Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng

Rate this post

Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng là vấn đề nan giải đối với bộ giáo dục ta ngày nay. Việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn và sư phạm của giảng viên được ban lãnh đạo nhà trường thảo luận, có chính sách, chủ trương đảm bảo cân bằng về kinh nghiệm công tác chuyên môn, xây dựng giảng viên, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Chú trọng mời giảng viên có học hàm, học vị cao chủ trì chuyên môn công tác đào tạo, đồng thời có kế hoạch tuyển dụng giảng viên, xây dựng lực lượng chủ chốt cho trường có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn. Dưới đây là đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư Pháp – Định hướng đến năm 2022,  mời các bạn học viên cùng đọc và cảm nhận, hy vọng sẽ giúp được phần nào cho các bạn khi hoàn thành bài luận.

Nội dung chính

2.1 Tổng quan về Học viện Tư pháp

2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển

Tên trường: Học viện tư pháp

Địa chỉ: Số 9 Trần Vỹ, Phường Mai Dịch, Quận Cầu Giấy, TP.Hà Nội Điện thoại: 04.37566129

Website: www.hocvientuphap.edu

Học viện Tư pháp được thành lập theo Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Học viện Tư pháp trên cơ sở trường đào tạo các chức danh tư pháp thuộc Bộ Tư pháp. Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học thuộc Bộ Tư pháp, hoạt động theo Điều lệ trường đại học, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu hình quốc huy, có tài khoản riêng, có trụ sở tại thành phố Hà Nội và cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng của Học viện Tư pháp được giao cụ thể trong Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp và Quyết định số 123/QĐ-TTg ngày 18/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 – 2020”.

2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ

Theo quy định tại Quyết định số 1901/QĐ-BTP ngày 13 tháng 7 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Tư pháp. Theo đó, chức năng và nhiệm vụ của Học viện tư pháp được quy định cụ thể như sau:

Chức năng:

  • Đào tạo nghiệp vụ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, chấp hành viên, công chứng viên, đấu giá viên, các chức danh tư pháp khác;
  • Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho chấp hành viên, công chứng viên, luật sư và cán bộ có chức danh tư pháp khác thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp; bồi dưỡng nghiệp vụ lý lịch Tư pháp;
  • Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp theo quy định;
  • Nghiên cứu khoa học phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp và các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.

Nhiệm vụ:

  • Xây dựng, trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp; kế hoạch công tác dài hạn, trung hạn, hàng năm của Học viện;
  • Tham gia xây dựng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành Tư pháp, tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật;
  • Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các đề án, văn bản về đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học trình Bộ trưởng hoặc cơ quan có thẩm quyền ban hành;
  • Xây dựng, trình Bộ trưởng chiến lược phát triển của Học viện; quy hoạch, kế hoạch về tổ chức bộ máy, biên chế, đào tạo, bồi dưỡng và quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Học viện;
  • Tổ chức thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy; tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Học viện theo quy định của pháp luật và sự phân cấp của Bộ Tư pháp;
  • Tổ chức thực hiện các khóa đào tạo nghiệp vụ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, chấp hành viên, công chứng viên, đấu giá viên, các chức danh tư pháp khác;
  • Tổ chức thực hiện bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho chấp hành viên, công chứng viên, luật sư, đấu giá viên và cán bộ có chức danh tư pháp khác thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp; bồi dưỡng nghiệp vụ lý lịch tư pháp;
  • Tổ chức biên soạn, thẩm định, in và phát hành các giáo trình, sách và tài liệu phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu của Học viện;
  • Tổ chức các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp và phục vụ hoạt động của ngành Tư pháp;
  • Tổ chức thực hiện các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, phổ biến, giáo dục pháp luật theo quy định của pháp luật và sự phân công của Bộ, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và năng lực của Học viện; ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )
  • Tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, biện pháp giáo dục và quản lý học viên; phối hợp với các cơ quan, tổ chức thực hiện tốt mục tiêu giáo dục toàn diện cho học viên;
  • Tổ chức thực hiện các quy trình kiểm định chất lượng đào tạo của Học viện theo quy định của pháp luật;
  • Thực hiện hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài theo quy định pháp luật và sự phân cấp của Bộ Tư pháp;
  • Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin, thư viện và các trang thiết bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và tư vấn pháp luật
  • Huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và sự phân cấp của Bộ Tư pháp;
  • Thực hiện chế độ tài chính, kế toán của Học viện theo quy định của pháp luật và sự phân cấp của Bộ Tư pháp;
  • Quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, tài sản, trang thiết bị của Học viện theo quy định của pháp luật;
  • Giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện phòng chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong hoạt động của Học viện; thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật;
  • Tổ chức và thực hiện công tác thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật và sự phân cấp của Bộ Tư pháp;
  • Tổ chức thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong Học viện; xây dựng nếp sống văn hóa và môi trường sư phạm trong Học viện;
  • Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

2.1.3 Cơ cấu tổ chức ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Cơ cấu của Học viện Tư pháp được quy định cụ thể tại Quyết định số 1901/QĐ-BTP ngày 13 tháng 7 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Cụ thể như sau:

Hội đồng Học viện:Hội đồng Học viện là thiết chế quản trị của Học viện, quyết nghị các chủ trương lớn liên quan đến hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng Học viện theo quy định pháp luật.

Giám đốc và các Phó Giám đốc:

  • Giám đốc Học viện chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tư pháp và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao của Học viện.
  • Các Phó Giám đốc Học viện giúp Giám đốc quản lý, điều hành hoạt động của Học viện; được Giám đốc phân công quản lý một số lĩnh vực, nhiệm vụ công tác; chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về những lĩnh vực công tác được phân công.

Hội đồng Khoa học và Đào tạo: Hội đồng khoa học và Đào tạo của Học viện bao gồm: Giám đốc, một số Phó Giám đốc, các Trưởng khoa, Trưởng phòng Đào tạo và Thủ trưởng một số đơn vị thuộc Học viện; các Giáo sư, Phó Giáo sư, một số giảng viên, cán bộ hoạt động khoa học của Học viện. Hội đồng Khoa học và Đào tạo hoạt động theo các quy định của “Điều lệ trường đại học” ban hành kèm theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30 tháng 7 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Các đơn vị chức năng thuộc Học viện: Cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh: Cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng là đơn vị dự toán kinh phí cấp 3;Phòng Hành chính, tổng hợp và đối ngoại; Phòng Tổ chức Cán bộ; Phòng Đào tạo và Công tác học viên; Phòng Quản lý khoa học và trị sự tạp chí nghề luật; Phòng Quản trị; Phòng Tài chính – Kế toán; Khoa đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư; Khoa đào tạo Luật sư; Khoa đào tạo các chức danh thi hành án dân sự; Khoa đào tạo công chứng viên và các chức danh tư pháp khác; Trung tâm bồi dưỡng cán bộ; Trung tâm tư vấn pháp luật; Trung tâm khảo thí và đảm bảo chất lượng đào tạo; Trung tâm Thông tin – Thư viện; Trung tâm liên kết đào tạo luật sư thương mại quốc tế.

Tổ chức Đảng, các đoàn thể và tổ chức xã hội: Đảng bộ Học viện Tư pháp;Công đoàn Học viện Tư pháp;Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Học viện Tư pháp;Chi hội Cựu chiến binh Học viện Tư pháp;Chi hội Luật gia Học viện Tư pháp.

2.1.4 Quy mô và ngành nghề đào tạo

  • Quy mô đào tạo

Kể từ khi thành lập đến nay, Học viện tư pháp đã đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong hoạt động tư pháp của cả nước trên cơ sở các điều kiện về đội ngũ giảng viên cơ hữu, giảng viên thỉnh giảng, cán bộ quản lý, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ học tập, giảng dạy, quy mô đào tạo của trường ngày càng được mở rộng.

