Trong Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, mời các bạn đọc giả tham khảo ngay Đề tài Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dưới đây để hiểu rõ hơn nhé!
Nội dung chính
2.1. Thực trạng phát triển và đổi mới KTNN
2.1.1. Tổng quan sự phát triển của KTNN trong 15 năm đổi mới, phát triển.
Trong 15 năm qua, KTNN đã có những chuyển biến đáng kể: KTNN giữ vai trò chủ đạo, DNNN giữ những vị trí then chốt nắm trong tay những nguồn lực cơ bản của xã hội, là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Trong đó nổi bật có những nét đáng chú ý sau:
- Chúng ta đã chuyển đổi thành công từ chế độ quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
- Tiến hành sắp xếp, đổi mới DNNN và đã thu được những kết quả bước đầu đáng khích lệ.
- Tốc độ tăng trưởng của KTNN khá đều đặn, hàng năm đóng góp từ 40-46%
Bên cạnh đó, KTNN vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém như : chưa được củng cố tương xứng vai trò chủ đạo, chưa có những chuyển biến đáng kể trong sắp xếp và đổi mới DNNN… và còn nhiều vấn đề phức tạp mà bài viết sẽ đề cập cụ thể trong các phần sau.
2.1.2. Thực trạng phát triển.
Trong những năm vừa qua, hoạt động của các DNNN giữ một vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó là một bộ phận nắm giữ cơ sở vật chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân; nơi tập trung chủ yếu giai cấp công nhân và cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lý của đất nước, nơi đưa lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Hiện nay ở nước ta có khoảng 5280 DNNN với tổng số vốn gần 116 ngàn tỉ đồng. Xét về mặt số lượng chỉ chiếm khoảng 17% tổng số doanh nghiệp và hàng năm đóng góp từ 40-46% trong tỉ trọng GDP của cả nước. Các DNNN là lực lượng chủ yếu nắm hầu hết các nguồn lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng, 90% lao động được đào tạo có hệ thống và được nhận hầu hết các ưu đãi của Nhà nước so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhìn chung lực lượng DNNN đang chiếm giữ một vị trí then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của đất nước. ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
Thời gian qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1991 đến nay Chính phủ đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới và sắp xếp lại các DNNN. Đây là một chủ trương lớn, còn nhiều vấn đề phải bàn đến, người viết xin đề cập chi tiết trong những phần sau.
Nhìn chung, hiện nay các DNNN vẫn làm ăn thua lỗ, hiệu quả kinh tế đạt thấp, tồn tại nhiều bất cập, mức tiết kiệm của DNNN còn hạn chế. Theo báo cáo của tổng cục quản lí vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp năm 1998 chỉ có 37% số DNNN làm ăn có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Theo báo cáo của Bộ trưởng Tài chính tại Quốc hội thì cuối năm 1999 chỉ có 20% số DNNN kinh doanh có hiệu quả. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNNN giảm dần năm 1996: 11,2%, 1997: 9,7%, 1998: 9,1%, 1999: 9,2%. Con số trên chứng tỏ khả năng sinh lợi của các DNNN thấp và có xu hướng ngày càng giảm. ở các DNNN tình trạng phổ biến là ứ đọng hàng hoá, khả năng mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ để sản xuất ra các mặt hàng có giá trị cao hơn, có khả năng xuất khẩu hơn rất ít. Sản phẩm giá thành còn cao, giá xuất xưởng của nhiều loại sản phẩm chủ yếu của ta cao hơn hẳn giá sản phẩm nhập khẩu.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN sau một thời gian liên tục đạt 13% đến năm 1999đã giảm xuống còn khoảng 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995: 1 đồng vốn tạo ra được 3,16 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận, đến năm 1998 chỉ tạo ra được 2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Nợ nần trong các doanh nghiệp còn rất cao, năm 1996 tổng số nợ của các DNNN là 174.797 tỉ đồng, năm 1999 đã lên tới 199.060 tỷ đồng, trong đó nợ phải trả bằng 109% vốn nhà nước trong các doanh nghiệp và khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp lại rất thấp. Trong khu vực công nghiệp hoạt động của các DNNN cũng đem lại hiệu quả thấp; Năm 1997 (không kể các ngành khai khoáng là than và dầu khí) tỷ trong xuất khẩu trên tổng giá trị sản xuất công nghiệp của: DNNN là 17,2%, đầu tư nước ngoài 46,2%, ngoài quốc donah 46,6%. 5 tháng đầu năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 14,3% so với cùng kỳ năm 1999, trong đó khu vực DNNN tăng 12,5% (Trung ương quản lý tăng 11,8%, đại phương quản lý tăng 13,9%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%. Những số liệu trên đây cho thấy hiệu quả hoạt động của khu vực quốc doanh thấp hơn nhiều so với khu vực liên doanh và ngoài quốc doanh.
