Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại công ty bảo hiểm

Rate this post

Trong bài viết này, mình sẽ đưa các bạn đến một bài mẫu chuyên ngành Quản trị kinh doanh đề tài Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại công ty bảo hiểm. Nhằm tìm hiểu thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại công ty BIC Hải Phòng. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa là một nghiệp vụ có vai trò rất quan trọng đối với công ty và có cơ hội phát triển rất lớn với nhiều lợi thế về tỷ lệ phí cạnh tranh và hình thức cấp đơn nhanh gọn. Dưới đây là Luận văn Biện pháp khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng mời các bạn cảm nhận.

Nội dung chính

2.1. Giới thiệu Công ty Bảo hiểm BIDV Hải Phòng

Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC) ra đời trên cơ sở chiến lược thành lập Tập đoàn tài chính mang thương hiệu BIDV thông qua việc BIDV mua lại phần vốn góp của Tập đoàn Bảo hiểm Quốc tế QBE (Australia) trong Liên doanh Bảo hiểm Việt Úc (là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, được thành lập và hoạt động tại Việt Nam từ năm 1999) và chính thức đi vào hoạt động với tên gọi mới (BIC) kể từ ngày 01/01/2006.

Kế thừa kinh nghiệm về hoạt động bảo hiểm sau 6 năm của liên doanh và kinh nghiệm hoạt động trên thị trường tài chính 60 năm qua của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam, sau khi đi vào hoạt động, BIC tiếp tục thực hiện chiến lược cung cấp các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ được thiết kế phù hợp trong tổng thể các sản phẩm dịch vụ tài chính trọn gói của BIDV tới khách hàng.

Theo thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, hiện nay BIC đang là 1 trong 10 công ty bảo hiểm phi nhân thọ dẫn đầu về thị phần bảo hiểm gốc và là một trong những công ty bảo hiểm có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thị trường. BIC là công ty dẫn đầu thị trường về phát triển kênh Bancassurance và các kênh bảo hiểm trực tuyến (E-business). BIC cũng là công ty bảo hiểm đầu tiên có mạng lưới hoạt động phủ kín tại thị trường Đông Dương.

Từ ngày 01/10/2014, được sự chấp thuận của Bộ Tài chính, BIC chính thức chuyển đổi sang mô hình Tổng Công ty Cổ phần và tăng vốn điều lệ lên 660 tỷ đồng. 19 chi nhánh được chuyển đổi thành các công ty thành viên hạch toán phụ thuộc.

Hiện nay, BIC có hơn 900 cán bộ nhân viên, phục vụ khách hàng tại 26 Công ty thành viên, 150 Phòng Kinh doanh và hơn 1.500 đại lý bảo hiểm trên toàn quốc.

Công ty Bảo hiểm BIDV Hải Phòng (BIC Hải Phòng) là một trong những công ty thành viên của BIC. Được thành lập năm 2006, sau 11 năm thành lập và phát triển BIC Hải Phòng luôn là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Tổng Công ty giao cho. Khi bắt đầu thành lập BIC Hải Phòng bao gồm 6 tỉnh: Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình. Đến năm 2011, BIC Hải Phòng đã chia thành thành 4 đơn vị: BIC Hải Dương (gồm Hải Dương, Hưng Yên), BIC Quảng Ninh và BIC Bắc Bộ (gồm Nam Định, Thái Bình) và BIC Hải Phòng. Sau khi chia tách BIC Hải Phòng vẫn tăng trưởng doanh thu và hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao.

  • Tên đầy đủ và chính thức: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Hải Phòng (BIC Hải Phòng)
  • Tên giao dịch bằng tiếng Việt: Công ty Bảo hiểm BIDV Hải Phòng
  • Địa chỉ: Tòa nhà Thành Đạt 1, Số 3 đường Lê Thánh Tông, Phường Máy tơ, Quận Ngô Quyền, TP Hải Phòng.

– Điện thoại: 0225 3747 373; Fax: 0225 3747 727

  • Emai: hp@bidv.com.vn
  • Website: http://bic.vn

2.2. Sự cần thiết của việc khai thác nghệp vụ bảo hiểm hàng hóa tại công ty bảo hiểm BIC Hải Phòng ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

Công tác khai thác là một khâu rất quan trọng trong các doanh nghiệp, các công ty, khai thác được coi như là đầu vào cho hoạt động sản xuất tạo ra lợi thế thương mại cuối cùng cho doanh nghiệp, nó quyết định đến sự sống còn của công ty. Doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh dịch vụ tài chính không có hoạt động sản xuất cho nên họ chủ yếu tập trung vào khai thác thị trường.

Nếu công ty khai thác tốt tức là bán được nhiều hợp đồng bảo hiểm, mang lại doanh thu lớn sẽ là cơ sở để tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị phần, nâng cao vị thế của mình trên thị trường bảo hiểm. Chính vì tính chất quan trọng của khâu khai thác mà hầu hết các công ty bảo hiểm phải lập ra các chiến lược khai thác. Công việc khai thác càng trở nên khó khăn hơn trong điều kiện thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trước tình hình đó đòi hỏi các công ty phải tổ chức tốt khâu khai thác. Đứng trên góc độ của nhà bảo hiểm thì khâu khai thác là cực kì quan trọng vì nó mang lại doanh thu cho công ty bảo hiểm. Mặc dù doanh thu chưa phải là lợi nhuận và nó chưa phản ánh hiệu quả kinh doanh nhưng nó lại phản ánh khả năng của một công ty trong việc thu hút khách hàng vì vậy doanh thu cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng để so sánh các công ty. Bên cạnh đó theo nguyên tắc số đông bù số ít, doanh thu cao cũng có nghĩa là một số lượng lớn khách hàng tham gia vào nghiệp vụ và điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nó tạo ra một quỹ lớn thực hiện chức năng đề phòng, hạn chế tổn thất cũng như thực hiện chức năng quan trọng nhất của bảo hiểm là nó được dùng để hỗ trợ tài chính cho người tham gia khi tổn thất không may xảy ra với họ. Như vậy trên góc độ của nhà bảo hiểm thì khai thác có ý nghĩa vô cùng to lớn, thực hiện công tác này tốt thì mới mong các khâu khác được thực hiện tốt và mới đảm bảo cho sự thành công của một nghiệp vụ. Đứng trên góc độ của khách hàng thì không phải là họ không có lợi. Theo thông lệ quốc tế hiện nay tất cả các hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển đều phải tham gia bảo hiểm và các khoản mở LC tại ngân hàng cũng bắt buộc phải mua bảo hiểm, điều này có nghĩa là khách hàng trong lĩnh vực này là rất tiềm năng, vấn đề là họ sẽ mua bảo hiểm của công ty nào mà thôi. Chính điều này tạo ra động lực phấn đấu cho các công ty bảo hiểm và họ đều cố gắng hết sức để có được một chất lượng khai thác là tốt nhất. Nếu quá trình khai thác được thực hiện tốt nó sẽ góp phần cung cấp kiến thức chung về bảo hiểm cũng như bảo hiểm hàng hóa một cách hiệu quả cho khách hàng, nâng cao hiểu biết chung của khách hàng về bảo hiểm, mà cụ thể hơn là bảo hiểm hàng hoá vận chuyển.

Ở tầm vĩ mô, nâng cao hiệu quả nghiệp vụ khai thác bảo hiểm hàng hóa có tác dụng góp phần cải thiện tỷ trọng cán cân thanh toán quốc gia. Với hoạt động xuất khẩu theo điều kiện CIF, hàng hóa được chuyên chở bằng tàu trong nước và được công ty bảo hiểm trong nước bảo hiểm sẽ tạo nguồn thu ngoại tệ vì chi phí vận tải và phí bảo hiểm về thực chất được tính vào giá hàng và do phía nước ngoài trả. Nhập khẩu theo điều kiện FOB có tác dụng giảm chi ngoại tệ, trong trường hợp này chúng ta chỉ phải chi ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, mà không phải chi tiền nhập dịch vụ vận tải đường biển và dịch vụ bảo hiểm của nước ngoài như trước đây. Số ngoại tệ chi cho mỗi hợp đồng ngoại thương giảm sẽ cải thiện tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài trong nhiều năm như hiện nay của nước ta. BIC Hải Phòng nhận thức được tầm quan trọng của công tác khai thác là một trong những công việc đầu tiên, cơ bản quyết định đến sự thành công hay thất bại của Doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của BIC Hải Phòng nói riêng. Bởi vì:

Khâu khai thác là khâu đầu tiên trong quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm, nó ảnh hưởng rất lớn đến các khâu tiếp theo. Khai thác có tốt thì mới tạo được nhiều doanh thu và từ đó tạo lập các quỹ như chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi hoa hồng đại lý, chi quản lý, chi trả tiền bảo hiểm… Chính vì vậy mà khâu khai thác được BIC Hải Phòng chú trọng hàng đầu.