Trong những năm qua, Học viện đã không ngừng lớn mạnh, chức năng nhiệm vụ ngày càng được mở rộng, đội ngũ cán bộ, giảng viên liên tục được bổ sung về số lượng, nâng cao về chất lượng, quy mô đào tạo tăng trưởng nhanh chóng, đến nay đã đào tạo được khoảng 50.000 học viên nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp (trong đó có 5.000 học viên Thẩm phán, 1.085 học viên Kiểm sát viên, 25.000 học viên Luật sư, 2.500 học viên Chấp hành viên, hàng ngàn học viên Công chứng viên, 99 học viên Thư ký Tòa án, 169 học viên làm công tác Lý lịch tư pháp). Đặc biệt, Học viện còn đào tạo cho nước bạn Lào 4 Thẩm phán làm giảng viên nòng cốt, 20 Công chứng viên, 20 Chấp hành viên. Hiện nay, quy mô đào tạo hàng năm của Học viện khoảng từ 2.000 đến 3.000 học viên. ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Quy mô đào tạo của Học viện tư pháp trong những năm gần đây ngày càng tăng lên. Năm 2012 số lượng học viên là 3.055 người, năm 2013 là 3.204 người tăng 4,9% so với năm 2012, năm 2014 là 3.386 người tăng 5,7% so với năm 2013, năm 2015 là 3.410 người tăng với tỷ lệ 0,7% so với năm 2014 và năm 2016 là 3.471 người tăng 1,8% so với năm 2015. Số lượng sinh viên ngày càng tăng chứng tỏ sự phát triển của nhà trường nhưng cùng với đó việc đảm bảo chất lượng các chương trình đào tạo là rất cần thiết.

  • Ngành nghề đào tạo

Khởi nguồn là một cơ sở đào tạo chỉ được giao nhiệm vụ chính là đào tạo nghiệp vụ thẩm phán. Cùng với sự phát triển của đất nước, Học viện tư pháp đã không ngừng phát triển và trưởng thành, được đào tạo thêm các nghiệp vụ công chứng viên, thư ký toà án, chấp hành viên, luật sư và kiểm sát viên và các chức danh tư pháp khác.. Hoạt động đào tạo của trường bao gồm cả các chương trình đào tạo ngắn hạn và dài hạn. Hình thức tuyển sinh theo hình thức xét tuyển và đối tượng đào tạo là những người có trình độ cử nhân luật trở lên.

2.1.5 Đặc điểm đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp

  • Quy mô giảng viên thỉnh giảng

Do quy mô đào tạo của trường trong những năm qua được mở rộng do đó số lượng giảng viên thỉnh giảng cũng tăng lên.Năm 2015, số giảng viên thỉnh giảng tăng so với năm 2014 là 17 người, tương ứng với tỷ lệ là 3,9%. Năm 2016 trường có 468 giảng viên thỉnh giảng, tăng 3,5% so với năm 2015.

Do số lượng giảng viên cơ hữu của trường chỉ có 47 người chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số giảng viên của Học viện tư pháp. Do đó, số lượng giảng viên thỉnh giảng được mời ở các khoa phụ thuộc trực tiếp vào quy mô đào tạo của từng khoa. Tính đến năm 2016, số lượng giảng viên ở khoa đào tạo luật sư là 186 người, khoa đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên là 144 người, khoa đào tạo chức danh thi hành án dân sự là 75 người, khoa đào tạo công chứng viên và chức danh khác là 63 người. Số lượng giảng viên thỉnh giảng nhiều nhất là ở khoa Luật sư, khoa có số lượng sinh viên đông nhất.

  • Cơ cấu đội ngũ giảng viên thỉnh giảng theo giới tính

Cơ cấu giảng viên thỉnh giảng Học viện tư pháp theo giới tính có 60% giảng viên là nam và 40% giảng viên là nữ. Số liệu cụ thể được thể hiện qua Bảng 2.3

Mức chênh lệch giữa cơ cấu giảng viên theo giới tính không lớn, mức chênh lệch nhiều nhất là ở khoa đào tạo các chức danh thi hành án dân sự với 69,3% giảng viên nam và 30,7% giảng viên nữ, sau đó là khoa đào tạo công chứng viên và các chức danh tư pháp khác với tỷ lệ là 68,3% giảng viên là nam, 21,7% giảng viên là nữ, khoa đào tạo nguồn thẩm phán, kiểm sát, luật sư với 60,4% giảng viên nam, 39,6% giảng viên nữ, khoa đào tạo Luật sư với 53,2% giảng viên nam, 46,8% giảng viên nữ. Như vậy, cơ cấu nam nữ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện tư pháp là phù hợp, đảm bảo bình đẳng giới. Nhà trường luôn đề cao vai trò của nhân lực nữ trong sự phát triển của nhà trường, trong đó có nữ giảng viên thỉnh giảng. ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

  • Cơ cấu đội ngũ giảng viên thỉnh giảng theo độ tuổi

Xét về độ tuổi, đội ngũ giảng viên thỉnh giảng Học viện tư pháp theo độ tuổi (số liệu năm 2016) thì giảng viên thỉnh giảng được chia thành 03 nhóm tuổi bao gồm nhóm tuổi dưới 30, nhóm tuổi từ 30 – 50 và nhóm tuổi trên 50. Căn cứ vào cách phân loại này, độ tuổi từ 30-50 chiếm tỷ lệ cao nhất với 56,2%, tương đương 263 người; còn nhóm tuổi tuổi trên 50 chiểm tỷ lệ là 22,6%, tương đương 106 người, độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ lệ thấp nhất là 21,2%.

Ở độ tuổi dưới 30, khoa đào tạo Luật sư chiếm tỷ trọng cao nhất là 24,7%, số lượng giảng viên thỉnh giảng là46 người, tiếp đến là khoa đào tạo chức danh thi hành án dân sự chiếm 24% tương ứng với số lượng là 18 người, khoa đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát, luật sư chiếm 17,4% tương đương với 25 giảng viên, thấp nhất là khoa đào tạo công chứng viên và các chức danh tư pháp chiếm 15,9% số lượng là 10 người, mức bình quân chung của các khoa là 21,2%.

Ở độ tuổi từ 30 đến 50,Khoa đào tạo Luật sư chiếm tới 50,6% tương đương với số lượng là 94 người, khoa đào tạo các chức danh thi hành án dân sự chiếm 69,3,8% tương ứng với số lượng là 52 người, khoa đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát, luật sư chiếm 52,8% tương đương với 76 giảng viên, khoa đào tạo công chứng viên và các chức danh tư pháp khác số lượng là 41 người chiếm 65,1%.

Ở độ tuổi trên 50, khoa đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư chiếm tỷ lệ cao nhất là 29,8%, ứng với 43 người, khoa có tỷ lệ thấp nhất là khoa đào tạo các chức danh thi hành án dân sự chỉ có 5 người tương ứng với 6,7%.