Từ hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước của các DNNN cũng ít hơn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Năm 1998, công nghiệp Nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản xuất toàn nghành, nhưng chỉ đóng góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với 46,7% vốn, 8,2% lao động đã sản xuất ra 31,8% tổng giá trị sản xuất và đóng góp 56,8% tổng số nộp ngân sách toàn ngành. Đặc biệt tổng giá trị sản xuất của khu vực DNNN ngày càng thấp so với tốc độ toàn ngành công nghiệp vốn đã chậm dần.
Theo số liệu của Bộ tài chính, tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2000 ước tính đạt 41,2% dự toán cả năm và tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu từ khu vực KTNN chiếm 20,8% tổng số thu, đạt 40,2% và giảm 9,0%, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28,7% đạt 46,9% và tăng 68,7%.
2.1.3. Thực trạng đổi mới và sắp xếp lại DNNN. ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
Ngay từ đại hội VI, Đảng ta đã đề xuất chủ trương thực hiện đổi mới sắp xếp lại DNNN như là một bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đáp ứng yêu cầu thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN. Từ đó đến nay qua các thời kì chủ trương này lại được bổ xung và phát triển.
- Sự cần thiết phải đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
Cải cách DNNN là quá trình tất yếu, khách quan. Nó xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đặt ra ở trong nước cũng như trên thế giới.
Hiện nay, trong bối cảnh thế giới, xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Đây là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Đây là một cơ hội giúp chúng ta phát triển, đồng thời nó cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, mặt tiêu cực như sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường sinh thái. Điều này đặt ra cho chúng ta những yêu cầu và thách thức phải đổi mới để hội nhập. Muốn vậy phải cải cách nền kinh tế, tăng cường nội lực, để phát triển đón nhận những thời cơ mà thời đại đem lại. Mà một trong những việc phải làm đầu tiên là cải cách hệ thống DNNN làm cho nó thích nghi một cách toàn vện với cơ chế mới, tạo đòn bẩy cho sự tăng trưởng. Điều này khẳng định tính tiên phong của thành phần kinh tế XHCN.
Thời đại ngày nay ghi nhận những phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật và công nghệ mà những ứng dụng của chúng đem lại những biến đổi lớn lao trong đời sống xã hội. Thế giới đang chuyển sang nền kinh tế trí thức. Việt Nam cũng chuyển mình đón nhận những thành tựu do khoa học kĩ thuật đem lại. Hệ thống các DNNN phải đi đầu cải tiến, đổi mới sản xuất, áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại, là tấm gương tiêu biểu trong sự nghiệp phát triển kinh tế.
Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, việc áp dụng quá lâu cơ chế quản lý quan liêu bao cấp đã gây ra sự khủng hoảng trong đời sống kinh tế – xã hội. Suốt mộ thời gian dài Nhà nước là người đứng ra quyết định tất cả các vấn đề về sản xuất cũng như tiêu thụ trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ thụ động sản xuất theo kế hoạch đề ra, chúng chỉ như những phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc dân. Lối quản lý này làm sơ cứng nền kinh tế, mất đi động lực phát triển, phí phạm tài nguyên và các vấn đề lợi ích khác không được giải quyết thoả đáng. Đại hội Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế, chuyển đổi cơ chế quan liêu bao cấp sang thực hiện cơ chế thị trường. Cùng với nó là quá trình cải tổ sâu sắc trong hệ thống DNNN đáp ứng đòi hỏi của cơ chế mới thời kỳ mới.
