Trong suốt cuộc đời làm quan của mình, dù là dưới triều đình Lê – Trịnh hay hay với Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm luôn luôn khao khát đem tài đức ra để thực hiện lý tưởng ” loạn diệc tiến, trị diệc tiến” đây cũng là lý do tác giả lấy Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn làm bài Luận văn cao học của mình. Và từ khi ra làm quan với chúa Trịnh, Ngô Thì Nhậm luôn luôn nghĩ cách làm cho dân đỡ khổ, đưa nước nhà ra khỏi tình trạng bê bối trước mắt. Ngô Thì Nhậm là một nhà nho, một trí thức trong xã hội cũ. Trong xã hội phong kiến, Nho giáo vừa đóng vai trò thống trị trong thượng tầng kiến trúc, vừa là phương tiện duy nhất để các nhà trí thức vận dụng trong sự suy nghĩ của mình. Cho nên các bạn có thể tham khảo Luận văn Thạc sĩ: VĂN CHÍNH LUẬN CỦA NGÔ THÌ NHẬM, dưới đây.
Nội dung chính
2.1. Khái niệm về văn chính luận.
Trong lịch sử văn học từ ngàn xưa đến nay, sáng tác văn chương bao giờ cũng rất đa dạng, diện mạo văn chương bao giờ cũng rất phong phú : thơ, phú, văn hùng biện, sử thi… Ớ đây, ta chỉ nói về văn chính luận.
Vậy văn chính luận là gì?
Nếu thơ là loại sáng tác thường thiên về việc thể hiện tâm tư, tinh cảm cảm xúc của người viết, tức nhân vật trữ tinh, trước một vấn đề nào đó, và thường phát triển trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, thi văn chính luận là loại văn chương thường bàn đến những vấn đề chính trị, xà hội có tầm quốc gia, thường đề cập đến những vấn đề lớn của đất nước, nên thường phát triển mạnh trong những thời kỳ mà vấn đề dân tộc nổi lên hàng đầu của hiện thực lịch sử. Trong văn chính luận, tính chất và cảm hứng dân tộc là nổi bật nhất. Tuy nhiên, phần lớn những vấn đề chính trị, xã hội thường gắn với nhà nước phong kiến và do những tác gia phong kiến biện luận. Cho nên khi có sự thống nhất giữa tác gia -nhà nước – dân tộc, thường là trong thời thịnh của chế độ phong kiến, thì văn chính luận mới dễ có khả năng phong phú và hào hùng. Khi không còn sự thống nhất đó, thường là trong thời suy vi của chế độ phong kiến, khi nhà nước phong kiến đã đi ngược lại quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, trái với lương tri và trí tuệ, thì văn chính luận thường không có giá trị cao. Đó là lý do cắt nghĩa tại sao, sau Nguyễn Trãi mấy thế kỷ, mãi đến khi phong trào Tây Sơn tiến lên giải quyết những vấn đề dân tộc, văn chính luận mới lại hưng thịnh. Trong số những tác phẩm chính luận còn lại, không ít là những văn kiện do cá nhân viết cho những người đứng đầu nhà nước hoặc tổ chức tiền thân của nhà nước. Những tác phẩm ấy phải được quan niệm một cách rộng rãi đến mức như của ” tập thể”. Song, đồng thời, lại không quên yếu tố cá nhân, đặc biệt là về phong cách và bút pháp.
Với quan niệm ” văn, sử bất phân”, mỹ học phương Đông rất coi trọng loại văn ” từ mệnh”. Khi Nguyễn Trãi bắt đầu bước vào ” trường văn bút trận” thì dòng văn này đà đạt được những thành tựu vững chắc đầu tiên. Từ ” Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn nêu cao hoài bão và quyết tâm xây dựng một nền văn trị, vũ công rạng rỡ, nhằm ” mưu toan việc lớn, tính kế lâu dài cho muôn đời con cháu đời sau”; Lý Thường Kiệt với bài thơ ” Nam quốc sơn hà” và ” Lộ bố văn”, nêu cao tính chát thiêng liêng, bất khả xâm phạm của cương giới Đại Việt; Trần Quốc Tuấn trong ” Hịch tướng sĩ”, cổ vũ lòng kiên trung và hành động xả thân thủ nghĩa để bảo vệ tôn miếu xả tắc nước Việt; ” Thất trảm sớ” của Chu An đã đặt ra và giải quyết đúng những vấn đề trọng đại của đất nước. Người xưa có câu: ” Chính giả, chính dã” (tức làm chính trị là làm theo chính nghĩa). Nói đến chính trị mà muốn thuyết phục người ta thì phải có mục đích quang minh, lý lẽ thẳng thắn. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nêu cao chính nghĩa. Như thế thì lời nói dễ đường hoàng, thông suốt, khí văn dễ trở nên hào hùng, mạnh mẽ. Văn chính luận, như đã nói, thường đề cập đến những vấn đề trọng đại của dân tộc nên dễ có điều kiện hay, miễn là tác giả đứng về phía quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, và có cảm xúc chân thành, sâu sắc. Tất nhiên, trau chuốt lời văn cũng rất cần thiết, nhưng đó chỉ là việc phụ. ( Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn )
Văn chính luận đã có truyền thống vững chắc trước Nguyễn Trãi. Cả một dòng văn học viết phong phú từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XV đã có không ít tác phẩm trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho những mục đích chính trị xã hội, chiến đấu cho nhưng lý tưởng cao đẹp của dân tộc. Đồng thời, cùng với sự phát triển của văn học, đã hình thành những quan niệm văn học. Song, nhìn chung, văn học Lý – Trần, nếu có phục vụ cho những mục đích chính trị, xã hội thì chủ yếu là do tác dụng khách quan của tác phẩm nhiều hơn là do ý thức tự giác của bản thân người viết. Đặc biệt, với những tác phẩm tiêu biểu của bộ phận văn chính luận, thì khó có thể nói những tác giả của nó, khi viết, đã có ý thức sử dụng ngòi bút như một vũ khí chiến đấu, mặc dù đó là những tác phẩm có ý nghĩa chính trị, xã hội và giá trị thẩm mỹ rất cao.