Khai thác bảo hiểm chính là tìm kiếm khách hàng tham gia bảo hiểm. Công tác khai thác được thực hiện tốt sẽ mang lại cho công ty một số lượng lớn khách hàng tham gia bảo hiểm, từ đó mang lại nguồn doanh thu lớn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Đồng thời còn giúp cho doanh nghiệp đảm bảo được nguyên tắc “số đông bù số ít”, tạo lập được quỹ bảo hiểm tập trung đủ lớn để đảm bảo khả năng bồi thường của mình.

Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, nó khác với các sản phẩm hữu hình khác ở chỗ nếu như với các sản phẩm hữu hình người mua có thể thẩm định được ngay khi mua sản phẩm, còn đối với sản phẩm bảo hiểm người mua không thể biết được. Do vậy yêu cầu đặt ra là phải tuyên truyền sao cho mọi người hiểu và tạo dựng được lòng tin từ phía khách hàng. Khi gia nhập thị trường luôn phải đối mặt với sức ép cạnh tranh rất lớn. Cả sức ép cạnh tranh trong ngành (từ các DNBH trong và ngoài nước triển khai sản phẩm cùng loại) và ngoài ngành (từ phía các tổ chức tín dụng, các ngân hàng…). Sự tồn tại của các đối thủ cạnh tranh cũ với những chiêu bài mới, sự tham gia của nhiều đối thủ cạnh tranh khác đặt doanh nghiệp trước rất nhiều khó khăn trong công tác khai thác dịch vụ bảo hiểm trên thị trường. ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

Muốn chiến thắng doanh nghiệp buộc phải có những chiến lược kinh doanh đúng đắn, tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có…

Đối với các công ty nếu đơn bảo hiểm được ký kết với các công ty bảo hiểm Việt Nam, công ty tránh được những phiền phức về thủ tục pháp lý, ngôn ngữ, địa lý… có thể sẽ gặp phải khi sự cố bảo hiểm xảy ra. Trong trường hợp BIC Hải Phòng không đủ năng lực bảo hiểm, phía Việt Nam vẫn có lợi do chúng ta có điều kiện lựa chọn công ty bảo hiểm uy tín bảo hiểm cho hàng hóa của mình, đồng thời lựa chọn các điều khoản bảo hiểm phù hợp với tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của công ty. Hơn nữa, tập quán thương mại quốc tế chỉ yêu cầu bên xuất khẩu mua bảo hiểm ở mức độ tối thiểu. Nhà nhập khẩu muốn an toàn hơn cho tài sản của mình phải ký các hợp đồng bổ sung. Như thế, suy cho cùng, công ty nhập khẩu Việt Nam vẫn phải mua bảo hiểm trong trường hợp nhập khẩu CIF. Công ty sẽ chủ động hơn nếu giành được quyền mua bảo hiểm thông qua hợp đồng nhập khẩu FOB hoặc C&F.

Kim ngạch hàng hóa tham gia bảo hiểm trong nước tăng có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển. Theo nguyên lý số đông, lượng khách hàng tham gia càng lớn công ty bảo hiểm càng có điều kiện phân chia rủi ro giữa các đối tượng bảo hiểm, tranh cho công ty trước những tổn thất lớn ảnh hưởng không tốt đến tình hình tài chính công ty. Và điều này càng có ý nghĩa hơn khi mà tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa nước ta trong những năm qua luôn ở mức cao, khoảng 65-70%. Mức bồi thường này đặt công ty bảo hiểm trước những nguy cơ tiềm ẩn không lường trước được.

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay thị phần bảo hiểm của BIC Hải Phòng tương đối thấp là do khách hàng của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam không thích mua bảo hiểm tại Việt Nam, đặc biệt là các khách hàng chủ yếu là Nhật, châu Âu hoặc các nước Đông Nam Á khác. Người Nhật chỉ thích làm việc với người Nhật, chỉ mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm của Nhật.

Còn khách hàng Tây Âu thường mua bảo hiểm tại các công ty được xếp hạng tốt trên thế giới. ở các nước Châu Á khác, ví dụ Malaysia, Nhà nước có chính sách ưu đãi để các công ty mua bảo hiểm trong nước họ. Do đó, nâng cao thị phần bảo hiểm, giảm kim ngạch bảo hiểm rơi vào tay các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài là thách thức lớn đối với bảo hiểm Việt Nam nói chung và BIC Hải Phòng nói riêng. Còn trên địa bàn thì đa phần khách hàng mua bảo hiểm hàng hóa trong nước sẽ mua tại Bảo Việt Hải Phòng.

Qua những phân tích trên, mục tiêu và cũng là thước đo hiệu quả kinh doanh của BIC Hải Phòng chính là xây dựng, phát triển và nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá   ổn định lâu dài và tăng trưởng cao, đó là điều kiện sống còn để BIC Hải Phòng có thể tồn tại và phát triển trên địa bàn Hải Phòng.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

2.3. Thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại Công ty Bảo hiểm BIDV Hải Phòng. ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

  • Quy trình khai thác

Tại BIC Hải Phòng, vào đầu năm các nhân viên của phòng Kinh doanh phải thu thập được thông tin về kim ngạch xuất nhập khẩu như chủng loại hàng hoá, số lượng hàng hoá của từng công ty xuất nhập khẩu, logistics qua đó sẽ tập hợp số liệu để lập kế hoạch khai thác và định mức thu phí trong năm cho các đối tượng chủ yếu là từ các đơn vị mở LC qua ngân hàng mẹ là BIDV. Đối với khách hàng mới thì các cán bộ phải tìm cách tiếp cận để tìm hiểu về ngành hàng, nhóm hàng, cách thức đóng gói chất xếp, luồng vận chuyển. Các nhân viên phải tìm cách tiếp cận được với những khách hàng này cho họ thấy sự hiện diện của công ty và giúp họ hiểu hơn về sản phẩm mà công ty có thể cung cấp. Cụ thể Phòng Kinh doanh phải chuẩn bị tài liệu chào phí kèm theo điều kiện bảo hiểm, các báo cáo tài chính trong số năm gần đây để chứng minh cho họ thấy vị thế cũng như khả năng tài chính của doanh nghiệp. Thông qua tư vấn giúp đỡ các công ty xuất nhập khẩu lựa chọn các điều kiện bảo hiểm phù hợp. Đối với khách hàng cũ, các khách hàng truyền thống, các nhân viên phải thuyết phục được họ tiếp tục hợp đồng một cách tự nguyện. Lượng khách hàng truyền thống này sẽ đảm bảo cho công ty một doanh thu ổn định. Một công ty bảo hiểm có lượng khách hàng truyền thống chiếm tỉ lệ cao chứng tỏ chất lượng dịch vụ của công ty là rất tốt và biểu phí phù hợp.

  • Tìm kiếm và tiếp cận khách hàng

Cán bộ khai thác có nhiệm vụ thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, gửi hoặc trao đổi các thông tin về các sản phẩm nhằm giới thiệu các nghiệp vụ Không đạt bảo hiểm và đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Kịp thời nắm bắt những thay đổi và biến động trong hoạt động kinh doanh của khách hàng để tư vấn, giới thiệu sản phẩm bảo hiểm hoặc có thay đổi phù hợp. Đây là giai đoạn khởi đầu và không hề dễ dàng, nó đòi hỏi cán bộ khai thác không chỉ cần phải có kiến thức chuyên môn về bảo hiểm mà còn phải có khả năng giao tiếp và tiếp cận khách hàng tốt.