Cơ chế quản lý không phù hợp, cùng với những nguyên nhân khách quan như chiến tranh cấm vận để lại di chứng rất nặng nề cho nền kinh tế. Đó là tình trạng yếu kém của hầu hết cácDNNN, sản xuất đình trệ. Hiện tại, các doanh nghiệp có những khó khăn chủ yếu sau trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, máy móc nhà xưởng cũ kỹ, năng kực đội ngũ cán bộ không đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, sử dụng vốn kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ kéo dài, nợ nần chồng chất gây gánh nặng cho nền kinh tế. Cải cách DNNN làm cho chúng phát triển là một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra trong hiện tại cũng như tương lai.
Việc sắp xếp, đổi mới DNNN phải theo hướng tập trung nắm giữ những đầu mối chính, tạo sự năng động tự chủ của các doanh nghệp. Nhà nước chỉ nắm giữ những ngành, lĩnh vực chủ chốt làm tăng tính hiệu quả của hoạt động Nhà nước. Điều này không hề làm giảm sút sức mạnh của KTNN mà còn tạo cho Nhà nước một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Từ đó mà định hướng XHCN ngày càng được xác lập ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
- Phương hướng chung, đường lối chỉ đạo, mục tiêu nguyên tắc
Trên tinh thần Đại hội IX, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp và ra nghị quyết TW3 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quảDNNN. Nghị quyết nêu rõ :
* Quan điểm chỉ đạo.
- KTNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. DNNN (gồm DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiên vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của DNNN phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chinh trị, xã hội; trong đó, lấy lãi suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm kết quả chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích.
- Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những nghành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đói với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trong lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận DNNN, cho phá sản DNNN yếu kém, thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ. Qua 3 đợt, DNNN đã giảm từ 12 300 doanh nghiệp còn 5 571 ( giảm 55% về số lượng, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và do địa phương quản lý ). Cơ cấu DNNN bắt đầu được điều chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và có sức cạnh tranh. Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng giảm từ 50% năm 1994 xuống còn 26% năm 1999 ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng tăng tương ứng, từ 10% lên 20% ; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 21 tỉ đồng. Trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, Nhà nước đã giải quyết trợ cấp thôi việc một lần cho 72 vạn lao động. ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
- Tổ chức, củng cố và phát triển các tổng công ty nhà nước ( TCTNN ) nhằm tập trung nguồn lực của Nhà nước vào các ngành then chốt mà Nhà nước cần chi phối… Thời gian qua, đã sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và Tổng công ty. Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập 17 tổng công ty 91 và uỷ quyền cho các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quản lý 77 tổng công ty 90. Các TCTNN có 1 534 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 27,5% tổng số doanh nghiệp cả nước, 61% về lao động ( riêng 17 tổng công ty 91 có 491 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 8,8% số lượng DNNN, 35% lao động ). Nhìn chung, các TCTNN đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và đã trở thành công cụ quan trọngđể Nhà nước điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Các TCTNN đã bảo toàn và tích tụ được vốn ngày càng tăng, huy động nhiều nguồn lực đầu tư, đổi mới công nghệ,tăng nhanh năng suất lao động, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh ( năm 1999, riêng 17 tổng công ty 91 đã bổ sung thêm nguồn vốn 15 850 tỷ đồng, chiếm 22,5% tổng số vốn, doanh thu tăng 12%, lợi nhuận tăng 23%, nộp ngân sách tăng 29% ).
- Cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Tính đến hết tháng 11/2001, cả nước đã có 771 doanh nghiệp được cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu (trong đó có 698 doanh nghiệp được cổ phần hoá, 41 doanh nghiệp được giao và 32 doanh nghiệp được bán), bằng 13% số doanh nghiệp hiện có, với số vốn gần 3.000tỷ đồng, bằng hơn 2% tổng vốn nhà nước trong DNNN. Sau khi cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu, các doanh nghiệp đã huy động được thêm hơn 2.000 tỷ đồng của các cá nhân pháp nhân, đồng thời thông qua bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu thêm hơn 1150 tỷ đồng để đầu tư và giải quyết chính sách cho người lao động. Bên cạnh đó, phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi không mất đi mà lại tăng thêm từ 10 – 15% so với giá trị trên sổ sách. Cùng với quá trình cổ phần hoá, Đảng, Chính phủ chủ trương để một số DNNN đầu tư một phần vốn thành lập công ty cổ phần mới. Đến ngày 18-5-2000, DNNN đã đầu tư vốn thành lập 279 công ty cổ phần mới với tổng số vốn Nhà nước là 868,8 tỷ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. Kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy : 267 công ty (96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại (3,6%) hoà vốn.
- Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản Nhà nước, bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động. Theo báo cáo chưa đầy đủ, đến ngày 31/1/2001, số DNNN thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê theo Nghị định 103/1999/NĐ-CP là 105 doanh nghiệp. Hình thức doanh nghiệp sau khi chuyển đổi chủ yếu là công ty cổ phần, cổ đông chủ yếu là số lao động làm việc tại doanh nghiệp, ngoài ra cũng có một số trường hợp bán cho người ngoài doanh nghiệp. Phần lớn các địa phương và doanh nghiệp lựa chọn hình thức giao và bán (chuyển đổi sở hữu), chiếm tương ứng 37% và 47,5%; thực hiện thuê và khoán kinh doanh (chuyển đổi phương tức quản lý) chỉ chiếm tương ứng 2% và 15,2%. Đánh giá một cách tổng quát, sau khi chuyển đổi, nhiều doanh nghiệp đã ổn định tổ chức, vốn kinh doanh có xu thế tăng, doanh thu và lợi nhuận tăng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Cụ thể, so với trước khi chuyển đổi, vốn kinh doanh tăng 67,3 %; doanh thu tăng 42,5%; nộp ngân sách Nhà nước tăng 44,5%; số lao động tăng 12,8%; thu nhập bình quân của người lao động tăng 38,7% ( từ 280.000 lên đồng/người/tháng)… Từ đó cho thấy việc thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp đã khắc phục được tình trạng giải thể, phá sản doanh nghiệp, bán phát mại tài sản của Nhà nước; khắc phục được tình trạng người lao động mất việc làm, năng lực sản xuất của DNNN được phát huy, xoá được bao cấp, bù lỗ của Nhà nước, tăng khả năng huy động nguồn vốn trong dân. ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
Trong các nội dung trên, cổ phần hoá các DNNN và đổi mới cơ chế chính sách là hai xu thế chủ đạo của tiến trình này người viết xin đề cập chi tiết trong những phần sau.
*Về mặt thành tựu, có thể khái quát mặt được của DNNN sau quá trình sắp xếp đổi mới như sau :
- Hầu hết các DNNN đều có những chuyển biến tích cực: cơ cấu và quy mô bước đầu được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn; thích ứng được với cơ chế thị trường; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; vốn được bảo toàn và tăng thêm; vốn tích luỹ, tự bổ sung từ chỗ không đáng kể đã tăng lên 27% tổng vốn sản suất kinh doanh; hiệu quả hoạt động từng bước tăng lên.
- DNNN đã góp phần rất quan trọng để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối được các ngành và lĩnh vực then chốt; thực sự là nòng cốt tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách Nhà nước; bảo đảm cân đối lớn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô; là lượng chính trong việc bảo đảm các sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã hội.
- Số DNNN giảm mạnh nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực DNNN vẫn duy trì mức khá cao, bình quân tăng 11%/năm trong 10 năm (1991 –1999). Năm 2000 các DNNN đóng góp 39 %
2.2. Vấn đề đặt ra.
Như vậy, qua các phần phân tích ở trên, chúng ta đã hiểu phần nào về thực trạng của các DNNN, bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại và vướng mắc cần giải quyết. Trong phạm vi bài viết chỉ xin đưa ra những vấn đề cơ bản nhất:
Thứ nhất, về mặt nhận thức quan điểm, chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của KTNN và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN; nhiều vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận. Từ đó dẫn đến cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ.