Đến thời đại Nguyễn Trãi thì khác. Tiếp thu những quan niệm văn học tiến bộ thời trước, trực tiếp sống và chiến đấu trong cuộc chiến tranh cứu nước lâu dài và gian khổ, vận dụng một cách sáng tạo quan niệm ” văn chở đạo”…, thế hệ Nguyễn Trãi đã thể hiện một tinh thần tự giác về nhiệm vụ, khả năng, tác dụng của văn chương, trước hết là văn chính luận. Cũng từ Nguyễn Trãi mới hoàn chỉnh loại hình ” nhà văn – chiến sĩ” với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Kế tục truyền thống văn học các thế hệ trước, Nguyễn Trãi đã đưa dòng văn học chính luận yêu nước bằng chữ Hán phát triển lên một đỉnh cao mới. Sự tiến bộ đó không phải chỉ ở nghệ thuật hùng biện, ” từ nghiêm, nghĩa chính” (lời lẽ nghiêm túc, đạo lý chính nghĩa), lập luận chặt chẽ, mà chủ yếu là ở chỗ đã biểu đạt được, với một tinh thần tự hào cao độ, với một ý thức tự giác sáng rõ, nhận thức toàn diện và sâu sắc về thể thống và phẩm giá cua một quốc gia Đại Việt độc lập và tự chủ. ” Quân trung từ mệnh tập” của ông đã phản ánh ý thức chính trị cao của nhân dân ta, là một tác phẩm chính luận kiệt xuất, ” có sức mạnh như mười vạn quân”( Phan Huy Chú), từng đợt tiến công mãnh liệt vào kẻ thù. “Bình Ngô đại cáo” cháy bỏng khát vọng chiến đấu cho độc lập dân tộc bừng dậy hùng khí của những năm “đoạt sáo, cầm Hồ”, trào dâng khí thế chiến đấu và chiến thắng của những tháng năm “Bình Ngô phục quốc” … Đó là những bản anh hùng ca của thời đại. Sau Nguyễn Trãi, đã khép lại thời kỳ huy hoàng, rực rỡ của văn chính luận. Mãi đến thời đại Tây Sơn, văn chính luận mới được khôi phục lại.
Có thể bạn quan tâm:
2.2. Văn chính luận thời Tây Sơn.
Trong văn học chừ Hán giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, văn xuôi chính luận cũng có ý nghĩa và có bước phát triển. Văn chính luận thời kỳ này có tính chất ngoại giao, như những thư từ giao dịch với nhà Thanh dưới triều đại Tây Sơn.
2.2.1. Văn chính luận với công việc ngoại giao dưới triều Tây Sơn. ( Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn )
Dưới thời Tây Sơn, sau khi chiến thắng quân Thanh, công việc giao dịch với triều đình phong kiến phương Bắc trở thành một cộng tác đối ngoại hết sức quan trọng và phức tạp. Nguyễn Huệ, một mặt phải tỏ cho triều đình nhà Thanh thấy được lòng tự hào dân tộc và sức mạnh bất khả chiến thắng của một dân tộc chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ những quyền lợi sống còn của mình. Mặt khác, lại phải giữ quan hệ tốt với một nước láng giềng lớn vừa thua trận để bảo đảm cho công cuộc xây dựng đất nước. Cho nên, xuất phát điểm để văn chính luận thời kỳ này phát triển mạnh chính là mũi nhọn phải thiết lập mối bang giao tốt với một nước thiên triều, để vừa giữ độc lập cho mình, vừa giữ thể diện cho “thiên triều” . Muốn làm được việc đó, cần phải khôn khéo dùng lời lẽ thay giáp binh, biến vũ lực quân sự thành ngày hội xiêm áo. Người có thể đứng ra đảm trách công việc đó không ai khác hơn là Ngô Thì Nhậm, đúng như lời Quang Trung nhận xét : ” … không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được”. Cho nên, nhưng văn kiện ngoại giao dưới thời Tây Sơn đều do Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích khởi thảo – chủ yếu là do Ngô Thì Nhậm . Đó là những bài văn chính luận mềm dẻo và sắc sảo, kết cấu chặt chẽ, kế tục được truyền thống văn ngoại giao, văn chính luận của Nguyễn Trãi.
Chiến thắng vang dội của phong trào Tây Sơn đã thổi vào văn học Tây Sơn luồng gió mát của tinh thần lạc quan và niềm tự hào dân tộc. Đó là diện mạo tinh thần của văn học thời đại này, là kết tinh của hoạt động thực tiễn đối nội và đôi ngoại hét sức phong phú trong những năm tồn tại ngắn ngủi của triều đại này. Thực ra, để có được những giọt thúy ngân tinh khiết ấy, phong trào nông dân khởi nghĩa Tây Sơn và sau đó là triều đại Tây Sơn đã phải đấu tranh một cách khôn khéo và quyết liệt với biết bao những thế lực thù địch ngăn cản bước tiến của nó. Trong văn học Tây Sơn, thơ ca không nêu được những vấn đề này. Nhưng văn chính luận có tính chất nhà nước – như các bài chiếu, chế, dụ, biểu, hịch – thi lại thể hiện rất rõ. Văn chính luận là một thành tựu xuất sắc của văn học Tây Sơn. Qua khảo sát, chúng tồi thấy điều này có những lý do sau:
Trước hết, triều đại Tây Sơn hình thành từ một phong trào nông dân khởi nghĩa. Những lãnh tụ của phong trào này tự xứng là những người áo vải, không có tấc đất cắm dùi. Trước sự thối nát, bất công của tập đoàn phong kiến thống trị Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài, họ không chịu đựng được, đã đứng dậy lãnh đạo nông dân chống lại. Việc làm của anh em nhà Tây Sơn được đông đảo quần chúng nhân dân thời bấy giờ ủng hộ. Đứng trên quan điểm sự vận động của lịch sử, chắc chắn ai cùng thừa nhận cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là một tất yếu . Nhưng đối với tuyệt đại đa số tầng lớp trí thức phong kiến đương thời, đối với những người trong bộ máy chính quyền của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, cũng như chính quyền của vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, thì sự thật ấy không dễ thuyết phục. Không phải ai cũng như Ngô Thi Nhậm nhanh chóng từ bỏ quá khứ để đứng vào hàng ngũ của người anh hùng áo vải. Trong thực tế có biết bao nhiêu người đã chạy theo Lê Chiêu Thống, đã chết vì Lê Chiêu Thống, mặc dù đương thời, người ta không phải không thấy Lê Chiêu Thống là một ông vua hèn nhát.