Với cơ cấu độ tuổi như trên, nhóm tuổi từ 30 đến 50 chiếm đa số. Độ tuổi này là phù hợp với các giảng viên thỉnh giảng với những kinh nghiệm chuyên môn thực tế phục vụ cho giảng dạy, đồng thời cũng tiếp cận được với những thay đổi, đặc biệt là hướng tới đào tạo theo chuẩn quốc tế. Số liệu cụ thể được thể hiện qua Bảng 2.4

2.2 Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp

2.2.1 Thực trạng về phẩm chất, đạo đức, lối sống của giảng viên thỉnh giảng ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Để đánh giá được phẩm chất, đạo đức, lối sống của giảng viên thỉnh giảng, tác giả tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi để lấy ý kiến đánh giá của các đối tượng với giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp. Các đối tượng được khảo sát bao gồm: học viên, cán bộ quản lý và giảng viên cơ hữu. Số lượng học viên khảo sát là 50 học viên; Số lượng cán bộ quản lý, giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng: 70 người. Các câu trả lời của đối tượng khảo sát trả lời trên 3 mức độ: 1- Rất hài lòng; 2 – Hài lòng; 3 – Không hài lòng. Kết quả khảo sát là cơ sở để đánh giá thực trạng về phẩm chất, đạo đức, lối sống của giảng viên thỉnh giảng dưới đánh giá, nhận xét đội ngũ học viên, cán bộ quản lý và giảng viên cơ hữu.

Để nâng cao chất lượng giảng dạy, đội ngũ giảng viên trong đó có giảng viên thỉnh giảng phải là những người thực sự nhiệt tình, tâm đắc với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao mới đáp ứng được yêu cầu công việc. Để đánh giá tinh thần trách nhiệm, tác giả đã tiến hành khảo sát và thu được được thể hiện qua Bảng 2.5

Qua kết quả khảo sát ở Bảng 2.5 cho thấy hầu hết giảng viên thỉnh giảng,cán bộ quản lý, giảng viên cơ hữu và học viên Học viện tư pháp đều đánh giá ý thức tôn trọng giờ lên lớp của giảng viên thỉnh giảng chỉ đạt ở mức độ hài lòng, vẫn còn 29.2% không hài lòng về việc đảm bảo giờ lên lớp của giảng viên thỉnh giảng. Trên thực tế, nhiều giảng viên thỉnh giảng thường đi muộn về sớm do đó thời lượng dành cho giờ học bị giảm xuống ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.

Về tiêu chí giảng dạy theo đúng đề cương có 15% đánh giá giảng viên thỉnh giảng giảng dạy không đúng đề cương môn học. Do không đảm bảo giảng dạy đủ thời lượng nên nhiều nội dung giảng viên không giảng dạy, hoặc không hướng dẫn học viên. Chính vì vậy, có 20% cho rằng giảng viên không giảng dạy theo đúng thời khoá biểu, đủ số tiết quy định.

Đại đa số giảng viên thỉnh giảng được đánh giá là nhiệt tình và có trách nhiệm với học viên, tuy nhiên vẫn có 5% nhận xét là giảng viên chưa thực sự nhiệt tình.

Việc bao quát người học là căn cứ để đánh giá đúng tình hình học tập của mỗi học viên và là cơ sở để điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp nhưng hiện vẫn còn 13,3% nhận định giảng viên chưa bao quát được người học. Ở đây có một phần nguyên nhân là do lớp học có sĩ số lớn, có những lớp trên 100 người, do đó khả năng bao quát của giảng viên bị hạn chế.

Phẩm chất đạo đức, chính trị, thái độ thân thiện với người học của giảng viên thỉnh giảng hầu hết được đánh giá là tốt song vẫn tồn tại 5,8% đánh giá tiêu chí này ở mức độ không hài lòng.Việc quan tâm đến người học là rất cần thiết, nhưng khi đánh giá vẫn có 10% cho rằng giảng viên chưa quan tâm đến sự tiến bộ của người học.

Kiểm tra, đánh giá học viên là khâu quan trọng trong quá trình đào tạo. Đánh giá phải đảm bảo tính công bằng, khách quan nhưng vẫn còn 12,5% cho rằng việc đánh giá của giảng viên thỉnh giảng chưa công bằng.

Như vậy, thông qua đánh giá có thể nhận thấy phẩm chất đạo đức, thái độ với học viên, việc đảm bảo nghiệp vụ lên lớp của giảng viên thỉnh giảng cần phải được nâng cao. Hàng năm, nhà trường đã mời nhiều giảng viên thỉnh giảng từ Học viện tư pháp, các trường Đại học có uy tín, Luật sư, Thẩm phán, kiểm sát viên…tham gia giảng dạy ở trường, về cơ bản họ đã đáp ứng được yêu cầu của nhà trường.Tuy nhiên, trong số đó còn có một số giảng viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, thiếu lòng nhiệt tình, chỉ cung cấp kiến thức bài giảng mà quên đi trách nhiệm và thái độ nghề nghiệp với học viên.

2.2.2 Thực trạng về năng lực giảng dạy của giảng viên thỉnh giảng ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Đối với việc giảng dạy các học phần, các chuyên đề được quy định trong chương trình đào tạo để lấy văn bằng, chứng chỉ của Học viện tư pháp, giảng viên thỉnh giảng phải đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ của giảng viên.

Về nghiệp vụ sư phạm giảng viên thỉnh giảng đáp ứng được một trong các yêu cầu sau đây:

Có chức danh phó giáo sư hoặc giáo sư;

Có bằng tốt nghiệp ngành, chuyên ngành sư phạm trình độ từ đại học trở lên.

Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc đã từng là giảng viên thỉnh giảng cho các chương trình giáo dục đại học.

  • Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm

Giảng viên là nhân tố quan trọng, quyết định đến chất lượng giáo dục, bởi trong mỗi nhà trường “có thầy giỏi thì mới có trò giỏi”. Giảng viên là người cung cấp kiến thức cho sinh viên. Do đó, trình độ chuyên môn của giảng viên quyết định chất lượng đào tạo của nhà trường.

Theo số liệu Bảng 2.6, giảng viên thỉnh giảng theo chuyên môn, tổng số có 13 giảng viên có trình độ giáo sư, phó giáo sư, 113 giảng viên có trình độ tiến sĩ, 247 giảng viên có trình độ thạc sĩ còn lại 95 giảng viên có trình độ cử nhân, cụ thể:

  • Khoa đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư có 1,4% là giáo sư, phó giáo sư, 22,9% là tiến sĩ, 58,3% là thạc sĩ và 17,4% là cử nhân.
  • Khoa đào tạo các chức danh thi hành án dân sự có 1,3% là giáo sư, phó giáo sư, 24% là tiến sĩ, 60% là thạc sĩ và 14,7% là cử nhân.
  • Khoa đào tạo Luật sư có 4,3% là giáo sư, phó giáo sư, 24,7% là tiến sĩ, 48,6% là thạc sĩ và 24,2% là cử nhân.
  • Khoa đào tạo công chứng viên và các chức danh tư pháp khác có 3,2% là giáo sư, phó giáo sư, 25,4% là tiến sĩ, 49,2% là thạc sĩ và 22,2% là cử nhân.

Theo học hàm học vị, giảng viên thỉnh giảng có trình độ thạc sĩ chiếm tỷ trọng chủ yếu, tiếp đó là trình độ tiến sĩ, trình độ phó giáo sư, giáo sư có tỷ lệ nhỏ nhưng vẫn còn một cơ cấu đáng kể giảng viên là cử nhân. Theo quy định của Luật giáo dục đại học năm 2012 thì trình độ chuẩn của giảng viên Đại học là từ trình độ thạc sĩ trở lên. Do đó, nhà trường nên soát xét lại và ưu tiên mời các giảng viên mời các giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên thay thế cho các giảng viên có trình độ cử nhân. ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Giảng viên thỉnh giảng các học phần lý thuyết chương trình đào tạo đại học, hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp cử nhân phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm và miễn áp dụng tiêu chuẩn này đối với các giảng viên đã có thâm niên công tác từ 20 năm trở lên và những người đã có chức danh phó giáo sư, giáo sư.