  • Khai thác viên (KTV) chủ động khai thác nguồn tin từ khách hàng (hoặc qua các cơ quan quản lý, đại lý, cộng tác viên, môi giới, cơ quan thông tin đại chúng) thông báo các vấn đề liên quan đến các tài sản, hàng hoá cần được bảo hiểm.
  • Xử lý ban đầu của KTV khi nhận được thông tin từ khách hàng: Tìm hiểu thêm các thông tin về nguồn vốn, khả năng tài chính, khả năng tham gia bảo hiểm của khách hàng…và có trách nhiệm kê khai chi tiết các thông tin cần thiết theo đúng mẫu: Bản đánh giá rủi ro.
  • Khi khách hàng đã được biết về những dịch vụ bảo hiểm mà họ muốn mua, họ sẽ có yêu cầu được cung cấp thông tin hoặc làm giấy yêu cầu bảo hiểm. KTV sẽ cung cấp Giấy yêu cầu bảo hiểm và các tài liệu khác theo yêu cầu của khách hàng.
  • Khuyến cáo với khách hàng: Hợp đồng bảo hiểm sẽ không có giá trị nếu khách hàng cung cấp hoặc kê khai sai hoặc không khai báo những chi tiết quan trọng có liên quan đến tài sản, hàng hoá yêu cầu bảo hiểm. Đây là động tác rất quan trọng mà cán bộ bảo hiểm phải làm vì nó sẽ giúp tránh được những hiểu lầm và tranh chấp đáng tiếc do khách hàng không được khuyến cáo khai báo sự thật ngay từ đầu.
  • Đánh giá rủi ro

Đây là bước nghiên cứu để dự kiến mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với lô hàng và tàu trong suốt hành trình. Thông qua các số liệu thống kê và thực tiễn hoạt động của khách hàng, cán bộ khai thác tham mưu cho lãnh đạo về chính sách khách hàng, về công tác quản lý rủi ro và khả năng triển khai dịch vụ, đề xuất ý kiến điều chỉnh tỷ lệ phí và các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho thích hợp. ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

Đối với tàu chở hàng, các cán bộ khai thác của công ty phải xem xét kỹ các yếu tố sau:

  • Thứ nhất: quốc tịch của tàu và chủ tàu. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến độ an toàn của hành trình. Chẳng hạn tàu có quốc tịch Đông Âu thường xảy ra tổn thất thấp hơn tàu của các vùng khác.
  • Thứ hai: là nếu tàu được bảo hiểm thân tàu tại BIC Hải Phòng thì kiểm tra xem tổng giá trị của tàu và hàng có vượt quá phân cấp 10 triệu USD hay không? Trường hợp vượt quá sẽ thông báo cho phòng tái bảo hiểm để thu xếp nhượng tái.
  • Thứ ba: là khả năng tài chính của chủ tàu, nếu chủ tàu có khả năng tài chính tốt thì ít xảy ra tranh chấp.
  • Thứ tư: tuổi của tàu. Đối với tàu già, khả năng gây tổn thất sẽ tăng lên thậm chí không đủ khả năng đi biển. Trong trường hợp này cần thu thêm phụ phí tàu già. Nếu khách hàng nhập hàng theo giá CIF thì khai thác viên đề nghị khách hàng áp đặt vấn đề của tàu và bảo lưu quyền đòi lại phí tàu già trên hợp đồng mua bán. Đối với hàng hoá bảo hiểm các nhân viên cần phải xem xét cácvấn đề sau: Vấn đề thứ nhất là loại hàng (bao gồm chủng loại, tính chất, nội tỳ hàng hoá). Vấn đề thứ hai là phương thức đóng gói, bao bì, chất xếp hàng hoá, phương thức vận chuyển, ký mã hiệu.

Đối với cảng đi, cảng đến: cũng là yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ xảy ra tổn thất cho hàng hoá vì nó chứa đựng rất nhiều các yếu tố liên quan như người bán hàng, người nhận hàng, tình trạng bốc xếp, tập quán của cảng. Qua việc nghiên cứu cảng đi, cảng đến, nhân viên bảo hiểm biết được những rủi ro hàng hoá nào có thể gặp đối với hành trình, biết được lô hàng có phải chuyển tải hay không và chuyển tải ở cảng nào. Từ đó công ty sẽ có biện pháp cần thiết cũng như khuyến cáo với khách hàng nhằm ngăn ngừa và hạn chế tổn thất.

  • Khả năng tài chính của khách hàng: khai thác viên luôn phải theo sát quá trình thanh toán phí của khách hàng để có thể phân biệt được loại khách hàng theo tiêu chuẩn thanh toán tốt hay xấu, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời, tránh tình trạng dây dưa nợ đọng phí.
  • Căn cứ vào các thông tin được cung cấp, KTV tự đánh giá rủi ro hoặc tư vấn kịp thời về quản lý rủi ro cho khách hàng và điền vào bản câu hỏi đánh giá rủi ro theo mẫu của BIC Hải Phòng, nêu rõ kết luận của cán bộ đánh giá rủi ro. Cán bộ phải điền đầy đủ thông tin theo yêu cầu, mục nào không biết phải ghi rõ là “không biết” hoặc “sẽ thông báo sau” để có thể bổ sung thông tin kịp thời khi có thể.
  • KTV hoặc Giám định viên (GĐV) đánh giá rủi ro trên cơ sở tiếp xúc hoặc xác minh đối tượng bảo hiểm (hàng hoá) và các thông tin được cung cấp.
  • Những trường hợp đặc biệt (yêu cầu kĩ thuật chuyên môn cao, khả năng rủi ro cao, giá trị bảo hiểm lớn) cần có GĐV đánh giá rủi ro của các cơ quan chuyên môn khác hoặc của tổ chức giám định nước ngoài. Việc tìm kiếm đánh giá và lựa chọn nhà giám định phải tuân thủ theo quy trình đã được lãnh đạo công ty ban hành. Ở BIC Hải Phòng, nhìn chung khâu đánh giá rủi ro trước khi kí hợp đồng chưa được thực hiện tốt dẫn tới đánh giá không chính xác và khi sự kiện bảo hiểm phát sinh đã gặp nhiều thắc mắc, khiếu kiện của khách hàng. Việc đánh giá rủi ro phần lớn dựa vào giấy yêu cầu bảo hiểm và bản điều tra rủi ro do các khai thác viên tiến hành. Công ty chỉ trực tiếp có các cuộc điều tra với những đối tượng bảo hiểm có giá trị lớn và bỏ qua những đối tượng bảo hiểm có giá trị nhỏ. Ngoài ra, thông tin về con tàu và người chuyên chở mà công ty cung cấp cho các khai thác viên cũng hạn chế. Thực tế này được xác định là do số lượng đội ngũ cán bộ chưa thực hiện chuyên môn hóa theo công việc, một nguyên nhân nữa là do cán bộ, đại lý khai thác chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ.
  • Kiểm tra chứng từ:

Trước hết cán bộ bảo hiểm phải kiểm tra tính hợp lý của người yêu cầu bảo hiểm, chỉ khi người được bảo hiểm khai rõ tất cả các đề nghị in sẵn thì giấy yêu cầu bảo hiểm mới được coi là hợp lệ.

  • Đối với hàng mới nhập chỉ chấp nhận “báo sau” các đề mục liên quan đến phương tiện vận chuyển như: tên tàu, ngày khởi hành, số hợp đồng vận chuyển với cam kết của khách hàng là tàu đủ khả năng đi biển. Đồng thời yêu cầu khách hàng cung cấp đủ các chi tiết khi nhận được bộ chứng từ. Nếu khách hàng khai thiếu một trong các đề mục cơ bản sau: Tên mặt hàng, giá trị bảo hiểm, tuyến hành trình, điều kiện bảo hiểm thì các khai thác viên yêu cầu khách hàng phải bổ sung
  • Đối với hàng xuất: Bên cạnh giấy yêu cầu bảo hiểm khách hàng phải cung cấp thêm một số tài liệu như: Vận tải đơn; Hoá đơn thương mại; Thư tín dụng (nếu việc thanh toán mua bán bằng tín dụng)

Bên cạnh đó cán bộ còn phải xem xét kỹ đặc điểm, tính chất hàng hoá, phương thức đóng gói, xếp hàng, tuyến hành trình, điều kiện bảo hiểm mà khách hàng yêu cầu. Nếu tàu chở nguyên chuyến một mặt hàng, công ty sẽ yêu cầu khách hàng cung cấp thêm tàu và bảng thông báo chi tiết tàu để tính thêm phụ phí.

2.3.1 Đàm phán chào phí bảo hiểm. ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

Sau khi đánh giá rủi ro của đối tượng được yêu cầu bảo hiểm. Nếu đủ điều kiện và được phê duyệt, cán bộ khai thác thực hiện việc đàm phán điều kiện, điều khoản cũng như phí bảo hiểm với khách hàng. Trong quá trình đàm phán,các yếu tố liên quan như quy tắc bảo hiểm, điều kiện,điều khoản,phí bảo hiểm,hồ sơ, tài liệu về khách hàng, chính sách khách hàng và phí của các nhà tái bảo hiểm hàng đầu sẽ được lãnh đạo công ty xem xét để quyết định mức phí phù hợp nhất,đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm của khách hàng cũng như chính sách phát triển kinh doanh của công ty. Việc đàm phán này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi khách hàng xem xét chấp thuận hoặc từ chối.