Thứ hai, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các DNNN còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn; tính năng động của một bộ phận không nhỏ DNNN còn hạn chế. Theo đánh giá chung, năm 1998 số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả liên tục bị thua lỗ chiếm 20%, còn lại 40% doanh nghiệp kinh doanh chưa hiệu quả khi lỗ khi lãi. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn nhà nước của DNNN không cao và có xu hướng giảm dần (Năm 1996 là 11,2 %, năm 1997 là 9,3%, năm 1998 là 9,1%, năm 1999 là 9,2%). Không ít doanh nghiệp xây dựng dư án, kế hoạch không phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành, thiếu tính khả thi; việc bảo toàn vốn của không ít doanh nghiệp chưa tốt, còn có tình trạng ăn vào vốn, mất vốn. ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
Thứ ba, đầu tư đổi mới công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu đang là cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Theo số liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thì trừ một số doanh nghiệp có trình độ khoa học và công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực ( sản xuất thiết bị đo điện, sản xuất điện tử, sản xuất sợi dệt …) còn lại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp của ta lạc hậu so với thế giới và khu vực từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm (cơ khí, sản xuất phôi); trình độ cơ khí tự động hoá dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%. Hậu quả trực tiếp của tình trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt thép, phân bón, xi măng, kính xây dựng…có mức giá cao hơn giá nhập khẩu từ 20% đến 40%, riêng đường thô cao hơn 70% – 80%. Đến tháng 10/2000 cả nước mới có 236 doanhy nghiệp được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/9000, trong đó chỉ có 97 DNNN.
Thứ tư, quy mô của DNNN vẫn còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý. Đến nay cả nước có 5771 doanh nghiệp với tổng số vốn khoảng 116 000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có gần 21 tỷ đồng; số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%. DNNN tập trung vào những ngành những lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế mà DNNN nhất thiết phải chi phối.
Thứ năm, lao dộng thiếu việc làm và dôi dư có xu hướng ngày càng tăng là khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu của bộ Lao động Thương binh – Xã hội, hiện nay, số lao độnh không có việc làm thường xuyên và mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp lên tới 40%. Đây là một thực trạng bức xúc mà người viết xin đề cậpcụ thể trong những phần sau.
Thứ sáu, trình độ quản lý của DNNN phần lớn còn yếu kém chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường; nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trước cơ chế thị trường.
Thứ bảy, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý DNNN còn nhiều tồn tại vướng mắc cần tháo gỡ.
- Chính sách tài chính, tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn nhều điểm chưa phù hợp với loại hình DNNN hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để DNNN tự chủ tự tạo trách nhiệm, năng độnh trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng và phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt vốn trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh , tạo điều kiện cho tích luỹ vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và buộc DNNN hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động. Chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắnchặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi chẳng hạn như : Quỹ dự phòng rủi ro, Quỹ dự phòng thất nghiệp (lấy từ lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp), tiền thu sử dụng vốn…
- Về đầu tư , việc phân cấp giao quyền quyết định cho doanh nghiệp chưa rõ ràng và không đầy đủ, không chịu trách nhiệm khi phương án đầu tư không hiệu quả và chưa có cơ chế kiểm soát đầu tư. ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
- Về quản lý Nhà nước, chưa phân định rõ các loại quyền như :quyền quản lý của Nhà nước đối với DNNN; quyền của cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu ; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp với doanh nghiệp ; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp ; còn quá nhiều văn bản pháp qui chồng chéo, thiếu khả thi ; cơ chế phá sản của doanh nghiệp còn chưa được thực hiện theo luật phá sản doanh nghiệp (Đại diện ngân hàng sợ mất vốn; đại diện công nhân viên chức sơ không giải quyết được chế độ với công nhân; lãnh đạo doanh nghiệp sợ mất quyền lợi và truy cứu trách nhiệm).
* Những khó khăn gặp phải trong quá trình cải cách doanh nghiệp.
Cải cách doanh nghiệp là một chủ trương lớn hiện nay nó có tính chất quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Song hiện nay tiến trình này vẫn chưa phát huy hiệu quả. Vấn đề là do đâu? Bài viết xin đề cập đến những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình này với mong muốn góp phần tìm ra giải pháp.