Đội ngũ giảng viên thỉnh giảng của Học viện Tư pháp vẫn còn nhiều giảng viên chưa có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm. Tính đến thời điểm ngày 31/12/2016, số lượng giảng viên thỉnh giảng có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm là 360 giảng viên, chiếm tỷ lệ 76,92%. Trong đó, khoa đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư có tỷ lệ giảng viên thỉnh giảng có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm cao nhất là 80,56%. Tiếp đó, đến khoa đào tạo Luật sư với tỷ lệ giảng viên thỉnh giảng có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm đạt 77,96%. Khoa đào tạo công chứng viên và các chức danh tư pháp khác có tỷ lệ đạt 74,60% và thấp nhất là khoa đào tạo các chức danh thi hành án dân sự với tỷ lệ 69,33%. Số liệu cụ thể được thể hiện qua Bảng 2.7

Để đánh giá mức độ đáp ứng về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của giảng viên thỉnh giảng, tác giả tiến hành khảo sát lấy ý kiến đánh giá của 120 học viên cùng cán bộ quản lý và giáo viên cơ hữu. Các câu trả lời được thể hiện ở 4 mức độ: 1- Tốt; 2 – Khá; 3 – Trung bình; 4 – Yếu. Kết quả khảo sát được thể hiện qua Bảng 2.8

Căn cứ kết quả khảo sát ở bảng 2.8 cho thấy: Khi được hỏi về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của giảng viên thỉnh giảng, nhìn chung các ý kiến nhận xét của cán bộ quản lý, giảng viên cơ hữu, giảng viên thỉnh giảng và học viên đều đánh giá tốt, khá trở lên chiếm trên 80%, tuy nhiên vẫn có 5% đánh giá nghiệp vụ sư phạm của giảng viên ở mức yếu, điều này cho thấy trong số giảng viên thỉnh giảng vẫn còn một số giảng viên chưa thực sự đảm bảo được khả năng sư phạm. Một bộ phận giảng viên thỉnh giảng là người làm nghề trên thực tế được nhà trường mời để giảng dạy những nội dung thực hành nhưng do kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều nên khả năng sư phạm của những người này còn hạn chế.

Về trình độ ngoại ngữ, đa số đều đánh giá trình độ ngoại ngữ của giảng viên ở mức thấp cụ thể 45% trung bình và 10% đánh giá ở mức yếu. Trong điều kiện hội nhập, hơn nữa với định hướng đào tạo tư pháp đáp ứng chuẩn quốc tế của nhà trường thì đây là hạn chế rất lớn.

Ngoài ra khi được hỏi về vận dụng các phương pháp dạy học, các kỹ năng công nghệ thông tin của các giảng viên thỉnh giảng đều có ý kiến chưa đồng đều,17.5% trở lên là tốt và 45 % trở lên là khá và có đến 12.9%trở lên đánh giá ở mức trung bình, khoảng 10% đánh giá là yếu. Khi hỏi về mức độ đáp ứng của giảng viên thỉnh giảng tham gia giảng dạy có đến 21,7% ở mức độ trung bình, 9,2% là yếu. Thông qua số phiếu khảo sát cho thấy trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên thỉnh giảng tham gia giảng dạy tại trường hiện nay chưa đồng đều. Thực tế khi mời những giảng viên thỉnh giảng về tham gia giảng giạy tại trường đều là những người có chuyên môn vững vàng, có lý lịch rõ ràng và bằng cấp cũng như là người có năng lực và nhiều kinh nghiệm, song trong số đó có nhiều giảng viên ở độ tuổi khác nhau, chính vì thế đối với những người có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm họ chưa thực sự thích ứng và nhuần nhuyễn với cách sử dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại cũng như sử dụng kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin.

  • Khả năng giảng dạy của giảng viên thỉnh giảng ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Thực trạng vấn đề khảo sát thể hiện qua kết quả khảo sát như sau: có 70% đánh giá thường xuyên chuẩn bị kỹ bài giảng trước khi lên lớp thì có đến 30% đánh giá giảng viên đôi khi chưa thực sự chuẩn bị bài chu đáo. Các ý kiến đánh giá giảng viên thỉnh giảng về vấn đề cập nhật, mở rộng bài giảng với những kiến thức theo kết quả kiểm tra, đánh giá và theo điều kiện của từng lớp học cụ thể, giảng viên thỉnh giảng đã chú ý thay đổi phương pháp dạy học, có những phương án chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp đối tượng người học. Tuy nhiên mức độ rất hạn chế thể hiện 17.5% ở mức độ thường xuyên, 53.3% đôi khi và 29.2% là không bao giờ thực hiện. Phần lớn là do giảng viên thỉnh giảng quá bận rộn với công việc giảng dạy, chuyên môn tại các cơ sở quản lý nên chưa có nhiều thời gian tìm hiểu, cải tiến phương pháp giảng dạy.

Kỹ năng tìm kiếm, nghiên cứu tài liệu là rất quan trọng với học viên tại Học viện tư pháp vì văn bản pháp luật thường xuyên có sự thay đổi, bổ sung, hơn nữa để đảm bảo yêu cầu ngày càng cao của đào tạo theo chuẩn quốc tế. Kết quả khảo sát cho thấy 50.8% ý kiến đánh giá giảng viên thỉnh giảng ở mức độ thường xuyên thực hiện việc yêu cầu và hướng dẫn sinh viên tìm và khai thác tài liệu tham khảo ngoài giáo trình, 46.7% chưa thường xuyên và 2.5% ko thực hiện.

Qua kết quả khảo sát cho thấy có 17.5% đánh giá ở mức độ thường xuyên, 53.3% đôi khi và 29.2% không bao giờ lấy ý kiến phản hồi của SV khi kết thúc môn học để rút kinh nghiệm. Các giảng viên thỉnh giảng cần thường xuyên thu nhận ý kiến phản hồi của học viên khi kết thúc môn học để kịp thời điều chỉnh hoạt động giảng dạy của mình tốt hơn.

  • Sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học của Giảng viên thỉnh giảng

Trường chủ trương phát huy hiệu quả của các phương pháp dạy học truyền thống, đồng thời áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, phương pháp dạy học hiện đại, không ngừng cải tiến cách tổ chức giờ lên lớp theo hướng tích cực, chủ động.

Giảng viên thỉnh giảng thường xuyên chủ động nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp dạy mới. Bên cạnh đó nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, biên soạn đề cương, các khóa thảo luận khác để có sự tham gia, thảo luận, đóng góp ý kiến kinh nghiệm giảng dạy của giảng viên thỉnh giảng với hội đồng khoa học, cán bộ quản lý, giảng viên cơ hữu của trường để giảng viên thỉnh giảng hiểu rõ hơn về đặc thù môn học, đặc điểm, mục đích, động cơ học tập cũng như nguyện vọng của sinh viên, để giảng viên thỉnh giảng có cái nhìn tổng quát hơn để biết vận dụng các phương pháp dạy học, phương tiện dạy học phù hợp với từng khoa, từng bộ môn, từng lớp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các ngành nghề của trường. ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Khi khảo sát về vấn đề sử dụng các phương pháp dạy học và phương tiện dạy học cũng như các yêu cầu của giảng viên thỉnh giảng đối với sinh viên như hướng dẫn, kiểm tra học viên tự học, tự thực hành thể hiện mức độ chưa đồng đều, thực tế có nhiều giảng viên thỉnh giảng họ dạy nhiều nơi khác nhau, họ nhận lương cơ hữu từ môt trường khác, còn khi là giảng viên thỉnh giảng họ chỉ được tính tiền theo số tiết dạy trên lớp vì thế họ chưa thực sự quan tâm nhiều thời gian về vấn đề này, chưa có thời gian tìm kiếm những cái mới, cũng như có thời gian để hướng dẫn, giúp đỡ học viên nhiều, mà phần lớn họ chỉ truyền đạt đủ kiến thức cho học viên.