Nói cho đúng, trong số những kẻ gắn bó với triều đại cũ để chống Tây Sơn, có những kẻ vì quyền lợi ích kỷ của cá nhân hay của giai cấp họ, nhưng cũng có nhiều người chống Tây Sơn chỉ vì mù quáng tin theo một giáo điều cổ hủ, chỉ vì một bài học vỡ lòng về chữ trung, chữ hiếu phong kiến. Cô nhiên, đối với loại người này cần phải thức tỉnh, giác ngộ, động viên họ, đem đến cho họ một cách nhìn mới, thậm chí, một quan niệm mới. Người trung thần không thờ hai chúa là khi chúa biết yêu dân yêu nước, là khi chúa tốt; chứ khi chúa không còn ra chúa nữa thì không có lý gì phải thờ họ cả. Dường như mãi đến thời nhà Nguyễn, Nguyễn Du mới thấm thìa điều đó khi ông viết về Phạm Tăng : ” Đa hữu nhát tâm trung sở sự, Môi vì thiên hạ tiêu kỳ ngu” (” A phu mộ”) ( Bao nhiêu kẻ quá trung thành với người mình thờ, thường bị thiên hạ cười là ngu).
Chứ còn ngay dưới thời Tây Sơn, ông đâu phải đã nhận thấy được như vậy! Hơn nữa, phong trào Tây Sơn khi lật đổ các triều đại phong kiến thối nát, xây dựng một nhà nước mới, cần có nhiều người hiền tài giúp mình. số người này không thể tìm đâu khác ngoài đám quan lại của triều cũ. cố nhiên là phải tuyển chọn. Nhưng muốn tuyển chọn, trước hết cũng phải thức tỉnh, phải làm cho họ ý thức được chân lý, chính nghĩa thuộc về nhà Tây Sơn. Có như thế họ mới có thể giúp Tây Sơn một cách đắc lực. Triều đại Tây Sơn thay thế triều Lê tồn tại hàng 300 năm, không đơn giản là sự thay thế của một dòng họ này cho một dòng họ khác đã mất vai trò. Triều Tây Sơn cũng không phải ra đời do kết quả của cuộc chiến đấu chống ngoại xâm như phong trào của Lê Lợi, mà ra đời từ một phong trào nông dân khởi nghĩa tiến lên lật đổ triều đại phong kiến thống trị đương thời. về phương diện này, có thể nói phong trào Tây Sơn có tính cách một cuộc cách mạng bằng vũ lực mà những người lãnh đạo nó lại là những người thuộc tầng lớp dưới, chứ không phải thuộc tầng lớp danh vọng trong xã hội. Chính đặc điểm này làm cho chân lý của nhà Tây Sơn khó đến được với tầng lớp trí thức đương thời. Vì vậy, đối với phong trào Tây Sơn, cũng như sau này đối với triều đình Tây Sơn, vấn đề tuyên dương chính nghĩa là một nhu cầu cấp bách. Không thể cùng một lúc giải quyết tất cả mọi việc, nhưng một khi chính nghĩa đã thuyết phục được đông đảo quần chúng, nó có khả năng tạo ra tiền đề, tạo ra sức mạnh để giải quyết. Vua Quang Trung là người ý thức được diều đó, nên trước khi làm một công việc gì, nhà vua thường có chiếu; có dụ, có hịch để giải thích rõ ràng hành động của mình. Bài “Hịch Tây Sơn” ra đời khi quân đội Nguyễn Huệ chuẩn bị kéo ra Bắc tiêu diệt tập đoàn phong kiến phản động của chúa Trịnh có mục đích như thế. Mở đầu bài hịch, Nguyễn Huệ khẳng định cái chân lý phổ biến trong xã hội phong kiên : “Sinh dân phải nuôi dân làm trước. Vậy hoàng thiên dựng đấng quốc sư. Gặp loạn đánh dẹp loạn mới xong, ấy vương giả có phen binh cách” -Gặp loạn phải dẹp loạn ! Nguyễn Huệ nói rõ chính ông không muốn chuyện binh đao, nhưng làm sao được khi đất nước lâm vào một tình thế nước sôi lửa bỏng : “Giận quốc phó ra lòng bội thượng, Nên Tây Sơn xướng nghĩa cần Vương – Trước là ngăn cội đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngáp nghé – Sau là tưới mưa dầm khi hạn, Kẻo cùng dân sa chốn lầm than”. ( Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn )
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ vì mục đích cao cả chứ không phải vì tham vọng của một cá nhân nào. Cho nên khi ”Nam một giải tăm kình phang lặng”, những người thủ lĩnh của phong trào không thể không nghĩ đến Đàng Ngoài. Đợi đến bao giờ mới có thái bình cho dân chúng trong khi nội bộ của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài thối nát như vậy?