+ Đầu tiên, xin đề cập tới việc thành lập các tổng công ty 90, 91 . Qua thực trạng hoạt động cho thấy ở không ít tổng công ty hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên còn rời rạc, chưa tạo lập được thực thể kinh tế thống nhất bằng cơ chế tổ chức và điều hành. Mặc dù có nhiều lợi thế, song một số tổng công ty chưa thực hiện tốt vai trò của mình trong việc bảo đảm cân đối kịp thời nhu cầu về một số mặt hàng thiết yếu trong sản xuất và đời sống. Một số tổng công ty tổ chức bộ máy cán bộ quá công kềnh, chưa có chính sách phù hợp, cơ chế quyết định nhân sự hiện hành chưa phát huy được trách nhiệm và hiệu lực điều hành quản lý của tổng giám đốc. Tổng giám đốc không có quyền bổ nhiệm giám đốc thành viên, giám đốc có quyền tuyển dụng lao động không hạn chế, nhưng không có quyền sa thải; tổng giám đốc, giám đốc, hội đồng quản trị không được chủ động bố trí bộ máy doanh nghiệp. Việc quy định chức năng và nhiệm vụ của tổng giám đốc và của hội đồng quản trị chưa rõ ràng; mối quan hệ của nhiều công ty với các đơn vị thành viên vẫn là hành chính, chưa dựa trên quan hệ tài chính, trách nhiệm và quyền lợi; quan hệ giữa các đơn vị thành viên với nhau còn mang tính ghép nối cơ học. Một số tổng công ty vin vào độc quyền để bắt nghẹt người tiêu dùng. Nhiều tổng công ty chưa làm tốt chức năng thị trường, phó mặc cho các đơn vị thành viên. ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
+ Thứ hai, quá trình cổ phần hoá hiện nay còn nhiều vướng mắc. Trước hết, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá, phưong pháp xác định chưa thể hiện rõ xu thế phát triển của doanh nghiệp, còn bỏ sót yếu tố cấu thành quan trọng là quyền sử dụng đất. Việc đánh giá còn mang tính cảm quan, thoả hiệp giữa hội đồng doanh nghiệp và doanh nghiệp được định giá. Thủ tục còn rườm rà, phức tạp. Khi tiến hành cổ phần hoá, vẫn chưa tách bạch được người đại diện chủ sở hữu và người quản lý trực tiếp phần vốn tại doanh nghiệp cổ phần hoá, nên xảy ra tình trạng doanh nghiệp vừa là người mua vừa là người bán, vừa tham gia định giá, vừa tổ chức bán cổ phần của Nhà nước… dẫn đến tình trạng chỉ bán nội bộ, hoặc cố tình không bán ra ngoài để giảm giá hoặc trì hoãn thực hiện cổ phần hoá. Chưa có cơ chế xử lý những công nợ dây dưa và tài sản không cần dùng ở các doanh nghiệp cổ phần hoá nên đã làm chậm tiến trình gây tổn thất cho Nhà nước. Một vấn đề nữa là chính sách đối với người lao động chưa bình đẳng khi thực hiện khống chế tỷ lệ giá trị ưu đãi trên vốn Nhà nước nên gây thiệt thòi cho người lao động có ít vốn nhà nước . NGoài ra, việc giải quyết chính sách lao độnh mất việc, thôi việc còn mang nặng tính bao cấp, dồn hết gánh nặng cho ngân sách nhà nước. CHủ trương là tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp thông qua mua cổ phiếu nhưng đa số hội đồng quản trị không có thành viên nào là đại diện của người lao động.
+ Thứ ba là vấn đề xử lý nợ và tài sản tồn đọng của DNNN. Theo kết quả kiểm kê đến ngày 1/1/2000, tổng số nợ tồn đọng ở các DNNN lên tới 31.935 tỷ đồng. Trong đó, nợ phải thu quá hạn là 21.218 tỷ đồng và nợ quá hạn là 10.717 tỷ đồng. Với tình trạng trên, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã rơi vào tình trạng “lãi không đủ trả nợ”. Đó là chưa kể đến tổng giá trị tài sản không cần dùng, chờ thanh lý ở các DNNN hiện lên tới 3285 tỷ đồng, và trên 300 tỷ đồng nợ khó đòi và tài sản không cần dùng, chờ thanh lý đã được loại trừ khi thực hiẹn chuyên đổi sở hữu hơn 700 doanh nghiệp và bộ phận DNNN chưa được xử lý triệt để đang giao cho các công ty cổ phần giữ hộ. Tình trạng trên khiến cho một khối lượng không nhỏ của cải vật chất của xã hội không được khai thác, sử dụng là nguy cơ tiềm ẩn cho nền kinh tế.
