp nhận yêu cầu do bài biểu nêu ra … Ngô Thì Nhậm đã tung hoành ngọn bút trong những bức thư bang giao với bút pháp hết sức linh lợi, uyển chuyển nhưng không kém phần cứng cỏi, mạnh mẽ. Có thể nói, chưa bao giờ Ngô Thì Nhậm lại có giọng văn sảng khoái đến như thế, khiên cho văn khống uốn lời mà lời tự đẹp, lý lẽ không gò ép mà tự nhiên có sức thuyết phục“. Đó là những bài được tập hợp trong “Bang giao hảo thoại” -những lời hay trong bang giao – Có lẽ vì thế mà “Bang giao hảo thoại” là những trang đẹp nhất trong lịch sử văn chương ngoại giao Việt Nam cổ xưa. Đó cũng là những áng văn hoa lệ và thâm trầm của từ chương cổ điển, thể hiện tài năng nhiều mặt của Ngô Thi Nhậm.
Ngày nay, đọc ” Biểu trần tình“, ” Biểu cầu hôn“, ” Biểu-đòi bỏ lệ cống người vàng”, ” Biểu đòi đất bảy châu Hưng Hoa“, ” Biểu đòi sứ bộ nhà Thanh vào Phú Xuân tuyên phong“… thì thấy ngọn bút của Ngô Thì Nhậm tung hoành, khinh khoái, nhuần nhuyễn, uyên bác, phép tắc … thật xứng đáng với lời khen của Quang Trung : “Không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được”.
Đặc biệt, khi viết “Biểu trần tình” đề nghị nhà Thanh công nhận chính quyền Quang Trung có cái khó là viết ngay sau khi hơn hai mươi vạn quân Tôn Sĩ Nghị vừa bị đánh cho tan tác, không khí giưã hai nước còn đang căng thẳng; nhưng Ngô Thì Nhậm vẫn tìm được lời văn thoa đáng, kết cấu chặt chẽ : “Được thây đại hoàng đế chịu mệnh trời sáng tỏ, làm vua vạn quốc. Từ khi lên ngôi đến nay đã hơn 50 năm,ơn đức bao la, trong nước ngoài phiên, đâu đâu cũng một chiều hướng phục … thần đâu có dám đem càng châu chấu đá với bánh xe… Thiên triều là một nước đường đường rộng lớn mà còn tranh nhau hem thua với một nước rợ nhỏ, lại muốn theo đuổi vũ lực cho đến cùng, xua dân chúng ra ngoài trận địa để chịu sự thảm độc thì chắc thánh nhân cũng không nỡ lòng nào làm như thế. Nếu vạn nhất còn phải đánh nhau liên miên không dứt, thì lúc ấy thần không còn được lấy nước nhỏ thờ nước lớn nữa, buộc phải nghe theo mệnh trời, không thể biết trước được rồi sẽ ra sao !” (“Bang giao hảo thoại” ).
Trong bài “Vọng ân biểu“, ông viết .-“Thần từ áo vải mà được ban quốc sắc, mỗi tấc đất, mỗi người dân đều là do hoàng đế cho, đâu dám lấy cương này, giới nọ mà nói với bậc chí tôn. Nhưg có điều, ranh giới của đất Nam giao xưa nay vẫn rõ, bia lập chắc chắn, sách trời còn ghi … Nay xét bảy châu này thuộc vùng Hưng Hóa, Tuyên Quang, vậy xin điều tra rõ để đất bảy châu này được quy về lãnh thổ bản quốc”. (“Bang giao hảo thoại“) .
3.3.4. Sơ kết về nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì nhậm.
Qua các bài văn nghị luận về nội trị và ngoai giao, ta thấy văn chính luận của Ngô Thì Nhậm nói chung là loại văn xuôi có nhịp điệu, có đối ngẫu, mang tính ước lệ, qui phạm và dùng nhiều điển cố. Câu văn bóng bẩy giàu hình ảnh. Lời văn hoa mỹ. Giọng văn lúc cương, lúc nhu, cứng trong mềm, mềm trong cứng … Đó là đặc trưng của lối văn chương cung đình mà người viết lẫn người nhận đều có địa vị xã hội cao, gồm các bài biểu, bài chiếu của nhà vua viết cho các quan văn võ hoặc những thư từ ngoại giao vua Quang Trung viết gửi cho vua Càn Long.
Cũng trong nhiều bài biểu khác, chúng ta có thể bắt gặp lối văn mộc mạc, chân thật, cứng cỏi, không tâng bốc dài dòng, đi thẳng vào sự việc và không kém phần cương quyết : “Thần nghe nói : quan nhiều thì lại nhiễu, lưới thưa thì dân giàu … phàm những việc có quan hệ đến gốc của nền chính trị và tính mạng của dân, sai một ly, đi một dặm … Nay dân ở ngoài chốn làng xóm sống gian nan, được nới rộng một phần là được thêm một phần ơn. Mà đạo khoan dân thì thần trộm nghĩ trước hết phải bỏ hết nhãng tạp, bớt phiền nhiễu (“Hàn các anh hoa “) Những lúc cần phải trình bày lý lẽ một cách chặt chẽ để thuyết phục người đọc, Ngô Thì Nhậm hay dùng lối văn có tính luận lý, nêu lên quan hệ mật thiết giữa nguyên nhân và kết quả: “Sở dĩ giáo hoa không thi hành được là do kẻ sĩ không học, kẻ sĩ không học là vì thầy giảng không tinh. Luật pháp không lập ra được vì người ta không chấp hành; người ta không chấp hành là do thưởng phạt không công bằng. Nền chính trị tốt không dựng lên được là do quan lại không liêm khiết; quan lại không liêm khiết là do bổng lộc khống được cung cấp đủ”. (“Hàn các anh hoa ” ).