Khi được hỏi về việc sử dụng phương pháp dạy học cũng như các phương tiện dạy học trên lớp các ý kiến khảo sát khá tương đồng trong mức độ đánh giá từ 45% ý kiến trở lên đánh giá giảng viên thỉnh giảng áp dụng các phương pháp dạy học truyền thống kết hợp với phương pháp dạy học tích cực, nhưng mức độ sử dụng ở từng giảng viên thỉnh giảng là khác nhau. Có những giờ học, các giảng viên thỉnh giảng đã áp dụng các phương pháp làm việc theo nhóm, đàm thoại hoặc dành một ít thời gian cho tranh luận để tạo hứng thú. Nhưng đối với một số môn học lý thuyết, phương pháp thuyết trình của giảng viên thỉnh giảng vẫn đang là phương pháp được áp dụng thường xuyên trên lớp hơn cả, vì đây là phương pháp truyền đạt được một số kiến thức tối đa trong một thời gian tối thiểu. Bên cạnh đó, còn nhiều ý kiến đánh giá là không thường xuyên sử dụng các phương pháp dạy học đó.

Qua các ý kiến khảo sát còn có 35% đánh giá giảng viên thỉnh giảng không thường xuyên sử dụng các phương tiện dạy học và các mô hình trình chiếu trong bài giảng và không thường xuyên sử dụng vật thật, tranh ảnh trong quá trình giảng dạy. Trong các ý kiến này có nhiều ý kiến khách quan từ các giảng viên cơ hữu, cán bộ quản lý bởi họ không phải là người trực tiếp được học trên lớp mà đánh giá qua các buổi trao đổi, các buổi dự giờ trên lớp.

Ngày nay, các trang thiết bị với công nghệ hiện đại đã hỗ trợ đắc lực cho quá trình dạy học. Nhà trường đã đề nghị giảng viên thỉnh giảng soạn giáo án trên powerpoint và sử dụng máy chiếu, các bài giảng đều được thiết kế và trình chiếu dưới dạng slide..đồng thời cũng có các phòng thực hành riêng để tạo điều kiện giảng dạy thuận lợi nhất và tốt nhất cho giảng viên, trong đó có giảng viên thỉnh giảng.

2.2.3 Thực trạng năng lực nghiên cứu khoa học ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu đối với đội ngũ giảng viên đại học và cũng là một trong những nhiệm vụ đối với giảng viên thỉnh giảng. Năng lực nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên thỉnh giảng được thể hiện qua các tiêu chí như số lượng bài báo khoa học, tham gia vào các công trình nghiên cứu khoa học các cấp (cấp trường, cấp thành phố, cấp Bộ), tham gia biên soạn các giáo trình, sách tham khảo…

Trong năm 2016, hầu hết các giảng viên thỉnh giảng đều có bài báo khoa học đăng tải lên tạp chí của Học viện và các tạp chí khoa học khác. Tuy nhiên, phần lớn các giảng viên thỉnh giảng chỉ có số lượng bài báo từ 1 – 2 bài, số lượng giảng viên thỉnh giảng có số lượng bài báo trên 3 bài là rất ít.

Kết quả Bảng 2.11 cho thấy, vẫn còn 102 giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp không có bài báo khoa học trong năm 2016 chiếm tỷ lệ 21,79%. Còn lại, phần lớn giảng viên thỉnh giảng có 1 bài báo khoa học là 281 giảng viên, chiếm tỷ lệ 60,04%. Số lượng giảng viên thỉnh giảng có số lượng bài báo khoa học từ 3 bài báo trở lên chỉ có 13 giảng viên chiếm tỷ lệ 2,78%.

Xét về tình hình chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, tham gia đề tài nghiên cứu khoa học và hướng dẫn sinh viên làm nghiên cứu khoa học vẫn còn rất ít. Số liệu cụ thể được thể hiện qua Bảng 2.12

Chỉ có 5 giảng viên thỉnh giảng (chiếm tỷ lệ 1,07%) tham gia chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cấp Học viện; 1 giảng viên thỉnh giảng (chiếm tỷ lệ 0,21%) tham gia chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cấp thành phố và không có giảng viên nào tham gia chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cấp Bộ.

Số lượng giảng viên tham gia đề tài nghiên cứu khoa học thì cao hơn. Có 32 giảng viên thỉnh giảng tham gia vào đề tài nghiên cứu khoa học, chiếm tỷ lệ 6,84% và có 8 giảng viên thỉnh giảng tham gia vào đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố, chiếm tỷ lệ 1,71% và có 2 giảng viên thỉnh giảng tham gia vào đề tài cấp Bộ, chiếm tỷ lệ 0,43%.

Về hướng dẫn học viên tham gia nghiên cứu khoa học thì các giảng viên thỉnh giảng chỉ hướng dẫn học viên nghiên cứu khoa học cấp Học viện, với số lượng giảng viên thỉnh giảng tham gia hướng dẫn là 38 giảng viên, chiếm tỷ lệ 8,12%.

Xét về biên soạn giáo trình và tài liệu môn học thì phần lớn tất cả các giảng viên thỉnh giảng đều tham gia vì có liên quan trực tiếp đến hoạt động giảng dạy của các giảng viên thỉnh giảng.

Nhìn chung, giảng viên thỉnh giảng chủ yếu chỉ thực hiện công tác giảng dạy tại trường, hoạt động nghiên cứu khoa học còn rất ít,chủ yếu là tham gia biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy môn học.Hoạt động xây dựng và phát triển chương trình đào tạo,biên soạn sách tham khảo cho các học phần giảng dạy cũng như hướng dẫn học viên tham gia vào các đề tài nghiên cứu khoa học chưa được thực hiện.

2.3 Thực trạng thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp

2.3.1 Thực trạng về thể chế quản lý và đảm bảo chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Tại Học viện Tư pháp vẫn chưa xây dựng thể chế riêng dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại trường. Theo đó, Học viện Tư pháp áp dụng thể chế quản lý chung cho giảng viên thỉnh giảng. Các thể chế quản lý giảng viên được Học viện áp dụng bao gồm: Luật Giáo dục ngày 14/6/2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ngày 25/11/2009; Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành điều lệ trường đại học; Thông tư số 44/2011/TT-BGDĐT ngày 10/10/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về chế độ thỉnh giảng trong các cơ sở giáo dục; Thông tư số 02/VBHN- BGDĐT ban hành ngày 24 tháng 12 năm 2013 quy định về chế độ thỉnh giảng trong các cơ sở giáo dục.

Theo đó, tại Học viện Tư pháp,Cơ sở pháp lý trực tiếp của việc thiết lập, duy trì và thực hiện hoạt động thỉnh giảng tại Học viện là hợp đồng giảng dạy, ký kết giữa cá nhân giảng viên và người đại diện theo pháp luật của nhà trường (Giám đốc Học viện hoặc Phó giám đốc Học viện được ủy quyền).

Vậy về cơ bản, quan hệ hợp đồng này được điều chỉnh bởi Luật Dân sự và pháp luật liên quan (Luật Giáo dục, Luật Công chức, Luật Viên chức, các văn bản quy định nội bộ của Học viện Tư pháp). Nhưng cách tiếp cận như hiện nay trong thể chế chung (Điều 4, Thông tư số 44/2011/TT-BGDĐT) và chưa phù hợp với bản chất pháp lý của quan hệ này.Thể chế chung đang thiếu vắng hoàn toàn điều khoản liên quan đến yêu cầu về việc giảng viên thỉnh giảng phải cam kết đảm bảo thực hiện đầy đủ kế hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy, đảm bảo đánh giá kết quả học tập của sinh viên khách quan, phù hợp với chương trình đào tạo. Trên phương diện là một tổ chức hành chính và sư phạm, nội dung này phải được xác định là nguyên tắc cơ bản của việc thực hiện hợp đồng thỉnh giảng.