+ Cuối cùng là vấn đề lao động dôi dư trong sắp xếp DNNN. Theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 100.000 lao động dôi dư từ quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN, nhưng không thể bố trí được việc làm, cũng như vẫn chưa được hưởng theo chế độ quy định hiện hành. Hiện nay số lao động trong các DNNN là 1,7 triệu người xấp xỉ bằng con số của năm 1991 (trong khi số lượng DNNN đã giảm hơn một nửa). Theo lộ trình sắp xếp DNNN từ nay đến năm 2003, số lao động bố trí được việc làm là khoảng 150.000 người. Đó là chưa kể số lao động dư thừa còn khoảng 200.000 ở các doanh nghiệp vẫn giữ 100% vốn Nhà nước. Đây là một gánh nặng cho sự phát triển cả trong hiện tại lẫn tương lai.
2.3. Nguyên nhân. ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
Để phân tích nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của DNNN hiện nay chúng ta phải nhìn nhận toàn diện. Về đại thể có thể chia làm hai nhóm nguyên nhân:
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
Các DNNN của nước ta hiện nay, trừ phần nhỏ được thành lập mới trong giai đoạn cải cách, đa phần là doanh nghiệp cũ dế thừa từ thời bao cấp với các đặc trưng như công nghệ kỹ thuật lạc hậu không có nguồn thay thế. Theo thống kê của bộ công nghiệp thì thiết bị của DNNN hiện nay có 26% của Liên Xô (cũ), 24% của các nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là của các nước khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%; nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách Nhà nước những năm trước; lao động vừa thiếu ( thiếu lao động lành nghề) vừa thừa ( lao động không đáp ứng yêu cầu của công việc) song chưa có cơ chế giải quyết; cơ cấu DNNN không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành nghề v.v. Gánh nặng lịch sử đó không phải chúng ta có thể khắc phục trong ngày một ngày hai. Để thoát ra khỏi tình thế quẫn bách đó, chúng ta cũng không thể dùng giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều con người trong cậy vào đây. Chúng ta chỉ có thể gỡ rối dần dần, vừa cải tổ vừa giữ ổn định kinh tế và xã hội. Chính vì thế hiệu quả của hệ thống DNNN chưa thể cải thiện nhanh.
2.3.2. Những nguyên nhân chủ quan bao gồm : ( Luận văn: Thực trạng đổi mới và phát triển thị trường kinh tế XHCN )
- Về mặt quan điểm nhận thức
Chưa có sự thống nhất trong nhận thức về những chủ trương đường lối của Đảng dẫn đến khi thực hiện hiệu quả còn thấp, đặc biệt là tình trạng trên thông nhưng dưới không thông. Nhiều vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau đang gây tranh cãi.
- Liên quan đến mức độ chưa hoàn thiện của cơ chế quản lý DNNN.
Những cải tổ cơ chế quản lý DNNN từ năm 1981 đến nay có thể coi là một bước cách mạng trong mô hình tổ chức kinh tế-xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã cơ bản chuyển được các DNNN từ chỗ là một phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc dân sang vai trò một pháp nhân có quyền tổ chức sản xuất và kinh doanh hàng hoá độc lập. Tuy nhiên cơ chế quản lý mới còn vướng ở mốt số điểm như cơ chế thực thi sở hữu Nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ chủ quản hành chính trước kia( như duyệt dự án đầu tư mới , bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra theo chức năng của cơ quan chủ quản v.v.) đồng thời lại buộc phải thừa nhần quyền tư chủ khá rộng rãi của doanh ghiệp, do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý Nhà nước vẫn thích can thiệp trực tiếp quá nhiều vào công việc của doang nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm. Ví dụ điển hình cho tình trạng này là vụ việc của Công ty dệt Nam Định. Một phần hoạt động sai nguyên tắc tài chính của dệt Nam Định là đầu tư vào 26 dự án không hiệu quả. Song cả 26 dự án náy đều được Bộ Công nghiệp ký duyệt; các cơ quan quản lý Nhà nước có chức năng kiểm tra thanh tra vừa phân tán, vừa chồng chéo (do các văn bản pháp quy mới cũ mâu thuẫn với nhau song không được sàn lọc) nhưng đồng thời lại không có một cơ quan Nhà nước nào chịu trách nhiệm cho sự còn mất của tài sản Nhà nước , cuối cùng phó mặc cho doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn. Song chúng ta quên rằng trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp, dù là DNNN đi chăng nữa, đều đại diện cho một lợi ích độc lập , đó là lợi ích doanh nghiệp. Nếu Nhà nước không kiểm soát tốt (mà điều này khó làm được nếu không có những tiêu chuẩn tốt về kế toán, thống kê, kiểm toán) thì doanh nghiệp sẵn sàng biến lợi nhuận thành chi phí hợp pháp dưới dạng lương thưởng cho cán bộ và công nhân. Ngoài ra còn có những khó khăn trong việc phân định thua lỗ do rủi ro hay do sự thiếu trách nhiệm của những người liên quan. Chính vì thế có thể thấy tình trạng tài chính không rõ ràng và cực kỳ bê bối của DNNN hiện nay thể hiện qua nợ khó đòi trở thành phổ biến, doanh nghiệp không thể phá sản vì chủ nợ không đệ đơn v.v. là hậu quả của chính tình trạng thể chế hoá sở hữu Nhà nước chưa tìm được hình thức hợp lý.