  • Từ chối hoặc chấp nhận bảo hiểm
  • Từ chối bảo hiểm: Sau khi kiểm tra nếu thấy chứng từ không hợp lệ và không thể căn cứ vào đó để cấp đơn bảo hiểm, khai thác viên bảo hiểm sẽ từ chối ngay bằng cách lập công văn từ chối và gửi bằng fax hay qua đường bưu điện kèm theo các tài liệu giải thích cho khách hàng hiểu.
  • Chấp nhận bảo hiểm: Sau khi kiểm tra hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, phân tích số liệu thống kê, phân tích khả năng tài chính của khách hàng, đánh giá rủi ro nếu thấy đạt yêu cầu thì Công ty quyết định bảo hiểm, đồng thời thoả thuận thời gian giao kết hợp đồng chính thức.
    • Cấp đơn bảo hiểm.

Khi đã đồng ý bảo hiểm, khai thác viên vào sổ cấp đơn, số đơn bảo hiểm được lấy theo số thứ tự trong sổ. Tiếp theo tiến hành tính số tiền bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể yêu cầu bảo hiểm theo một trong các giá trị: FOB, CF, CIF và thêm vào đó tỷ lệ lãi ước tính.

Công ty được phép chủ động nhận bảo hiểm cho những hàng hoá xuất nhập khẩu có số tiền bảo hiểm dưới 5 triệu USD. Khi áp dụng các điều khoản biểu phí, quy định, hướng dẫn hiện hành của Tổng công ty, nếu thấy cần điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế công ty sẽ trình đơn xin ý kiến chỉ đạo của công ty và chỉ được thực hiện khi công ty chấp nhận.

Các điều kiện bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển hiện đang được BIC Hải Phòng áp dụng gồm: Bộ điều khoản ICC

01/01/1982 hay 01/11/1963 hoặc QTC-90. Tuy nhiên ICC 01/01/1982 là thông dụng nhất và đang được sử dụng ở hầu hết các hợp đồng trong đó gồm có:

Điều khoản bảo hiểm hàng hoá (Institute Cargo Clauses), (A), (B), (C) ngày 01/01/1982; Điều khoản bảo hiểm chiến tranh cho hàng hoá (Institute War Clauses) 01/01/1982; Điều khoản bảo hiểm đình công cho hàng hoá (Institute War Clauses) 01/01/1982.

Đối với một số hàng hoá đặc biệt như xăng dầu chở rời, thực phẩm đông lạnh, thịt cá đông lạnh chỉ áp dụng các điều khoản tương ứng: – Điều khoản bảo hiểm thực phẩm đông lạnh (A), (B), (C).

– Điều khoản bảo hiểm thịt đông lạnh.

Hiện nay, BIC Hải Phòng đang sử dụng một hình thức cấp đơn bảo hiểm tiện lợi khác là sau khi đã ký hợp đồng nguyên tắc với khách hàng sẽ gửi phôi giấy chứng nhận bảo hiểm đã ký đóng dấu sẵn để khách hàng chủ động cấp đơn. Sau khi khách hàng cấp đơn bảo hiểm xong thì sẽ gửi ảnh giấy chứng nhận bảo hiểm cho BIC qua email, fax hoặc Zalo, thời hạn bảo hiểm sẽ bắt đầu từ khi BIC Hải Phòng nhận được ảnh giấy chứng nhận. Hình thức cấp đơn này chủ yếu áp dụng cho loại hình bảo hiểm hàng hóa định hạn container vì trong một ngày khách hàng có thể phát sinh rất nhiều giấy chứng nhận để đi cược vỏ tại các hãng tàu.

  • Thu phí và theo dõi sau khi cấp đơn bảo hiểm.

Đây có thể coi là một trong các khâu quan trọng nhất của quy trình khai thác có tác động trực tiếp đến việc hoàn thành kế hoạch thu phí và tiến độ thu phí, doanh số thu. Đồng thời nó cũng phụ thuộc nhiều vào khả năng tài chính của khách hàng cũng như mức độ khéo léo của cán bộ bảo hiểm khi giao kết hợp đồng và trong quá trình thu phí. Hiện nay BIC Hải Phòng đang áp dụng cách tính phí bảo hiểm như sau:

  • Phí bảo hiểm= Phí chính + Phụ phí (nếu có) + Phí tàu già (nếu có)
  • Phí chính  = STBH x Tỷ lệ phí bảo hiểm gốc
  • Phụ phí  = STBH x Tỷ lệ phụ phí
  • Phụ phí tàu già = STBH x Tỷ lệ phí tàu già

Phí tàu già (O.A.P – Overage Additional Premium): thường được thu thêm khi hàng hóa được chở nguyên chuyến trên những chiếc tàu lớn hơn 15 tuổi. Các mặt hàng hay chở nguyên chuyến bao gồm : sắt thép, phân bón, nông sản, nguyên liệu thức ăn gia súc, gạo, đường, lúa mỳ, than, dầu chở rời….

Hiện nay hình thức thu phí của BIC Hải Phòng rất linh hoạt, có thể thu trực tiếp bằng hoá đơn hoặc thu qua chuyển khoản bằng giấy báo nợ. Thời hạn thu phí là từ khi ký hợp đồng cho tới khi kết thúc hành trình. Việc quy định thời hạn kéo dài như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi và có tác dụng khuyến khích khách hàng. Riêng đối với hợp đồng bảo hiểm bao khách hàng có thể thanh toán phí theo kỳ, do hợp đồng có hiệu lực trong một thời gian dài (thường là 1 năm), sử dụng cho khách hàng lớn, sau khi tổng hợp số lượng phí trong tháng thì cho phép khách hàng thanh toán chậm nhất vào ngày 25 của tháng kế tiếp (theo quy định thu phí của Bộ Tài chính). Hình thức thu phí của BIC Hải Phòng cũng theo hai cách thu tiền mặt hoặc chuyển khoản. Ở đây có một điểm cần lưu ý là trong trường hợp còn thiếu các chi tiết hoặc cần điều chỉnh sửa đổi các số liệu trong đơn bảo hiểm thì lúc này cán bộ của công ty yêu cầu khách hàng cung cấp các số liệu chi tiết còn thiếu để lập giấy sửa đổi bổ sung. Giấy này sẽ được đính kèm và có giá trị bổ sung cho hợp đồng bảo hiểm, không làm thay đổi giá trị và hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, đồng thời cũng được phân phối như hợp đồng bảo hiểm. Ngoài ra, trong các trường hợp khách hàng yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng, công ty sẽ đề nghị khách hàng cung cấp các chứng từ chứng minh yêu cầu của mình nếu thấy hợp lý và chấp nhận được thì tiến hành hoàn lại 80% số phí và huỷ đơn đó trong sổ cấp.

Bảng trên cho thấy qua hơn 5 năm từ 2012 đến năm 2016, doanh thu phí bảo hiểm toàn công ty cũng như doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa tăng lên đáng kể. Doanh thu phí bảo hiểm công ty tăng từ 14 tỷ (năm 2012) lên 44 tỷ năm 2016. Điển hình tăng cao nhất là năm 2014 với tốc độ tăng là 44,8% . Tương tự như vậy doanh thu phí bảo hiểm hàng hóa của công ty tăng từ 400 triệu (năm 2012) lên 15 tỷ (năm 2016). Tốc độ tăng doanh thu bảo hiểm hàng hóa cũng tăng cao nhất vào năm 2014 là 259,8 %. So sánh tốc độ tăng doanh thu phí BHHH cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của công ty. Như năm 2013 tốc độ tăng doanh thu phí của toàn công ty chỉ là 29,6 % trong khi tốc độ tăng doanh thu phí của BHHH đã lên đến 225%. Tuy nhiên tỷ trọng doanh thu sản phẩm bảo hiểm này chỉ chiếm 7% doanh thu toàn công ty. Có thể tính được tốc độ tăng trưởng trung bình phí nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa giai đoạn này là 162%, vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng doanh thu phí toàn công ty là 33%.