Tương tự, để phù hợp với bản chất của quan hệ thỉnh giảng được thiết lập trên cơ sở mong muốn tự nguyện cống hiến, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng sư phạm của giảng viên thỉnh giảng đáp ứng được nhu cầu đào tạo của nhà trường thì về nguyên tắc, Học viện Tư pháp phải cam kết đảm bảo điều kiện, môi trường sư phạm và hỗ trợ tốt nhất cho giảng viên thỉnh giảng hoàn thành nhiệm vụ tại trường. Nhưng nội dung này vẫn chưa được quy định cụ thể do chưa có thể chế riêng dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp mà trong thể chế chung theo Thông tư số 44/2011/TT-BGDĐT lại chung chung, không rõ ràng và chưa phù hợp với điều kiện thực tế tại Học viện Tư pháp.

Mặc dù đội ngũ giảng viên thỉnh giảng có vai trò quan trọng với những cống hiến lớn cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học của trường nhưng hoạt động thỉnh giảng gần như do các bộ môn, trung tâm có nhu cầu tự điều tiết. Việc xác định nhu cầu, mời và bố trí giờ giảng cũng như xác nhận số lượng giờ giảng cho giảng viên thỉnh giảng hoàn toàn do sự chủ động của bộ môn, Nhà trường không có đầu mối và cơ chế quản lý tổng thể hoạt động này. Trải qua nhiều năm, các đơn vị trực thuộc căn cứ nhu cầu thực tế, tự chủ động trong việc xác định danh sách giảng viên, lịch giảng, bố trí thời khóa biểu lên lớp cho giảng viên, phối hợp thực hiện hướng dẫn thực hành cho sinh viên thực tập và làm các thủ tục hành chính khác. Quản lý hoạt động thỉnh giảng theo phương pháp này tuy mang đến cho đơn vị trực thuộc sự chủ động trong điều hành và quản lý nhưng hạn chế lớn nhất là không có sự quản lý tổng thể của Học viện đối với hoạt động thỉnh giảng và chất lượng thỉnh giảng, ảnh hưởng không nhỏ đến định hướng phát triển lâu dài về chất lượng nguồn nhân lực đào tạo Học viện Tư pháp đến năm 2022.

2.3.2 Thực trạng về xây dựng và phát triển môi trường đảm bảo chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

  • Thực trạng về chính sách lương, thưởng, phúc lợi dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng

Việc đảm bảo chế độ, chính sách đãi ngộ và ban hành các chính sách thu hút đội ngũ giảng viên thỉnh giảng giúp nhà trường đảm bảo về số lượng, đảm bảo về chất lượng, vừa giữ chân được những người tài vì việc đảm bảo chất lượng cuộc sống cho đội ngũ giảng viên, việc trả lương và đảm bảo các chế độ đãi ngộ khác một cách xứng đáng sẽ tạo động lực cho giảng viên thỉnh giảng.

Tuy nhiên, hiện nay giảng viên thỉnh giảng chỉ được thanh toán theo số tiết giảng dạy và đơn giá theo trình độ chuyên môn. Họ chỉ có tiền giảng dạy giờ nào hưởng giờ đó hơn nữa trả lương không dựa trên cơ sở đánh giá nên khiến giảng viên khó có thể toàn tâm toàn ý với công việc giảng dạy, điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. So sánh với giảng viên cơ hữu của trường, thì chế độ lương cả giảng viên thỉnh giảng thấp hơn rất nhiều. Giảng viên cơ hữu sẽ nhận được mức lương cơ bản theo hệ số quy định của Nhà nước cộng với hệ số đứng lớp. Ngoài ra, đơn giá tiết dạy được áp dụng bằng với đơn giá tiết dạy đối với giảng viên thỉnh giảng. Điều này cho thấy được sự chênh lệch rất lớn giữa chế độ lương giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng. Chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến động lực phấn đấu của giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp. Đơn giá đối với giảng viên thỉnh giảng quy định cụ thể như trong Hình 2.

Xét về thưởng và chế độ phúc lợi, giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp ít được coi trọng và có sự khác biệt rất lớn với giảng viên cơ hữu.

Trước hết, xét về chế độ bảo hiểm xã hội, các giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp không được đóng bảo hiểm xã hội. Điều này là dễ hiểu bởi hầu hết các giảng viên thỉnh giảng tại Học viện chủ yếu là những người đang công tác tại một tổ chức khác và có ký hợp đồng thỉnh giảng với Học viện.

Qua bảng tổng kết 2.13 cho thấy, công tác thưởng và phúc lợi của đội ngũ giáo viên thỉnh giảng không được quan tâm nhiều như đội ngũ giảng viên cơ hữu tại Học viện. Trong khi đó, tỷ lệ giảng viên là thỉnh giảng chiếm phần lớn trong đội ngũ giảng viên của Học viện (468 giảng viên thỉnh giảng, trong khi đó chỉ có 47 người). Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện trong những năm vừa qua.

Xét về các chế độ thưởng và phúc lợi khác cũng không được quan tâm nhiều, điều này được thể hiện cụ thể qua Bảng 2.13

  • Thực trạng về tạo môi trường cống hiến, đánh giá, ghi nhận và vinh danh giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Phần lớn giảng viên thỉnh giảng tham gia giảng dạy đều rất nhiệt tình, có chuyên môn cao, có kinh nghiệm thực tiễn và có phương pháp giảng dạy khoa học.Nhiều người có học hàm, học vị, là những chuyên gia đầu ngành trong hoạt động nghề.vì vậy, giá trị ưu tiên hàng đầu đối với đội ngũ này không hẳn là thù lao giảng dạy mà là cơ hội cống hiến, sự đánh giá, ghi nhận và vinh danh của cơ sở đào tạo đối với các thầy, cô.

Trong những năm qua, công tác đánh giá, ghi nhận và vinh danh giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp cũng được sự quan tâm của Ban lãnh đạo Học viện nhưng không được ghi nhận thành chính sách và có những tiêu chí cụ thể để vinh danh học hàm, học vị. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến mong muốn gắn bó của giảng viên thỉnh giảng đối với Học viện Tư pháp. Trong suốt giai đoạn 2012 – 2016, mới có 2 Phó giáo sư thỉnh giảng được vinh danh tại Học viện Tư pháp. Con số này quá thấp so với tổng số 13 Giáo sư, phó giáo sư thực hiện thỉnh giảng tại Học viện.

  • Thực trạng về quản lý, đánh giá đối với giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp

Mỗi một giảng viên đều có một bộ hồ sơ riêng và đối với mỗi trường Đại học đều có quy chế, quy định về hồ sơ chuyên môn cho giảng viên thỉnh giảng. Các khoa cung cấp cho giảng viên thỉnh giảng về tiến độ giảng dạy toàn trường, kế hoạch giảng dạy môn học, giáo trình, đề cương chi tiết giảng dạy môn học và các tài liệu tham khảo.Quản lý thực hiện quy định về hồ sơ chuyên môn có vai trò quan trọng,giúp cho giảng viên thỉnh giảng duy trì nề nếp chuyên môn tốt, khoa học và đúng tiến độ. Phòng kiểm định chất lượng Giáo dục sẽ định kỳ kiểm tra và có thể đột xuất kiểm tra hồ sơ chuyên môn của giảng viên. Riêng đối với giảng viên thỉnh giảng, phòng kiểm định chất lượng Giáo dục cũng trao đổi với Khoa, bộ môn có giảng viên thỉnh giảng để các khoa kiểm soát chịu trách nhiệm về giảng viên thỉnh giảng mà khoa đã mời.