Tất nhiên, lập luận nhân quả của ông không phải đều đã khoa học, có khi nhân không trúng quả và có bài ông dùng quá nhiều cách suy lý này. Song, ông đã biết vận dụng nhiều cách trình bày, nhiều lối nói khác nhau trong thể văn tấu nghị, rõ rệt hơn cả là trong những bài ông viết thay cho người khác. Viết hộ ông quan đã có tuổi, ông dùng lối văn trang nhã, thành thật, sự việc kể tỉ mỉ, lợi hại tính rò ràng; viết hộ ông quan trẻ, ông dùng lời văn mạnh, khí văn thẳng, sự việc trình bày tổng quát nhưng có những đề nghị khá mạnh dạn.
Nhìn chung,văn xuôi chữ Hán của Ngô Thì Nhậm đã đánh dấu một bước phát triển của văn xuôi cách đây gần hai thế kỷ. Mặc dù có khó khăn về mặt văn tự, ông đã tìm mọi cách khắc phục để trình bày rất đạt nhiều vấn đề hóc búa, nhiều tình cảm phức tạp với nghệ thuật cổ kín nhưng vẫn có tính sáng tạo. Văn chính luận của ông trong sáng, lưu loát, hùng biện, nghệ thuật già dặn. Đương thời, chỉ có ông là sánh kịp Nguyễn Trãi về mặt này. Ông quen sử dụng lối văn xuôi cổ, sáng sủa, đúng mực, nghiêm túc. Văn ông ít vui, nhiều lý trí hơn tình cảm, nhưng tự tin, thành thực, không có giọng tự đắc, ngông nghênh.
II. Phần kết luận. ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Có thể nói, thời đại lịch sử hào hùng mà bi thương của dân tộc tuy đã lùi vào quá khứ, nhưng sừng sững ở chân trời lịch sử ấy là những con người bình thường mà vĩ đại. Dân tộc Việt Nam luôn luôn ghi nhớ những cống hiến quý báu của những người con xứng đáng của mình. Thời đại của thế kỷ XVIII, thế kỷ của khởi nghĩa Tây Sơn là con người “áo vải cờ đào” Quang Trung. Bên cạnh Quang Trung là Ngô Thì Nhậm, một người con bất hủ của văn học và văn hóa Việt Nam. Tên tuổi của Ngô Thì Nhậm luôn luôn gắn bó trong lòng nhân dân ta, đi đôi với tên tuổi rạng rỡ của Quang Trung – Nguyễn Huệ, người lãnh tụ vĩ đại của ông, cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam tiến bộ thời ông.
Thật vậy, Ngô Thì Nhậm là một nhân vật có tầm cỡ trong lịch sử văn hóa và văn học Việt Nam. Ông là một con người văn võ song toàn. Và nếu nói như có lần thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói về Nguyễn Trãi rằng: “Văn là chính trị: là cứu nước, cứu dân, là nội trị, ngoại giao …. võ là quân sự: là chiến lược và chiến thuật văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao thì Ngô Thì Nhậm đã dùng văn và võ của mình như một vũ khí để góp vào công cuộc giữ nước và dựng nước một cách đắc lực dưới thời Tây Sơn. Rồi cùng giống như Nguyễn Trãi và kế tục truyền thống yêu nước của Nguyễn Trãi , Ngô Thì Nhậm vừa là một nhà văn hoa, vừa là một nhà văn. Với cương vị một nhà văn, Ngô Thì Nhậm đã công hiến nhiều thể loại văn học đặc trưng cho thời đại mình. Ông vừa là người thư ký, vừa là một nhân chứng trung thành của thời đại Quang Trung chiến thắng. Ông đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam, trước hết là trong văn học giai đoạn thế kỷ XVIII, thế kỷ mà “sự phát triển nhảy vọt” của nó “là một bộ phận của sự phục hưng văn hóa vĩ đại lúc bây giờ” ( Đinh Gia Khánh ). “Ngô Thì Nhậm là một trí thức mới của thời đại, người mà trên một số diện nào đó giống như người trí thức thời Phục hưng mà Ăng – ghen xác định:
“Thời đại cần đến những người khổng lồ, và đã đẻ ra được những người khổng lồ, khổng lồ về tư tưởng, về nhiệt tình và về tính cách, khổng lồ về tài năng mọi mặt và về sự hiểu biết sâu rộng của họ … Những điểm nổi bật nhất ở họ là hầu hết các nhân vật ấy đều lao mình vào phong trào của thời đại họ, đều luôn luôn tham gia những cuộc đấu tranh thực tiễn, có lập trường rõ rệt, và tiến hành cuộc chiến đấu, kẻ thì bằng lời nói văn tự, người thì bằng đao kiếm và thường thường là đồng thời bằng cả hai thứ”.