Việc xác định tỷ lệ phí và thu phí không chỉ dựa vào kết quả của tính toán, thống kê hay các quy định phổ biến trên thế giới, mà để đáp ứng được yêu cầu của tình hình thực tế, BIC Hải Phòng còn thường xuyên theo dõi sự biến động của thị trường, khách hàng, nhằm đưa ra mức phí cạnh tranh hợp lý. Việc điều chỉnh này không những đảm bảo được lợi ích kinh doanh của công ty mà còn nâng cao ý thức trách nhiệm cũng như hiệu suất công việc của cán bộ làm công tác bảo hiểm hàng hoá . Công ty cần có những biện pháp để nâng cao hơn nữa kết quả khai thác của nghiệp vụ này. ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

  • Đề phòng hạn chế tổn thất

Tùy từng trường hợp cụ thể và căn cứ vào kết quả đánh giá rủi ro để tiến hành công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất có thể được thực hiện bằng các cách:

  • Khuyến cáo khách hàng thực hiện các biện pháp an tòan cho tài sản, trách nhiệm, hoặc hạn chế mức độ tổn thất khi có sự cố.
  • Hỗ trợ khách hàng các phương tiện phòng chống tổn thất theo các quy định và định mức cho phép của Công
  • Sử dụng các nhà giám định độc lập để giám định rủi ro và đưa ra các khuyến cáo đề phòng hạn chế tổn thất bằng chi phí của Nhà bảo hiểm.
  • Các biện pháp phù hợp khác.
    • Chăm sóc khách hàng

Là việc phải thường xuyên áp dụng các biện pháp phù hợp, cần thiết, linh hoạt, sáng tạo trong suốt thời hạn bảo hiểm nhằm mục đích giữ khách hàng và dịch vụ, thể hiện các giá trị tăng thêm và sự quan tâm của nhà bảo hiểm đến người được bảo hiểm, nắm bắt kịp thời các ý kiến phản hồi của

khách hàng về chất lượng dịch vụ và sản phẩm để kịp thời có biện pháp sửa đổi phù hợp, phục vụ khách hàng hiệu quả hơn, từ đó nâng cao thương hiệu, tạo sự trung thành của khách hàng và qua đó mở rộng được mạng lưới khách hàng.

Các biện pháp chăm sóc khách hàng:

  • Quan tâm đến các sự kiện hàng năm và sự kiện không thường xuyên của doanh nghiệp được bảo hiểm (ngày thành lập, sự kiện đánh dấu phát triển, lễ hội …), các ngày kỷ niệm cá nhân và ngày lễ truyền thống.
  • Cá nhân hóa quan hệ với đại diện khách hàng và có giao lưu, giúp đỡ thường xuyên.
  • Thăm chính thức khách hàng trong năm bảo hiểm và 60 ngày trước khi tái tục để tiếp nhận ý kiến đóng góp về chất lượng phục vụ và dịch vụ của nhà bảo hiểm từ khách hàng.
  • Tư vấn đề phòng hạn chế tổn thất tốt, tư vấn giúp khách hàng các vấn đề khác ngoài bảo hiểm…

2.3.2. Tái bảo hiểm. ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

Tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà người bảo hiểm gánh chịu. Xuất phát từ khả năng tài chính của mỗi công ty bảo hiểm và đặc điểm của đối tượng tham gia bảo hiểm và đặc điểm của đối tương tham gia bảo hiểm dẫn đến cần thiết phải áp dụng các phương pháp tái bảo hiểm. Mục đích của tái bảo hiểm là nhằm phân tán rủi ro và giảm bớt trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm gốc trong trường hợp rủi ro gây tổn thất quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của công ty.

Tái bảo hiểm là hoạt động rất cần thiết đối với các công ty bảo hiểm gốc trong đó có BIC Hải Phòng. Quy trình tái bảo hiểm ở BIC Hải Phòng được thiết lập, thực hiện, kiểm soát một cách rất chặt chẽ. Mặt khác, đối tượng được bảo hiểm trong nhiệp vụ này có giá trị rất lớn, hành trình vận chuyển dài chịu tác động tương đối lớn của của các yếu tố khách quan nên thường xảy ra tổn thất. Chính vì vậy mà hoạt động tái bảo hiểm trong kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa được công ty rất quan tâm và chú trọng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này, đồng thời cũng là nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn công ty. Đối với nghiệp vụ này hiện nay, hoạt động nhượng tái công ty có qui định mức giữ lại với số tiền bảo hiểm là 150.000 USD. Những lô hàng được bảo hiểm trên giá trị 150.000 USD thì phần vượt quá sẽ được tái đi nhằm đảm bảo ổn định quá trình kinh doanh của công ty và đáp ứng yêu cầu của người được bảo hiểm.

Bảo hiểm xuất khẩu, bảo hiểm nhập khẩu, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa trong lãnh thổ Việt Nam công ty thường tái cố định 50%. Riêng bảo hiểm định hạn vỏ container giữ lại 100% không tái.

Tuy nhiên mức giữ lại tại BIC Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay không còn ở mức cao so với thị trường. Điều này chứng tỏ công ty đã quá cầu toàn khi tái khá nhiều doanh thu từ BHHH dẫn đến doanh thu thực tế đạt được không cao. Để đạt được hiệu quả cao trong nghiệp vụ này BIC Hải Phòng cần không ngừng chú trọng nâng cao vai trò, chất lượng của công tác nghiên cứu, tính toán các chỉ tiêu trong hoạt động tái bảo hiểm sao cho hợp lý và mang lại hiệu quả cao nhất. Đồng thời công ty cần tận dụng sự hỗ trợ về mặt tài chính vững mạnh của BIDV cũng như sự hợp tác chặt chẽ của các nhà nhận tái trong và ngoài nước, đặc biệt là một số công ty tái bảo hiểm lớn có uy tín trên thế giới như Swiss Re, London Gurantee Reinsurance Co.Ltd, Munich Re, The First Reinsurance Company of Hatford… và Vina Re để tạo được vị thế của mình trong hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa trên thị trường trong nước.

2.3.3. Hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa tại BIC Hải Phòng.

Khác với các thống kê báo cáo chỉ đơn thuần ghi chép lại các kết quả kinh doanh, công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa còn làm nhiệm vụ xem xét các hoạt động, thông báo phản ánh kịp thời những phát sinh để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời trong suốt quy trình triển khai. Công tác khai thác luôn bao gồm nhiều vấn đề nảy sinh mà không phải tất cả các vấn đề đều giống nhau, cũng có thể không lường trước được khi lập kế hoạch cũng như khi xây dựng các biện pháp khai thác, chỉ khi nào bắt tay vào thực hiện thì mới có thể thấy hết được. Do vậy, sau mỗi kỳ hoạt động công ty bao giờ cũng phải đánh giá lại hiệu quả đã đạt được để không chỉ thấy được các mặt tích cực mà còn để thấy được những tồn tại để từ đó rút kinh nghiệm cho những kỳ hoạt động sau. Để đánh giá hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Hàng Hóa tại BIC Hải Phòng trong những năm vừa qua, cần xem xét bảng số liệu sau: 

Trước hết ta thấy khoản chi chủ yếu mà công ty chi cho nghiệp vụ này là khoản chi bồi thường, tỷ lệ chi bồi thường của một số năm như sau: năm 2013 là 9,6%, năm 2014 là 10,6%, năm 2015 là 78% và năm 2016 là 25%. Nhìn vào con số này ta thấy tỉ lệ chi bồi thường tăng giảm thất thường tùy theo năm.

Về các khoản chi hoa hồng cho đại lý và cộng tác viên cũng tăng lên: năm 2012, tỷ lệ chi hoa hồng là 14% cho đến năm 2013 thì tỷ lệ này là 15% , năm 2014 là 18%, năm 2015 là 16% và năm 2016 là 18%. Việc chi hoa hồng bảo hiểm cho các đại lý cộng tác viên, Công ty BIC Hải Phòng đã áp dụng đúng quy định của Bộ Tài chính ban hành kèm theo Thông tư số 76/TC/TCNH ngày 25/10/1996 mức tối đa là 10% doanh thu cho nghiệp vụ này. Tuy nhiên để khuyến khích các đại lý và cộng tác viên các cán bộ công ty đã phải bỏ thêm chi phí ngoài để với mức cao nhất là 20%

Khoản chi thứ hai cũng chiếm tỷ trọng cao trong tổng phí là chi quản lý. Khoản chi này chiếm tỷ trọng lần lượt qua các năm là 40%; 32%; 37%; 13%; 28% Đây là những khoản chi như trả lương cho công nhân viên, chi phí ký kết hợp đồng, chi phí theo dõi quản lý hợp đồng, thu phí.