“Gươm ngược cán còn đem xuống dưới, Nghĩa lý nào trời đất còn dong.
Lưới đứt giềng, quân đuổi được quan, Chính sự ấy xưa nay cũng lạ “.
Và không cách nào khác là quân đội Tây Sơn phải kéo ra Bắc tiêu diệt chúa Trịnh, đem lại cuộc sống yên lành cho dân chúng .”Sang sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sử chính dẹp tà – Vào đất Quan hét ngựa Hán Hoàng, quyết chí lấy nhân trừ bạo”.
Kể ra, đề cao khẩu hiệu tiêu diệt chúa Trịnh, trả quyền lại cho vua Lê, cái danh nghĩa ấy đối với đương thời có thể thu phục nhân tâm. Trong “Hoàng Lê nhất thống chí” , Nguyễn Hữu Chỉnh đã nói với Nguyễn Huệ : “Nước tôi có vua lại có chúa, đó là một việc hết sức trái ngược xưa nay. Chúa Trịnh tiếng rằng phò Lê, thực ra chỉ là ăn hiếp thiên tử. Người trong nước vốn không phục. Trước đây, các bậc anh hùng mỗi khi nổi dậy chưa từng có ai không lấy danh nghĩa là phù Lê … Nếu ngài lấy cớ ” diệt Trịnh phò Lể” mà kéo quân ra, thiên hạ không ai là không hưởng ứng”. Nhưng về sau, khi Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh để chúng đem quân xâm lược nước ta thì phong trào Tây Sơn không có cách nào khác là phải lật đổ nó, lập ra một triều đại mới để tập hợp quần chúng chống ngoại xâm. Nhưng như thế, tinh hình sẽ phức tạp hơn nhiều, phong trào Tây Sơn sẽ gặp nhiều sự chống đối quyết liệt. Chắc chắn những phần tử phản động sẽ nhân cơ hội đó dựng cờ phù Lê chống Tây Sơn, thậm chí, nhiều người tốt cùng có thể nghi ngờ tính chất chính nghĩa của nhà Tây Sơn.
Đấy là nói chung. Riêng nội bộ phong trào Tây Sơn cũng có những cái phức tạp. Mặc dù Nguyễn Huệ là người lỗi lạc, có nhiều cống hiến xuất sắc, nhưng về danh nghĩa xưa nay? người cầm đầu phong trào vẫn là Nguyễn Nhạc. Bây giờ tự nhiên Nguyễn Huệ tuyên bố lên ngôi sẽ không tránh khỏi những dị nghị trong dư luận. Cuộc đấu tranh tư tưởng ở đây đòi hỏi sự trung thực lẫn sự khéo léo. Bài “Chiếu lên ngôi” của Quang Trung ra đời là một tuyên ngôn nhằm khẳng định vị trí của mình, đồng thời, cũng nhằm giải quyết vấn đề tư tưởng ấy. Vua Quang Trung nhấn mạnh, việc thay đổi triều đại trong lịch sử không có gì trái với đạo trời, mà chính là để làm tốt đạo trời. Qua thực tiễn lịch sử nước ta, việc thay đổi các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần chứng tỏ “thánh nhân đây lên không phải một họ”. Nhà vua nói rõ, ông tham gia phong trào là vì phẫn nộ trước những thối nát của triều đại phong kiến lúc bấy giờ, mong muốn có một trật tự xã hội tốt đẹp để cho dân chúng yên ổn, “rơi sau đó trả nước cho họ Lê, trả đất về đại huynh, trầm sẽ dùng xiêm thêu kia đỏ ngao du hai miền để làm vui mà thôi”. Nhưng lịch sử không dừng ở đó. Vua Lê thì bất lực, Nguyễn Nhạc thì mệt mỏi, chỉ muốn giữ một phủ Qui Nhơn, nguyện vọng của nhân dân là mong Nguyễn Huệ đứng ra gánh vác công việc, nhà vua dù muốn từ chối cũng không từ chòi được:
“Này xem khí thần rất hệ trọng, ngôi trời thật khó khăn. Trẫm chỉ lo không kham nổi. Nhiừig ức triệu người trong bốn bể đều xúm quanh cả vào một tràm, đó là ý trời đã định, không phải do người làm ra. Trẫm nay ứng mệnh trời, thuận lòng người, không thể khăng khăng cố giữ sự khiêm nhường ( Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn )
…”(” Hàn các anh hoa”). Nguyễn Huệ lên ngôi. Với tư cách một vị hoàng đế, nhà vua tuyên dương “nhân nghĩa trung chỉnh”, quyết tâm “lấy giáo hoa trị thiên hạ”. Nhà vua tin tưởng con đường mình đi là con đường chí thuận, sẽ vãn hồi được thịnh trị, kéo dài được phúc lành cho tông miếu xã tắc, sẽ “dẫn dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cỗi đài xuân”. Bài chiếu lời lẽ hùng hồn, lập luận chặt chẽ, thể hiện được tấm lòng của một nhà vua áo vải, quyết tâm xây dựng lại giang sơn đất nước.