Nhìn chung, sự phát triển nhảy vọt của văn học nửa cuối thế kỷ XVIII là một bộ phận của sự phục hưng văn hóa lúc bấy giờ… Tiêu biểu nhất cho giai đoạn văn học này là Ngô Thì Nhậm. Sáng tác văn học cùng như trước tác học thuật của ông phản ánh những nguyện vọng cơ bản của dân tộc, của nhân dân và thể hiện niềm tin tưởng sâu sắc ở vận mệnh của tổ quốc. Mặc dù còn bị hạn chế bởi “ý thức hệ phong kiến”, chúng ta vẫn có thể xem Ngô Thì Nhậm là “con người khổng lổ” của thời đại. Thật vậy, Ngô Thi Nhậm là người có tài năng lớn về nhiều mặt. Hẳn là tài và đức của ông phải nổi tiếng đến một mức cao như thế nào đó, mới khiến được cho Quang Trung, một lãnh tụ thiên tài, lẫn đầu tiên gặp ông, đã phát biểu: “Có lẽ đó là ý trời muốn để dành ngươi cho ta dùng. Bên cạnh các khả năng lớn về chính trị và quân sự, Ngô Thì Nhậm còn là một cây bút trước tác nhiều nhất trong thời đại của ông. Ông sáng tác từ nhỏ cho đến chết, không lúc nào ngừng. Và sáng tác rất nhiều thể loại: thơ, phú, văn tế… Văn xuôi của Ngô Thì Nhậm, với các. loại nghiên cứu địa lý, lịch sử, phê bình, bình luận chính trị, xã hội, văn từ hành chính, thư từ bang giao,… hết sức phong phú và uyên bác, đến nay còn giúp ích cho chúng ta nhiều tài liệu rất quý đê tìm hiểu và đánh giá các mặt kinh tế, văn hóa, triết học, ngoại giao của thời Lê mạt và Tây Sơn.
Về văn chính luận, Ngô Thì Nhậm thật xứng đáng là một người thừa kế thiên tài của Nguyễn Trãi. Trong công cuộc bang giao với nhà Thanh dưới triều Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm tỏ ra là người hiểu rất rõ tâm lý đối phương và có những cách đối ứng rất phù hợp, sáng suốt: khiêm nhường đánh lui lòng tự ái của Càn Long, xóa bỏ tận gốc ý muốn trả thù rửa hận của ông ta, tiến tới làm cho ông ta ngày càng thêm khâm phục và yêu quý vua Quang Trung, trên cơ sở đó, củng cố chủ quyền dân tộc của ta, giữ vững hoa hiếu hai nước.
Thành công lớn của Ngô Thì Nhậm trong giai đoạn bang giao rực rỡ nhất của nước ta từ thời Tây Sơn trở về trước này không phải là của riêng ông, nhưng trong đó, con người “từng trải việc đời“, “hiểu thông kinh truyện“;và văn chương già dặn của ông, đã đóng góp một phân không nhỏ. Ong đã được vua Quang Trung tin dùng và giao cho trọng trách là “dùng ngòi bút thay giáp binh” để lo việc hoa hiếu với nhà Thanh sau này, nhằm tránh hoa binh đao cho nhân dân. Và với “dòng dõi văn học Bắc hà, thông thạo việc đời”, với “tài học không ở dưới người”, Ngô Thì Nhậm xứng đáng là một nhà chính luận thiên tài. Văn chính luận của Ngô Thì Nhậm đã góp một phần rất lớn vào công cuộc nội trị, ngoáo giao dưới thời Tây Sơn. Nhất là trong lĩnh vực ngoại giao, nó đã ghi vào lịch sử ngoại giao Việt Nam những trang đẹp nhất, hào hùng nhất, xứng đáng là những văn kiện ngoại giao vô cùng quý báu trong kho tàng văn học nước nhà.
Trong bối cảnh lịch sử nước ta cuối thế kỷ thứ XVIII, một bối cảnh vô cùng rối ren, phức tạp, lòng người chao đảo, không dễ gì tìm được cho mình một hướng đi, người trí thức yêu nước chân chính Ngô Thì Nhậm đã vượt qua tất cả mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến cổ hủ, thực hiện lý tưởng phục vụ cho dân, cho nước. Sự nghiệp chính trị, quân sự và những cống hiến văn học quý báu của ông thật xứng đáng để con cháu muôn đời ghi nhớ và tự hào. Ông xứng đáng là một trong những “ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam, làm vẻ vang cho giống nòi”, như lời tổng bí thư Trường Chinh đã nói. ( Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm )
Mời bạn tham khảo thêm:
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn: Nghệ thuật văn chính luận của Ngô Thì Nhậm […]