Từ việc áp dụng các biện pháp kinh doanh có hiệu quả cùng đội ngũ cán bộ kinh doanh trẻ, khoẻ, nhiệt tình, có chuyên môn cao, doanh thu phí của Công ty trong nghiệp vụ này đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Năm 2013 tăng 220% so với năm 2012, năm 2014 tăng 256% so với năm 2013, năm 2015 tiếp tục tăng 63% so với năm 2014, năm 2016 tăng 103 % so với năm 2015. Đây là một sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ các cán bộ của Công ty vì ngày càng có sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm càng lớn. Cùng với sự tăng lên của doanh thu phí, tốc độ tăng lợi nhuận của chi nhánh cũng có cao. Sự tăng trưởng này có sự đột biến từ năm 2014. Nhìn tổng quát ta thấy cả chi phí và doanh thu của Công ty đều tăng nhưng để đánh giá được hiệu quả khai thác thì ta căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu trên chi phí và lợi nhuận trên chi phí. Qua các năm 2012, 2013, 2014 cứ một đồng chi phí bỏ ra thì lợi nhuận của Công ty thu được lần lượt là 2,9 đồng, 2,1 đồng và 2,05 đồng.   Nhưng đến năm 2015 cứ một đồng chi phí bỏ ra Công ty thu được 0,8 đồng doanh thu và lỗ 0,17 đồng lợi nhuận. Năm 2016, cứ một đồng chi phí bỏ ra Công ty thu được 1,5 đồng doanh thu hay 0,59 đồng lợi nhuận. Như vậy sau khi xem xét đánh giá hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa của BIC Hải Phòng trong giai đoạn 2012- 2016, ta thấy hiệu quả khác thác còn chưa ổn định, còn nhiều biến động, tuy nhiên doanh thu BHHH lại phát sinh thường xuyên hàng tháng nên là nguồn doanh số ổn định và lâu dài cho đơn vị. Sự biến động liên tục của thị trường đòi hỏi sự nghiên cứu, đầu tư, phân tích kĩ lưỡng của các cán bộ nhân viên trực tiếp kinh doanh nhiệm vụ này cũng như chỉ đạo của ban giám đốc công ty để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi khó khăn khi triển khai nhiệm vụ, từ đó đưa ra phương hướng, chiến lược kinh doanh tốt hơn trong thời gian tới cho nghiệp vụ góp phần vào sự phát triển chung của Công ty.

2.4. Khảo sát thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại BIC Hải Phòng ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

  • Câu hỏi nghiên cứu.

Với mục đích nâng cao hiệu quả khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại BIC Hải Phòng. Tác giả đã lựa chọn các câu hỏi nghiên cứu sau: (i) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc khách hàng lựa chọn mua hoặc không mua sản phẩm bảo hiểm hàng hóa của BIC?, (ii) Những kênh thông tin nào được khách hàng lựa chọn khi sử dụng dịch vụ bảo hiểm hàng hóa tại BIC Hải Phòng.

  • Cách tiếp cận nghiên cứu

Trong nghiên cứu này tôi lựa chọn phương pháp thu thập, phân tích thông tin trên cơ sở các số liệu thu được từ khảo sát. Mục đích của việc nghiên cứu định lượng là đưa ra các kết luận về hiện tượng đang được nghiên cứu thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê để xử lý dữ liệu và số liệu. Trong đề tài này, tôi nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn mua hay không mua sản phẩm bảo hiểm hàng hóa của BIC Hải Phòng nhằm mục đích nâng cao hiệu quả khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa của công ty.

Trong hai phương pháp thu thập số liệu chủ yếu: (i) quan sát , và (ii) điều tra, tôi lựa chọn điều tra qua bộ câu hỏi vì trong nhiều trường hợp, ngay cả việc nghiên cứu khám phá hay nghiên cứu quan sát tổng thể đều không chính xác và thích hợp cho mục đích nghiên cứu. Thay vào đó, sử dụng bộ câu hỏi sẽ mang lại những sự ước tính chính xác.

Xây dựng được một bộ câu hỏi có tính bao quát và toàn diện, vì vậy, kết quả của nghiên cứu sẽ phụ thuộc gần như toàn bộ vào những yếu tố, câu hỏi đặt ra trong bộ câu hỏi khảo sát. Tôi sẽ mô tả về cách thức xây dựng công cụ nghiên cứu (bộ câu hỏi) trong phần sau của chương này.

  • Các giai đoạn của nghiên cứu

Mời bạn tham khảo thêm:

Tổng hợp bài mẫu Luận văn Thạc Sĩ

2.4.1 Phỏng vấn

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng bộ câu hỏi khảo sát đối với nghiên cứu này, tôi đã phỏng vấn khách hàng về những vấn đề trong nghiên cứu, để từ đó đưa ra các yếu tố mang tính khách quan.

Mục đích phỏng vấn: Thông qua buổi phỏng vấn, chúng tôi muốn tìm hiểu các thông tin về các yếu tố, đối tượng có tác động đến quyết định chọn mua bảo hiểm Hàng Hóa, kênh thông tin mà khách hàng lựa chọn khi tìm hiểu về một đơn vị bảo hiểm và lý do cụ thể khi quyết định lựa chọn mua sản phẩm bảo hiểm Hàng Hóa.

Đối tượng: Khách hàng Bảo Hiểm hàng hóa của BIC Hải Phòng, Bảo Việt, Bảo Minh, PTI, Pjico, MIC bao gồm 11 khách hàng của BIC và 3 khách hàng của Bảo Việt, 2 khách hàng của Bảo Minh, 1 khách hàng của PTI, 1 khách hàng của Pjico, 1 khách hàng của MIC

Số lượng: 19 khách hàng hoặc người đại diện Thời gian hỏi/ 01 khách hàng: 15 phút

Các câu hỏi phỏng vấn được phân chia cho 02 đối tượng (i) khách hàng BIC Hải Phòng; (ii) không phải là khách hàng của BIC Hải Phòng.

2.4.2 Phân tích phỏng vấn

Dựa vào kết quả của những buổi phỏng vấn tôi đã tìm ra một số yếu tố ảnh hưởng đến việc quyết định chọn mua và sử dụng dịch vụ bảo hiểm hàng hóa như sau:

  • Danh tiếng của công ty Bảo Hiểm.
  • Hình thức cấp đơn Bảo hiểm nhanh gọn.
  • Sự quan tâm chăm sóc đến khách hàng.
  • Tỷ lệ phí Bảo Hiểm.
  • Tỷ lệ hoa hồng.
  • Dịch vụ bồi thường nhanh chóng thỏa đáng.
  • Theo mối quan hệ.
  • Vị trí địa lý.
  • Do đang vay vốn BIDV, mở LC tại BIDV.
  • Do yêu cầu của chủ tàu và chủ hàng.

2.4.3 Câu hỏi khảo sát

Dựa vào phân tích dữ liệu từ phỏng vấn và phân tích trên, tôi đã xây dựng 2 bộ câu hỏi khảo sát đối với 2 đối tượng khác nhau: (i) khách hàng của BIC Hải Phòng (xem phụ lục A1) và (ii) Khách hàng không phải là của BIC Hải Phòng (xem phụ lục A2)

  • Mẫu và chọn mẫu nghiên cứu

Cách chọn mẫu là chọn mẫu ngẫu nhiên trong số những khách hàng đang sử dụng dịch vụ bảo hiểm hàng hóa của BIC Hải Phòng. Thông qua việc nghiên cứu mẫu này sẽ đưa lại những thông tin chính xác nhất về những lý do tại sao không lựa chọn sử dụng dịch vụ bảo hiểm hàng hóa của BIC Hải Phòng

Sau khi tổng kết các phiếu khảo sát, số lượng phiếu khảo sát phát ra là 150 trong đó có 70 khách hàng của BIC Hải Phòng và 80 phiếu là khách hàng của các bảo hiểm Bảo Việt, PTI, Bảo Minh, Pjico trên địa bàn Hải Phòng.

Tổng số phiếu thu về là 132 phiếu, trong đó có 63 phiếu là khách hàng của BIC Hải Phòng, 27 khách hàng của Bảo Việt, 23 khách hàng của PTI, 19 khách hàng của Bảo Minh.

Trong chương này chúng tôi đã trình bày toàn bộ phần phương pháp tiếp cận nghiên cứu, cách thức chúng tôi xây dựng bộ câu hỏi, cách thức phân tích và thu thập số liệu. Trong chương sau, chúng tôi sẽ trình bày về kết quả nghiên cứu.

2.5. Kết quả khảo sát thực trạng và các yếu tố khiến khách hàng quyết định chọn mua sản phẩm bảo hiểm hàng hóa ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

2.5.1. Tầm quan trọng của các yếu tố lựa chọn công ty bảo hiểm

Các yếu tố lựa chọn mua tại công ty bảo hiểm sẽ cho thấy yếu tố nào là quan trọng nhất và yếu tố nào là ít quan trọng nhất với các yếu tố được đánh số điểm từ 1 đến 4

Rất quan trọng: 4 điểm Khá quan trọng: 3 điểm Hơi quan trọng: 2 điểm Không quan trọng: 1 điểm

2.5.2. Kết quả khảo sát

  • Các yếu tố quan trọng khi khách hàng chọn mua sản phẩm hàng hóa

Mức độ rất quan trọng (3.1 à 4.0)

Trong 10 yếu tố được khảo sát thì có đến 5 yếu tố được đánh giá ở mức độ rất quan trọng. Trong đó, với dài điểm từ 3.1à 3.5, khách hàng bày tỏ sự quan tâm đến: Sự quan tâm chăm sóc đến khách hàng, dịch vụ sau bán hàng, tỷ lệ hoa hồng mà công ty bảo hiểm có thể cắt lại cho đầu mối và dịch vụ bồi thường.