  • Thực quản lý việc lập kế hoạch giảng dạy cho giảng viên thỉnh giảng

Để quản lý giảng dạy có hiệu quả, Học viện xác định công tác lập kế hoạch có vai trò hết sức quan trọng. Hàng năm, vào đầu năm học, nhà trường căn cứ vào kế hoạch đào tạo của trường, khoa và tình hình giảng viên của khoa, sau khi trao đổi ý kiến với phòng đào tạo, đầu năm học ngoài những giảng viên cơ hữu đảm nhận giảng dạy trong chương trình, phần còn lại khoa lên kế hoạch mời giảng viên bên ngoài giảng dạy cho đơn vị mình theo yêu cầu của bộ môn cần mời giảng. Kế hoạch mời giảng phải tuân thủ theo mẫu quy định và ghi cụ thể số lượng giảng viên viết và gởi lý lịch khoa học về Phòng Tổ chức cán bộ, có sự xác nhận của cơ quan quản lý, nơi đang làm việc. Đề cương, bài giảng môn học phải tuân thủ theo đúng yêu cầu của khoa. Ngoài ra, các khoa phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về số lượng, chất lượng giảng viên thỉnh giảng mời về giảng dạy tại trường.

Để đánh giá được cụ thể hơn về công tác quản lý, đánh giá đối với đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, tác giả đã thu thập kết quả khảo sát của 70 cán bộ quản lý, giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng. Các đánh giá được thực hiện trên 4 mức độ: 1 – Tốt; 2 – Khá; 3 – Trung bình; 4 – Yếu.

Trên cơ sở định hướng phát triển từng giai đoạn nhà trường đã tiến hành rà soát điều chỉnh và xây dựng mới các chương trình đào tạo chi tiết. Các chương trình giáo dục đào tạo được tập thể giảng viên có chuyên môn, có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy trực tiếp biên soạn.

Để giám sát việc thực hiện chương trình của các giảng viên thỉnh giảng, nhà trường đã phân công cho các khoa thực hiện các biện pháp kiểm tra kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch giảng dạy của giảng viên thỉnh giảng, nhưng thực tế khoa vẫn chưa thực sự quan tâm, theo dõi sát sao nên hiệu quả không cao, vẫn còn nhiều giảng viên vào lớp muộn, không thực hiện đúng lịch vẫn còn trống tiết không rõ lý do.. ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Qua kết quả khảo sát ở bảng số liệu trên ta thấy rằng các ý kiến đánh giá khá tương đồng. Khi được hỏi về việc thường xuyên theo dõi thực hiện chương trình giảng dạy môn học của giảng viên thỉnh giảng có đến 32,9% đánh giá ở mức trung bình,8,6% đánh giá ở mức độ yếu, đánh giá về tiến độ giảng dạy quản lý nề nếp lên lớp của giảng viên có 35,7% đánh giá mức độ trung bình, 8,6% đánh giá ở mức độ yếu. Điều này chứng tỏ rằng nhà trường vẫn chưa thực sự làm tốt vấn đề n quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên thỉnh giảng, cần phải quan tâm, sát sao hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và đảm bảo được kế hoạch giảng dạy cũng như theo dõi được các hoạt động lên lớp của giảng viên.

Đánh giá về việc sử dụng kết quả thực hiện nề nếp trong đánh giá, xếp loại chất lượng giảng viên thỉnh giảng có sự chênh lệch trong các ý kiến có thể do tư tưởng của nhiều giảng viên là đến lớp truyền đạt hết kiến thức là hoàn thành trách nhiệm, nhưng thực tế tinh thần, trách nhiệm của một người giảng viên lại rất cần thiết, nhà trường rất đề cao việc thực hiện này về phía các giảng viên thỉnh giảng. Chính vì thế nhà trường đã đưa vấn đề này trong hợp đồng thỉnh giảng để giảng viên thỉnh giảng xem xét, có nên hay không nên tham gia giảng dạy tại trường cũng như về phía nhà trường có nên hay không nên mời giảng viên thỉnh giảng này tiếp tục giảng dạy nữa hay không.

  • Thực trạng quản lý việc sử dụng phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, đánh giá giờ dạy của Giảng viên thỉnh giảng

Trường khuyến khích và yêu cầu giảng viên đổi mới phương   pháp giảng dạy để đạt hiệu quả cao. Để bồi dưỡng và nâng cao năng lực sử dụng phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, trường tổ chức hội thảo cấp cơ sở về đổi   mới phương pháp dạy học thu hút nhiều giảng viên đặc biệt là có sự tham gia của giảng viên thỉnh giảng, có một số giải pháp giúp giảng viên triển khai đổi mới phương pháp dạy học, ra đề, chấm thi…để giúp các giảng viên thỉnh giảng có cái nhìn khái quát về mô hình đào tạo của trường, hiểu rõ hơn về đặc thù môn học để giảng viên thỉnh giảng vận dụng phương pháp dạy học, phương tiện dạy học phù hợp nhất nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các ngành, nghề của trường…

  • Thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên

Trường thực hiện quy trình đánh giá giữa kỳ, cuối kỳ, điểm chuyên cần. Vận dụng các phương pháp thi viết, vấn đáp, kiểm tra thực hành. Một số môn học ngoài đề thi tự luận đã triển khai có kết quả đề thi trắc nghiệm khách quan, chọn đề, chấm thi tự động, đảm bảo tính chính xác, khách quan và công bằng cho học viên.

Có quy định về quy trình kiểm tra, đánh giá đảm bảo tính khách quan, chính xác, như hai người chấm thi, khoa thẩm định đề, chọn đề, rọc phách, lên điểm…; Có tổ chức kiểm tra, đánh giá theo nhiều cách thức khác nhau giữa kỳ, hết môn theo đúng quy chế. ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Trong bảng khảo sát 2.15 cho thấy việc thực hiện nghiêm quy chế KT- ĐG thi học kỳ, thi hết môn và việc quản lý đổi mới cách thức KT-ĐG của giảng viên thỉnh giảng đã có nhiều ý kiến đánh giá tốt, khá. Bên cạnh đó quản lý quá trình chấm điểm trên lớp, chấm bài kiểm tra và trả bài KT-ĐG của giảng viên thỉnh giảng có nhiều ý kiến đánh giá mức trung bình tức là chưa thực hiện nghiêm túc vấn đề này. Thực tế ở trường có nhiều khoa đã thực hiện tốt tuy nhiên có nhiều giảng viên chấm điểm cho học viên chưa chính xác điều này đã làm ảnh hưởng đến kết quả học tập trong từng học kỳ của học viên

Về mức độ quản lý việc đổi mới cách thức KT-ĐG, có 32,9% đánh giá mức trung bình, 41,4%khá và 25,7% đánh giá mức tốt. Tuy nhiên, việc quản lý quá trình chấm điểm trên lớp, chấm bài và kiểm tra bài KT-ĐG của giảng viên thỉnh giảng thì chỉ có 12,9 % đánh giá tốt, 50% đánh giá mức khá, 28,6% đánh giá mức trung bình còn lại là yếu, phần lớn giảng viên thỉnh giảng không trả bài KT-ĐG cho học viên nếu có bài KT thì trên bài kiểm tra cũng chỉ có mỗi điểm số, ít có sữa chữa, nhận xét trong bài.

Đối với việc tổ chức thanh tra, giám sát thi học kỳ, thi hết môn nhà trường đã thực hiện việc này rất tốt có đến 34,2% đánh giá tốt, và 54,3% khá. Vấn đề công bằng, chính xác trong KT-ĐG của giảng viên thỉnh giảng được đánh giá 15,7% tốt, 45,7% khá và 27,1% trung bình,11,4% ở mức yếu. Do đó, vấn đề đảm bảo công bằng và chính xác cho học viên là điều rất cần thiết.