Một lẽ khác, đâu phải lên ngôi hoàng đế là mọi việc răm rắp xuôi chiều. Công cuộc xây dựng lại đất nước đòi hỏi xã hội phải ổn định, lòng người phải quy về một mối, trong khi thực trạng của đất nước còn hết sức ngổn ngang bề bộn. Nạn xâm lược bị tiêu diệt, nhưng nguy cơ tái xâm lược còn đe doa. Trong nước thì đám cựu thần Lê – Trịnh nhiều người tìm cách chống đối. Những kẻ hiền tài chưa chịu ra cộng tác. Rồi còn bao nhiêu công việc khác phải làm, như chấn chỉnh nghề làm ruộng, khuyến khích việc buôn bán, chú ý việc học hành thi cử, xây dựng lại đời sống văn hoa, đôi phó với lực lượng Tàu o ngoài biển … Cuộc đấu tranh để xây dựng đất nước dưới thời Tây Sơn được thể hiện ở hàng loạt bài chiếu, dụ, biểu của các vua Quang Trung, Quang Toan. Trong cuộc đấu tranh này, gay gắt nhất là cuộc đấu tranh với đám cựu thần của triều Lê – Trịnh. Nhà vua thấy rõ cần phải đập tan ý chí chống đối của đám quan lại này. Nhưng đối với những người có thể tranh thủ được, thì cố gắng tranh thủ, lôi kéo họ vào bộ máy chính quyền của mình, bởi vì trong số họ, nhiều người có năng lực, có kiến thức, có thê làm tốt nhiều việc nếu họ thành tâm phục vụ triều đại mới. Thái độ của nhà vua vừa cứng rắn, lại vừa bao dung, không cứng rắn, không khẳng định uy thế vững vàng của triều đại mới, có thể họ sẽ cho rằng triều đại Quang Trung còn lung lạc được, do đó ngấm ngầm kích thích sự chống đối của họ. Nhưng không bao dung thì có nghĩa là dồn họ đến chân tường, họ sẽ chống trả quyết liệt. Hai thái độ khác nhau mà hậu quả sẽ là một, đều bất lợi cho triều đại mới. Trong bài “Dụ cựu triều văn võ chiếu”, vua Quang Trung vạch trần sự thật tệ hại của đám quan lại triều đình Lê – Trịnh, và đả kích gay gắt hành động chống đối phản bội của họ :
“Lũ ngươi bắt đầu thì kéo về hàng, sau thì cùng lòng dong ruỗi, sau cùng lại trở mặt làm kẻ thù địch, phản phúc không thường, thật là đáng ghét…
Các ngươi không lên núi Thú Dương mà muốn làm Di Tề, không ra ngoài hải đảo mà muốn làm Điền Hoành, không những không rõ cái cơ thành bại được thua, mà củng không hiểu cái lý phải trái đắc thất. Đó không phải là việc làm của người trung nghĩa sáng suốt đâu”. Vua Quang Trung nói thẳng,-đối với những việc làm của họ có thể “khép vào tội bất thần, tịch biên gia sản, giết chết không tha để tỏ phép nước”, nhưng nhà vua không muốn là vì lòng nhân đạo, “ổ rằng có hại đến đức hiếu sinh”, và cũng vì mong mỏi họ tỉnh ngộ, sửa chửa lỗi lầm, để trở thành người có ích. Vua Quang Trung tuyên bố xá tội cho tất cả. “Những người bị cầm tù đều nhất loạt phóng thích, những người trốn tránh đều không nã tầm”. Kết thúc bài văn, lời lẽ vẫn hùng hồn, nhưng thêm phần tha thiết, nhà vua kêu gọi : “Này đây khắp thiên hạ đều quy phục về tràm rồi, ngay đến cả một số người trước kia thắc mắc cũng đã quy phục. Đó là những người biết theo cơ hội, gặp thời làm nên công nghiệp, bắt chước con cháu nhà An tề tựu nhanh nhẹn đến giúp việc tế tự nhà Chu, ngõ hầu giữ được thân gia, cùng hưởng phú quý. Vậy thì chả tốt đẹp lắm ru !”… Cố nhiên, nhà vua cũng không quên cảnh cáo trước “Nếu ngoan cố mê muội sẽ đưa đến sự không lành, cắn rốn hối lại củng không kịp nữa”.
Trong “Dụ cựu triều văn võ chiếu”, đối tượng thuyết phục là quan lại, nghĩa là những người trí thức phong kiến, nên tác giả lấy nhiều điển cố trong sử sách, lấy nhiều gương của người xưa để cho người nay đối chiếu suy nghĩ để soi sáng công việc và thái độ của họ. Nhưng đôi với đám giặc Tàu o ngoài biên, mà thực chất là những người dân nghèo khổ, bị áp bức không còn đất sống phải nổi lên làm giặc thì thái độ và cách thuyết phục của nhà vua có khác. Trong “Dụ 0 Tàu chiếu”, vua Quang Trung không công kích họ, mà cố gắng thông cảm nguyên nhân nào đã xô đẩy họ đến bước đường cùng và động viên khích lệ họ. Ngay những câu mở đầu của bài dụ, thái độ của nhà vua đã thể hiện rất rõ:
“Trẫm nghe cổ ngữ có nói “gió mạnh chỉ trong một buổi sáng, mưa to không bao giờ suốt cả ngày”. Đó là đạo trời vậy. Cho nên người con trai tốt không hề suốt đời làm ác ở đây, tác giả đã mượn một chân lý của tự nhiên để nói lên một chân lý của xã hội : “Người tốt không thể suối đời làm ác”, để rồi từ đó tác giả đi đến kết luận ” việc cướp bóc, chống đôi chẳng qua chỉ là do hoàn cảnh, hoặc vì đói rét thiết thân, hoặc vì bạo ngược bức bách, mới đến nôi m((Mg thân nơi sóng gió, không có lối thoát ra …”. Và như thế, cố nhiên, một khi hoàn cảnh thay đổi, thì con người, nhất là những người có lương tri, lương năng không lý gì còn sống theo lối cũ. Vua Quang Trung vạch cho họ thấy dùng sức mạnh để tiêu diệt họ không khó. Nhưng nhà vua không muốn như vậy mà muốn họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội.