Hai yếu tố quan trọng hàng đầu, có ảnh hưởng lớn nhất đến quyết định chọn mua bảo hiểm là “Mối quan hệ, có người thân quen giới thiệu và tỷ lệ phí bảo hiểm” nằm trọng dải điểm từ 3.5à 4.0. Hai yếu tố này cho thấy khách hàng rất thực tế khi mua bất kỳ một sản phẩm nào, không chỉ sản phẩm bảo hiểm hàng hóa. Đa phần khách hàng tin tưởng hơn khi có một người đã từng sử dụng dịch vụ của BIC giới thiệu. Điều này cho thấy: “1 lời giời thiệu của chủ hàng này đến với chủ hàng khác bằng 100 lời của sell”.

Mức độ khá quan trọng (2.1 à 3.0)

3 yếu tố là “Danh tiếng của công ty bảo hiểm, hình thức cấp đơn, do yêu cầu của hãng tàu hoặc chủ hàng” được đánh giá ở mức độ khá quan trọng. Điều này cho thấy khách hàng xem xét khá nhiều về bản thân hay nội tại của một doanh nghiệp bảo hiểm. Danh tiếng ở đây còn có ý nghĩa nói đến lịch sử, sự lâu đời và được biết đến rộng rãi của một đơn vị bảo hiểm. Ví dụ như có 1 câu slogan: Nhắc đến bảo hiểm là nghĩ tới Bảo Việt. Tại Việt Nam hiện nay, danh tiếng nhất vẫn là Bảo Việt. Tuy nhiên, không phải vì thế mà tất cả các khách hàng đều lựa chọn Bảo Việt.

Hình thức cấp đơn cũng là một yếu tố được nhắc đến. Hình thức cấp đơn thể hiện tốc độ nhanh chóng, chuyên nghiệp trong khâu cấp đơn bảo hiểm theo đúng yêu cầu của khách hàng.

Ngoài ra, một số chủ hàng yêu cầu mua theo giá CIF (bao gồm giá trị hàng hóa, tiền vận chuyển và phí bảo hiểm). Nên chủ hàng xuất khẩu sẽ yêu cầu chỉ định đơn vị mua bảo hiểm.

Mức độ hơi quan trọng (1.1 à 2.0)

Chỉ có 2 yếu tố là “Vị trí địa lý và do đang vay vốn của BIDV và mở LC tại BIDV” được đánh giá ở mức độ hơi quan trọng. Điều này cho thấy trước khi chọn một đơn vị bảo hiểm hàng hóa thì khách hàng có tham khảo các đơn vị bảo hiểm ở gần hoặc nếu vay vốn của BIDV thì sẽ được giới thiệu sang BIC.

Mức độ không quan trọng (0.0 à1.0)

Không có yếu tố nào trong bảng được chọn trong cột này. Điều này có nghĩa là những yếu tố được đề cập trong phiếu khảo sát ít nhiều đều có ảnh hưởng đến việc ra quyết định chọn mua bảo hiểm hàng hóa của khách hàng

Đối tượng: khách hàng BIC Hải Phòng

Đối với khách hàng tại BIC Hải Phòng thì thì 3 yếu tố quan trọng nhất trong việc chọn mua Bảo hiểm là: Tỷ lệ phí, Mối quan hệ, Hình thức cấp đơn nhanh gọn Những yếu tố này cũng thể hiện mong muốn của khách hàng BIC khi quyết định lựa công ty để mua bảo hiểm

Đối với khách hàng không mua bảo hiểm hàng hóa của BIC Hải Phòng thì 3 yếu tố quan trọng nhất là: Tỷ lệ hoa hồng, tỷ lệ phí bảo hiểm và sự quan tâm chăm sóc đến khách hàng”.

Nếu yếu tố về tỷ lệ hoa hồng luôn đứng đầu trong khi lựa chọn thể hiện sự quan trọng của yếu tố này, thì hai yếu tố tỷ lệ phí bảo hiểm và sự quan tâm chăm sóc đến khách hàng chiếm vị trí thứ 3

  • Lý do chọn mua sản phẩm bảo hiểm hàng hóa

Trong bảng câu hỏi khảo sát có 1 câu hỏi mở (câu số 2 với nội dung: Lý do quan trọng nhất đối với quyết định sử dụng dịch vụ bảo hiểm hàng hóa tại công ty bảo hiểm hiện nay?) để khách hàng viết. Sau đây là phần trả lời của khách hàng BIC

Cán bộ BIC trực tiếp liên hệ, thông qua người quen, đối tác giới thiệu, qua ngân hàng BIDV là ba kênh thông tin quan trọng nhất, thuyết phục nhất và quyết định nhất trong việc lựa chọn mua bảo hiểm hàng hóa, Trong đó kênh do cán bộ BIC giới thiệu chiếm tỷ trọng lớn nhất 64%

  • Đánh giá hiện trạng

Để đánh giá và so sánh được những yếu tố lựa chọn mua hay không mua sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại BIC Hải Phòng câu hỏi số 4 trong bảng khảo sát đã được xây dựng

Khách hàng BIC Hải Phòng thể hiện sự hải lòng của họ về các yếu tố như Tỷ lệ phí Bảo hiểm, tỷ lệ hoa hồng, hình thức cấp đơn nhanh chóng gọn nhẹ. Tuy nhiên, khách hàng cũng thể hiện sự ít hài lòng đối với các yếu tố như: Sự quan tâm chăm sóc tới khách hàng, dịch vụ bồi thường và danh tiếng của công ty bảo hiểm

Sau đây tác giả xin trình bày kết quả nghiên cứu liên quan đến sự hài lòng của các khách hàng của Bảo Việt, Bảo Minh và PTI

2.6. Đánh giá nghiệp vụ khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại công ty bảo hiểm BIC Hải Phòng. ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

2.6.1. Kết quả đạt được về tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa tại BIC Hải Phòng.

Như phân tích ở trên những yếu tố khiến khách hàng hài lòng về hiệu quả khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại BIC là Tỷ lệ phí Bảo Hiểm, Tỷ lệ hoa hồng, hình thức cấp đơn.

Tỷ lệ phí bảo hiểm: Do năng lực thu xếp tái bảo hiểm tốt nên BIC đang có tỷ lệ phí bảo hiểm thấp nhất thị trường. Nếu khách hàng chỉ quan tâm đến tỷ lệ phí mà không quan tâm các yếu tố khác thì gần như chắc chắn BIC sẽ trúng thầu hoặc cấp được dịch vụ bảo hiểm đó.

Tỷ lệ hoa hồng: Do việc quản lý tốt hiệu quả về chi phí nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, đồng thời cân đối tỷ lệ hoa hồng hợp lý giữa các loại bảo hiểm khác nhau, lấy số đông bù số ít nên BIC có được tỷ lệ hoa hồng và chi phí khai thác thuộc loại tốt trên thị trường. Điều này cũng là một lợi thế không nhỏ trong khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa.

Hình Thức cấp đơn: Khác với các đơn vị Bảo hiểm khác trên địa bàn thường tự cấp đơn bảo hiểm rồi gửi cho khách hàng. BIC là đơn vị đầu tiên áp dụng hình thức bàn giao ấn chỉ cho khách hàng để tự cấp đơn. Điều này khá thuận lợi cho khách hàng để chủ động thời gian. Tuy nhiên, hình thức này cũng cần có sự quản lý chặt chẽ ấn chỉ, tránh trường hợp khách hàng trục lợi bảo hiểm. Hiện nay, cũng đã có một vài đơn vị học tập BIC trong việc bàn giao ấn chỉ này.

BIC Hải Phòng nói chung và các cán bộ khai thác nói riêng có mối quan hệ với các công ty xuất khẩu khẩu, các đội vận tải, chủ tàu khá tốt nên được khách hàng tham gia và giới thiệu khai thác sản phẩm BHHH rất nhiều. Đây cũng là một lợi thế lớn cho BIC Hải Phòng trong quá trình phát triển khách hàng mới.

2.6.2. Hạn chế trong khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hóa.

Ngoài những thế mạnh nêu trên, vẫn còn một số những hạn chế được khách hàng đánh giá là chưa tốt: Danh tiếng của công ty, Dịch vụ bồi thường, Quan tâm chăm sóc tới khách hàng.