2.3.3 Thực trạng về tăng cường năng lực hội nhập và phát triển hài hòa của giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp

Hiện tại, Học viện Tư pháp chưa xây dựng được khung năng lực dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến đến công tác tuyển dụng, đánh giá năng lực và xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện.

Hàng năm, Học viện Tư pháp đều triển khai hội nghị tập huấn giảng viên trong đó có giảng viên thỉnh giảng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Đây là cơ hội cho các giảng viên có cơ hội giao lưu, trao đổi với nhau để có sự hợp tác trong quá trình tham gia giảng dạy cho trường.

Hội nghị tập huấn giảng viên hướng đến các mục tiêu cụ thể: nội dung, yêu cầu đặt ra đối với hoạt động giảng dạy; Trao đổi và thống nhất về công tác phối hợp trong việc tổ chức hoạt động giảng dạy sao cho đảm bảo sự linh hoạt, chặt chẽ và hiệu quả; Giới thiệu về Chương trình môn học, học liệu, phương pháp giảng dạy.

Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng trình độ tiếng anh, tin học rất ít được Học viện quan tâm. Phần lớn, các giảng viên thỉnh giảng đều tự bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về ngoại ngữ, tin học để đáp ứng được yêu cầu công việc. Trong suốt giai đoạn 2012 – 2016, Học viện cũng đã tổ chức một số lớp bồi dưỡng tiếng anh dành cho giảng viên. Nhưng các lớp học này chỉ dành cho đội ngũ giảng viên cơ hữu.

2.4 Đánh giá chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

2.4.1 Ưu điểm

Thứ nhất, hầu hết giảng viên thỉnh giảng có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, nhiệt tình, trách nhiệm với công việc, luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo học viên trong quá trình học tập.

Thứ hai, đa số giảng viên thỉnh giảng đảm bảo yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm.

Thứ ba, hầu hết các giảng viên thỉnh giảng đều có năng lực nghiên cứu khoa học khi mà phần lớn các giáo viên thỉnh giảng đều có bài báo khoa học trong năm 2016.

2.4.2 Hạn chế

Thứ nhất, một số giảng viên thỉnh giảng được đánh giá là chưa nhiệt tình và có trách nhiệm với học viên. Vẫn còn hiện tượng lên lớp không đúng giờ, không thực hiện giảng dạy theo đề cương môn học, khả năng bao quát giảng viên còn hạn chế.

Thứ hai, một bộ phận giảng viên không đáp ứng tiêu chuẩn về chuyên môn (95 giảng viên thỉnh giảng là cử nhân).

Thứ ba, do một số giảng viên là người hành nghề thực tế, ít có kinh nghiệm giảng dạy nên nghiệp vụ sư phạm yếu là giảm hiệu quả truyền đạt cho học viên.

Thứ tư, trình độ ngoại ngữ, tin học của giảng viên ở mức thấp, khó đáp ứng được yêu cầu đào tạo các chức danh tư pháp theo chuẩn quốc tế.

Thứ năm,giảng viên thỉnh giảng chủ yếu chỉ thực hiện công tác giảng dạy tại trường, hoạt động nghiên cứu khoa học còn rất ít,chủ yếu là tham gia biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy môn học.Hoạt động xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, biên soạn sách tham khảo cho các học phần giảng dạy cũng như hướng dẫn học viên tham gia vào các đề tài nghiên cứu khoa học chưa được thực hiện.

2.4.3 Nguyên nhân hạn chế ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Thứ nhất, Học viện Tư pháp vẫn chưa xây dựng thể chế riêng dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại trường. Điều này đã khiến cho công tác quản lý đội ngũ giảng viên thỉnh giảng và chất lượng giảng dạy của giảng viên thỉnh giảng gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai, chính sách lương thưởng dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng chưa được sự quan tâm của Học viện. Xuất hiện sự chênh lệch rất lớn về chế độ chính sách lương, thưởng, phúc lợi giữa đội ngũ giảng viên thỉnh giảng và giảng viên cơ hữu của Học viện. Điều này đã làm giảm đi động lực phấn đấu và cống hiến của đội ngũ giảng viên dành cho Học viện. Từ đó, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giảng dạy.

Thứ ba, trong những năm qua, công tác đánh giá, ghi nhận và vinh danh giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp cũng được sự quan tâm của Ban lãnh đạo Học viện nhưng không được ghi nhận thành chính sách và có những tiêu chí cụ thể để vinh danh học hàm, học vị. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến mong muốn gắn bó của giảng viên thỉnh giảng đối với Học viện Tư pháp.

Thứ tư, quản lý giảng viên thỉnh giảng chưa sát sao, chưa thực hiện đánh giá, phân loại với giảng viên thỉnh giảng.

Thứ năm, Học viện Tư pháp chưa xây dựng được khung năng lực dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến đến công tác tuyển dụng, đánh giá năng lực và xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng của Học viện.

Thứ sáu, công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ giáo viên thỉnh giảng chưa được Học viện quan tâm thực sự.

2.5 Kết luận chương 2 và nhiệm vụ chương 3 ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Trong chương 2, Luận văn đã tổng quan chung về Học viện Tư pháp về lịch sử hình thành và phát triển; Chức năng và nhiệm vụ; Cơ cấu tổ chức; Quy mô và ngành nghề đào tạo và đặc điểm đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp. Luận văn cũng đã đi sâu vào phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp trong giai đoạn 2012 – 2016 dựa trên 3 nhóm tiêu chí: (1) Các tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống; (2) Tiêu chí về năng lực giảng dạy; (3) Tiêu chí về năng lực nghiên cứu khoa học.

Đồng thời, Luận văn cũng đi sâu vào phân tích thực trạng 3 giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng được thực hiện tại Học viện Tư pháp bao gồm: (1) Thực trạng về thể chế quản lý và đảm bảo chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp; (2) Thực trạng về xây dựng và phát triển môi trường đảm bảo chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp; (3) Thực trạng về tăng cường năng lực hội nhập và phát triển hài hòa của giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp.

Trên cơ sở đó, tác giả đã đánh giá được những ưu điểm và nhược điểm của chất lượng giảng viên thỉnh giảng và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong chất lượng giảng viên thỉnh giảng là do: Học viện Tư pháp vẫn chưa xây dựng thể chế riêng dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại trường; Chính sách lương thưởng dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng chưa được sự quan tâm của Học viện; Công tác đánh giá, ghi nhận và vinh danh giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp còn nhiều hạn chế; Quản lý giảng viên thỉnh giảng chưa sát sao, chưa thực hiện đánh giá, phân loại với giảng viên thỉnh giảng; Học viện Tư pháp chưa xây dựng được khung năng lực dành cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tại Học viện và công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ giáo viên thỉnh giảng chưa được Học viện quan tâm thực sự. Đây chính là một trong những căn cứ để đề xuất một số giải pháp ở chương 3.

Trong chương 3, Luận văn đi sâu vào phân tích, nghiên cứu các nhiệm vụ cụ thể sau:

  • Định hướng của việc nâng cao chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp từ nay đến năm 2022
  • Các giải pháp nâng cao chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp từ nay tới năm 2022
  • Giải pháp xây dựng thể chế quản lý và đảm bảo chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp
  • Giải pháp xây dựng và phát triển môi trường đảm bảo chất lượng giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp
  • Giải pháp về tăng cường năng lực hội nhập và phát triển hài hòa của giảng viên thỉnh giảng tại Học viện Tư pháp ( Luận văn: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng )

Mời bạn tham khảo thêm:

Luận văn: Giải pháp nâng cao chất lượng giảng viên thỉnh giảng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993