“Nay ban chiếu cho lũ ngươi nên cùng nhau hiểu bảo, kịp sớm đầu hàng, trầm lấy lưmg khoan dung, tuy tài lực dụng, khi có điều khiến đi đâu, nên theo lệnh dong mỗi, gặp hội công danh chớ có chậm chạp. Nêu cái chí khí vượt sóng đã quen, còn muốn làm láng giềng với hải đảo, đã quen ở bãi nước, không bắt buộc ở đồng bằng, trâm cũng cho được tuy tiện”. (“Hàn các anh hoa”)
2.2.2. Văn chính luận là một thành tựu tiêu biểu của văn học Tây Sơn. ( Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn )
Trong những bài chiếu, bài dụ khác, tùy đối tượng, tùy công việc, vua Quang Trung bao giờ cùng nếu lên chính nghĩa của mình một cách sáng rõ và đầy sức thuyết phục như thế.
Một mặt khác của cuộc đấu tranh tư tưởng dưới thời Tây Sơn là làm sao đề ra cho được những chủ trương chính sách đúng, hợp tình, hợp lý, và động viên được mọi người hưởng ứng những chủ trương đó. Điều này thể hiện trong một loạt bài chiếu khác như : “Chiếu cầu hiền”, “Chiếu khuyến nông”, “Chiếu cầu học”, “Chiếu mở rộng âm đức”, “Chiếu cầu ngôn” v.v … Trong những bài chiếu này, lập luận cũng chặt chẽ, nhưng điều nổi bật là thái độ hết sức ân cần, khiêm tốn, thật sự cầu thị của vua Quang Trung, cũng như sau đó, của vua Quang Toan. Trong bài “Chiếu cầu hiền”, kêu gọi những người có tài đức ra giúp mình, nhà vua nói một cách tha thiết:
“Sức một cây gỗ không chống nổi một toa nhà to. Mưu lược một kẻ sĩ không dỊữig được cuộc thái bình. Hỏi rằng trong nước một ấp mười nhà hẳn còn có người trung tín thì trong cõi đất rộng lớn này há lại không có người kiệt xuất hơn đời để giúp rập buổi đầu cho trâm …” (“Hàn các anh hoa”).
Trong bài “Chiểu khuyến nông”, kêu gọi mọi người ra sức khai hoang, trở về quê cũ làm ăn, nhà vua cũng nói một cách thân tình :
“Hỡi các thần dân ! Các ngươi phải đều trông lên, thể theo đức ý của tràm, về nơi quê quán chăm sóc vườn ruộng. Đừng lười biếng làm hại sinh kế, đừng trốn tránh giấu giếm để mắc tội lỗi. Cái vui giàu thịnh, trầm sẽ cùng thiên hạ chia vui …” Hàn các anh hoa”).
Nguyễn Quang Toan kế thừa truyền thống của cha, sau khi diệt được Bùi Đắc Tuyên, cũng kêu gọi mọi người góp ý với mình về phương sách trị nước. Lời lẽ cũng hết sức tha thiết, cảm động : “… Hỡi những kẻ bề tôi cùng dân chúng! Các ngươi hãy dâng thư dân kín, nói hết đừng giấu giếm …Trẫm sẵn lòng nghe theo lời nói phải để thi hành ra chính sự, mong đuổi được tê tục, làm được việc hay, để vượt qua lúc khó khăn này…”
Trong văn chính luận có tính chất đối nội của Tây Sơn, sự thể hiện đầy xúc động, có lý, có tình, chính nghĩa của nhà Tây Sơn cùng những lý tưởng xà hội của nó, là những giá trị cơ bản. Trong văn chính luận có tính chất đối ngoại, giá trị cơ bản của nó là ở chỗ tác giả khẳng định một cách dứt khoát những yêu cầu về độc lập dân tộc, chống lại khuynh hướng bành trướng bá quyền của bọn phong kiến Trung quốc. Cuộc đấu tranh này diễn ra ôn hoa, có vẻ như một sự giao hảo giữa hai nước láng giềng, hay đúng hơn, sự giao hảo giữa một nước nhỏ biết rõ vị thế và trách nhiệm của mình đối với một nước lớn, trong một thế giới mà người ta, dù dưới một hình thức nào đó, vẫn buộc phải thừa nhận quan niệm về “thiên triều” và “chư hầu”. Nhưng ở chiều sâu của nó lại là một cuộc đấu tranh gay gắt, không khoan nhượng. Vua Quang Trung lúc kéo quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh, đã hình dung trước tính chát phức tạp và ý nghĩa trọng đại của cuộc đấu tranh ngoại giao này, nhà vua đã nói với ba quân khi còn ở Nghệ An :
“Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ chấm dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu, dân mạnh thì ta có sợ gì chúng”.
Cái tế nhị trong hoạt động bang giao dưới thời Tây Sơn là làm sao giữ cho được tư thế Người Chiến Thắng của minh, đồng thời không làm cho kẻ thù có cảm giác bị sỉ nhục vì những thất bại của chúng. Cũng như các triều đại trước, công việc bang giao đầu tiên của triều Tây Sơn sau chiến thắng là làm “Biểu trần tình”, trình bày với hoàng đế Trung Hoa tại sao vua Quang Trung lại xuất quân đánh nhau với quân đội “thiên triều”. Nhà vua giải thích cho vua Thanh rõ việc làm của mình là do tình thế bắt buộc, là một phản ứng tự vệ, và lên án hành động dã man tàn bạo của bè lũ Tôn Sĩ Nghị. Vua Quang Trung đổ liệt mọi tội ác của quân Thanh cho Tôn Sĩ Nghị, và coi như vua Thanh không hay biết gì chuyện đó. Vua Quang Trung đề nghị vua Thanh phong tước cho mình. Cuối bài “Biểu”, nhà vua có vẻ nhún nhường hơn nữa, nhưng ở đây Quang Trung báo trước cho vua Thanh biết, nếu yêu cầu của ông không được chấp nhận, lẽ phải không được thực hiện thì vua Thanh phải chịu lấy những hậu quả không thể lường trước được : ( Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn )
“Thiên triều to lớn, khi nào lại thèm kể sự được thua với nước rợ nhỏ. Vả dùng vũ lực để hại dân chắc là lòng chí nhân không nỡ. Còn nếu lỡ việc bỉnh cách kéo dài, tình thế vỡ lỡ, tôi không được đem phận nước nhỏ mà thờ nước lớn thì cũng phó mặc cho số mệnh của trời mà không dám biết vậy”. (“Bang giao hảo thoại”).