Danh tiếng của công ty bảo hiểm: Do BIC mới thành lập từ năm 2006, nên chưa thể có được thương hiệu mạnh và truyền thống mấy chục năm như Bảo Việt và Bảo Minh. Hiện tại BIC đang đứng thứ 8 trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Nên vẫn còn chưa nhiều khách hàng biết đến thương hiệu BIC.

Dịch vụ bồi thường: Tuy BIC có tiềm lực tài chính rất mạnh, nhưng thủ tục bồi thường khá rườm rà, nhiều văn bản, quy trình. Do BIC là đơn vị Bảo hiểm nhà nước cuối cùng cổ phần hóa nên vẫn còn ảnh hưởng nhiều về thủ tục hành chính nhà nước. Điều này gây mấy nhiều thời gian trong quá trình giải quyết bồi thường.

Quan tâm chăm sóc tới khách hàng. So với các đơn vị trên thị trường thì BIC vẫn chưa quan tâm chăm sóc đến khách hàng trong thời gian tham gia bảo hiểm.

Đội ngũ cán bộ của công ty còn chưa đồng đều, chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ. Có sự hạn chế về trình độ ngoại ngữ của các cán bộ, khai thác viên, đại lý, gây ra cản chở việc mở rộng quan hệ với khách hàng nước ngoài như các doanh nghiệp liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài…

Về chất lượng kênh phân phối. Công ty chủ yếu sử dụng hai kênh phân phối là đại lý (bao gồm cả BIDV) và bán hàng trực tiếp. Các kênh trung gian như môi giới Bảo hiểm, ngân hàng ngoài BIDV…chưa được sử dụng nhiều.

Tuy nhiên, mạng lưới quản lý chuyên nghiệp vẫn còn yếu, vì để có thể làm tốt công tác này, ngoài mối quan hệ, kiến thức về hàng hóa còn phải có kiến thức nhất định về nghiệp vụ ngoại thương như thanh toán quốc tế, luật hàng hải quốc tế, thuế quan…Vì thế, để khai thác tốt hơn nghiệp vụ này thì thời gian tới công ty cần phải xây dựng đội ngũ khai thác viên, địa lý chuyên nghiệp tốt hơn. Hiện nay, trên thế giới doanh thu qua kênh môi giới chiếm hơn 90% lượng giao dịch bảo hiểm phi nhân thọ và môi giới đang là kênh phân phối ngày càng quan trọng với DNBH.

Vấn đề đối phó với trục lợi bảo hiểm, BIC Hải Phòng vẫn chưa tìm ra giải pháp hữu hiệu nào nhằm hạn chế và đẩy lùi hiện tượng này trong công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa đặc biệt là những vụ tổn thất ở nước ngoài hay trên vùng biển quốc tế.

Những hạn chế và tồn tại trên của công ty cần phải được khắc phục nhanh chóng nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả khai thác bảo hiểm hàng hóa, cũng như thương hiệu BIC, đặc biệt khi ngành bảo hiểm mở cửa hoàn toàn, đón nhận nhiều DNBH nước ngoài với tiềm lực tài chính, chất lượng dịch vụ tốt hơn và cạnh tranh trên thị trường chắc chắn sẽ gay gắt khốc liệt hơn những doanh nghiệp yếu thế hơn sẽ dần mất thị phần và bị loại khỏi thị trường.

2.7. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa tại công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

2.7.1. Nguyên nhân pháp lý

Ngành bảo hiểm phi nhân thọ trực thuộc Cục giám sát bảo hiểm của Bộ Tài chính nên hoạt động dưới sự giám sát của Bộ tài chính và luật bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, ngoài luật Bảo hiểm Việt Nam còn có Luật Hàng Hải và Luật Dân Sự của Việt Nam. Trong quá trình cấp đơn và ký hợp đồng bảo hiểm thì luôn phải tuân thủ theo các quy phạm pháp luật của nhà nước.

Các đại lý và môi giới bảo hiểm tại Việt Nam hoạt động chưa chuyên nghiệp và hệ thống nên Bộ Tài chính đang thắt chặt lại việc quản lý các hoạt động khai thác bảo hiểm của đại lý và môi giới bảo hiểm trong nước.

Bảo hiểm hàng hóa, ngoài chịu sự quản lý của các bộ luật trên còn chịu sự chi phối của các tập quán quốc tế như tập quán Anh (Bộ quy tắc bảo hiểm hàng hóa ICC 1982)

2.7.2. Đối thủ cạnh tranh

Trong thời gian qua, BIC Hải Phòng đã gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam và nước ngoài có kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa như:

  • Tổng Công ty Bảo Hiểm Việt Nam (Bảo Việt)
  • Công ty Cổ phần bảo hiểm Bưu Điện (PTI) thành lập ngày 18/06/1998, vốn điều lệ 504 tỷ đồng
  • Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolomex (PJICO) thành lập ngày 21/6/1996, vốn điều lệ 55 tỷ đồng.
  • Công ty bảo hiểm dầu khí (PVI) thành lập ngày 23/01/1996, vốn điều lệ 2 triệu USD.
  • Công ty bảo hiểm Bảo Minh thành lập ngày 28/11/1994, Cổ phần hoá từ ngày 01/10/2004, vốn điều lệ 1.100 tỷ đồng

Và một số các công ty bảo hiểm khác như MIC, ABIC, Bảo Long, Samsung Vina, SVIC, AAA cùng một số Công ty bảo hiểm nước ngoài khác của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Đặc biệt, tại địa bàn Hải Phòng lại gần như quy tụ các đơn vị bảo hiểm rất mạnh và nhiều chi nhánh trong hệ thống của các đối thủ cạnh tranh. Như Bảo Việt Hải Phòng đã thành lập thêm chi nhánh là Bảo Việt Đình Vũ. Bảo hiểm Bưu Điện Hải Phòng thành lập thêm chi nhánh Bảo Hiểm Bưu điện Hải Đăng. Bảo hiểm Bảo Long Hải Phòng thành lập thêm Bảo Hiểm Bảo Long Đông Hải. Như vậy sự cạnh tranh trên địa bàn Hải Phòng là rất khốc liệt bởi tiềm năng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa là rất lớn.

2.7.3. Vị trí địa lý ( Luận văn thực trạng khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa )

Hải Phòng với ưu thế là 1 thành phố Cảng lớn nên việc phát triển Bảo Hiểm hàng hóa tại Hải Phòng thường có rất nhiều thuận lợi. Tại đây có rất nhiều đội vận tải lớn (đội tàu viễn dương, đội đầu kéo, đội sà lan…), các công ty giao nhận, kho vận, logistics, các khu công nghiệp, các hãng tàu trong và ngoài nước tạo cơ hội rất lớn cho hoạt động khai thác bảo hiểm hàng hóa của BIC Hải Phòng.

2.7.4. Nhân sự

Với đặc thù là sản phẩm vô hình nên việc khai thác bảo hiểm, yếu tố nhân sự là rất quan trọng. Các cán bộ khai thác cần phải nắm vững nghiệp vụ bảo hiểm để tư vấn và bán bảo hiểm cho khách hàng. Tuy nhiên, đội ngũ nhân sự của BIC Hải Phòng còn tương đối thiếu hụt. Nhất là các cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ cao và nhiệt huyết. Do hàng năm, yêu cầu tăng trưởng doanh thu thường từ 20 – 30% nên gây áp lực đến cơ cấu định biên và đào tạo tuyển dụng tại đơn vị.

2.7.5. Cơ sở vật chất

Do tiềm lực tài chính mạnh đến từ BIDV (ngân hàng TMCP lớn nhất Việt Nam), nên BIC Hải Phòng có được cơ sở vật chất rất khang trang và hiện đại. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động và phát triển của đơn vị.

BIC được đầu tư hệ thống quản lý bảo hiểm rất chuyên nghiệp như: Phân hệ quản lý bảo hiểm, phân hệ quản lý ấn chỉ, hệ thống giám định bồi thường online, phân hệ hành chính kế toán, website bán bảo hiểm trực tuyến (http://baohiemtructuyen.com.vn) và hệ thống đánh giá KPI. Thông quan các hệ thống này, Tổng Công ty có thể điều hành và giám sát chỉ đạo hoạt động hiệu quả các đơn vị thành viên, các cán bộ nhân viên thì có thể thuận lợi trong việc tra cứu và cấp đơn bảo hiểm cho khách hàng.

Mời bạn tham khảo thêm:

Luận văn giải pháp khai thác sản phẩm bảo hiểm hàng hóa

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993