- Liên quan đến những thách thức chung của nền kinh tế nước ta.
Tình trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là kém hiêu quả và sức cạnh tranh thấp . Tại sao? Bởi vì tiềm năng tư đổi nới công nghệ của nước ta rất thấp. Phần GDP giành cho nghiên cứu rất ít và lại chủ yếu chi dùng cho những lĩnh vực lý thuyết, ít tính ứng dụng. Chiến lược chuyển giao công nghệ chưa được nhận thức đúng để vạch ra và thực hiện một cách kiên quyết. Dẫn đến chiến lược đầu tư thể hiện khá nhiều sai lầm (như xi măng lò đứng, nhà máy sản xuất đường, sản xuất gạch tuy nen v.v) Nền kinh tế chưa hình thành, các ngành mũi nhọn đủ sức nâng các doanh nghiệp nói riêng, và kinh tế nói chung rời bệ phóng để cất cánh. Ngoài ra các giám đốc DNNN.cũng như mọi người dân Việt Nam khác còn rất bỡ ngỡ với cung cách làm ăn thị trường, cạnh tranh khốc liết do vậy nhiều khi còn bị lường gạt, Ngoài ra tệ nạm tham ô, tham nhũng có xu hướng tăng trong nền kinh tế cũng là những căn nguyên làm giảm thiệu quả
Ngoài ra còn một nhóm các nguyên nhân cũng ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình cải cách doanh nghiệp. Thứ nhất, chưa có người chủ thực sự tư liệu sản xuất. Chính phủ ở xa, giám đốc trên danh nghĩa được nhà nước bổ nhiệm thay mặt Chính phủ để điều hành quản lý sản xuất kinh doanh song chưa thực sự là ông chủ, còn công nhân thực chất vẫn không phải là chủ. Thực chất không có ai chăm lo bảo tồn và phát triển nguồn vốn không có ai chịu trách nhiệm khi mất mát thua lỗ. Hai là, Nhà nước ít vốn song đầu tư còn dàn trải, chủ yếu đủ để giữ cho các doanh nghiệp tồn tại chứ không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong thị trường sôi động. Ba là, tình trạng phân phối trong các doanh nghiệp không phù hợp với kết quả sản xuất kinh doanh, không khuyến khích được sản xuất, chưa khơi dậy được lòng tin trong quần chúng , để họ tự giác gắn bó và cùng chịu trách nhiệm. Bốn là, cán bộ quản lý chưa thực sự có đủ tiêu chuẩn trí tuệ tâm huyết với nhà nước chưa thực sự dũng cảm tự chịu trách nhiệm.
Tóm lại, chúng ta cần nhìn nhận thực trạng yếu kém hiện nay của DNNN một cách thẳng thắn, khách quan, toàn diện có như vậy những giải pháp chúng ta đặt ra mới thiết thực và có khả năng đi vào cuộc sống. Nên tránh cách nhìn quá bi quan quy mọi sai lầm yếu kém về cho doanh nghiệp. Cũng không buông trôi coi hiệu quả thấp như căn bệnh cố hữu của DNNN để từ đó không tích cực tìm giải pháp khắc phục. Đây là yêu cầu việc phát huy vai trò chủ đạo của KTNN cũng như của công cuộc đổi mới hiện nay.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Giải pháp tăng cường phát triển thị trường kinh tế XHCN
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com