Trong bài “Biểu đòi trả lại bảy châu xứ Hưng Hóa” nhà Thanh chiếm đóng từ trước, lập luận của vua Quang Trung cũng giống như thế. Nhà vua cũng đổ lỗi việc chiếm đất vùng biên giới cho bọn quan lại địa phương của Trung Quốc, để cuối cùng đề ra yêu cầu dứt khoát phải lấy lại bảy châu ấy :
“Tôi sao dám bỏ đất đai của mình, và nhưng ẩn tình uẩn khúc không thể không kêu lên dưới ánh sáng của nhà vua. Vậy nên dám mạo muội dâng biểu … Tôi xin cử người lên biên giới Nam Quan đợi lệnh, đồng thời sai các quan chức văn võ đến cầu địa hạt Hưng Hóa lần lượt điều tra cho rõ ràng địa giới của bảy châu để đưa về đồ bạ của bản quốc”. (“Bang giao hảo thoại”).
Có thể nói, trong các văn kiện của vua Quang Trung hay cua các quan triều Tây Sơn trao đổi với nhà Thanh đều thể hiện sự kết hợp khéo léo giữa tính nguyên tắc và tính linh hoạt. Đối với những vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, danh dự và lợi ích tối cao của dân tóc, thì trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững, không thể thoa hiệp hay nhân nhượng. Đó là nguyên tắc. Nhưng trong thái độ cụ thể, trong ngôn từ, lại phải hết sức linh hoạt, mềm mỏng, khéo léo. Trong hoàn cảnh đó, văn chính luận có một vai trò rất quan trọng. Ta có thể đơn cử cuộc đấu tranh xung quanh việc phong tước cho vua Quang Trung làm ví dụ. Sau khi thất bại nhục nhã trước sức mạnh của phong trào Tây Sơn, vua Thanh đã phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà nhận lời phong tước cho vua Quang Trung. Có lẽ vì muốn vớt vát chút ít thể diện cho “thiên triều” sau cái nhục bại trận, nên thông qua Phúc An Khang, vua Thanh hứa sẽ phong tước cho vua Quang Trung vào dịp vua Quang Trung sang dự lễ mừng thọ tám mươi tuổi của vua Thanh. Thực ra, vua Thanh có ngầm ý “đặt điều kiện” cho vua Quang Trung. Vì sang kinh đô nhà Thanh chúc thọ để rồi được phong thì còn gì là tự trọng, tự hào đối với một nhà vua bách chiến bách thắng ! Vua Quang Trung chắc chắn sẽ không làm như vậy. Nhưng công khai và gay gắt phản đối gợi ý của vua Thanh cũng chẳng đem lại kết quả gì tốt đẹp. Trong thư trả lời Phúc An Khang, vua Quang Trung lấy lý do nếu chưa được sắc phong mà sang kinh đô nhà Thanh để chúc thọ thì “sợ ngượng với các nước phiên thuộc”, và đòi vua Thanh phải phong trước cho mình. Thấy thái độ Quang Trung có vẻ dứt khoát, Phúc An Khang liền gửi thư cho Nguyễn Quang Hiển, cháu vua Quang Trung, một mặt, tuy vẫn còn bắn tin dọa dẫm, như bảo vua Quang Trung nếu không được vua Thanh phong sắc thì “danh phận không chính, bề tôi cùng dân chúng đều theo ngoài mặt mà trong lòng không phục”. Hay nếu vua Quang Trung “không thân hành đến kinh đô để chiêm ngưỡng nhung nhan., thì lấy gì nêu được tấm lòng sợ mệnh trời, thờ nước lớn v.v…” Nhưng mặt khác, không đòi vua Quang Trung đến kinh đô Trung Quốc mới phong, mà hứa lúc vua Quang Trung đi mừng lễ thọ, qua khỏi ải Nam Quan sẽ được phong ngay. Trong tờ hịch đề ngày mười lăm tháng sáu niên hiệu thứ 54 Càn Long gửi trực tiếp cho vua Quang Trung, Phúc An Khang nhắc lại nội dung trên, và nói thêm vua Thanh sẽ phong cho vua Quang Trung làm thân vương, nghĩa là cao hơn cả Quận vương một bậc! Thế nhưng vua Quang Trung vẫn một mực từ chối. Nhà vua nói “Nếu cứ đợi sau khi đến cửa quan mới ban phong điển, thì người biết nói rằng triều đình đã định sẵn, người không biết lại nói đại hoàng đế phân biệt đối xử. Mỗi người nói một cách, ngoa truyền sai sự thật, sinh ra lắm chuyện, lại phiền một phen phải trấn tĩnh nữa, sao bằng sớm định ngày nào cho nhất trí”.
Như thế là việc thuyết phục vua Quang Trung sang chúc thọ vua Thanh để được phong tước coi như thất bại. Vua-Thanh phải xuống nước lần nữa. Lần này vua Thanh không đòi vua Quang Trung sang khỏi ải Nam Quan mới được phong, mà cử sứ thần sang Thăng Long phong cho vua Quang Trung. Và dường như để “làm lành”, vua Thanh còn gửi tặng vua Quang Trung một bài thơ tự tay mình viết. Lần này Quang Trung nhận lời. Thế nhưng sau đó, dường như muốn tỏ cho triều đình nhà Thanh biết, việc nhận sắc phong của vua Quang Trung chỉ là một thứ nghi thức trong quan hệ bang giao. giữa một nước nhỏ với một nước lớn, chứ nhà Thanh không nên coi đó là sự thần phục. Cho nên trong bức thư tiếp theo, vua Quang Trung cáo ốm, từ chối việc ra Thăng Long nhận sắc phong mà đòi các sứ thần của nhà Thanh phải vào Phú Xuân phong sắc cho minh. Các bức thư của vua Quang Trung cũng như của các quan triều Tây Sơn gửi cho đối phương tuy từng trường hợp, khi cứng, khi mềm, có tiến, có thoái. Chữ nghĩa ở đây giống như một đội quân xung trận rất có hiệu lực. Kết quả là triều đinh nhà Thanh từng bước phải nhượng bộ vua Quang Trung và vua Quang Trung từng bước giành được những thắng lợi về ngoại giao rất rực rỡ. Việc tuyên phong cuối cùng đã thực hiện. Vua Quang Trung làm biểu tạ ơn vua Thanh. Lần này lời lẽ có phần còn nhã nhặn hơn trước. Nhà vua hứa tháng ba năm sau sẽ đến kinh đô Trung Quốc để dự lễ chúc thọ vua Thanh. Thế nhưng đến lúc trao đổi cụ thể việc cử người đi dự lễ chúc thọ vua Thanh cũng lại xảy ra một cuộc đấu tranh gay gắt nữa, mà kết quả là các quan của nhà Thanh buộc phải chấp nhận một phái bộ của triều Tây Sơn, không phải do vua Quang Trung, mà do một người giả vua Quang Trung cầm đầu. Và phái bộ do vua Quang Trung giả cầm đầu ấy vẫn được vua Thanh .và quan lại các cấp của Trung Quốc đón tiếp hết sức trọng thể. Đoàn Nguyễn Tuấn đi trong phái bộ này đã thốt lên “Từ trước tới giờ người mình đi sứ Trung Quốc chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế”. Và Phan Huy ích trong một bài thơ viết ở tập “Tinh sà kỷ hành'” cũng phấn khởi muốn báo tin ngay về cho mọi người trong nước biết “Phái bộ của ta được đón tiếp long trọng nhất”. ( Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn )
Nhìn chung, văn chính luận không phải là sản phẩm riêng của triều Tây Sơn, nhưng do những điều kiện xã hội của thời đại, nó được triều Tây Sơn khai thác và vận dụng một cách thành công nhất. Văn chính luận thời Tây Sơn đã kế thừa và phát huy được truyền thống và kinh nghiệm ưu tú của văn chính luận thời Lê Lợi – Nguyễn Trãi, nó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình do thời đại giao phó.
Văn học Tây Sơn đã thể hiện được tinh thần của thời đại Tây Sơn cùng cuộc đấu tranh kiên cường để giữ nước và dựng nước của triều đại này. Đồng thời, văn học Tây Sơn cũng thể hiện được ý chí, bản lĩnh và tầm nhìn xa thấy rộng của các lãnh tụ của phong trào Tây Sơn, đặc biệt là của người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ. Có thể nói, đối với văn học Tây Sơn, việc ghi nhận những hoạt động anh hùng, những chiên công hiển hách, cùng tài ba đức độ của các thủ lĩnh phong trào Tây Sơn, tuy chưa đầy đủ, nhưng cũng là một mảng rất có ý nghĩa, về phương diện này, đáng chú ý nhất là thơ văn của Ngô Thì Nhậm. Hình ảnh của Nguyễn Huệ đã xuất hiện qua từng bài hịch, bài chiếu, bài dụ của nhà vua do Ngô Thì Nhậm khởi thảo và xuất hiện trong một số bài biểu của các quan lại, triều thần thời Quang Trung dâng lên nhà vua, phần lớn cũng do Ngô Thì Nhậm viết. Có thể nói, hơn bất cứ người nào khác, Ngô Thì Nhậm không nhưng giúp việc đắc lực cho Quang Trung, mà còn là người hiểu nhà vua một cách sâu sắc, chính xác. Những bài văn của Ngô Thì Nhậm viết thay vua Quang Trung đã thể hiện được đường lối chiến lược, chiến thuật của nhà vua, đồng thời thể hiện được cả cái hào khí, cái oai phong, đức độ của vua Quang Trung. Đúng là phải có vua Quang Trung thì tài năng của Ngô Thì Nhậm mới được phát huy triệt để, và ngược lại, phải có Ngô Thi Nhậm thì con người Quang Trung và đường lối đối nội, đối ngoại của nhà vua mới có tác động mạnh mẽ trong thực tế. Ngô Thì Nhậm là người thay vua Quang Trung viết “Biểu trần tình” và nhiều văn kiện quan trọng khác. Phan Huy ích cũng có một vai trò nhất định trong công việc này, nhưng không thể so sánh với Ngô Thì Nhậm được. Trong tác phẩm của Ngô Thì Nhậm, nhất là trong những bài biểu ông viết thay mặt cho các quan gửi lên vua Quang Trung là những tác phẩm Ngô Thì Nhậm có điều kiện để bày tỏ trực tiếp sự trân trọng của mình đối với nhà vua như các bài “Biểu của đình thần văn võ Bắc thành nhân tiết Thiên thọ”, “Biểu suy tôn”, “Biểu tạ ơn được thăng chức Binh bộ Thượng thư và cho cai quản bình dân bản quán” … Cố nhiên ở đây có phóng đại theo công thức do yêu cầu của thể văn, nhưng đọc kỹ sẽ thấy cái phần hiện thực làm nền tảng cho sự phỏng đại ấy. ( Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn )
Mời bạn tham khảo thêm:

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn: Thành tựu tiêu biểu của Văn chính luận Tây Sơn […]